
SERHII PLOKHY
Trần Quang Nghĩa dịch
5 Nước Cờ Crimea
Nước Nga bắt đầu và kết thúc ở đâu, và những lãnh thổ nào mà “sự tập hợp các vùng đất Nga” lịch sử nên bao gồm, là những câu hỏi cũ đã làm bận tâm các nhà tư tưởng và chính khách Nga trong nhiều thế hệ. Sự tan rã của Liên Xô đã đưa những câu hỏi đó trở lại chương trình nghị sự chính trị với tính cấp bách chưa từng có. Biên giới nhà nước mới của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã để lại khoảng 30 triệu người Nga và những người nói tiếng Nga thuộc các quốc tịch khác, những người chủ yếu gắn bó với Nga bên ngoài biên giới của Liên bang Nga. Nhà văn theo chủ nghĩa dân tộc hàng đầu của Nga Aleksandr Solzhenitsyn, người đã trở về Nga sau thời kỳ lưu vong Chiến tranh Lạnh tại Hoa Kỳ vào năm 1992, đã lên án sự chia cắt “người dân Nga” theo biên giới hậu Xô Viết, coi đó là bản chất của vấn đề Nga mới. Vì lý do tương tự, Putin gọi sự sụp đổ của Liên Xô là bi kịch địa chính trị lớn nhất của thế kỷ XX.
Boris Yeltsin và các cố vấn của ông đã phải đối mặt với một thách thức lớn là biến nước Nga hậu Xô Viết thành một quốc gia dân tộc châu Âu theo mô hình được thiết lập trong hai thế kỷ trước bởi Cách mạng Pháp và những người kế nhiệm. Nó dựa trên định nghĩa của nhà triết học người Anh gốc Séc Ernest Gellner về chủ nghĩa dân tộc như là “nguyên tắc chính trị cho rằng các đơn vị chính trị và quốc gia phải nhất quán”. Với hàng triệu người không phải người Nga và không phải người Slav trong biên giới của Liên bang Nga và hàng chục triệu “người Nga” và Xô Viết thuộc nhiều thành phần khác nhau bên ngoài biên giới đó, nhiệm vụ xây dựng quốc gia Nga hầu như không thể thực hiện được nếu không có một cuộc chiến tranh lớn, vốn từng là một công cụ chính được sử dụng để tạo ra hệ thống quốc gia dân tộc châu Âu. Vào những năm 1990, ví dụ mới nhất là dự án Đại Serbia của Slobodan Milošević.
Yeltsin và chính phủ của ông không đủ khả năng chi trả cho một cuộc chiến tranh như vậy, và họ cũng không muốn có một cuộc chiến tranh như vậy. Trên thực tế, Moscow đã tiến hành chiến tranh với Chechnya không phải người Slav và không theo Cơ Đốc giáo để bảo vệ một nguyên tắc khác – tính bất khả xâm phạm của biên giới Liên bang Nga, bị thách thức bởi chủ nghĩa ly khai Chechnya. Hai cuộc chiến tranh Chechnya dữ dội đã khiến nền chính trị và xã hội Nga trở nên tàn bạo, củng cố mô hình đế quốc của một nhân dạng Nga có tính xuyên dân tộc và xuyên văn hóa. Họ đã làm vậy một phần trên nền tảng nhưng cũng đánh mất đi bản sắc Xô Viết được phát triển trong thời cộng sản. Các nhà lãnh đạo mới ở Moscow, những người đã lên nắm quyền trong phe đối lập với chủ nghĩa cộng sản và phần lớn đã góp phần vào sự sụp đổ của Liên Xô, hiện đang phải đối mặt với người cộng sản phản đối sự cai trị của họ. Họ từ chối nhân dạng Xô Viết như một công cụ xây dựng quốc gia Nga hoặc một phương tiện duy trì sự kiểm soát của Nga đối với không gian hậu Xô Viết. Thay vào đó, họ tìm kiếm một giải pháp thay thế, và Yeltsin thậm chí còn kêu gọi một mô hình mới cho ý tưởng về nước Nga.
Trong suốt những năm 1990, đã xuất hiện một số khái niệm chính trị, văn hóa và ý thức hệ không dựa trên mô hình Xô Viết. Chúng cạnh tranh với mô hình đó như những phương tiện tiềm năng để thống nhất các thành phần chính trị của Liên bang Nga và các nước cộng hòa hậu Xô Viết không còn chịu sự cai trị của Moscow. Một trong những khái niệm như vậy là chủ nghĩa Á-Âu, đã đặt tên cho một số dự án và thiết chế tái hòa nhập trong không gian hậu Xô Viết. Bắt nguồn từ các tác phẩm của các trí thức Nga bao gồm Hoàng thân Nikolay Trubetzkoy và Petr Savitsky, những người đã phải sống lưu vong sau Cách mạng Bolshevik, chủ nghĩa Á-Âu tìm cách tái tạo không gian đế quốc Nga trước đây và hiện là hậu Xô Viết trên cơ sở di sản đế quốc Nga, văn hóa Nga và Chính thống giáo, có thể tích hợp các vùng đất không thuộc Nga của đế chế cũ vào Liên bang Nga ngày nay.
Chủ nghĩa Á-Âu cũ của những người di cư Nga đã thu hút trí tưởng tượng của một bộ phận giới tinh hoa trí thức không hài lòng với diễn ngôn dân chủ tự do được các cố vấn của Yeltsin chấp nhận, và một số người ủng hộ và diễn giải nó đã tìm đường vào quỹ đạo của Điện Kremlin sau khi Putin lên nắm quyền. Aleksandr Dugin, một người theo chủ nghĩa Á-Âu mới ủng hộ việc thành lập một đế chế Á-Âu và được coi là một nhà tư tưởng của chủ nghĩa phát xít Nga, trở thành cố vấn cho Sergei Naryshkin. Thời gian đó ông làm chánh văn phòng tổng thống, rồi tiếp tục làm chủ tịch Duma, và sau đó là người đứng đầu cơ quan tình báo nước ngoài, nơi xuất thân cũ của Putin.
Putin đã gom góp nhiều yếu tố truyền thống và hồi sinh của chủ nghĩa Á-Âu vào thành một phần trong thế giới quan của mình. Trong các tuyên bố chính thức của mình, ông đã nhiều lần nói về nước Nga như một nền văn minh đa sắc tộc độc đáo không chỉ khác biệt với phương Tây mà còn đối lập với phương Tây về lịch sử, văn hóa và giá trị. Nhưng ông cũng đón nhận với sự nhiệt tình không kém, nếu không muốn nói là lớn hơn những tư tưởng của một nhóm các nhà tư tưởng Nga khác đã đặt Nga đối chọi với phương Tây chủ yếu như một nền văn minh Âu – Á hoặc Nga gốc Slavơ. Xu hướng tư tưởng đó, được đại diện bởi những nhân vật như Aleksei Khomiakov, Ivan Kirievsky và Konstantin Aksakov, đã có từ trước chủ nghĩa Âu-Á, tận những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ XIX, đã tạo ra một trong những sự chia rẽ quan trọng nhất trong lịch sử trí thức Nga, đó là giữa những người theo phương Tây và những người yêu Slav. Nhóm người trước nhấn mạnh rằng vận mệnh của Nga nằm ở phương Tây, trong khi nhóm người sau tôn sùng tính độc đáo của Nga, bắt nguồn từ lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và dân tộc tính.
Dân tộc tính mà nhóm người yêu Slav gọi là người Nga thực ra là người Đông Slav. Theo thuật ngữ của đế quốc Nga, nó bao gồm người Đại Nga, hay người Nga nói chung, Tiểu Nga hay người Ukraine, và Bạch Nga hay người Belarus. Mô hình của một quốc gia Nga ba thành phần, mà sử gia người Nga Alexei Miller gọi là “quốc gia Đại Nga”, đã được giới tinh hoa đế quốc áp dụng vào nửa sau thế kỷ 19 và đã trở thành một phần của tín điều tư tưởng và niềm tin cá nhân, cũng như nhân dạng, của nhiều nhà lãnh đạo chính trị, tôn giáo và quân sự của đất nước. Cách mạng Nga đã chấm dứt sự thống trị của quốc gia tam phân trong tư tưởng chính trị và dân tộc sắc tộc của Nga. Năm 1922, Lenin đã phản đối những nỗ lực của Joseph Stalin nhằm sáp nhập các nước cộng hòa không phải sắc tộc Nga vào Liên bang Nga và nhấn mạnh vào việc thành lập một nhà nước Liên bang trong đó các nước cộng hòa đó sẽ là các chính thể riêng biệt với các quyền ngang bằng với quyền của Nga.
Ý tưởng về một quốc gia Đại Nga đã đi với người Nga di cư cùng với các tướng lĩnh Bạch vệ bị Hồng quân Bolshevik đánh bại và những trí thức ủng hộ quan điểm của họ về một nước Nga thống nhất và không thể chia cắt. Trong số nhóm di dân đó có Tướng Anton Denikin, mà hồi ký của ông gây ấn tượng mạnh mẽ với Vladimir Putin, và triết gia Ivan Ilyin, vốn ngưỡng mộ chủ nghĩa phát xít, mà bài viết của ông, “Sự chia cắt nước Nga hứa hẹn điều gì với thế giới”, sẽ trở thành nguồn trích dẫn thường xuyên trong các bài phát biểu và tuyên bố của Putin và các quan chức Nga khác. Ilyin lập luận rằng một ngày nào đó Nga sẽ thu hồi lại đất đai và đặt dưới quyền giám hộ của mình.
Nhân vật chủ chốt đã liên kết tư tưởng đế quốc của quá khứ với một kế hoạch để giải quyết những thách thức và thực tế của nước Nga hậu Xô Viết là Aleksandr Solzhenitsyn. Trong bài luận văn năm 1990, Tái thiết nước Nga: Suy ngẫm và Đề xuất Tạm thời, Solzhenitsyn kêu gọi tách người Slav miền Đông khỏi các nước cộng hòa không phải Slav của Liên Xô và thành lập một “Liên bang Nga” bao gồm Nga, Ukraine, Belarus và miền bắc Kazakhstan. Nếu theo định nghĩa của Ernest Gellner về chủ nghĩa dân tộc là sự thiết lập tính phù hợp giữa chính trị và biên giới sắc tộc dân tộc, thế thì nước Nga “tái thiết” của Solzhenitsyn là phải trở thành bốn bộ phận. Nhưng kế hoạch của ông ta không bao giờ thành hiện thực, và nhiều năm sau đó Solzhenitsyn tiếp tục đặt câu hỏi về tính hợp pháp của biên giới Ukraine. Trong luận văn Nước Nga đang sụp đổ (1998), Solzhenitsyn lập luận cho việc sáp nhập miền đông và miền nam Ukraine, lên án “sự bành trướng bừa bãi vào phần lãnh thổ chưa bao giờ là thuộc Ukraine cho đến thời Lenin: hai tỉnh Donet và toàn bộ vành đai phía nam của nước Nga Mới (Melitopol-Kherson-Odesa) và Crimea.”
Putin là người ngưỡng mộ tất cả những nhà văn này và chia sẻ nhiều ý tưởng của họ. Vào tháng 5 năm 2009, chưa đầy một năm sau cuộc xâm lược Georgia (Gruzia), ông đã công khai thể hiện sự ngưỡng mộ của mình đối với các nhà tư tưởng đế quốc Nga. Mặc dù trời đang mưa, ông đã xuất hiện cùng với nhiều phóng viên tại nghĩa trang của Tu viện Donskoi ở Moscow để đặt hoa lên mộ của Tướng Denikin và vợ ông ta, cùng với mộ của Ivan Ilyin và mộ của Ivan Shmelev, một nhà văn Nga di cư có hài cốt đưa về Nga cải táng. Putin cũng đặt hoa trên mộ của Aleksandr Solzhenitsyn, người đã qua đời tại Moscow vào năm trước.
Nhắc đến Tướng Denikin, người mà ông vinh danh đầu tiên, Putin đã khuyến khích một trong những phóng viên đi cùng mình tại buổi lễ đọc hồi ký của Denikin. “Denikin thảo luận về nước Đại Nga và Tiểu Nga, Ukraine,” Putin nói. “Ông ấy viết rằng không ai được can thiệp vào mối quan hệ giữa chúng ta; đó luôn là công việc của chính nước Nga.” Denikin hóa ra là theo đuôi Aleksandr Pushkin, người đã chỉ trích phương Tây vì phê phán cuộc tấn công của Nga vào Ba Lan sau khi nước này nổi loạn chống lại đế chế vào năm 1830. Nếu Pushkin đề cập đến mối quan hệ Nga-Ba Lan, thì Denikin đề cập đến mối quan hệ giữa Nga và Ukraine. Theo quan điểm của Putin, chính Nga phải quyết định cách tiến hành mối quan hệ của mình với một nước láng giềng yếu hơn. Nguồn gốc Slavơ của hai dân tộc đã trở thành cái cớ của ông để lên án bất kỳ sự ủng hộ nào của phương Tây đối với Ukraine.
Archimandrite Tikhon, người được đồn đại là cố vấn tinh thần của Putin vào thời điểm đó, tâm sự với các phóng viên tụ tập rằng chính đích thân Putin đã trả chi phí tôn tạo các bia mộ của vợ chồng Denikin, Ilyin và Shmelev. Vị tu viện trưởng cũng kể với họ về sự ngưỡng mộ của Putin đối với Solzhenitsyn, người mà Putin gọi là “một chính khách độc lập và tận tụy.” Solzhenitsyn không chỉ tin tưởng vào một nhà nước Nga hùng mạnh mà còn là người xiển dương nước Nga như một nhà nước Đông Slav dựa trên mô hình đế quốc toàn Nga của nước Nga, bao gồm Nga, Ukraine và Belarus. Đây là một sự thỏa hiệp ngượng ngập giữa tầm nhìn của Liên Xô và đế quốc về nhân dạng dân tộc Nga. Trong truyền thống Liên Xô, Solzhenitsyn, vốn có nửa dòng máu Ukraine, coi người Ukraine như một dân tộc riêng biệt, nhưng, theo truyền thống đế quốc, ông ta coi họ cùng một dân tộc như người Nga.
Putin chia sẻ niềm tin của Solzhenitsyn rằng một số vùng ở miền đông và miền nam Ukraine không phải là lãnh thổ lịch sử của nước này, như ông đã nói với Tổng thống George Bush năm 2008, mà là một món quà từ những người Bolshevik Nga. Đối với quan điểm thỏa hiệp của Solzhenitsyn, đó không phải là vấn đề lớn đối với Putin miễn là dự án chính trị thống nhất Nga và Ukraine và mô hình đế quốc của một quốc gia Nga ba thành phần được hiện thực hóa. Giống như Solzhenitsyn, Putin chấp nhận sự phân chia của Liên Xô đối với dân tộc Nga thành người Nga, người Ukraina và người Belarus, nhưng vẫn tiếp tục coi họ là đại diện của một dân tộc về cơ bản. Tầm nhìn của Solzhenitsyn về nước Nga đóng vai trò là cầu nối giữa các khái niệm đế quốc về ngôn ngữ, văn hóa và nhân dạng Nga với các quan điểm bắt đầu trở nên phổ biến trong giới chính trị Nga khi Vladimir Putin bước vào Điện Kremlin.
Nga đã sẵn sàng di chuyển vượt xa di sản của Liên Xô khi nói đến tầm nhìn của nó về chính nó và mối quan hệ với các nước láng giềng, nhưng phong trào này đã lạc hậu trong lịch sử. Putin nổi lên như một nhà lãnh đạo của phong trào này. Theo ý mình, ông có những tư tưởng của những người theo chủ nghĩa Âu Á, luôn đưa ra lý do để biện minh cho việc Nga kiểm soát không gian đế quốc trước đây; của những người ủng hộ một quốc gia Đại Nga, muốn có một nhà nước Đông Slav chung; và cuối cùng, quan điểm của những người, trong trường hợp các dự án hội nhập khác thất bại, sẽ sẵn sàng giải quyết cho một nước Nga lớn hơn bằng cách thôn tính các vùng đất có đặc tính Nga về mặt lịch sử hoặc dân tộc.
Cuộc đua tới Crimea
Putin sau này tuyên bố rằng mình đã đích thân đưa ra quyết định sáp nhập Crimea vào đêm ngày 23 tháng 2 sau khi trò chuyện với một nhóm nhỏ cố vấn – những người đứng đầu Bộ Quốc phòng và các cơ quan tình báo. “Tôi đã mời những người đứng đầu các cơ quan tình báo và Bộ Quốc phòng đến Điện Kremlin”, ông nhớ lại, đồng thời nói thêm rằng ngoài ông ra chỉ có bốn người có mặt. Cuộc họp kéo dài đến 7:00 sáng hôm sau. Cuối cùng, theo lời Putin, “Chúng tôi buộc phải bắt đầu công việc khôi phục Crimea như một phần lãnh thổ của Nga.” Quyết định này chỉ do một mình nhà độc tài đưa ra. Không có các bộ trưởng, đại biểu quốc hội, hay thậm chí là thành viên Hội đồng An ninh nào cố vấn cho ông ta.
Crimea, khu vực duy nhất của Ukraine mà người Nga chiếm đa số và là một vấn đề gây bất đồng giữa Nga và Ukraine kể từ cuối những năm Xô Viết, từ lâu đã nằm trong tầm ngắm của Kremlin cho chủ nghĩa hội nhập. Quay trở lại năm 1994, Boris Yeltsin đã quyết định không can thiệp vào các vấn đề nội bộ Ukraine khi cử tri Ukraine bầu ra Tổng thống được cho là thân Nga Leonid Kuchma và các chính trị gia Ukraine đàm phán về mối quan hệ của họ với giới tinh hoa Crimea. Bây giờ Putin, đối mặt với việc mất đi người được ông bảo trợ ở Kyiv, việc Ukraine gần như chắc chắn ký kết một thỏa thuận liên kết với EU, và do đó là một thất bại trong kế hoạch đưa Ukraine vào Liên minh Thuế quan và Liên minh Á-Âu do Nga đứng đầu, đã quyết định chiếm bán đảo bằng vũ lực.
Không có phong trào ly khai nào xuất hiện, như đã xảy ra vào năm 1994, nhưng có những nhân tố khác mà Putin tìm cách sử dụng để tranh thủ lợi thế. Đó là tình trạng quá độ chính quyền ở Kyiv, tính hợp pháp đáng ngờ của việc quốc hội phế truất Yanukovych khỏi quyền lực, uy tín không kém phần đáng ngờ của người kế nhiệm ông ta, và sự bất lực của chính quyền mới trong việc giành được lòng tin của các cơ quan an ninh Ukraine, vốn đã chiến đấu bằng bom xăng chỉ vài ngày, nếu không muốn nói là vài giờ trước đó. Chẳng mấy chốc, quốc hội Ukraine đã trao cho Putin một món quà chính trị với việc thông qua vụng về một luật mới hỗ trợ việc sử dụng tiếng Ukraine, mà các chính trị gia thân Nga ở Ukraine mô tả đó là một cuộc tấn công vào quyền của nhóm thiểu số Nga. Điện Kremlin đã lợi dụng luật này để thổi bùng ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa ly khai của Nga, qua đó giúp biện minh cho việc sáp nhập.
Putin đã liên lạc với Yanukovych trong suốt những giai đoạn khó khăn nhất của cuộc biểu tình Maidan, đã có 11 cuộc điện thoại với ông này trong khoảng thời gian từ khi vụ nổ súng ở Kyiv bắt đầu vào ngày 18 tháng 2 cho đến ngày đẫm máu nhất của cuộc đối đầu, ngày 20 tháng 2. Ngoại trưởng Ba Lan, Radosław Sikorski, nhớ lại rằng trong đêm ngày 20 tháng 2, khi ông ấy và các đại diện châu Âu khác đang đàm phán giải quyết cuộc khủng hoảng với Yanukovych, tổng thống Ukraine đã rời phòng họp để nói chuyện với Putin qua điện thoại và chỉ đồng ý tổ chức bầu cử tổng thống sớm khi được Putin chấp thuận.
Putin sau này nhớ lại rằng ông cũng đã nói chuyện qua điện thoại với Tổng thống Barack Obama. “Chúng tôi đã thảo luận về những câu hỏi đó. Chúng tôi đã nói về cách thức chúng tôi sẽ thúc đẩy việc thực hiện các thỏa thuận đó. Nga đã tự mình thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Tôi nghe nói rằng người đồng cấp Mỹ đã sẵn sàng đảm nhận một số nghĩa vụ nhất định.” Theo chủ báo Nga Konstantin Remchukov, người đã nhiều dịp gặp gỡ Putin, “Obama được cho là sẽ chỉ đạo người biểu tình Kyiv tránh xa quảng trường Maidan, và Putin đề xuất Yanukovych nên cử các sĩ quan thực thi pháp luật có vũ trang đến căn cứ của phe biểu tình. Cuộc bầu cử tổng thống mới của Ukraine sẽ được tổ chức vào mùa thu năm 2014.”
Theo Ben Rhodes, Phó Cố vấn An ninh Quốc gia về Truyền thông Chiến lược và Soạn Diễn văn tại Nhà Trắng của Obama, hai tổng thống thực sự “đã đồng ý một công thức bao gồm một lịch trình cho cuộc bầu cử nhanh chóng ở Ukraine. . . Nhưng Yanukovych đã bỏ trốn khỏi đất nước, và những người biểu tình đã nắm quyền kiểm soát Kiev.” Theo Remchukov, Putin đổ lỗi cho Obama, cho là “không hề gọi điện Putin trở lại. Thậm chí ông ấy không xin lỗi, để nói rằng mọi thứ đã trở nên tồi tệ, xin lỗi, bạn già. Ông ấy chỉ đơn giản là không hề gọi lại, và đó là tất cả.” Còn Rhodes nhớ lại rằng hai tổng thống đã có rất nhiều cuộc trò chuyện về Ukraine trong những ngày đó và tuần tiếp theo. Putin đổ lỗi cho Hoa Kỳ đã kích động các cuộc biểu tình và gọi các sự kiện ở Kyiv là một cuộc đảo chính.
Putin không bao giờ che giấu rằng mình phản đối việc Yanukovych đã từ chối sử dụng vũ lực mạnh mẽ và có thể đưa quân đội vào chống lại lực lượng biểu tình. Putin nhớ Yanukovych đã nói với mình rằng “Tôi không thể ký lệnh sử dụng vũ khí. Tay tôi sẽ không giơ lên để làm điều đó.” Putin bình luận: “Ông ta có thể bị đổ lỗi cho điều đó không? Tôi không biết. . . Dù tốt hay xấu, hậu quả của việc không hành động là rất nặng nề.” Putin dường như đã cố gắng thuyết phục Yanukovych không rời khỏi Kyiv vào đêm ngày 21 tháng 2, nhưng Yanukovych vẫn khăng khăng làm như vậy và gọi điện cho Putin một lần nữa để thông báo về quyết định của mình. “Ít nhất, đừng sa thải các cơ quan thực thi pháp luật”, Putin khuyên khách hàng của mình. “Ồ, vâng-vâng, tôi hoàn toàn hiểu điều đó”, câu trả lời vang lên. Trên thực tế, các đơn vị cảnh sát chống bạo động đã rời khỏi Kyiv đáp lại biểu quyết của quốc hội. Yanukovych không thể làm gì về điều đó.
Ngày hôm sau, 22 tháng 2, Yanukovych không xuất hiện tại đại hội đại biểu các hội đồng miền đông và miền nam Ukraine, phe tổ chức hy vọng sẽ tuyên bố chuyển thủ đô Ukraine đến Kharkiv và Yanukovych sẽ tìm cách cai trị đất nước từ đó. Thay vào đó, Yanukovych đã yêu cầu Putin tổ chức một cuộc họp, và Putin đã đồng ý tổ chức tại thành phố Rostov-on-Don gần biên giới Ukraine. Nhưng lính biên phòng Ukraine, theo lệnh của Kyiv, đã ngăn cản máy bay của Yanukovych khởi hành từ quê hương Donetsk của ông đến Nga.
Vào cuối buổi chiều ngày hôm đó, như đã lưu ý trước đây, quốc hội Ukraine đã bỏ phiếu bãi nhiệm Yanukovych khỏi chức vụ. Yanukovych đã gọi Putin một lần nữa yêu cầu giúp đỡ: ông đang tới Crimea để xem liệu mình có thể thiết lập căn cứ ở đó hay không.
Chỉ thị đầu tiên mà Putin đưa ra cho các chỉ huy an ninh của mình khi họ họp tại Điện Kremlin để thảo luận về tình hình đang diễn biến nhanh chóng là đưa Yanukovych sang Nga. “Tôi … giao cho họ nhiệm vụ cứu mạng tổng thống Ukraine; họ [người Ukraine] chỉ đơn giản là muốn giết chết ông ta”, Putin nhớ lại. “Chúng tôi đã sắp xếp để đưa ông ta trực tiếp ra khỏi Donetsk, bằng đường bộ, đường biển và đường hàng không”. Putin đã ra lệnh cho lực lượng an ninh của mình xâm nhập vào quốc gia có chủ quyền Ukraine, và họ tuân theo lệnh của ông. Trực thăng được gửi qua biên giới, và quân đội Nga sử dụng các cơ sở giám sát vô tuyến của mình để theo dõi đoàn xe hộ tống Yanukovych từ sân bay Donetsk, nơi ông đã bị ngăn cản cơ hội bay đến Crimea.
Trong khi đó, Putin đã quyết định lấy lại Crimea từ tay Ukraine. Câu hỏi duy nhất là làm thế nào để cung cấp cho hành động này một lớp vỏ bọc hợp pháp: hiến pháp Nga không cho phép sáp nhập các lãnh thổ.của quốc gia có chủ quyền. Theo một người trong Điện Kremlin, phần lớn ủng hộ một kịch bản đã được thử nghiệm sau cuộc tấn công của Nga vào Nam Ossetia năm 2008, khi vùng đất này ở Georgia tuyên bố độc lập và được Nga công nhận. Điều tương tự cũng có thể được thực hiện trong trường hợp Crimea, tiếp theo là sáp nhập. Putin được cho đã bác bỏ mọi phản đối đối với kịch bản đó, nói rằng các trợ lý của mình có trách nhiệm giải quyết các chi tiết của hoạt động này.
Putin nói với các cố vấn của mình rằng lý do tại sao họ không có lựa chọn nào khác ngoài việc “lấy lại” Crimea cho Nga là mối đe dọa mà những người Ukraine theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan gây ra cho người dân Nga của mình do: “Chúng ta không thể bỏ mặc lãnh thổ đó và người dân sống ở đó cho số phận của họ, điều đó có nghĩa là họ sẽ bị nghiền nát bởi những người theo chủ nghĩa dân tộc.” Không có mối đe dọa nào như vậy tồn tại, nhưng mục đích lớn hơn của Putin là việc sáp nhập Crimea vào Nga sẽ trở nên vô nghĩa nếu Yanukovych biến Crimea thành căn cứ của mình để tìm cách trở lại Kyiv với tư cách là một tổng thống hợp pháp. Yanukovych phải bị ngăn chặn không cho cố thủ ở Crimea hoặc, thậm chí tốt hơn, ngăn chặn trước khi ông ta vào bán đảo.
Cơ quan tình báo Nga, đã liên lạc với đội bảo vệ an ninh của Yanukovych khi tổng thống Ukraine đang trên đường đến Crimea, nói với ông ta rằng có một cuộc phục kích đang chờ ông ta. Ông ta phải dừng lại trước khi đến bán đảo và chờ trực thăng Nga đến đón.
“Các bộ phận theo dõi vô tuyến của chúng tôi bắt đầu, trên thực tế, dẫn dắt đoàn xe hộ tống của ông ấy”, Putin nói, nhớ lại các sự kiện của đêm đó. “Chúng tôi liên tục xác định vị trí của ông ấy khi ông ấy đi chuyển trên tuyến đường của mình. Nhưng khi họ chỉ cho tôi bản đồ, thấy ngay là ông ta sẽ sớm gặp phải một cuộc phục kích. Hơn nữa, theo dữ liệu chúng tôi có, súng máy cỡ lớn đã được lắp đặt ở đó để nhanh chóng tiêu diệt ông ta.” Không có bằng chứng nào được đưa ra để chứng minh có ai ngoài chính quyền Nga đang ra sức ngăn chặn Yanukovych trên đường đến Crimea. Các cơ quan an ninh Ukraine đang quá hỗn loạn vào thời điểm đó để có thể làm điều gì đó tương tự, cho dù họ có một kế hoạch thủ tiêu Yanukovych. Nhưng Yanukovych đã làm theo lời người gọi điện từ Moscow, dừng đoàn xe hộ tống của mình, và nhanh chóng được ba trực thăng quân sự Nga đón. Điều khiến ông ngạc nhiên là ông không được đưa đến Crimea, nơi ông đang trên đường đến, mà đến Nga – các phi công viện dẫn lý do cần tiếp nhiên liệu.
Không có Putin chờ đợi ông trên lãnh thổ Nga, và Yanukovych yêu cầu đưa ông trở về Ukraine, cụ thể hơn là đến Crimea. Theo một vệ sĩ của Yanukovych, ông đã được đưa bằng máy bay đến thị trấn Anapa của Nga trên bờ Biển Đen và từ đó đến một căn cứ hải quân Nga ở Crimea. Tại một viện điều dưỡng trên bán đảo, ông đã gặp người đứng đầu bộ máy hành pháp của mình, Andrii Kliuiev, và các đồng minh chính trị khác. Tình hình không chắc chắn. Người đứng đầu mới được bổ nhiệm của cơ quan an ninh Ukraine, Valentyn Nalyvaichenko, và bộ trưởng nội vụ, Arsen Avakov, đã có mặt ở Crimea để tìm Yanukovych. Vì họ là những người lãnh đạo các cuộc biểu tình ở Maidan, nên hai viên chức này không chắc liệu các nhân viên an ninh và bộ nội vụ Ukraine có tuân thủ họ hay không nếu họ ra lệnh bắt giữ Yanukovych, vì đội an ninh của ông vẫn trung thành với ông. Nhưng Yanukovych quyết định không thử vận may và rời khỏi Crimea. “Tôi quyết định rời khỏi Ukraine khi tôi thấy rằng, xét theo tình hình, nếu tôi ở lại Ukraine, mạng sống của tôi sẽ bị đe dọa”, Yanukovych sau đó đã nói với một phóng viên.
Vladimir Putin đã kể một câu chuyện khác. “Vì những diễn biến ở Kyiv diễn ra rất nhanh và dữ dội, nên việc ông ấy quay trở lại Kyiv trong những điều kiện như vậy là vô lý”, Putin lập luận. Trong khi đó, người Crimea, “thấy các sự kiện đang phát triển, đã cầm lấy vũ khí gần như ngay lập tức và kêu gọi chúng tôi chấp thuận các biện pháp mà họ đang lên kế hoạch thực hiện”, Putin tuyên bố. Nói cách khác, theo Putin, Yanukovych không có tương lai ở Kyiv và hiện là trở ngại cho các diễn biến ở Crimea, vốn được cho là do người dân địa phương xúi giục nhưng dẫn đến “việc trả lại Crimea” cho Nga theo lệnh của Putin.
Yanukovych rời Ukraine vào tối ngày 23 tháng 2, đầu tiên hướng đến căn cứ hải quân Sevastopol của Nga và từ đó đi tàu đến Nga. Sự ra đi của ông đã xóa bỏ một trở ngại chính trị quan trọng đối với việc Nga tiếp quản bán đảo. Ngày 23 tháng 2 là Ngày Hồng quân ở Liên Xô, và Putin, một cựu sĩ quan KGB, vẫn ăn mừng ngày này. Vào ngày đó, ông đắm mình trong vinh quang khi tổ chức thành công Thế vận hội Olympic mùa đông. Nga đã trở lại sân khấu thế giới, chứng minh năng lực tổ chức các sự kiện thể thao quốc tế lớn, như Liên Xô đã làm vào năm 1980. Thách thức hiện nay là chứng minh khả năng của Nga trong việc tránh cái bẫy mà Liên Xô đã rơi vào vài tháng trước Thế vận hội Olympic 1980 bằng hành động xâm lăng Afghanistan.
Việc Yanukovych bị lật đổ ở Kyiv và việc thành lập một chính phủ Ukraine mới cam kết ký kết thỏa thuận liên kết với EU là những thất bại lớn đối với kế hoạch của Putin nhằm thành lập Liên minh Á-Âu như một trong những cực của trật tự thế giới mới. Có lẽ còn nguy hiểm hơn nữa là tầm nhìn của ông về Ukraine như một phần của liên minh Slavơ với Nga. Không giữ được toàn bộ Ukraine trong quỹ đạo của mình, Putin đã lựa chọn sáp nhập một phần lãnh thổ của nước này để phát triển dự án Đại Nga của mình, nhằm sáp nhập các vùng lãnh thổ có đa số dân tộc Nga vào Liên bang Nga. Người ta hy vọng rằng việc xây dựng nước Nga vĩ đại sẽ cứu vãn các dự án hội nhập toàn Nga và Á-Âu của Putin.
Sự sáp nhập
Chiến dịch quân sự của Nga nhằm chiếm đóng Crimea bắt đầu vào sáng sớm ngày 27 tháng 2, khi một nhóm người đàn ông được trang bị vũ khí hạng nặng mặc quân phục, không đeo phù hiệu, xông vào tòa nhà quốc hội Crimea ở thủ phủ Simferopol của bán đảo và chiếm quyền kiểm soát tòa nhà này. Thủ tướng Anatolii Mogilev của Crimea do Yanukovych bổ nhiệm, đã bị bắt giữ. Là người trước đây từng là bộ trưởng nội vụ Ukraine, ông mất vài phút để nhận ra rằng đây là một nhóm chuyên nghiệp đang hành động. Các lực lượng đặc biệt đã hành động nghiêm ngặt theo kế hoạch, chiếm giữ các vị trí xung quanh tòa nhà. Vì đây là một cuộc tiếp quản, Mogilev đã gọi điện đến Kyiv nhưng không nhận được chỉ thị rõ ràng nào. Chính quyền mới vẫn chưa thiết lập được quyền kiểm soát hoàn toàn đối với lực lượng vũ trang hoặc bộ máy an ninh.
Trong khi một nhóm người đàn ông mặc quân phục không có phù hiệu đã chiếm lấy các tòa nhà của Nội các và quốc hội Crimea, một nhóm khác đã đi khắp thành phố để đưa các đại biểu quốc hội đến tòa nhà bị chiếm giữ, nơi họ bị buộc phải bỏ phiếu cho một nghị quyết đã chuẩn bị sẵn chấp thuận việc phế truất Mogilev và bổ nhiệm Sergei Aksenov, một đại biểu quốc hội bốn mươi hai tuổi, làm thủ tướng của Crimea. Được biết đến trong thế giới tội phạm với cái tên “Goblin”, Aksenov là một nhân vật chủ chốt trong thế giới ngầm của bán đảo. Ông đứng đầu Đảng Thống nhất Nga, được các cơ quan an ninh Nga tài trợ.
Trong những tháng dẫn đến khủng hoảng, các biển quảng cáo dọc theo các xa lộ ở Crimea chỉ có hình ảnh của Yanukovych và Aksenov. Yanukovych không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận sự cạnh tranh như vậy. Đảng của Aksenov chỉ giành được 4 phần trăm số phiếu bầu trong cuộc bầu cử quốc hội Crimea, nhưng điều đó không còn quan trọng nữa: những kẻ hung hãn với khẩu Kalashnikov đang sửa đổi ý chí của cử tri.
Các thành viên sợ hãi của quốc hội Crimea đã tuân thủ theo chỉ dẫn của họ, đưa Aksenov trở thành thủ tướng mới của Crimea. Các đại biểu cũng đã bỏ phiếu cho một cuộc trưng cầu dân ý về một hiến pháp thiết lập mối quan hệ liên bang giữa Kyiv và Simferopol và trao quyền tự chủ rộng rãi hơn cho Crimea trong Ukraine. Điện Kremlin vẫn chưa đưa vấn đề độc lập của Crimea vào chương trình nghị sự của quốc hội, vì họ muốn đánh giá phản ứng đối với các diễn biến trên bán đảo và xa hơn nữa. Tại Simferopol (thủ phủ của Crimea), người Tatar Crimea tụ tập tại các bức tường của tòa nhà quốc hội, hô vang “Vinh quang cho Ukraine!” Trong khi người biểu tình ủng hộ Moscow được các điệp viên Nga huy động và tài trợ đã hô vang “Nước Nga!”
Sergei Glazev, một phụ tá của Putin, đã bị các cơ quan an ninh Ukraine bắt gặp khi đang phàn nàn qua điện thoại rằng Aksenov và các chính trị gia thân Nga khác từ lâu đã được Nga “nuôi dưỡng” đã không xuất hiện tại cuộc biểu tình. Chủ tịch quốc hội Crimea, Vladimir Konstantinov, đã gọi những tin đồn cho rằng quốc hội muốn bỏ phiếu cho nền độc lập của Crimea là một “sự khiêu khích”. Nhưng các cơ quan tình báo Nga đã tổ chức một cuộc vận động giành độc lập từ bên dưới. Cuộc biểu tình do các điệp viên Nga tổ chức tại Sevastopol yêu cầu trả lại Sevastopol cho Nga. Một cuộc biểu tình khác tại thành phố Kerch kêu gọi liên bang hóa Ukraine – một mục tiêu được quốc hội chấp thuận – và đe dọa ly khai nếu yêu cầu đó không được đáp ứng.
Vào ngày 28 tháng 2, quyền tổng thống Ukraine, Oleksandr Turchynov, đã triệu tập một cuộc họp của Hội đồng An ninh để thảo luận về toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, nói với những người tham gia rằng chính quyền Nga đang xem xét việc sáp nhập bán đảo. Ngày hôm đó, lực lượng đặc nhiệm Nga mặc quân phục không có phù hiệu chiếm giữ các sân bay Simferopol và Sevastopol. Turchynov thừa nhận rằng không phải tất cả các thành viên của chính phủ mới đều sẵn sàng làm việc trong điều kiện nghiệt ngã vào thời điểm đó nhưng nhấn mạnh rằng người dân Ukraine đang yêu cầu hành động.
Người đứng đầu Cơ quan An ninh, Valentyn Nalyvaichenko, báo cáo về sự sụp đổ hoàn toàn của chính quyền Ukraine tại Crimea. Không chỉ thủ tướng mới, Aksenov, mà cả chủ tịch quốc hội, Vladimir Konstantinov, người đã giữ chức vụ đó trước vụ tấn công của Nga, đã cộng tác với các chỉ huy quân đội và hải quân Nga. Các đơn vị cảnh sát, đặc biệt là các thành viên của cảnh sát chống bạo động, đã gia nhập phe ly khai khi trở về từ Kyiv sau chiến thắng của Cách mạng Nhân phẩm ở đó. Quân đội đã bị suy sụp tinh thần. Tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn trong hải quân Ukraine, nơi chỉ huy đã đệ đơn từ chức.
Nalyvaichenko cảnh báo về các hành động khiêu khích, có thể dẫn đến nổ súng và thương vong của thường dân, có thể được Nga sử dụng làm cái cớ để quân đội Nga tiếp quản toàn diện bán đảo.
Quyền Bộ trưởng Quốc phòng, Đô đốc Ihor Teniukh, đã báo cáo với ban lãnh đạo rằng quân đội Nga đang chuẩn bị xâm lược Ukraine qua biên giới phía đông. Tổng cộng có tới 40.000 sĩ quan và binh lính đã được điều động đến biên giới phía đông của Ukraine với lý do diễn tập. “Tôi sẽ thẳng thắn”, vị đô đốc tiếp tục. “Hiện giờ chúng ta không có quân đội. Nó đã bị Yanukovych và nhóm của ông ta phá hủy một cách có phương pháp theo chỉ thị của các cơ quan an ninh Nga”.
Ông báo cáo rằng người Nga đang di chuyển các đơn vị sẵn sàng chiến đấu của họ đến Crimea, với số lượng quân đội lên tới 20.000. Ukraine có 15.000 quân ở Crimea mà lòng trung thành của họ không chắc chắn, vì hầu hết trong số họ là tân binh từ chính bán đảo này. Teniukh không thể trông cậy vào hơn 5.000 sĩ quan và binh lính có khả năng tuân theo mệnh lệnh và thực hiện các nhiệm vụ quân sự. Hy vọng duy nhất của ông là một khinh hạm Mỹ khi đó được triển khai ở Biển Đen. Teniukh muốn con tàu đi vào vùng biển lãnh thổ của Ukraine như một minh chứng cho sự ủng hộ của Mỹ đối với Ukraine.
Turchynov có một ý tưởng: NATO có đồng ý thừa nhận Ukraine là thành viên “liên kết” của liên minh? Ý tưởng đó đầu tiên được người Ukraine đề xuất vào những năm 1990, nhưng NATO không có tư cách thành viên như vậy. Cựu thủ tướng, Yulia Tymoshenko, vừa được thả khỏi tù sau khi bị chế độ Yanukovych giam giữ, cũng phản đối ý tưởng này. “Chúng ta không nên nói về tư cách thành viên NATO ngay bây giờ, vì điều đó sẽ kích động Nga xâm lược hung hãn.” Thủ tướng mới, Arsenii Yatseniuk, giải thích rằng Nga đã tấn công Georgia vào năm 2008 vì vấn đề Kế hoạch Hành động Thành viên của NATO dành cho quốc gia đó và hiện giờ đang làm giống như vậy ở Ukraine. Phương Tây đã từ chối cung cấp cho Ukraine một MAP khi đó, và bây giờ việc đó “hoàn toàn không thực tế”. Yatseniuk cũng không mong đợi nhiều sự giúp đỡ từ những thành viên ký kết Bản Ghi nhớ Budapest – Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và Trung Quốc. “Chúng ta sẽ phải giải quyết vấn đề bằng cách hoàn toàn dựa vào chính mình”, Yatseniuk đề xuất. Ông tóm tắt tình hình như sau: như chính phủ Nga đã biết rõ, Ukraine chưa sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh đối đầu, và một nỗ lực giải quyết khủng hoảng thông qua đàm phán với các nhà lãnh đạo Crimea mới và nhượng bộ họ sẽ bị Nga ngăn cản. Hy vọng duy nhất là tập hợp sự ủng hộ của quốc tế. Yatseniuk đề xuất ghi lại hành vi vi phạm các thỏa thuận quốc tế của Nga và triệu tập Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để ngăn chặn hành vi xâm lược của nước này.
Giữa cuộc họp, Turchynov được triệu tập đến một chiếc điện thoại đặt trong một phòng riêng. Trên đường dây là người đứng đầu Duma Nga, đồng minh thân cận của Putin, Sergei Naryshkin. Ông ta truyền đạt thông điệp của Putin – đúng ra, một lời đe dọa trắng trợn: nếu thậm chí chỉ một người Nga chết ở Crimea, Nga sẽ tuyên bố những nhà lãnh đạo mới của Ukraine là tội phạm chiến tranh và truy đuổi họ đến bất kỳ nơi nào trên thế giới. Naryshkin còn đưa ra một lời cảnh báo nữa: Nga sẽ không dung thứ cho việc đàn áp người Nga và người nói tiếng Nga.
Turchynov hiểu rằng đó là một mối đe dọa xâm lược các vùng khác của Ukraine trong trường hợp Kyiv kháng cự ở Crimea. Ông đáp trả, tuyên bố rằng các nhà lãnh đạo Nga đã tự biến mình thành tội phạm chiến tranh bằng hành động xâm lược của họ đối với Ukraine và sẽ phải trả lời trước tòa án quốc tế.
Lời đe dọa của Putin đã không có tác dụng. Nhưng nếu không có vũ khí hạt nhân, tư cách thành viên NATO hoặc quân đội, Ukraine không có cách nào để ngăn chặn sự xâm lược. Người đứng đầu Cơ quan An ninh, Nalyvaichenko, đã báo cáo rằng các quan chức Mỹ và Đức đã yêu cầu Ukraine không chống lại Nga ở Crimea: theo tình báo của họ, Moscow sẽ lợi dụng sự chống đối đó làm cái cớ để tiến hành một cuộc xâm lược toàn diện vào Ukraine. Cộng đồng quốc tế và việc lên án Nga tại Liên Hiệp Quốc đã trở thành phương tiện duy nhất mà chính phủ Ukraine có thể sử dụng trong nỗ lực bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Vào ngày 1 tháng 3, thủ tướng mới của Crimea, Aksenov, đã kêu gọi Vladimir Putin “hỗ trợ để đảm bảo hòa bình và yên tĩnh.” Cùng ngày, Putin đã yêu cầu Hội đồng Liên bang, thượng viện của quốc hội, cho phép triển khai lực lượng vũ trang Nga trên lãnh thổ Ukraine. Khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nêu rõ thủ tướng Crimea không có quyền kêu gọi một quốc gia khác can thiệp vào các vấn đề của Ukraine, thì đại diện thường trực của Nga tại Liên hợp quốc, Vitalii Churkin, đã đưa ra một văn kiện do Viktor Yanukovych ký, khi đó đang lưu vong ở Nga. Trong lời kêu gọi của mình tới Putin, Yanukovych, hiện hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của Nga, đã kêu gọi tổng thống Nga sử dụng lực lượng vũ trang của đất nước mình để khôi phục trật tự và bảo vệ người dân Ukraine khỏi các mối đe dọa do Cách mạng Maidan tạo ra. Không chỉ Crimea mà cả miền nam và đông Ukraine cũng cho là bị đe dọa.
Những lời kêu gọi can thiệp và cho phép sử dụng lực lượng vũ trang của Nga ở Ukraine chẳng qua chỉ là những nỗ lực trì hoãn nhằm tạo ra vẻ ngoài hợp pháp cho việc quân đội tiếp quản Crimea, vốn đã diễn ra. Vào ngày 4 tháng 3, Putin đã tổ chức một cuộc họp báo trong đó ông gọi Cách mạng Nhân phẩm là một cuộc đảo chính và phủ nhận vai trò của quân đội Nga trong việc tiếp quản Crimea, ám chỉ rằng việc này được thực hiện bởi các đơn vị tự vệ địa phương. Sau đó, ông nói về các chiến thuật mà quân đội Nga sẽ chuẩn bị sử dụng nếu lực lượng vũ trang Ukraine chống cự. “Và hãy để bất kỳ binh lính nào dám tìm cách nổ súng vào chính người dân của họ, những người có chúng ta đứng phía sau”, Putin nói. Sau đó, ông lặp lại: “Không phải ở phía trước, mà là phía sau. Hãy để họ bắn vào phụ nữ và trẻ em.” Những gì ông ta nói không gì khác hơn là một tội ác chiến tranh.
Putin phủ nhận việc mình có kế hoạch sáp nhập Crimea, nhưng hai ngày sau, quốc hội Crimea, hiện do Nga kiểm soát hoàn toàn, đã thay đổi quyết định trước đó và sửa đổi các câu hỏi cho cuộc trưng cầu dân ý sắp tới, dự kiến diễn ra vào ngày 16 tháng 3. Câu hỏi chính hiện liên quan đến “sự thống nhất” của Crimea với Nga. Để tránh rủi ro về mặt công khai, chính quyền Nga đã ngăn cản các nhà báo đưa tin về cuộc trưng cầu dân ý, ngoại trừ các đại diện thân thiện của các đồng minh cánh hữu của Nga từ Serbia và một số nước châu Âu.
Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu, theo ước tính độc lập, là từ 30 đến 50 phần trăm. Theo cùng ước tính, từ 50 đến 80 phần trăm cử tri bỏ phiếu đồng ý “thống nhất”. Điều đó là đủ cho mục đích của Putin, nhưng Moscow cần một chiến thắng phô trương. Khi kết quả chính thức của cuộc trưng cầu dân ý được công bố, chúng khiến nhiều người nhớ đến các cuộc bầu cử thời Liên Xô: 96,77 phần trăm cử tri được cho là đã đi bỏ phiếu ủng hộ thống nhất. Tỷ lệ cử tri đi bỏ phiếu được công bố là 83 phần trăm.
Ngày hôm sau, 17 tháng 3, “cuộc kiểm phiếu” đã hoàn tất và quốc hội Crimea đã yêu cầu chính quyền Nga chấp nhận bán đảo này là một phần lãnh thổ của họ. Trong một bài viết được công bố vào đêm trước cuộc trưng cầu dân ý, nhà sử học Andrei Zubov, một giáo sư tại Viện Quan hệ Quốc tế Moscow danh tiếng, đã so sánh kế hoạch sáp nhập bán đảo Crimea với việc Hitler sáp nhập Anschluss của Áo vào năm 1938. Ông đã chỉ ra sự tương đồng giữa tầm nhìn của Hitler về nước Đại Đức và diễn ngôn thống nhất nước Nga, chỉ ra rằng cả hai hành động đều được biện minh với công chúng là cần phải bảo vệ các nhóm thiểu số được cho là bị bức hại, người Đức ở Tiệp Khắc trong trường hợp đầu tiên và người Nga ở Crimea trong trường hợp thứ hai, và coi cuộc trưng cầu dân ý được dàn dựng là một trò lừa bịp để cung cấp vỏ bọc pháp lý cho việc sáp nhập cưỡng bức. Zubov chẳng mấy chốc bị sa thải, mất đi vị trí danh giá của mình tại trường ngoại giao hàng đầu của đất nước. Nhưng ông đã không thua trong cuộc tranh luận.
Nhiều điểm tương đồng đã được rút ra giữa “sự thống nhất” Crimea và Anschluss của Áo, cũng như các tầm nhìn về Đại Đức và Đại Nga đã truyền cảm hứng cho chúng. Cũng có một số điểm tương đồng trong nhận thức của công chúng về hai đạo luật đó. Anschluss năm 1938 không gây nhiều lo ngại ở London và Moscow, vì người ta cho rằng cơn thèm khát bành trướng của Hitler chỉ giới hạn ở các vùng lãnh thổ sắc tộc Đức. Phản ứng của Đức đối với việc Putin sáp nhập Crimea cũng khá bình tĩnh – có tới 40 phần trăm công chúng Đức không phản đối hành động của ông. Trong cả hai trường hợp, đều có hy vọng rằng kẻ xâm lược sẽ không đi xa hơn. Suy nghĩ đó sẽ chứng tỏ là viển vông ở mức độ tồi tệ nhất.