
SERHII PLOKHY
Trần Quang Nghĩa dịch
4 Đông Âu Mới
Thiên niên kỷ mới bắt đầu với lời hứa cải thiện quan hệ giữa Nga, Hoa Kỳ và phương Tây nói chung, điều này có thể dẫn đến mối quan hệ Nga-NATO tốt hơn. Lời hứa này đến vào ngày 9 tháng 9 năm 2001, với cuộc gọi điện thoại từ Vladimir Putin, người khi đó đã làm tổng thống Nga trong một năm và vài tháng, đến George W. Bush, khi đó chưa đầy 10 tháng trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông với tư cách là tổng thống Hoa Kỳ. Putin đã cảnh báo Bush về một thông tin tình báo mà ông đã có được từ Afghanistan, nơi một đồng minh quan trọng của Moscow đã bị Taliban ám sát: một điều gì đó lớn “sắp xảy ra, một điều gì đó đã được chuẩn bị từ lâu”.
Cuộc tấn công của Al Qaeda vào ngày 11/9 diễn ra hai ngày sau đó, làm thay đổi nhiệm kỳ tổng thống của Bush và các ưu tiên, nếu không muốn nói là hướng đi, của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong nhiều năm tới.
Putin đã nhìn thấy một cơ hội và tận dụng nó để cung cấp Bush và chính quyền của ông ta một quan hệ đối tác được xây dựng trên công cuộc chống lại mối đe dọa chung từ Afghanistan và Hồi giáo cực đoan nhưng mở rộng ra ngoài phạm vi hợp tác khu vực. “Tôi chắc chắn rằng ngày hôm nay, khi ‘số phận của chúng ta một lần nữa gặp lại lịch sử’, chúng ta sẽ không chỉ là đối tác mà còn có thể là bạn bè”, Putin tuyên bố trong chuyến thăm Washington vào tháng 11 năm 2001. Tầm nhìn của Putin bao gồm việc Nga trở lại vị thế mà Liên Xô nắm giữ trong chính trường thế giới, chấm dứt sự mở rộng của NATO và công nhận lãnh thổ của Liên Xô cũ là phạm vi ảnh hưởng của Nga. Putin cũng ở đó để cung cấp thêm thông tin tình báo về Afghanistan, mối quan tâm chính của Nhà Trắng vào thời điểm đó.
Bush và chính quyền của ông rất biết ơn nhưng không chuẩn bị đi xa như Putin đề xuất. Để đổi lấy thông tin tình báo về Afghanistan và những cử chỉ thiện chí khác từ Moscow, Washington đã chuẩn bị chia sẻ thông tin tình báo của riêng mình về “cuộc chiến chống khủng bố”, giữ im lặng trước công chúng về việc Nga bình định Chechnya một cách tàn bạo, được Nga cho là một nhà nước khủng bố, và giúp Nga gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
Quan hệ đối tác đã có hiệu quả trong một thời gian, nhưng căng thẳng đã xuất hiện ngay cả trong lĩnh vực lợi ích chung – cuộc chiến chống Taliban. Hoa Kỳ cần các căn cứ quân sự ở Trung Á, nhưng Putin đã miễn cưỡng chấp nhận người Mỹ lấn vào phạm vi ảnh hưởng độc quyền của mình. Chỉ sau một số do dự, ông mới đồng ý việc Mỹ mở hai căn cứ của mình trong khu vực, một ở Uzbekistan, một ở Kyrgyzstan.
Đó chỉ là khởi đầu. Vào tháng 6 năm 2002, Bush đã rút khỏi Hiệp ước Chống Tên lửa Đạn đạo năm 1972, với lý do cần phải phát triển cuộc phòng thủ chống tên lửa để ứng phó với mối đe dọa từ các quốc gia lưu manh như Iran. Putin cảm thấy mục tiêu thực sự của Bush là Nga và đã rút khỏi hiệp ước START II năm 1993 do George H. W. Bush và Boris Yeltsin ký. Nỗ lực của Putin nhằm gây ảnh hưởng đến NATO thông qua Hội đồng NATO-Nga được thành lập vào tháng 5 năm 2002 cũng không mấy thành công: vào tháng 11 năm đó, NATO quyết định chấp nhận các thành viên Đông Âu mới, đặc biệt là các quốc gia Baltic (bị Liên Xô sáp nhập vào năm 1940), xâm phạm vào phạm vi ảnh hưởng mà Putin muốn được công nhận. Trong năm 2003, quyết định xâm lược Iraq của Bush đã trở thành một điểm bất đồng khác giữa Washington và Moscow.
Nhưng chính “cuộc thập tự chinh dân chủ” của Bush, hay các chính sách được thiết kế để thúc đẩy và hỗ trợ dân chủ trên quy mô toàn cầu nói riêng, đã đưa Washington và Moscow vào một cuộc xung đột. Chế độ của Putin thấy rằng việc thúc đẩy dân chủ là mối đe dọa đối với sự ổn định trong nước và các mục tiêu chính trị của họ ở nước ngoài. Đông Âu mới, tức các nước cộng hòa phía tây cũ của Liên Xô, đã trở thành nơi mà ở đó những lợi ích cạnh tranh va chạm ở cùng mức độ như chúng từng làm ở Đông Âu “cũ” trong Chiến tranh Lạnh. Trọng tâm của cuộc tranh chấp mới là Ukraine, nơi mà vào mùa thu năm 2004, cuộc Cách mạng Cam dân chủ đã thành công. Vài tháng trước đó, vào tháng 3 năm 2004, bảy quốc gia Đông Âu, bao gồm ba quốc gia Baltic – tất cả đều là nhà nước dân chủ – đã chính thức gia nhập NATO. Ukraine có thể là quốc gia tiếp theo không?
Cuộc Thập Tự Chinh vì Dân Chủ
Đối với Nga, chiến thắng của cuộc Cách mạng Cam năm 2004 ở Ukraine là một đòn giáng mạnh vào lợi ích của Điện Kremlin trong và ngoài nước. “Đó là vụ 11/9 của chúng tôi”, cố vấn chính trị Nga Gleb Pavlovsky, người gần gũi với Điện Kremlin, tuyên bố. Là người gốc Ukraine, ông đã đến Kyiv để cố vấn cho Thủ tướng Yanukovych và chiến dịch tranh cử của ông. Cách mạng Cam cũng là một thất bại cá nhân đối với Putin vì nó được Boris Berezovsky, người bảo trợ trước đây của ông, sau này là kẻ thù, và cuối cùng là người tị nạn khỏi chế độ của ông, ủng hộ. Điện Kremlin lo ngại rằng dưới thời Tổng thống Yushchenko thiên về phương Tây, Ukraine có thể rời khỏi quỹ đạo Nga mãi mãi và gia nhập phe phương Tây.
Với sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản, chế độ dân chủ đã trở thành điều kiện tiên quyết cho các quốc gia hậu cộng sản và hậu Xô Viết mong muốn gia nhập các thể chế phương Tây, cả chính trị, như Liên minh châu Âu, và quân sự, đặc biệt là NATO. Ukraine, với nền dân chủ hỗn loạn nhưng khả thi, có thể là ứng cử viên cho cả hai, trong khi Nga, thất bại trong một bài kiểm tra dân chủ sau một bài kiểm tra khác và cuối cùng dấn vào con đường cai trị độc tài, thì không thể. Sự thành công và bền vững của nền dân chủ Ukraine là mối đe dọa đối với chế độ Putin, vì nó khuyến khích bất kỳ lực lượng ủng hộ dân chủ nào còn lại ở Nga và, về mặt địa chính trị, đưa các thể chế dân chủ đến gần biên giới Nga hơn. Trong mắt Putin, điều này không chỉ không mong muốn mà còn không thể chấp nhận được.
Đến năm 2004, Putin đã đi đúng hướng để đặt nền móng cho một chế độ độc tài trong tương lai. Ông đã nắm quyền kiểm soát Duma Nga trong cuộc bầu cử tháng 12 năm 2003, chứng kiến đảng của ông, Nước Nga Thống nhất, giành được số phiếu bầu gấp ba lần so với đảng Cộng sản để trở thành đảng lớn nhất ở quốc hội. Sau đó, ông khai thác cuộc khủng hoảng con tin do những kẻ cực đoan Chechnya gây ra khi tấn công một trường học ở Beslan vào tháng 9 năm 2004. Vụ việc đã bị các cơ quan an ninh Nga xử lý sai, khi nhân viên của họ xông vào trường học, khiến 314 con tin thiệt mạng, trong đó có 186 học sinh. Điều này đã tạo cơ hội cho Putin can thiệp và cắt giảm bất kỳ phần nào còn lại của nền dân chủ Nga: các cuộc bầu cử thống đốc khu vực đã bị bãi bỏ và các luật mới được đưa ra nhằm cắt giảm hoạt động của các đảng phái chính trị và các tổ chức phi chính phủ.
Putin háo hức muốn thiết lập một hệ thống chính trị tương tự tại Ukraine, công khai vận động cho Yanukovych và bí mật thúc đẩy Kuchma sử dụng vũ lực. Ông đã thất bại ở cả hai điểm. Vào đầu năm 2005, các cuộc biểu tình quần chúng cũng làm rung chuyển một số quốc gia hậu Xô Viết khác, bao gồm Uzbekistan và Kyrgyzstan, nơi “Cách mạng hoa Tulip” đã lật đổ nhà cầm quyền bản địa, Askar Akayev, người đã nắm quyền từ cuối thời kỳ Xô Viết. Một năm trước Cách mạng Cam, “Cách mạng Hoa hồng” ở Georgia đã đưa một nhà cải cách trẻ, lôi cuốn, thân phương Tây tên là Mikheil Saakashvili lên nắm quyền. Ở Nga, tất cả các phong trào phản đối này đều được dán nhãn là “Cam”. Tự thấy mình ở thế phòng thủ, Moscow bắt đầu bắt chước các chiến thuật mà phe đối lập sử dụng trong Cách mạng Cam, thành lập và tài trợ cho nhiều tổ chức thanh niên ủng hộ chính phủ, trong đó khét tiếng nhất là “Nashi” hay “Của Chúng ta”. “Của Chúng ta” có mặt để bảo vệ tổng thống chống lại cuộc nổi loạn cách mạng, được cho là do các thế lực nước ngoài xúi giục. Ukraine được chú ý đặc biệt về vấn đề này, vì đằng sau Ukraine, các nhà tư tưởng Moscow nhìn thấy bóng đen đe dọa của phương Tây.
Thật vậy, như Moscow lo ngại, Cách mạng Cam đã tạo ra một sự thay đổi địa chính trị lớn ở Kyiv. Tổng thống Yushchenko đã quay trở lại các chính sách ủng hộ châu Âu do Kuchma đưa ra trước vụ bê bối băng ghi âm Melnychenko năm 2001. Những chính sách đó bao gồm sự hội nhập dần dần vào các cấu trúc châu Âu, từ Liên minh châu Âu đến NATO. Yushchenko muốn có lời mời tham gia liên minh dưới hình thức Kế hoạch Hành động Thành viên, viết tắt là MAP. Yêu cầu của ông đã không rơi vào tai điếc ở Brussels, đại bản doanh của NATO, vì các quan chức NATO đã mời Ukraine bắt đầu Đối thoại Tăng cường về khả năng gia nhập. Cộng hòa Séc, Slovakia, Hungary và Ba Lan, những nước láng giềng phía tây của Ukraine, vốn trước đây vào những năm 1990 không muốn nỗ lực gia nhập NATO của mình bị ảnh hưởng bởi sự liên kết với Ukraine, giờ đây đều ủng hộ nguyện vọng gia nhập của Ukraine. Họ còn quá đỗi vui mừng khi nhường sườn phía đông của NATO, dễ bị tổn thương trước khả năng tấn công của Nga, cho Ukraine.

Vào tháng 2 năm 2022, vài tuần sau khi nhậm chức, Yushchenko đã tham dự một cuộc họp của các nguyên thủ quốc gia thành viên NATO tại Brussels, nơi ông công khai tuyên bố rằng ông muốn các đồng cấp của mình coi Ukraine là một thành viên tương lai của liên minh. Ông đã làm như vậy nhân danh Cách mạng Cam mà ông đã lãnh đạo và nhân dân đã bầu ông làm tổng thống. “Tôi khá chắc chắn, các bạn thân mến”, Yushchenko bắt đầu, “rằng những người đã đến các quảng trường và đường phố của Kyiv đã có động lực vì họ muốn nhìn thấy Ukraine ở Châu Âu, không phải là một nước láng giềng của Châu Âu, bởi vì chúng tôi là một đất nước nằm ở trung tâm của Châu Âu. Và chúng tôi muốn thấy Ukraine được tích hợp vào Liên minh Châu Âu và vào Liên minh Bắc Đại Tây Dương.” Trước rời khỏi bục diễn thuyết, Yushchenko đã ra sức trấn an Nga rằng nguyện vọng NATO của ông và nhân dân đất nước mình không phải là nhằm vào Nga. “Nga là đối tác chiến lược của chúng tôi,” Yushchenko tuyên bố, “và chính sách Ukraine đối với NATO không có nghĩa là chống lại lợi ích của các nước khác, bao gồm cả Nga.”
Ukraine đã cố gắng giải quyết tình thế tiến thoái lưỡng nan về an ninh của mình theo cách tốt nhất có thể. Vì NATO đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Nga, nên ý tưởng về việc Ukraine gia nhập NATO mà không gây hấn với Nga về mặt lý thuyết là khả thi vào những năm 1990. Nhưng sau Cách mạng Cam, Kyiv phải đối mặt với một lựa chọn khó khăn: hoặc là chiều theo Moscow, vốn có yêu sách lãnh thổ lâu đời đối với Ukraine và đã can thiệp trực tiếp vào cuộc bầu cử tổng thống của nước này, hoặc là tìm kiếm sự bảo vệ trong một liên minh quân sự có thể đảm bảo toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của mình. Mối đe dọa từ Nga là có thật và ngay lập tức, trong khi tư cách thành viên NATO chỉ là giả thuyết và bị xóa bỏ theo thời gian. Sau thời gian dài do dự, Kyiv đã quyết định chọn NATO.
Nga theo sát các động thái chính sách đối ngoại của Yushchenko nhưng không đưa ra tuyên bố công khai nào liên quan đến nguyện vọng NATO của Kyiv. Thay vào đó, Moscow đã lợi dụng sự phụ thuộc của Ukraine vào khí đốt của Nga và vai trò là quốc gia trung chuyển khí đốt đó sang châu Âu để can thiệp vào sự trôi dạt của Ukraine về phía phương Tây.
Tháng 3 năm 2005, ngay sau chuyến thăm Brussels của Yushchenko với yêu cầu về Kế hoạch Hành động Thành viên, Nga đã tăng giá khí đốt bán cho Ukraine. Đây là một phần trong chính sách chung của nước này nhằm cắt giảm trợ cấp cho các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nhưng đây là cách đối xử có chọn lọc nhất, vì Belarus, nước thân thiện với Nga, đã nhận được các điều khoản tốt hơn. Sau đó là một số cuộc khủng hoảng khí đốt trong đó Nga sẽ cắt nguồn cung cấp khí đốt cho Ukraine vì không có khả năng trả giá cao (giá của Ukraine cuối cùng sẽ cao hơn giá mà khách hàng ở miền Trung Âu phải trả).
Những cuộc khủng hoảng này, còn được gọi là “chiến tranh khí đốt”, được canh thời gian diễn ra vào mùa đông, buộc Ukraine phải lấy khí đốt từ khối lượng mà Nga vận chuyển đến các khách hàng ở Trung Âu. Moscow cáo buộc Kyiv dùng thủ đoạn chia khí đốt của châu Âu và đe dọa cắt giảm nguồn cung cấp cho châu Âu. Đó là tình hình vào tháng 1 năm 2006, khi nguồn cung cấp khí đốt của Nga cho Hungary bị cắt giảm 40 phần trăm, cho Pháp và Áo là 30 phần trăm và cho Ý là 24 phần trăm. Điều này tác hại tồi tệ đến Ukraine và khiến EU trực tiếp tham gia vào Chiến tranh Khí đốt của Nga-Ukraine, nhưng không làm giảm quyết tâm của chính quyền Yushchenko trong việc áp dụng các chính sách thân phương Tây. Trái lại, nó chỉ càng củng cố thêm quyết tâm đó.
Hội nghị thượng đỉnh Bucharest
Mối quan hệ giữa Nga và Hoa Kỳ cùng các đồng minh đã rơi vào khủng hoảng vào tháng 2 năm 2007, khi Putin chọn Diễn đàn An ninh Munich để công khai thách thức Hoa Kỳ với tư cách là nhà lãnh đạo chính trị thế giới.
Tổng thống Nga đã chuẩn bị để lợi dụng đầy đủ vị thế suy yếu đáng kể của Washington trên thế giới do Chiến tranh Iraq. Ông cáo buộc Washington hành động đơn phương và phá hủy nền tảng của trật tự quốc tế bằng cuộc tấn công vào Iraq. Ông cũng phản đối việc mở rộng NATO. “Tôi cho rằng rõ ràng việc mở rộng NATO không liên quan gì đến việc hiện đại hóa chính Liên minh hoặc đảm bảo an ninh ở châu Âu”, Putin tuyên bố. “Ngược lại, nó đại diện cho một sự khiêu khích nghiêm trọng làm giảm mức độ tin cậy lẫn nhau”. Sau đó, ông nhắc đến những lời hứa được cho là do giới lãnh đạo NATO đưa ra vào năm 1990 là không mở rộng NATO ra ngoài nước Đức.”
Tổng thư ký NATO Jaap de Hoop Scheffer không vui vẻ chút nào, gọi bài phát biểu của Putin tại Munich là “đáng thất vọng và vô ích”. Phản ứng của Mỹ đối với Putin được Thượng nghị sĩ John McCain, một tiếng nói hàng đầu trong Đảng Cộng hòa, đưa ra. Nó được diễn đạt bằng ngôn ngữ dân chủ hơn là sự tin tưởng lẫn nhau hoặc an ninh. “Moscow phải hiểu rằng họ không thể nhận được mối quan hệ đối tác thực sự với phương Tây chừng nào nó còn có những hành động trong và ngoài nước xung đột cơ bản với các giá trị cốt lõi của nền dân chủ Châu Âu-Đại Tây Dương”, McCain tuyên bố. Dân chủ là chủ đề chính của Yushchenko khi ông và các nhà lãnh đạo khác của Ukraine viết thư cho trụ sở NATO tại Brussels vào tháng 1 năm 2008 để yêu cầu một Kế hoạch Hành động Thành viên cho Ukraine. Yushchenko đã viết: “Chia sẻ đầy đủ các giá trị dân chủ của châu Âu, nhà nước của chúng tôi tự nhận mình là một phần của khu vực an ninh Châu Âu-Đại Tây Dương và sẵn sàng cùng với NATO và các đối tác của NATO chống lại các mối đe dọa chung đối với an ninh theo điều kiện bình đẳng.” Bức thư yêu cầu NATO xem xét cấp cho Ukraine một MAP tại hội nghị thượng đỉnh sắp tới ở Bucharest vào tháng 4 năm 2008.
Moscow không hài lòng. Putin đe dọa sẽ tấn công Ukraine bằng tên lửa nếu nước này chấp nhận tên lửa của NATO. “Thật kinh khủng khi nói và thật đáng sợ khi nghĩ rằng Nga có thể nhắm các hệ thống tên lửa của mình vào Ukraine, để đáp trả việc triển khai các cơ sở như vậy trên lãnh thổ Ukraine”, Yushchenko tuyên bố. “Hãy tưởng tượng điều này trong giây lát. Đây là điều khiến tôi lo lắng.” Yushchenko miên man vào những suy ngẫm của riêng mình, cố gắng làm dịu thần kinh Moscow. “Ai có thể tưởng tượng rằng sẽ có một căn cứ NATO ở Sevastopol? Tất nhiên là không, và sẽ không bao giờ có”, ông tuyên bố vào một dịp khác. Ông vẫn hy vọng rằng có thể thuyết phục Nga từ bỏ sự phản đối của mình đối với tư cách thành viên của Ukraine trong liên minh NATO.
Nhưng Moscow coi việc Ukraine gia nhập NATO là vi phạm mối quan hệ tốt đẹp với Nga. Bộ Ngoại giao Nga đã phản ứng với tin tức về yêu cầu của Ukraine bằng tuyên bố rằng “rõ ràng là giới lãnh đạo Ukraine ngày nay coi mối quan hệ chặt chẽ hơn với NATO là một giải pháp thay thế cho quan hệ láng giềng tốt đẹp với Liên bang Nga”. “Quan niệm Chính sách Đối ngoại” của Nga, được công bố trong cùng tháng, coi việc mở rộng liên minh, khả năng kết nạp Ukraine và Georgia, và việc di chuyển “cơ sở hạ tầng quân sự của NATO” về phía đông là hành vi vi phạm “nguyên tắc an ninh bình đẳng”, dẫn đến “những ranh giới phân chia mới ở châu Âu”. “Chúng tôi sẽ buộc phải sử dụng các biện pháp thích hợp”, tuyên bố viết.
Nga quyết tâm ngăn chặn Ukraine và Georgia, một Cộng hòa hậu Xô Viết khác có thành tích dân chủ bắt rễ từ Cách mạng Hoa hồng (2003) của mình, không được tham gia liên minh. Xét mối quan hệ không tốt đẹp với NATO, Nga đe dọa sẽ khiến mối quan hệ này trở nên tồi tệ hơn. “Do thực tế là mối quan hệ của chúng tôi với NATO hiện đang rất thách thức, tôi không tin liên minh sẽ đưa ra lời mời đến Ukraine”, đại diện của Nga tại Liên hiệp quốc, Dmitrii Rogozin tuyên bố.
Khi các nhà lãnh đạo NATO đến dự hội nghị thượng đỉnh Bucharest vào ngày 2 tháng 4 năm 2008, những lời phản đối mạnh mẽ của Nga đối với tư cách thành viên cho Ukraine và Georgia đè nặng tâm trí họ. Putin đã đích thân đến thủ đô Romania để tham dự cuộc họp thượng đỉnh Nga-NATO và cảnh báo các thành viên của liên minh không được gửi lời mời đến hai nước cộng hòa hậu Xô Viết này. “Sự xuất hiện của một khối quân sự hùng mạnh tại biên giới của chúng tôi sẽ bị coi là mối đe dọa trực tiếp đến an ninh của Nga”, Putin nói với Tổng thống Bush. Bush không mấy ấn tượng. Trước khi đến Bucharest, ông đã dừng chân tại Kyiv, tại đó ông nói với người Ukraine: “Quốc gia của các bạn đã đưa ra một quyết định táo bạo, và Hoa Kỳ sẽ ủng hộ lởi yêu cầu của các bạn một cách mạnh mẽ.
Nhưng các thành viên chủ chốt của NATO tại châu Âu, đặc biệt là Pháp và Đức, đã ngăn chặn quyết định do Hoa Kỳ chủ trương và được các thành viên Đông Âu mới của liên minh ủng hộ nhằm cấp cho Ukraine và Georgia Kế hoạch Hành động Thành viên.
“Chúng tôi đã nhất trí hôm nay rằng các quốc gia này sẽ trở thành thành viên của NATO”, bản tuyên bố nói trước khi nêu rõ rằng việc gia nhập sẽ không diễn ra trong thời gian sớm sủa. Kế hoạch Hành động Thành viên (MAP) đã được hứa hẹn nhưng chưa được đưa ra trên cơ sở hai ứng viên tiềm năng vẫn phải đáp ứng một số tiêu chí cụ thể để đủ điều kiện. “Chúng tôi sẽ bắt đầu giai đoạn tham gia sâu rộng với cả hai bên ở cấp chính trị cao để giải quyết các vấn đề vốn còn tồn đọng liên quan đến đơn xin MAP của họ.”
Vấn đề đã bị hoãn lại và sẽ không quay lại chương trình nghị sự của NATO tại hội nghị thượng đỉnh tiếp theo hoặc hội nghị thượng đỉnh sau đó. Mọi người đều biết rằng quyết định từ chối MAP cho hai nước cộng hòa hậu Xô Viết là một sự nhượng bộ đối với cựu chủ nhân của họ, Nga. Nếu không thì không thể giải thích được tại sao hội nghị thượng đỉnh Bucharest lại mời Croatia và Albania gia nhập NATO. Đối với hai quốc gia hiện được coi là mối đe dọa của Nga, việc NATO không quyết định về tư cách thành viên của họ là kết quả tồi tệ nhất có thể xảy ra tại hội nghị thượng đỉnh: đơn xin gia nhập của họ đã bị hoãn vô thời hạn, khiến họ không được bảo vệ bởi liên minh mà họ đã công khai tuyên bố muốn gia nhập. Trong khi Nga không dám tấn công NATO, nhưng họ có thể dễ dàng tấn công những nước có nguyện vọng, và họ đã làm như vậy.
Vào ngày 8 tháng 8 năm 2008, một vài tháng sau hội nghị thượng đỉnh Bucharest, Nga đã phát động một cuộc chiến tranh với Georgia, bề ngoài là để bảo vệ vùng đất biệt lập Nam Ossetia của Georgia, vốn đã ly khai khỏi Georgia vào đầu những năm 1990. Cuộc tấn công của Nga được cho là nhằm đáp trả các hành động của quân đội Georgia, được lệnh tiến vào Nam Ossetia, nhưng không còn nghi ngờ gì nữa rằng cuộc chiến này có liên quan trực tiếp đến kết quả của hội nghị thượng đỉnh Bucharest. Nga đã thiết lập quan hệ chính thức với Nam Ossetia và Abkhazia, hai tỉnh của Georgia mà Nga hiện đang “bảo vệ”, ngay sau khi Putin trở về từ hội nghị thượng đỉnh Bucharest. Người Georgia đã chiến đấu lại dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Mikheil Saakashvili, người được đào tạo ở Ukraine và Hoa Kỳ, nhưng quân đội Nga, đông hơn và vượt trội hơn quân đội Georgia, đã tiến sâu vào đất nước này và đe dọa chiếm thủ đô Tbilisi.
Vào ngày 12 tháng 8, Yushchenko, cùng với các nhà lãnh đạo của Ba Lan và ba quốc gia Baltic, đã bay đến Tbilisi để thể hiện sự ủng hộ đối với Saakashvili và đất nước của ông. Ngày hôm đó, cuộc tiến công của Nga đã bị chặn lại bằng một lệnh ngừng bắn do Tổng thống Nicolas Sarkozy của Pháp đàm phán. Quân đội Nga cuối cùng đã rời khỏi phần lớn lãnh thổ bị chiếm đóng nhưng vẫn ở lại Abkhazia và Nam Ossetia, bề ngoài là bảo vệ nền độc lập của hai tỉnh này khỏi Georgia và duy trì sự phân chia lãnh thổ của nó. Điều đó làm suy yếu cơ hội của Georgia trong việc gia nhập NATO, vì liên minh này không muốn chấp nhận bất kỳ quốc gia nào có các vấn đề lãnh thổ chưa được giải quyết.
Cuộc chiến của Nga với Georgia đã trở thành trường hợp đầu tiên mà nước này khởi xướng một cuộc chiến tranh lớn vượt ra ngoài biên giới của mình. Nó đã gửi một tín hiệu rõ ràng đến phương Tây rằng Nga đã sẵn sàng sử dụng vũ lực quân sự để ngăn chặn bất kỳ sự mở rộng nào của liên minh. Nó cũng chứng minh với các nước cộng hòa hậu Xô Viết khác rằng NATO sẽ không đến giải cứu họ trong trường hợp bị Nga tấn công.
Quyết định của hội nghị thượng đỉnh NATO tại Bucharest, cùng với kết quả của Chiến tranh Nga-Georgia, đã giáng một đòn tàn khốc vào nguyện vọng gia nhập liên minh của Ukraine. Việc thay đổi người bảo vệ tại Washington và lễ nhậm chức tổng thống của Barack Obama vào tháng 1 năm 2009 đã dẫn đến việc xem xét lại toàn diện mọi yếu tố trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ và nỗ lực “thiết lập lại” quan hệ Hoa Kỳ-Nga. Vào tháng 1 năm 2010 Viktor Yushchenko, bị đánh bại trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử tổng thống năm đó, đã rời nhiệm sở để nhường chỗ cho người được Putin ưu ái trước đây, Viktor Yanukovych. Tổng thống mới đã nhanh chóng loại bỏ tư cách thành viên NATO khỏi chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của Ukraine và ký một thỏa thuận gây tổn hại cho an ninh của Ukraine vì nó gia hạn sự hiện diện của Hạm đội Biển Đen của Nga tại Sevastopol cho đến năm 2042.
Hội nghị thượng đỉnh Bucharest đã đưa Ukraine vào vị thế dễ bị tổn thương nhất kể từ khi tuyên bố độc lập. Không có vũ khí hạt nhân và tư cách thành viên NATO, Ukraine thấy mình nằm trong tay Nga, nước coi lời đề nghị mơ hồ của hội nghị thượng đỉnh Bucharest dành cho Ukraine gia nhập NATO là mối đe dọa đối với an ninh của chính mình. Ukraine là một chiến binh đơn độc trên vùng đất trống trải bị các thế lực thù địch truy đuổi, chạy trốn để tìm nơi trú ẩn trong một pháo đài an toàn, chỉ để thấy cánh cổng đóng lại vì những bất đồng giữa những người bảo vệ.
Liên minh Á Âu
Vladimir Putin đã nghĩ về an ninh của Nga theo cùng cách mà các sa hoàng và chính ủy đã làm: để Nga được an toàn họ đã tạo ra và duy trì một vành đai các quốc gia vùng đệm. Putin muốn đưa hầu hết các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ vào dưới sự lãnh đạo của Moscow, phải thừa nhận rằng không phải phục hồi dưới hình thức Liên Xô mà là thành lập một khối chính trị, quân sự và quan trọng nhất là kinh tế được gọi là Liên minh Á-Âu. Ukraine, xét về quy mô và tầm quan trọng về kinh tế, được cho là nền tảng của liên minh mới này.
Sự tái hòa nhập của không gian hậu Xô Viết, được đổi tên ở Moscow và được biết đến trên toàn thế giới là Á-Âu, được khởi xướng bởi Boris Yeltsin vào những năm 1990 với việc ký kết một số thỏa thuận về việc thành lập một thị trường chung giữa Nga, Belarus và một số quốc gia Trung Á. Putin đã tạo thêm động lực cho quá trình tái hòa nhập này bằng cách thành lập Cộng đồng Kinh tế Á-Âu – rõ ràng thầm thừa nhận ngầm rằng Khối Thịnh vượng Chung các Nhà nước Độc lập do Yeltsin thành lập đã thất bại trong việc thống nhất không gian hậu Xô Viết dưới sự kiểm soát của Nga, như Moscow đã mong đợi vào đầu những năm 1990.
Những nỗ lực hội nhập của Putin đã đạt được thành công vào năm 2003, khi Ukraine, sau khi từ chối gia nhập Khối Thịnh vượng Chung mà họ đã giúp tạo ra, đã ký một thỏa thuận về việc tạo ra một không gian kinh tế chung với Nga, Belarus và Kazakhstan. Đó là một phần trong sự chuyển hướng khỏi châu Âu và hướng tới Nga do Tổng thống Kuchma thực hiện sau khi ông bị suy yếu bởi vụ bê bối băng ghi âm Melnychenko. Nhưng Cách mạng Cam năm 2004 đã chấm dứt sự tham gia của Ukraine vào các dự án hội nhập Á-Âu do Nga lãnh đạo. Tổng thống Yushchenko đang hướng tới hội nhập với châu Âu. Nhưng vào năm 2010, khi Viktor Yanukovych trở thành tổng thống Ukraine, một số hình thức hợp tác Á-Âu trở nên có khả năng xảy ra hơn nhiều.
Năm 2008, Putin đã đổi vai trò với cựu thủ tướng của mình, Dmitrii Medvedev, để tuân thủ hiến pháp Nga, cấm một tổng thống phục vụ hơn hai nhiệm kỳ liên tiếp. Vào tháng 10 năm 2011, Putin, hiện là thủ tướng, đã trình bày tầm nhìn của mình về sự hội nhập Á-Âu trong một bài báo được công bố rộng rãi. Ông đã công bố kế hoạch hình thành một không gian kinh tế chung bao gồm Nga, Belarus và Kazakhstan vào ngày 1 tháng 1 năm 2012. Điều này được hình thành như là sự khởi đầu của Liên minh Á-Âu dưới sự lãnh đạo của Nga. “Chúng tôi đề xuất mô hình của một liên minh siêu quốc gia mạnh mẽ có khả năng trở thành một trong những cực của thế giới đương đại và, với tư cách đó, đóng vai trò là một ‘mối liên kết’ hiệu quả giữa châu Âu và khu vực châu Á-Thái Bình Dương năng động”, Putin viết. Ông hình dung Nga sẽ lãnh đạo một khối hùng mạnh có khả năng cạnh tranh với Liên minh châu Âu ở phía tây và một Trung Quốc đang trỗi dậy ở phía đông.
Bài viết không chỉ nhắm đến công chúng Nga: Putin cũng đang cố gắng tuyển dụng các thành viên mới cho Liên minh Á-Âu của mình. Ông phải đối mặt với sự cạnh tranh về vấn đề này, vì một số quốc gia hậu Xô Viết đang để mắt đến tư cách thành viên tiềm năng trong Liên minh châu Âu. “Một số nước láng giềng của chúng tôi giải thích rằng họ không muốn tham gia vào các dự án hội nhập tiên tiến trong không gian hậu Xô Viết với lập luận rằng điều này được cho là xung đột với lựa chọn vào Liên minh châu Âu của họ”, Putin viết. Ông đã có giải pháp cho vấn đề đó: “Tôi coi đó là một sự phân đôi sai lầm. Chúng tôi không phải là bảo vệ bản thân khỏi bất kỳ ai hoặc chống lại bất kỳ ai. Liên minh Á-Âu sẽ được xây dựng trên các nguyên tắc hội nhập toàn cầu như một phần không thể tách rời của Châu Âu mở rộng, thống nhất bởi các giá trị chung về tự do, dân chủ và các nguyên tắc thị trường.”
Bài viết là một phần trong chương trình tiền bầu cử của Putin: vào thời điểm bài báo xuất hiện, ông đã công bố kế hoạch trở lại chức tổng thống. Khi ông làm như vậy vào tháng 5 năm 2012, việc tái hòa nhập Á-Âu đã trở thành một trong những mục tiêu chính của ông. Về mặt ý thức hệ, Liên minh Á-Âu đúng là sản phẩm của tư duy Á-Âu và tân Á-Âu, khi nó tìm cách tái hợp nhất không gian đế quốc Nga và Liên Xô cũ trên cơ sở xuyên quốc gia. Về mặt kinh tế, đó là một nỗ lực nhằm bảo đảm thị trường cho ngành công nghiệp Nga, vốn không có tính cạnh tranh toàn cầu, để ngăn chặn các cú sốc và khủng hoảng kinh tế trong tương lai. Để cạnh tranh hiệu quả với Liên minh châu Âu và một Trung Quốc đang trỗi dậy, Nga cần công nghệ mới, mà họ chỉ có thể có được từ phương Tây. Vì mục đích đó, Moscow đã tiến hành các cuộc đàm phán riêng với Liên minh Âu châu, ban đầu không can thiệp vào những nỗ lực tương tự từ phía Ukraine và các nước hậu Xô Viết khác.
Nhưng đến giữa năm 2013, rõ ràng là trong khi các cuộc đàm phán EU-Nga không hiệu quả, các thỏa thuận liên kết mà EU chuẩn bị cung cấp cho các quốc gia hậu Xô Viết không tương thích với tư cách thành viên tiềm năng của họ trong Liên minh Á-Âu. Khi Putin thúc ép các quốc gia hậu Xô Viết đang quan tâm đến các thỏa thuận liên kết với Liên minh Châu Âu từ bỏ kế hoạch của mình, Armenia, quốc gia vốn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Nga trong cuộc chiến với nước láng giềng Azerbaijan, đã riu ríu nghe lời, nhưng Georgia và Moldova thì không. Ukraine thấy mình dao động giữa Moscow và Brussels. Đối với Putin, Ukraine là chìa khóa – nếu không có nước cộng hòa hậu Xô Viết lớn thứ hai, Liên minh Á-Âu sẽ không thể thực hiện chức năng của mình như một “cực” của ông trong thế giới đương đại.
Tổng thống mới của Ukraine, Viktor Yanukovych, đã từ bỏ nhiều chính sách của người tiền nhiệm. Ông đã sử dụng các đồng minh và khách hàng của mình trong quốc hội để thay đổi hiến pháp và xóa bỏ các hạn chế về quyền lực của tổng thống đã được thông qua vào thời điểm Yushchenko tại chức. Những quyền hạn tổng thống được tăng cường này cho phép Yanukovych bắt tay vào việc hình thành các thiết chế của chế độ độc tài, tiếp theo là việc thành lập một hệ thống chính phủ cực kỳ tham nhũng đã rút hàng tỷ đô la từ ngân sách nhà nước bỏ vào các tài khoản bí mật do tổng thống, các thành viên trong gia đình ông, và các cố vấn và cộng sự thân cận nắm giữ. Trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, Yanukovych công khai tuyên bố rằng đất nước của ông đang từ bỏ các nguyện vọng vào NATO và quay trở lại vị thế không thuộc khối nào. Việc cho người Nga thuê căn cứ hải quân Sevastopol, được Yanukovych gia hạn thêm 25 năm, là một dấu hiệu khác cho thấy chính phủ mới đang quay lưng lại với Brussels để hướng tới Moscow.
Một trong số rất ít chính sách của Yushchenko vẫn nằm trong chương trình nghị sự của Yanukovych là việc thiết lập quan hệ kinh tế và thương mại chặt chẽ với Liên minh châu Âu, một thị trường lớn cho ngành luyện kim của Ukraine và các ngành kinh tế hướng đến xuất khẩu khác, tập trung vào vùng Donbas quê hương của Yanukovych. Các nhà tài phiệt ủng hộ ông, vì lo sợ sự cạnh tranh từ các đối tác Nga, muốn mở rộng thị trường châu Âu cho sản phẩm của mình. Họ cũng không bận tâm khi có EU làm đồng minh để kiểm soát khuynh hướng độc đoán ở Kyiv – quyền lực ngày càng tăng của Yanukovych và mong muốn chiếm đoạt tài sản của người khác gây ra mối đe dọa đối với lợi ích kinh doanh của họ.
EU lo ngại về cuộc tấn công của Yanukovych vào nền dân chủ và pháp quyền nhưng đã chuẩn bị đề nghị một thỏa thuận liên kết với Ukraine để đổi lấy việc thả các tù nhân chính trị, đặc biệt là cựu thủ tướng, Yulia Tymoshenko, người mà Yanukovych đã bỏ tù, thật mỉa mai, vì đã ký một thỏa thuận khí đốt với Nga gây tổn hại kinh tế. Yêu cầu chính của EU là tiếp tục cải cách thị trường. Đó là phần khó khăn đối với Yanukovych, vốn không muốn cải cách và đang phát triển một hệ thống thu tiền thuê mang tính tham nhũng. Nhưng ông và bộ hạ của mình hy vọng sẽ bắt chước các cải cách, bảo vệ lợi ích kinh doanh của họ khỏi Nga và thâm nhập vào thị trường châu Âu. Các cuộc thăm dò cho thấy rằng trong cuộc bầu cử tổng thống dự kiến vào năm 2015 Yanukovych sẽ thắng nếu ông thực hiện lời hứa đưa Ukraine vào liên kết với EU. Những cử tri ủng hộ dân chủ và tự do sẽ tha thứ cho ông phần còn lại.
Yanukovych do dự. Trong khi EU yêu cầu trả tự do cho Tymoshenko và cải cách, Moscow không yêu cầu gì cả. Nhưng họ đe dọa Yanukovych bằng lệnh phong tỏa kinh tế nếu ông ký thỏa thuận liên kết với EU. Để chứng minh rằng mình nói là làm, Putin đã bắt đầu một cuộc chiến thương mại hạn chế với Ukraine, cấm các sản phẩm của Ukraine vào Nga và khiến xuất khẩu của Ukraine giảm 10 phần trăm. Thiệt hại do Nga “thắt chặt” các quy định hải quan ước tính là 1,4 tỷ đô la. Moscow không chỉ có một cây gậy mà còn có một củ cà rốt trong kho vũ khí của mình. Putin đã đề nghị cho tiền nếu Ukraine không ký thỏa thuận được đề xuất với EU: số tiền sau đó sẽ được chỉ định là 15 tỷ đô la, một đường dây cứu sinh cho Yanukovych, người mà chế độ cai trị tham nhũng đã đưa Ukraine đến bờ vực sụp đổ tài chính. Yanukovych cuối cùng đã đưa ra lựa chọn của mình.
Vào tháng 11 năm 2013, Yanukovych đã chấp nhận lời mời tham dự hội nghị thượng đỉnh EU tại Vilnius, nơi ông được kỳ vọng sẽ ký thỏa thuận liên kết nhưng đột ngột từ chối. Phát biểu với đám bô hạ của mình, ông giải thích sự thay đổi đột ngột này là kết quả của cuộc trao đổi với Putin, người được cho là đã nói với ông rằng mình sẽ không bao giờ cho phép Liên minh châu Âu hoặc NATO chia sẻ biên giới với Nga. Nếu Yanukovych ký thỏa thuận EU, Putin đe dọa sẽ chiếm Crimea và một phần lớn Đông Nam Ukraine, bao gồm cả Donbas. Yanukovych, rõ ràng bị lung lay, quyết định từ bỏ thỏa thuận liên kết EU.
Yanukovych không nói với các đối tác châu Âu của mình về số tiền mà ông nhận được từ Nga. Khi ông đến thăm Putin tại Moscow vài tuần sau đó, tổng thống Nga đã thực hiện lời hứa của mình. Ông đã đề nghị với người đồng cấp Ukraine một mức giá chiết khấu cho khí đốt tự nhiên của Nga và một khoản vay 15 tỷ đô la. “Ukraine”, Putin tuyên bố, “chắc chắn là đối tác chiến lược và đồng minh của chúng tôi theo đúng nghĩa của từ này”. Dự án hội nhập Á-Âu vẫn còn tồn tại và phát triển, hay có vẻ như vậy vào thời điểm đó.
Cuộc cách mạng của phẩm giá
Vào thời điểm Yanukovych nhận được phần thưởng tài chính của mình ở Moscow, ông đã gặp rắc rối lớn ở Kyiv. Ngay khi chính phủ Ukraine công bố kết quả của hội nghị thượng đỉnh EU tại Vilnius cho Ukraine, những người thành thị trẻ ở Kyiv đã tụ tập tại Maidan, Quảng trường Độc lập của Kyiv, để phản đối việc Yanukovych từ chối ký thỏa thuận. Giống như phần lớn xã hội Ukraine, họ gắn liền hy vọng của mình với việc đưa các hoạt động kinh doanh và pháp lý của châu Âu vào Ukraine như những gì thỏa thuận đã hứa. Họ sớm được các sinh viên đến tham gia cắm trại biểu tình ở Maidan. Các cuộc biểu tình có tên Euromaidan ra đời, lên án những vi phạm lời hứa của Yanukovych về việc đưa người dân của mình đến gần hơn với châu Âu.
Các cuộc biểu tình Euromaidan đã biến thành cuộc cách mạng sau này được gọi là Cách mạng của Phẩm giá vào sáng sớm ngày 30 tháng 11, khi cảnh sát chống bạo động ra sức đánh đuổi sinh viên khỏi quảng trường. Vào ngày 1 tháng 12, hơn nửa triệu người Kyivan đã xuất hiện ở trung tâm thành phố để phản đối sự tàn bạo của cảnh sát. Người dân đã đến để bảo vệ sinh viên, nhưng cũng để bảo vệ xã hội trước chế độ độc tài tàn phá.
Vào ngày 11 tháng 12, cảnh sát chính quyền bắt đầu tấn công lều trại Maidan. Những người bảo vệ lều trại đã chống chọi được với áp lực, và các đơn vị cảnh sát phải rút lui. Cuộc tấn công của chính quyền vào người biểu tình diễn ra trong chuyến thăm Kyiv của trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, Victoria Nuland, ông đã đến Kyiv cùng với một đại diện EU, Catherine Ashton, với hy vọng hỗ trợ giải quyết cuộc khủng hoảng. Họ đã đến Maidan để bày tỏ sự ủng hộ đối với phe biểu tình.
Thời điểm diễn ra hoạt động của cảnh sát không phải là ngẫu nhiên. Trước hết và quan trọng nhất, nó nhằm gửi tín hiệu đến Washington rằng sự can thiệp của họ là không được hoan nghênh. Sau này, Putin sẽ nhắc đến chuyến thăm Maidan của Nuland như bằng chứng về vai trò của Hoa Kỳ trong việc kích động các cuộc biểu tình.
Chưa đầy một tuần sau, Yanukovych đã bay đến Moscow để nhận hối lộ của Putin vì đã không ký thỏa thuận liên kết với EU. Vào ngày 8 tháng 1 năm 2014, một ngày sau lễ Giáng sinh Chính thống giáo, Yanukovych lại bay đến Nga để gặp Putin một lần nữa.
Theo các báo cáo sau này, Nga đã giữ lại việc chuyển khoản tiếp theo của khoản vay 15 tỷ đô la cho đến khi các cuộc biểu tình được giải tán. Vào giữa tháng 1, quốc hội Ukraine, nơi những người ủng hộ Yanukovych chiếm đa số, đã thông qua cái gọi là luật độc tài cấm các hoạt động của các tổ chức phi chính phủ do phương Tây tài trợ và cấm một số hình thức biểu tình.
Nhưng Ukraine không phải là Nga. Thay vì đe dọa phe đối lập và người biểu tình phải khuất phục, luật mới càng đẩy sức phản kháng của người dân lên cao. Ở Kyiv, hàng chục ngàn người biểu tình đã xuất hiện trên đường phố, và thành phần cực đoan nhất trong số họ đã phá vỡ truyền thống biểu tình hòa bình để tấn công các tòa nhà chính phủ. Ở các tỉnh phía tây Ukraine, nơi phần lớn dân số ủng hộ Cách mạng Nhân phẩm, phe biểu tình bắt đầu kiểm soát các tòa nhà chính phủ. Yanukovych đã sử dụng cảnh sát chống lại người biểu tình ở Kyiv nhưng không thể làm gì nhiều đối với các diễn biến ở phía tây Ukraine, nơi các chính quyền địa phương đứng về phía người biểu tình.
Đến cuối tháng, Yanukovych bắt đầu chiến thuật rút lui. Quốc hội đã đảo ngược một số “luật độc tài”, và Yanukovych đã sa thải thủ tướng lâu năm của mình, Mykola Azarov, sinh ra và học tập ở Nga, người đã bị chỉ trích mạnh mẽ vì không có khả năng hoặc không muốn học tiếng Ukraine. Vào giữa tháng 2, chính phủ đã thả hơn 230 người biểu tình bị bắt trước đó và người biểu tình đã rời khỏi một số tòa nhà chính phủ mà họ đã chiếm giữ. Một sự thỏa hiệp đang được tiến hành, với mục tiêu trước mắt là thành lập một chính phủ mới và mục tiêu trung hạn là soạn thảo hiến pháp mới.
Nhưng cuộc hưu chiến giữa chính quyền và phe biểu tình đã sụp đổ vào ngày 18 tháng 2 năm 2014, khi hàng ngàn người biểu tình diễu hành về phía tòa nhà quốc hội Ukraine. Họ tấn công và phóng hỏa các trụ sở của Đảng các Khu vực đang cầm quyền của Yanukovych. Cảnh sát chống bạo động đã đáp trả bằng một cuộc tấn công toàn diện vào người biểu tình, bắn đạn thật, sử dụng hơi cay và đẩy đám đông trở lại Maidan. Trụ sở của phe biểu tình, Tòa nhà Hiệp hội Thương mại, đã bị đốt cháy bởi các đặc vụ An ninh, và cảnh sát đã chiếm được một phần quảng trường. Ít nhất 11 thường dân và 7 cảnh sát bị giết chết hoặc tử vong trong vụ hỏa hoạn. Chính phủ cũng thuê mướn các băng nhóm côn đồ nhằm khủng bố người biểu tình.
Bạo lực ngày 18 tháng 2 đã thay đổi tiến trình của Cách mạng Nhân phẩm và tiến trình chính trị của Ukraine nói chung. Các cuộc biểu tình ôn hòa của những năm 1990, Cách mạng Cam năm 2004 và những tháng đầu tiên của Cách mạng Nhân phẩm giờ đã thuộc về quá khứ. Vài ngày tiếp theo mang lại nhiều bạo lực hơn đáng kể khi phe biểu tình cố gắng giành lại Maidan nhưng đã hứng chịu hỏa lực từ lực lượng cảnh sát đặc nhiệm và những tay súng bắn tỉa mà lòng trung thành của họ vẫn chưa được xác định. Trong số những người bị giết bằng súng có 13 cảnh sát, nhưng số thương vong của họ không đáng kể so với 108 người biểu tình bị bắn chết vào ngày hôm đó.
Vào đêm ngày 20 tháng 2, trước sự chứng kiến của các bộ trưởng ngoại giao Pháp, Đức và Ba Lan, vừa bay đến Kyiv để làm trung gian cho cuộc khủng hoảng, Yanukovych đã đạt được một thỏa thuận với các lãnh đạo phe đối lập bao gồm việc thành lập một chính phủ mới, cuộc bầu cử tổng thống sớm và việc trở lại hiến pháp 2004, với quyền lực của tổng thống bị giảm bớt. Một đại diện của Nga, Vladimir Lukin, cũng có mặt. Một cựu đại sứ tại Hoa Kỳ, Lukin hiện là thanh tra nhân quyền tại đất nước mình. Ông đã từ chối ký kết thỏa thuận đã đạt được ở Kyiv, gợi ý rằng Putin sẽ không chấp thuận nó. Trước đó, trong cuộc khủng hoảng, vị đại diện Nga đã kêu gọi Yanukovych đè bẹp cuộc phản kháng hoặc đánh liều kêu gọi Nga can thiệp, lấy cớ để bảo vệ chủ quyền của Ukraine theo các điều khoản của Biên bản ghi nhớ Budapest.
Khi Yanukovych đàm phán với phe đối lập, quốc hội Ukraine đã bỏ phiếu thông qua một nghị quyết cấm sử dụng cảnh sát chống lại người biểu tình. Sau khi được thông qua, nghị quyết có hiệu lực vào sáng ngày 21 tháng 2. Đến giữa trưa, các đơn vị cảnh sát bắt đầu rời khỏi trung tâm thành phố Kyiv. Yanukovych cũng làm theo, rời khỏi khu phức hợp xa hoa của mình tại Mezhyhiria gần Kyiv vào cuối buổi tối. Ông nói với một trong những đồng minh thân cận của mình “rằng tính mạng của ông đang bị đe dọa; rằng có rất nhiều người có vũ trang ở Kyiv, nhiều nhóm đã thành lập, vì vậy ông phải rời khỏi Kyiv.” Một số người biểu tình trên Maidan đã từ chối chấp nhận thỏa thuận mà Yanukovych và các nhà lãnh đạo đối lập đã đạt được, và không còn cảnh sát nào bảo vệ ông nếu những người biểu tình quyết định xông vào tòa nhà tổng thống hoặc khu phức hợp Mezhyhiria.
Vào ngày 22 tháng 2, một ngày sau khi Yanukovych rời Kyiv, quốc hội, lúc này do phe đối lập lãnh đạo, đã bỏ phiếu bãi nhiệm Yanukovych khỏi chức vụ với lý do ông đã sao nhãng nhiệm vụ và từ bỏ chức vụ của mình.
Oleksandr Turchynov, một trong những nhà lãnh đạo phe đối lập và biểu tình Maidan, đã được bầu làm tổng thống lâm thời.
Một nhà lãnh đạo đối lập khác, Arsenii Yatseniuk, đã trở thành thủ tướng mới. Quốc hội đã bỏ phiếu bãi nhiệm Yanukovych bằng đa số phiếu đơn giản mà không cần viện dẫn thủ tục luận tội, vốn đòi hỏi phải có đa số hai phần ba, vì không đủ số đại biểu cần thiết.
Yanukovych từ chối từ chức hoặc trở về Kyiv. Vài ngày sau, ông rời khỏi đất nước.
Trên quảng trường Maidan tang lễ những người đã khuất và lễ kỷ niệm chiến thắng được tổ chức: cuộc cách mạng đã giành chiến thắng, một chính phủ mới đã được hình thành với lời cam kết sẽ ký thỏa thuận liên kết với EU, trong khi nhà độc tài đầy tham vọng đã đi sống lưu vong ở Nga, một chế độ chuyên chế Á-Âu đã yểm trợ ông ta trong suốt thời gian qua. Những người ở Maidan không hề biết rằng chuyến bay của Viktor Yanukovych từ Kyiv vào đêm ngày 21 tháng 2 năm 2014 đã khởi phát một chuỗi sự kiện dẫn đến việc Nga sáp nhập Crimea vài ngày sau đó, và sau đó lại trở thành ngòi nổ cho cuộc xung đột quân sự Nga-Ukraine, giai đoạn đầu tiên của cuộc chiến tranh toàn diện Nga-Ukraine.