Chiến tranh Nga- Ukraine (Bài 3)

SERHII PLOKHY

Trần Quang Nghĩa dịch

3 Vụ sụp nổ hạt nhân

Ukraine là một quốc gia độc lập được sinh ra với vũ khí hạt nhân, thừa hưởng từ Liên Xô kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba trên thế giới. Liên Xô đã triển khai gần 1.900 đầu đạn hạt nhân và khoảng 2.500 vũ khí hạt nhân chiến thuật trên lãnh thổ Ukraine. Những vũ khí đó đã gây ra một vấn đề lớn cho Hoa Kỳ: khi Liên Xô tan rã, Washington lo ngại rằng sự sụp đổ của Liên Xô có thể gây ra một cuộc nội chiến giữa các nước cộng hòa sở hữu vũ khí hạt nhân, tạo ra cái mà lúc đó được gọi là “Nam Tư có vũ khí hạt nhân”. Khả năng xảy ra chiến tranh giữa Nga và Ukraine trở nên không chỉ là lý thuyết khi quốc hội Nga tuyên bố rằng Crimea đã được chuyển giao bất hợp pháp cho Ukraine và sau đó tuyên bố thành phố Sevastopol ở Crimea thuộc về Liên bang Nga.

Nga muốn vũ khí hạt nhân của Ukraine được chuyển giao đến lãnh thổ của mình càng sớm càng tốt, điều này sẽ củng cố đáng kể yêu sách của họ đối với một phạm vi ảnh hưởng độc quyền trong không gian hậu Xô Viết. Ukraine không hề muốn tuân thủ. Họ không có quyền kiểm soát hoạt động đối với các loại vũ khí – các mật mã cần thiết để phóng tên lửa nằm ở Moscow – nhưng có quyền sở hữu vật lý và một số quan chức trong quốc hội và chính phủ Ukraine coi việc chuyển giao là không thể chấp nhận được về mặt chính trị. Lý do thì rõ ràng – yêu sách lãnh thổ của Nga đối với Crimea và có khả năng đối với các vùng lãnh thổ khác của Ukraine.

Lập trường của Ukraine về vũ khí hạt nhân đã phát triển theo thời gian. Kyiv bắt đầu sự nghiệp của mình trên trường quốc tế với tuyên bố chủ quyền vào năm 1990 với tư cách là người ủng hộ mạnh mẽ phi hạt nhân hóa vì hai lý do chính. Lý do đầu tiên là di sản của thảm họa hạt nhân Chernobyl năm 1986, thảm họa đã làm ô nhiễm một phần lớn lãnh thổ Ukraine và khiến quốc hội Ukraine thông qua luật cam kết tạm dừng xây dựng các nhà máy hạt nhân mới. Sau đó, người ta nhận ra rằng một cuộc tranh chấp với trung tâm Liên bang về quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân sẽ kéo dài và hỗn loạn, có thể trì hoãn tiến trình hướng tới độc lập hoàn toàn của Ukraine. Vào thời điểm đó, người ta cho rằng việc trao đổi vũ khí để công nhận nền độc lập của Ukraine và quyền thành lập lực lượng vũ trang của riêng mình là điều cần thiết. Tuyên bố về chủ quyền của Ukraine được quốc hội thông qua vào mùa hè năm 1990 đã cam kết Ukraine sẽ không có vũ khí hạt nhân.

Những nghi ngờ đầu tiên về cam kết đó xuất hiện vào mùa thu năm 1991, sau cuộc bỏ phiếu của quốc hội Ukraine về độc lập, vì phản ứng của Nga. Tuyên bố của Boris Yeltsin, do thư ký báo chí của ông, Pavel Voshchanov, đưa ra, chỉ ra rằng biên giới của Ukraine chỉ có thể được đảm bảo khi hợp nhất với Nga. Nhiều người ở Kyiv bắt đầu xem xét lại vấn đề hạt nhân. Volodymyr Filenko, một thành viên có ảnh hưởng của quốc hội Ukraine, đã nói với một nhà báo Anh vào tháng 9 năm 1991, “Hầu hết các nghị sĩ đều nghĩ rằng chúng tôi không thể chỉ cung cấp vũ khí cho Nga. Điều đó sẽ làm đảo lộn cán cân quyền lực giữa Nga và Ukraine.” Sau đó, ông nói thêm: “Chúng tôi sợ Nga, nếu bạn muốn biết. Chúng tôi đang đấu tranh giành độc lập khỏi Nga. Chúng tôi không thể nói là đang có mối đe dọa hạt nhân, nhưng gần đây họ đã nêu lên vấn đề lãnh thổ.”

Giới tinh hoa chính trị Ukraine phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan: cách nhanh nhất và có lẽ là cách khả thi duy nhất để giành được sự công nhận quốc tế về nền độc lập của Ukraine là từ bỏ vũ khí hạt nhân, nhưng cách hiệu quả nhất và có thể là cách hợp lý duy nhất  để đảm bảo sự trường tồn của đất nước là giữ lại chúng. Vào tháng 10 năm 1991, để đảm bảo sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với nền độc lập của Ukraine, quốc hội đã cam kết với tình trạng phi hạt nhân nhưng cũng tuyên bố quyền quyết định việc xử lý vũ khí hạt nhân trong tư cách là người có quyền sở hữu. “Ukraine nhấn mạnh quyền kiểm soát việc không sử dụng vũ khí hạt nhân nằm trên lãnh thổ của mình”, nghị quyết của quốc hội nêu rõ. Vào tháng 12 năm 1991, quốc hội đã bỏ phiếu phê chuẩn các văn bản thành lập Khối Thịnh vượng Chung các Nhà nước Độc lập với điều kiện Ukraine trở thành quốc gia phi hạt nhân bằng cách đảm bảo sự kiểm soát quốc tế đối với việc phá hủy vũ khí hạt nhân của mình.

Nút thắt Crimea

Tranh chấp lãnh thổ là dấu hiệu của sự tan rã đế quốc và sự sụp đổ của Liên Xô cũng không phải là ngoại lệ. Chính phủ Nga đã thách thức sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine ngay cả trước khi nước này trở nên độc lập một cách hợp pháp và rời khỏi Liên bằng Xô Viết. Thách thức đầu tiên đối với biên giới Ukraine đến từ chính phủ dân chủ của Nga ngay sau khi quốc hội Ukraine tuyên bố đất nước độc lập vào ngày 24 tháng 8 năm 1991. Hai ngày sau, người phát ngôn của tổng thống Nga, Pavel Voshchanov, đã đưa ra tuyên bố thay mặt cho cấp trên của mình.

“Trong những ngày gần đây nhất, chủ quyền nhà nước đã được tuyên bố và việc rút khỏi Liên Xô đã được công bố trong một loạt các nước cộng hòa Liên bang”, tuyên bố viết. “Về vấn đề đó, tôi đã được Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga trao quyền đưa ra tuyên bố sau. Liên bang Nga không nghi ngờ gì về quyền tự quyết theo hiến pháp của mọi quốc gia và dân tộc. Nhưng có vấn đề về biên giới, có thể cho thấy là chưa được quy định, một điều kiện chỉ được chấp nhận nếu có điều khoản về quan hệ Liên minh được bảo đảm bằng một hiệp ước thích hợp. Nếu các quan hệ bị bãi bỏ, Cộng hòa Liên bang Nga giữ quyền đặt ra vấn đề sửa đổi biên giới.”

Tuyên bố này được gửi đến mọi nước cộng hòa Xô Viết có thể tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô. Nhưng khi Voshchanov được các nhà báo yêu cầu nêu cụ thể hơn, ông đã chỉ đích danh Ukraine và Kazakhstan. “Nếu những nước cộng hòa đó gia nhập liên minh với Nga, thì không có vấn đề gì”, ông giải thích. “Nhưng nếu họ rút lui, thì chúng tôi phải quan tâm đến dân số sống ở đó và không được quên rằng những vùng đất đó đã được người Nga chiếm làm thuộc địa. Nga khó có thể đồng ý cho đi dễ dàng như vậy.” Cả Ukraine và Kazakhstan đều có cộng đồng thiểu số Nga đông đảo, và cả hai nước cộng hòa, toàn bộ Ukraine, và Kazakhstan ở vùng đất phía bắc, đều được xem là một phần của nhà nước Nga tương lai bởi một nhân vật chính có uy tín, Aleksandr Solzhenitsyn [nhà văn kịch liệt lên án tính vô nhân đạo của chế độ Liên Xô, từng đoạt giải Nobel Văn hoc 1970: ND], người có bài viết ủng hộ việc thành lập một nhà nước như vậy đã được các tờ báo lớn của Liên Xô đăng tải vào năm trước.

Kyiv và Almaty phản đối, buộc Yeltsin phải tách mình ra khỏi những phát biểu của Voshchanov. Phát ngôn viên được miêu tả là người đã mất kiểm soát và đưa ra quan điểm cá nhân  thay vì chính sách của chính quyền Yeltsin. Nhưng Voshchanov thực tế sẽ xây dựng chính sách mới của Liên bang Nga trong nhiều năm tới. Các hiệp ước công nhận biên giới của các nước cộng hòa Liên bang như hiệp ước đã ký giữa Nga và Ukraine năm 1990 chỉ được áp dụng nếu các nước cộng hòa, đặc biệt là Ukraine, vẫn liên minh chặt chẽ với Nga. Sự hiểu biết về ý nghĩa của liên minh đó sẽ thay đổi theo thời gian, từ Liên Xô của Gorbachev đến Khối Thịnh vượng Chung của Yeltsin và, cuối cùng, một số dự án Á-Âu do Putin cổ xúy. Các mô hình và nhà lãnh đạo đã thay đổi, nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: việc Nga công nhận toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia hậu Xô Viết sẽ có điều kiện là phải liên minh với Moscow.

Voshchanov sau đó nhớ lại rằng Donbas và Crimea là các vùng lãnh thổ của Ukraine mà giới lãnh đạo Nga lúc bấy giờ quan tâm. Bán đảo Crimea là vùng lãnh thổ mới nhất được thêm vào Ukraine, được chuyển từ Liên bang Nga sang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine năm 1954 vì lý do kinh tế, vì nền kinh tế của nước này không hoạt động hiệu quả nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với nền kinh tế của đất liền, tức là Ukraine.

Crimea trở thành khu vực duy nhất của Ukraine mà người Nga chiếm đa số, với 1.635.000 người vào năm 1989, so với 625.000 người Ukraine và 38.000 người Tatar Crimea. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1991, 54 phần trăm dân số của bán đảo ủng hộ nền độc lập của Ukraine. Số liệu tương tự ở khu vực Donetsk vùng Donbas là 77 phần trăm và, ở khu vực lân cận Luhansk là 85 phần trăm. Sự ủng hộ cho nền độc lập trong toàn bộ đất nước vượt quá 92 phần trăm. Crimea nổi lên như là khu vực dễ bị tổn thương nhất của Ukraine không chỉ vì sự ủng hộ ít phổ biến hơn cho nền độc lập mà còn vì nhiều người ở Nga, từ những người theo chủ nghĩa dân chủ đến những người theo chủ nghĩa cộng sản và dân tộc, tin rằng Nga có quyền lịch sử đối với bán đảo và nên đòi lại nó.

Bản đồ Crimea

Bản đồ vùng Donbas

Vào tháng 1 năm 1992, quốc hội Nga đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc chuyển giao Crimea từ Nga sang Ukraine. Nó đã thông qua một nghị quyết với mục đích để Ukraine dễ sai khiến hơn trong cuộc tranh chấp sẽ diễn ra về tương lai của Hạm đội Biển Đen của Liên Xô. Kyiv lập luận rằng hạm đội này cấu thành bộ phận của mình trong cơ sở hạ tầng quân sự của Liên Xô, với phần còn lại của Hải quân Liên Xô sẽ thuộc về Nga. Về phần mình, giới lãnh đạo Nga tuyên bố hạm đội này là một phần của lực lượng chiến lược của mình, được đặt dưới sự chỉ huy chung (trên thực tế là của Nga). Yêu sách của Nga được đưa ra một cách ngầm hiểu không chỉ liên quan đến hải quân mà còn liên quan đến căn cứ của nó là thành phố Sevastopol ở Crimea.

Trong khi Yeltsin và chính phủ của ông không ủng hộ nghị quyết của quốc hội, Yeltsin đã đồng ý với một số đồng minh chủ chốt của mình, chẳng hạn như Anatolii Sobchak, thị trưởng St. Petersburg và là cấp trên của Putin vào thời điểm đó, rằng Hạm đội Biển Đen phải vẫn là của Nga bất kể Ukraine và ban lãnh đạo của họ có thể có lập trường như thế nào. Trước khi kết thúc tháng, Yeltsin đã bay đến cảng Novorossiysk của Nga để gặp chỉ huy Hạm đội Biển Đen, Đô đốc Igor Kasatonov, trên tàu tuần dương Moskva [con tàu này sẽ bị tên lửa Ukraine đánh chìm 30 năm sau trong cuộc chiến tranh Nga-Ukraine]. Mục đích của chuyến thăm là để chứng minh quyết tâm của Moscow trong việc giữ hạm đội dưới quyền tài phán của mình.

Yeltsin và các cố vấn của mình theo một kế hoạch do Vladimir Lukin, đại sứ đầu tiên của Nga độc lập tại Hoa Kỳ đề xuất. Trước khi lên đường đến Washington năm 1992, Lukin đã viết một đề xuất rằng vấn đề chủ quyền của Crimea sẽ được sử dụng để làm suy yếu vị thế của Ukraine tại các cuộc đàm phán về tương lai của Hạm đội Biển Đen.

Vào tháng 4 năm 1992, sau khi Tổng thống Leonid Kravchuk nắm quyền kiểm soát quân đội Liên Xô cũ trên lãnh thổ Ukraine, Yeltsin đã ban hành sắc lệnh đặt Hạm đội Biển Đen dưới quyền chỉ huy của mình. Phó tổng thống của Yeltsin, Aleksandr Rutskoi, đã đến thăm Crimea và đứng về phía quốc hội Nga, tuyên bố rằng việc chuyển giao Crimea cho Ukraine năm 1954 phải được đảo ngược. “Lý lẽ thường tình chỉ ra rằng Crimea phải trở thành một phần của Nga”, Rutskoi tuyên bố.

“Những người ký vào quyết định năm 1954 [nhường Crimea cho Cộng hòa Ukraine] rõ ràng là say xỉn hoặc say nắng.” Ông tuyên bố rằng Hạm đội Biển Đen là và sẽ vẫn là của Nga, trong khi cố vấn của Yeltsin là Sergei Stankevich đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc chuyển giao năm 1954.

Sự chuyển giao đó đã diễn ra cùng với một chiến dịch tuyên truyền đánh dấu kỷ niệm 300 năm “Sự thống nhất của Ukraine với Nga”, cụm từ được sử dụng vào thời điểm đó để chỉ việc thủ lĩnh Cossack người Ukraine Bohdan Khmelnytsky chấp nhận chế độ bảo hộ của sa hoàng Nga. Ông này đã tuyên thệ trung thành với Sa hoàng Aleksei Romanov tại thành phố Pereiaslav của Ukraine vào tháng 1 năm 1654. Mô hình thống nhất Liên Xô được mượn từ thời đế quốc, và ở Crimea, nó đã làm nổi bật một huyền thoại lâu đời khác có nguồn gốc đế quốc mạnh mẽ—đó là huyền thoại Sevastopol như một thành phố vinh quang của Nga, sinh ra từ cuộc phòng thủ anh hùng của thành phố này trong Chiến tranh Crimea năm 1853–56 với Liên minh Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ. Hai huyền thoại này bổ sung cho nhau trong câu chuyện lấy Nga làm trung tâm thống trị của thời kỳ Liên Xô nhưng đã xung đột nhau sau khi Ukraine rời khỏi quỹ đạo của Nga.

Căng thẳng về Crimea đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 5 năm 1992, khi quốc hội Crimea – vùng Crimea đã trở thành cộng hòa tự trị trong Ukraine,  và mới năm ngoái có quốc hội riêng – tuyên bố cộng hòa là một nhà nước theo đúng nghĩa của nó. Tuyên bố rằng Crimea sẽ xác định mối quan hệ của mình với Ukraine trên cơ sở một hiệp ước liên minh, quốc hội thông qua một hiến pháp và ấn định ngày trưng cầu dân ý về nền độc lập của Crimea. Sáng kiến ​​này được các lực lượng dân tộc chủ nghĩa ở Nga ủng hộ, và trong cùng tháng đó, quốc hội Nga đã khiến tình hình trầm trọng thêm khi tuyên bố rằng việc chuyển giao bán đảo cho Ukraine vào năm 1954 là bất hợp pháp và đề xuất Ukraine tham gia đàm phán về tình trạng của Crimea.

Kyiv phản công trên hai mặt trận, bên trong và bên ngoài. Quốc hội Ukraine từ chối đàm phán, lên án đề nghị của Moscow là sự can thiệp vào công việc nội bộ của Ukraine. Trong khi đó, chính phủ Ukraine đã thuyết phục chính quyền Crimea sửa đổi hiến pháp và hủy bỏ cuộc trưng cầu dân ý được đề xuất. Xung đột pháp lý đã được giải quyết mà không cần sử dụng vũ lực, điều này khác với tình hình ở nước láng giềng Moldova, một cộng hòa cũ của Liên bang Xô Viết và tuyên bố độc lập và được Nga công nhận vào cuối năm 1991. Ở đó, xung đột giữa những người ly khai thân Nga ở vùng Transnistria đã dẫn đến chiến tranh công khai liên quan đến quân đội Nga và dẫn đến sự tách biệt trên thực tế của vùng đất này khỏi Moldova. Nhưng căng thẳng trong và xung quanh Crimea không hề giảm bớt. Ở Nga, chúng đã trở thành một phần của cuộc chiến giữa quốc hội và tổng thống.

Vào tháng 7 năm 1993, quốc hội Nga đã thông qua một nghị quyết tuyên bố thành phố Sevastopol, căn cứ của Hạm đội Biển Đen, là một phần lãnh thổ và quyền tài phán của Liên bang Nga. “Tôi xấu hổ về quyết định của quốc hội”, Boris Yeltsin nói để đáp lại, và nói thêm: “Suy cho cùng, chúng ta không thể bắt đầu một cuộc chiến tranh với Ukraine.” Vào tháng sau, Yeltsin đã gặp Kravchuk tại khu nghỉ dưỡng Massandra ở Crimea, nơi hai vị tổng thống thảo luận về tương lai của Hạm đội Biển Đen cũng như khoản nợ ngày càng tăng của Ukraine đối với Nga về nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên. Người Ukraine bị đe dọa sẽ bị cắt nguồn khí đốt trừ khi họ “bán” phần hạm đội của mình cho Nga để trả nợ. Kravchuk cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận “lời đề nghị”, nhưng quốc hội Ukraine từ chối phê chuẩn một thỏa thuận được thực hiện dưới sự ép buộc.

Hiệp định Massandra đã giúp Yeltsin chủ động giải quyết các vấn đề của Hạm đội Biển Đen và Crimea khỏi tay quốc hội chỉ vài tuần trước khi ông ra lệnh cho xe tăng của mình bắn vào tòa nhà quốc hội Nga.

Nhưng các hiệp định này không thúc đẩy được giải pháp. Chiến thắng của các lực lượng cộng sản và dân tộc chủ nghĩa được bổ sung vào Duma mới trong cuộc bầu cử mùa thu năm 1993 đã cổ xúy mạnh hơn phong trào ly khai ở Crimea. Năm 1994, Crimea có được một tổng thống riêng, Yurii Meshkov, người đã đưa vấn đề độc lập của Crimea trở lại chương trình nghị sự chính trị, đề xuất một cuộc trưng cầu dân ý mới. Cuối năm đó, hội đồng thành phố Sevastopol, nơi vẫn là căn cứ của Hạm đội Biển Đen và phụ thuộc vào Moscow để thanh toán các hóa đơn, đã bỏ phiếu chấp nhận quyền tài phán của Nga đối với thành phố.

Cuộc khủng hoảng Crimea đã được giải quyết phần lớn là do nền dân chủ Ukraine vẫn tiếp tục hoạt động. Sự thay đổi tổng thống ở Kyiv do kết quả của cuộc bầu cử năm 1994 đã đưa ra một ứng cử viên được cử tri Crimea ủng hộ mạnh mẽ. Leonid Kuchma đã nhận được 90 phần trăm phiếu bầu ở Crimea nói chung và 92 phần trăm ở Sevastopol. Kuchma, một người nói tiếng Nga đến từ vùng đông nam công nghiệp của Ukraine, đã đảm bảo với người sắc tộc Nga trên bán đảo rằng quyền ngôn ngữ và văn hóa của họ sẽ được chính quyền trung ương bảo vệ. Các quan chức Ukraine đã đạt được một thỏa thuận chia sẻ quyền lực không chính thức với các nhà lãnh đạo quốc hội Crimea, những người đã bãi bỏ chức vụ tổng thống Crimea và đồng ý điều chỉnh hiến pháp và luật pháp của họ với Ukraine.

Căng thẳng ở Crimea đã không bùng nổ thành nội chiến cũng vì Nga từ chối lợi dụng những người trung thành của mình trong Hạm đội Biển Đen để can thiệp vào phe ly khai, như đã làm ở Moldova. Có một số lý do khiến Yeltsin miễn cưỡng chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa ly khai của Crimea. Việc ly khai của Crimea sẽ được coi là một sự nhượng bộ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc và cộng sản trong quốc hội Nga, có thể khiến các vùng tự trị của Nga thêm bạo dạn và cung cấp cho họ cơ sở pháp lý để noi theo gương của Crimea – điều này đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp của Tatarstan. Cũng quan trọng không kém, sự ủng hộ của Nga cho nền độc lập của Crimea và sự hội nhập thực tế vào Liên bang Nga sẽ gây nguy hiểm cho những nỗ lực của chính quyền Yeltsin nhằm củng cố mối quan hệ với Hoa Kỳ. Điều này liên quan đến những nỗ lực chung của Moscow và Washington nhằm thuyết phục Ukraine từ bỏ kho vũ khí hạt nhân mà họ thừa hưởng từ Liên Xô.

Bản ghi nhớ Budapest

Kể từ khi tuyên bố độc lập, Kyiv đã sẵn sàng chấp nhận một quy chế phi hạt nhân của Ukraine nhưng không chuyển giao vũ khí hạt nhân của mình cho Nga mà không có sự đảm bảo rằng chúng sẽ bị phá hủy và không được sử dụng để chống lại Nga. Vào tháng 3 năm 1992, khi căng thẳng về quyền kiểm soát Hạm đội Biển Đen bắt đầu gia tăng, Tổng thống Kravchuk đã ra lệnh dừng chuyển giao vũ khí hạt nhân chiến thuật cho Nga, gây ra sự nghi ngờ và lo ngại không chỉ ở Moscow mà còn ở Washington. Việc chuyển giao chỉ được tiếp tục sau khi người Ukraine được phép quan sát việc phá hủy vũ khí của họ trên lãnh thổ Nga.

Vào tháng 5 năm 1992, dưới áp lực nặng nề của Mỹ, Leonid Kravchuk đã ký Nghị định thư Lisbon, cam kết Ukraine sẽ tham gia Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân. Nghị định thư này cũng khiến Ukraine, cùng với Nga, Belarus và Kazakhstan—ba nước cộng hòa hậu Xô Viết khác có vũ khí hạt nhân—trở thành bên ký kết START-I, một hiệp ước Liên Xô-Mỹ năm 1991 về việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân. Nhưng việc ký kết nghị định thư trùng với việc gia tăng căng thẳng khác giữa Nga và Ukraine về vấn đề Crimea, khiến quốc hội Ukraine không hề sẵn lòng phê chuẩn Nghị định thư Lisbon. Việc phê chuẩn START-I cũng  gặp khó khăn vào tháng 7 năm 1993, sau khi Duma Nga tuyên bố Sevastopol là lãnh thổ của Nga. Những nỗ lực của Yeltsin nhằm buộc Ukraine từ bỏ vũ khí hạt nhân, cũng như các yêu sách của nước này đối với Hạm đội Biển Đen, để đổi lấy việc xóa nợ khí đốt tự nhiên cho Moscow đã bị quốc hội Ukraine bác bỏ. Căng thẳng càng gia tăng về Crimea, thì Ukraine càng muốn nắm giữ vũ khí nhiều hơn.

Tại Hoa Kỳ, Tổng thống George H. W. Bush đã dành năm cuối cùng của nhiệm kỳ, 1992, để tiếp tục con đường mà ông đã vạch ra trong những ngày tháng suy tàn của Liên Xô: Ukraine và các nước cộng hòa hậu Xô Viết khác phải giải giáp và gửi kho vũ khí hạt nhân của họ đến Nga, bất kể họ có muốn làm như vậy hay không. Nhưng lễ nhậm chức của Bill Clinton vào tháng 1 năm 1993 đã mở ra cánh cửa để xem xét lại chính sách đó, giá như để cố gắng tìm hiểu nguyên nhân chống đối của Ukraine và cuối cùng là vượt qua nó.

Vài tháng sau khi Clinton nhậm chức tổng thống, nhà khoa học chính trị và chuyên gia quan hệ quốc tế nổi tiếng John Mearsheimer đã cho đăng một bài viết trong tờ Foreign Affairs, lập luận rằng Ukraine nên được khuyến khích giữ lại vũ khí hạt nhân, không bị ép buộc  phải từ bỏ chúng. Theo quan điểm của Mearsheimer đó là cách hiệu quả nhất để ngăn chặn một cuộc chiến Nga-Ukraine mà ông mô tả như một “thảm họa” có thể dẫn đến việc tái chiếm Ukraine và “tác hại đến triển vọng hòa bình trên khắp Châu Âu.” Ông ấy lập luận: “Vũ khí hạt nhân Ukraine là thứ duy nhất đáng tin cậy để ngăn chặn Nga xâm lược. Nếu mục tiêu của Hoa Kỳ là để tăng cường sự ổn định ở Châu Âu, việc chống lại một Ukraine có vũ khí hạt nhân là không thuyết phục.”

Clinton và các cố vấn của ông không sẵn sàng nghe theo lời khuyên của Mearsheimer nhưng lại quan tâm hơn đến những lo ngại của Ukraine. Washington công nhận quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của Ukraine trên lãnh thổ của mình và đồng ý thảo luận về việc bồi thường tài chính cho việc loại bỏ chúng. Khi nói đến các mối quan ngại về an ninh, chính quyền đã chuẩn bị xem xét khả năng cung cấp cho Ukraine các đảm bảo an ninh. Quan trọng hơn, cuối cùng công nhận mối quan tâm an ninh chính của Ukraine là Nga, Washington đã thay Moscow làm nhà đàm phán dẫn dắt trong các cuộc đàm phán ba bên về giải trừ vũ khí hạt nhân của Ukraine.

Cách tiếp cận mới đã có hiệu quả. Trước khi kết thúc năm 1993, Washington và Kyiv đã đạt được đồng thuận trên nguyên tắc về các điều kiện phi hạt nhân hóa của Ukraine.

Theo thỏa thuận mới, Hoa Kỳ đồng ý bồi thường cho các vũ khí của Ukraine với số tiền là một tỷ đô la. Hoa Kỳ và Nga cùng cam kết cung cấp cho các nhà máy hạt nhân của Ukraine nhiên liệu được sản xuất từ ​​các đầu đạn hạt nhân Ukraine đã được tháo dỡ. Họ cũng đồng ý đảm bảo về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Đây là nền tảng của hiệp ước Hoa Kỳ-Nga-Ukraine về phi hạt nhân hóa Ukraine, được ký vào tháng 1 năm 1994. Vào tháng 2 năm 1994, quốc hội Ukraine đã phê chuẩn Nghị định thư Lisbon và vào tháng 11 năm đó đã bỏ phiếu cho phép Ukraine gia nhập Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân (NPT) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân.

Vào tháng 12 năm 1994, Clinton và Kuchma đã ký Bản ghi nhớ Budapest về các đảm bảo an ninh sẽ được cung cấp cho Ukraine bởi Hoa Kỳ, Nga và Vương quốc Anh. Trung Quốc và Pháp sau đó đã thêm chữ ký của họ vào văn kiện. Các văn kiện tương tự đã được ký bởi các nhà lãnh đạo của Belarus và Kazakhstan, hai nước cộng hòa hậu Xô Viết khác sẽ được phi hạt nhân hóa. Những người bảo lãnh đã hứa sẽ “tôn trọng độc lập và chủ quyền và biên giới hiện tại của Ukraine” và “kiềm chế không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của Ukraine, và không một loại vũ khí nào của họ sẽ được sử dụng chống lại Ukraine.”

Vấn đề là không có cam kết bảo vệ Ukraine trong trường hợp các lời hứa bị phá vỡ và Ukraine bị tấn công. Nếu có một cuộc tấn công hạt nhân vào Ukraine, những người bảo lãnh đã hứa “sẽ tìm kiếm hành động đáp trả ngay lập tức của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để cung cấp hỗ trợ cho Ukraine”. Họ cũng hứa sẽ tham vấn “trong trường hợp có tình huống phát sinh làm nảy sinh câu hỏi liên quan đến những cam kết này”. Đó là một sự thay thế tồi tệ cho việc bảo đảm sắt đá mà người Ukraine yêu cầu, nhưng đó là kết quả tối đa mà họ có thể đạt được sau các cuộc đàm phán kéo dài.

Tổng thống Kuchma và các cố vấn của ông hy vọng vào điều tốt nhất nhưng không có nhiều ảo tưởng. “Nếu ngày mai Nga tiến vào Crimea, sẽ chẳng ai buồn nhíu mày”, Kuchma tuyên bố, ông là cựu giám đốc nhà máy tên lửa lớn nhất châu Âu và là người ủng hộ ý tưởng Ukraine nên từ bỏ vũ khí hạt nhân nêu ra trong START-I nhưng giữ  lại phần vũ khí còn lại cho an ninh của chính mình. Tại sao Kuchma, trước mọi người khác, lại quyết định chấp nhận thỏa thuận mới do Washington đưa ra? Lý do rất đơn giản: ông đã quay trở lại lập trường trước khi giành được độc lập mà các chính trị gia Ukraine đã áp dụng. Một lần nữa, việc loại bỏ vũ khí đã trở thành cách chắc chắn nhất để bảo đảm nền độc lập của Ukraine và sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Nền độc lập đã bị đe dọa vào năm 1993, không chỉ vì căng thẳng liên tục giữa Ukraine với Nga và áp lực từ Hoa Kỳ mà còn vì sự sụp đổ thực sự của nền kinh tế Ukraine: vào năm 1994, năm mà  Bản ghi nhớ Budapest được ký kết, Ukraine mất gần một phần tư GDP.

Bản ghi nhớ Budapest đã lấp đầy khoảng trống được tạo ra trong an ninh của Ukraine do việc giải trừ vũ khí hạt nhân bắt buộc bằng những lời hứa từ các cường quốc hạt nhân. Khoảng trống này ngày càng rộng hơn cho đến khi, ba thập kỷ sau, cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine đã phơi bày sự không hiệu quả của những lời đảm bảo được đưa ra bởi Bản ghi nhớ Budapest và các hiệp ước đi kèm. Nhưng khi các hiệp ước được ký kết, chúng đã thực hiện một chức năng quan trọng đối với Ukraine, ổn định nền kinh tế và quyền tự chủ.

Viện trợ tài chính của Mỹ bắt đầu được chuyển đến Ukraine ngay sau khi Clinton, Yeltsin và Kravchuk ký Hiệp định ba bên về giải trừ vũ khí hạt nhân vào tháng 1 năm 1994. Việc giải quyết vấn đề hạt nhân cũng giúp Kuchma ổn định tình hình ở Crimea, vì Yeltsin hiện có ít động lực hơn để ủng hộ chủ nghĩa ly khai của Nga ở đó và ở vị thế mạnh hơn để ngăn chặn những nỗ lực như vậy từ phía quốc hội Nga.

Vào tháng 5 năm 1997, Kuchma và Yeltsin đã ký Hiệp ước hữu nghị theo đó Nga công nhận toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, hiện nằm trong biên giới hậu Xô Viết của nước này. Hiệp ước này đi kèm với một số thỏa thuận giải quyết tranh chấp lâu dài về tương lai của Hạm đội Biển Đen và căn cứ hải quân của Hạm đội này tại Sevastopol. Kyiv đồng ý chuyển giao cho Nga hầu hết lực lượng hải quân thời Liên Xô, chỉ giữ lại 18 phần trăm số tàu, và cho Nga thuê căn cứ hải quân Sevastopol trong 20 năm. Năm 2014, việc kiểm soát căn cứ Sevastopol sẽ cho phép Vladimir Putin tiếp quản toàn bộ bán đảo trong vài ngày, nhưng vào thời điểm đó Kyiv không làm được gì tốt hơn trong các cuộc đàm phán của họ với Nga. Chúng không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yêu sách lãnh thổ của Nga mà còn bởi sự phụ thuộc liên tục của Ukraine vào dầu khí của Nga. Ukraine không thể trả giá cao cho các mặt hàng đó một cách đầy đủ và đúng hạn.

Bản ghi nhớ Budapest năm 1994 và Hiệp ước Hữu nghị năm 1997 đã giúp Ukraine được cả Nga và Hoa Kỳ cam kết trên giấy tờ về các nguyên tắc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Nhưng phải mất hai năm để quốc hội Nga phê chuẩn Hiệp ước Hữu nghị trước sự phản đối mạnh mẽ từ các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và dân túy. Nhưng không có nhiều thành viên chính phủ Ukraine coi một trong hai hiệp ước, hoặc cả hai, là đủ để đảm bảo an ninh cho Ukraine. Với đầu đạn hạt nhân cuối cùng rời khỏi lãnh thổ của họ vào năm 1996, người Ukraine bắt đầu tìm kiếm một sự thay thế để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn của họ.

Sự thay thế duy nhất mà họ có thể mong đợi là Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Vài tháng sau khi Ukraine cuối cùng cũng ký được Hiệp ước Hữu nghị với Nga, hai trong số các nước láng giềng phía tây, Ba Lan và Cộng hòa Séc, được mời tham gia liên minh NATO, giải quyết “vấn đề Nga” của họ.

Quan hệ đối tác vì hòa bình

Vào buổi tối ngày 21 tháng 4 năm 1993, Tổng thống Clinton đã đến muộn  cho bài phát biểu tại buổi tiếp tân trong lễ khai mạc Bảo tàng tưởng niệm Holocaust của Hoa Kỳ. Ông không phải là người duy nhất khiến các vị khách quý phải chờ đợi vào buổi tối hôm đó. Cùng với ông là một số nhà lãnh đạo của các quốc gia Đông Âu đã đến muộn để tham dự sự kiện này. “Tôi đã dành rất nhiều thời gian để nói chuyện với các nhà lãnh đạo thế giới về những vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm và có liên quan mật thiết đến sự kiện đã đưa tất cả các bạn đến đây hôm nay”, Clinton giải thích. Tất nhiên, sự kiện này là để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc diệt chủng Holocaust; “những vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm” là yêu cầu của các nước Đông Âu mở cửa NATO cho các quốc gia của họ.

Một trong những nhà lãnh đạo đó là Lech Wałęsa, tổng thống Ba Lan và cựu lãnh đạo phong trào Đoàn kết ở quốc gia đó. Ông đã thúc đẩy để nước mình trở thành thành viên của liên minh.

“Sau nhiều thập kỷ bị Liên Xô thống trị, tất cả chúng ta đều sợ Nga”, Wałęsa nói với Clinton. “Nếu Nga lại áp dụng chính sách đối ngoại hung hăng, thì hành động xâm lược này sẽ nhắm vào Ukraine và Ba Lan. Chúng ta cần nước Mỹ để ngăn chặn điều này”. Wałęsa không chỉ nói về đất nước của mình mà còn nói về hai thành viên khác của Nhóm Visegrad, Hungary và Slovakia, những nước đã đồng ý phối hợp các nỗ lực của họ để gia nhập các thể chế phương Tây. Một nhà bất đồng chính kiến ​​chống cộng khác, khi đó là tổng thống Cộng hòa Séc, Vaclav Havel, đã nói với Clinton trong một dịp khác rằng đất nước mình như đang “sống trong chân không” trước khi nói thêm: “đó là lý do tại sao chúng tôi muốn gia nhập NATO.”

Người Đông Âu đã gõ cửa NATO từ đầu năm 1990, khi vấn đề mở rộng về phía đông của khối này được nêu ra trong bối cảnh đàm phán về việc thống nhất nước Đức.

Trong quá trình đàm phán đó, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, James Baker, đã hỏi Gorbachev: “Ông muốn thấy một nước Đức thống nhất bên ngoài NATO, độc lập và không có lực lượng Hoa Kỳ, hay ông muốn một nước Đức thống nhất gắn liền với NATO, với đảm bảo rằng thẩm quyền của NATO sẽ không dịch chuyển một phân về phía đông so với vị trí hiện tại?” Gorbachev phản đối bất kỳ sự mở rộng nào của “khu vực NATO”. Cuối cùng, thỏa thuận chỉ giới hạn ở việc thống nhất nước Đức. Thỏa thuận cuối cùng, được ký kết vào tháng 9 năm 1990, cho phép nước Đức mới thống nhất gia nhập NATO mà không cần di chuyển cơ sở hạ tầng của NATO vào phía đông của đất nước.

Vào tháng 3 năm 1990, đại diện của Slovakia, Ba Lan và Hungary chỉ trích Điện Kremlin vì phản đối việc mở rộng NATO về phía đông, và vào tháng 5, Gorbachev đã cảnh báo người Mỹ rằng ông biết về sự ủng hộ của họ đối với nguyện vọng của các cựu vệ tinh của Moscow muốn gia nhập liên minh. Tổng thống Bush thực sự đã từ chối xác nhận lập trường của Baker trong các cuộc đàm phán, nhưng ông cũng không nhượng bộ bất kỳ mong muốn nào của Liên Xô hoặc các đồng minh cũ của Liên Xô. Gorbachev sau đó thừa nhận rằng tuyên bố của Baker chỉ được đưa ra trong bối cảnh đàm phán về Đức. Nhưng điều đó đã không ngăn cản các nhà lãnh đạo Nga, bao gồm Putin, sử dụng lời của Baker làm “bằng chứng” cho thấy NATO đã đồng ý không mở rộng ra ngoài miền đông nước Đức.

Mối quan ngại về sự phản đối của Liên Xô và sau đó là Nga đối với tư cách thành viên NATO của các nước Đông Âu là yếu tố chính khiến Tổng thống George H. W. Bush từ chối cân nhắc việc NATO mở rộng ra ngoài biên giới phía đông của Đức, mặc dù ông vẫn khăng khăng giữ tổ chức này tồn tại sau Chiến tranh Lạnh. Đây cũng là lý do chính khiến nhiều thành viên của chính quyền Clinton từ chối lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo Đông Âu gia nhập liên minh. Đến năm 1993, có thêm một lý do nữa để đặt câu hỏi về sự mở rộng như vậy. Lý do đó là Ukraine hoặc cụ thể hơn là việc phi hạt nhân hóa của nước này. Ngoại trưởng của Clinton, Warren Christopher, đã đưa ra công thức về vấn đề Ukraine như sau: “Thật khó để thấy Ukraine có thể chấp nhận làm vùng đệm giữa NATO, Châu Âu và Nga. Điều này sẽ cản trở nỗ lực của chúng ta nhằm loại bỏ vũ khí hạt nhân của Ukraine.”

Mối liên hệ trực tiếp giữa vũ khí hạt nhân và mong muốn tư cách thành viên của NATO cho các nước Đông Âu đã được chứng minh vào năm 1992, khi một số quan chức Ba Lan đề xuất với các đối tác người Mỹ của họ rằng họ sẽ mua vũ khí hạt nhân nếu không được phép gia nhập NATO. Triển vọng về một  Ba Lan vũ trang hạt nhân đối mặt với một nước Nga mới hung hăng khiến nhiều người ở Washington sợ hãi, và một số người đã chuẩn bị cung cấp tư cách thành viên NATO cho người Ukraine như một củ cà rốt để từ bỏ kho vũ khí hạt nhân của họ. Sợ hãi trước khả năng mất vũ khí của họ trong khi bị kẹt trong vùng xám giữa NATO và Nga, các nhà ngoại giao Ukraine đã cố gắng nhảy vào đoàn tàu Đông Âu để tham gia liên minh. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Borys Tarasiuk, tuyên bố rằng sẽ “không thể chấp nhận được khi NATO mở rộng mà không có Ukraine trở thành thành viên chính thức.”

Vào tháng 4 năm 1993, khi Clinton gặp Wałęsa và Havel tại Washington, và cả hai nhà lãnh đạo đều nêu vấn đề về tư cách thành viên NATO, tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu suy nghĩ lại về các chính sách thận trọng hơn của người tiền nhiệm. Nhưng có hai trở ngại chính trên con đường Đông Âu đến với liên minh. Một là sự phản đối từ Nga; mối lo ngại còn lại là về Ukraine, quốc gia vẫn giữ lại vũ khí hạt nhân và vô cùng lo ngại về việc thấy mình ở trong vùng đất không có ai kiểm soát giữa NATO và Nga.

Sự phản đối của Nga đối với việc mở rộng NATO đã gây ra một vấn đề, nhưng chính quyền Clinton cũng lo ngại rằng bất kể Yeltsin có lập trường như thế nào, việc mở rộng như vậy sẽ khuyến khích những người trong nước chỉ trích ông. “Nếu NATO áp dụng một lý lẽ chống Nga để tiếp nhận các thành viên mới, nó có thể làm thay đổi cán cân quyền lực trong chính trường Nga theo đúng hướng mà chúng tôi … sợ nhất”, Strobe Talbott, người đại diện của Clinton về Nga và Đông Âu, đã viết.

Bước đột phá về Nga diễn ra vào tháng 8 năm 1993, khi Wałęsa đạt được một thỏa thuận không chính thức với Yeltsin đảm bảo tư cách thành viên của Ba Lan trong NATO với cái giá phải trả là Ukraine. Các điều khoản là Nga sẽ không phản đối đơn xin gia nhập liên minh của Ba Lan, và đổi lại Ba Lan sẽ không can dự vào các vấn đề của Ukraine trừ khi có một cuộc khủng hoảng quân sự ở Ukraine. Mặc dù rất không chính thức, thỏa thuận đã được duy trì: Nga không đưa ra phản đối việc các nước Đông Âu tham gia liên minh, nhưng ranh giới đã được vạch ra tại biên giới Ukraine.

Với Nga dường như đang ở thế bị động, vấn đề chính đối với Washington chính là Ukraine. Talbott đã xây dựng nhiệm vụ của Washington đối với Ukraine như sau: “Chúng ta phải cẩn thận để không phải thực hiện điều này theo cách khiến Ukraine cảm thấy bị bỏ rơi trong giá lạnh với người hàng xóm lông lá ở phía bắc.”

Vấn đề Ukraine của Washington đã sớm được giải quyết bằng việc thành lập Chương trình Đối tác vì Hòa bình của NATO, mở cửa cho tất cả các nước Đông Âu, bao gồm cả Ukraine và Nga. Đây là phản hồi của Clinton đối với bức thư của Yeltsin vào tháng 9 năm 1993, được viết ngay sau khi Yeltsin thực hiện thỏa thuận với Wałęsa, trong đó ông đề xuất với người đồng cấp Mỹ của mình rằng Nga sẽ đồng ý mở rộng NATO nếu mình cũng có thể tham gia vào quá trình này. Đây cũng là giải thưởng an ủi cho Ukraine, mà Clinton đã trao cho Tổng thống Kravchuk tại Kyiv vào tháng 1 năm 1994 trên đường đến Moscow để ký thỏa thuận ba bên giữa Mỹ-Nga-Ukraine về việc chuyển giao vũ khí hạt nhân của Ukraine cho Nga. Chương trình Đối tác vì Hòa bình đã được công bố tại Brussels vào ngày trước khi Clinton dừng chân tại Kyiv.

Chương trình mới đóng vai trò như một tiền sảnh cho người Đông Âu trên con đường trở thành thành viên chính thức của liên minh. Nó thực hiện một chức năng khác đối với Nga và Ukraine, những nước không có triển vọng gia nhập NATO. Việc trở thành thành viên của chương trình nhằm đảm bảo với Moscow rằng Brussels không âm mưu chống lại Liên bang Nga. Đối với Kyiv, nó đóng vai trò như một sự đảm bảo rằng Ukraine sẽ không bị bỏ lại một mình với một nước  Nga hung hăng. Nếu Đông Âu và Nga chậm rãi, người Ukraine đã nhanh chóng bắt cơ hội. Ukraine trở thành quốc gia đầu tiên tham gia chương trình, chưa đầy một tháng sau khi chương trình được công bố. Quan hệ đối tác với NATO trở thành hy vọng duy nhất của họ để chống lại Nga.

Nhưng Chương trình Đối tác vì Hòa bình chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Vào tháng 7 năm 1997, các nguyên thủ quốc gia thành viên NATO, do Bill Clinton dẫn đầu, đã họp tại Madrid để mời Ba Lan, Cộng hòa Séc và Hungary tham gia liên minh. Đồng thời, họ đưa ra hai thỏa thuận riêng biệt cho Nga và Ukraine. Văn kiện của Nga được gọi là “Đạo luật Thành lập NATO-Nga”, trong khi văn kiện của Ukraine có tên là “Hiến chương về Quan hệ Đối tác Đặc biệt”. Mục đích của các thỏa thuận này cũng giống như mục đích của Chương trình Đối tác vì Hòa bình – đảm bảo với Nga rằng NATO không âm mưu chống lại nước này và với Ukraine rằng NATO sẽ giữ Nga ở thế bị động.

Nga cũng được mời tham gia nhóm G7 gồm các nền kinh tế dân chủ lớn nhất, mặc dù uy tín dân chủ của nước này sau vụ pháo kích vào quốc hội năm 1993 vẫn còn đáng ngờ, trong khi quy mô nền kinh tế của nước này chắc chắn là yếu kém. Bill Clinton sau đó đã giải thích với Tổng thống Kuchma rằng Nga đang được cấp một ghế trong hội đồng G7 (nay là G8) với Ukraine trong tâm trí. “Tôi đã hứng những chỉ trích vào G8 và APEC vì đã đưa Nga vào,” Clinton nói với Kuchma. “Nhưng tôi muốn họ thấy nhiều lợi ích hơn từ việc hợp tác với những nước khác, như Ukraine, hơn là từ việc thống trị nó.” Yeltsin đã chấp nhận tư cách thành viên G7 nhưng đã cố gắng chèn một điều khoản vào Đạo luật Thành lập NATO-Nga cho phép Nga phủ quyết bất kỳ sự mở rộng nào trong tương lai của liên minh. Ông đã bị từ chối nhưng đã tuyên bố với quốc hội rằng Nga đã đã giành được quyền đó. 

Mối quan hệ của Nga với NATO đã có một bước ngoặt quyết định theo chiều hướng xấu đi vào mùa xuân năm 1999, ngay sau khi Cộng hòa Séc, Ba Lan và Hungary chính thức gia nhập NATO. Nguyên nhân trực tiếp không liên quan đến việc mở rộng liên minh mà xuất phát từ việc NATO quyết định ném bom Serbia, cùng với Montenegro, hình thành nên nhà nước tàn dư của Nam Tư. Các nước NATO bắt đầu chiến dịch ném bom của họ để ngăn chặn những hành động tàn bạo mà quân đội Nam Tư gây ra đối với người dân Kosovo, một khu vực Hồi giáo trong Serbia. Clinton và các nhà lãnh đạo phương Tây khác tin rằng họ phải ngăn chặn cuộc diệt chủng, nhưng Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc từ chối chấp thuận các cuộc không kích, vì Nga và Trung Quốc phản đối. Do đó, NATO đã đảm nhận trách nhiệm cho hoạt động quân sự. Chỉ sau một đêm, NATO đã chuyển từ liên minh phòng thủ sang liên minh tấn công – một diễn biến mà người Nga không bỏ qua.

Chính phủ Nga, được lãnh đạo sau cuộc khủng hoảng tài chính Nga năm 1998 bởi cựu giám đốc cơ quan tình báo nước ngoài của đất nước, Yevgenii Primakov, cũng như phe đối lập cộng sản và dân tộc chủ nghĩa ủng hộ chính phủ Primakov đều không sẵn sàng chấp nhận những gì đang diễn ra ở Serbia. Mặc dù Yeltsin không đi theo con đường của nhà lãnh đạo Serbia, Slobodan Milošević, và sử dụng quân đội của mình để giữ Liên Xô thống nhất, biến nó thành một “Nam Tư có vũ khí hạt nhân”, nhưng Nga và Serbia đã phát triển quan hệ hữu nghị vào cuối những năm 1990. Hoàn toàn bị lãng quên là những năm tháng thù địch khi  Stalin-Tito rạn nứt vào cuối những năm 1940 và giai đoạn ngờ vực do Milošević gây ra khi ủng hộ cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 tại Moscow. Mối quan hệ lâu dài dựa trên nguồn gốc Slav chung, di sản Chính thống giáo và sự hỗ trợ của Đế chế Nga đối với người Nam Slav trong cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của Ottoman vào thế kỷ XIX đã được khôi phục. Chủ nghĩa toàn Slav, chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo đang trở thành những yếu tố quan trọng của chính sách mới của Nga, thay thế hệ tư tưởng Mác-xít lỗi thời và nền dân chủ tự do đang suy yếu. Đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc Nga, Serbia “anh em”  chịu cú sốc mất đế chế giống như chính nước Nga.

Primakov đang trên đường đến Hoa Kỳ bằng đường hàng không khi ông biết vào ngày 24 tháng 3 năm 1999 rằng NATO đã bắt đầu ném bom Serbia. Ông rất tức giận vì những gì ông coi là thế chủ động ​​không thân thiện của Mỹ đến nỗi ông đã ra lệnh cho phi công của mình đổi hướng bay qua Đại Tây Dương và quay trở lại Moscow. Nga tiếp tục cắt đứt quan hệ với NATO để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào những gì họ coi là phạm vi lợi ích của mình. Theo thời gian, điều này đã trở thành ẩn dụ cho một bước ngoặt đáng kể của chính sách đối ngoại Nga xa rời hợp tác với Hoa Kỳ. Chiến dịch ném bom kéo dài 78 ngày đã gây ra thương tích hoặc tử vong cho hàng ngàn quân nhân và thường dân Serbia, cũng như phá hủy cơ sở hạ tầng trên diện rộng của Nam Tư. Sau khi cuộc ném bom dừng lại, quân đội Nga đã tiến vào thủ đô Priština của Kosovo, gặp một lực lượng NATO đang tiến vào từ Macedonia và khăng khăng đòi cùng nhau chiếm đóng khu vực này. Tại Priština, Nga và NATO vừa gần gũi vừa xa cách nhau cùng một lúc—đồng minh trên danh nghĩa và đối thủ trên thực tế. 


SERHII PLOKHY

Trần Quang Nghĩa dịch

3 Vụ sụp nổ hạt nhân

Ukraine là một quốc gia độc lập được sinh ra với vũ khí hạt nhân, thừa hưởng từ Liên Xô kho vũ khí hạt nhân lớn thứ ba trên thế giới. Liên Xô đã triển khai gần 1.900 đầu đạn hạt nhân và khoảng 2.500 vũ khí hạt nhân chiến thuật trên lãnh thổ Ukraine. Những vũ khí đó đã gây ra một vấn đề lớn cho Hoa Kỳ: khi Liên Xô tan rã, Washington lo ngại rằng sự sụp đổ của Liên Xô có thể gây ra một cuộc nội chiến giữa các nước cộng hòa sở hữu vũ khí hạt nhân, tạo ra cái mà lúc đó được gọi là “Nam Tư có vũ khí hạt nhân”. Khả năng xảy ra chiến tranh giữa Nga và Ukraine trở nên không chỉ là lý thuyết khi quốc hội Nga tuyên bố rằng Crimea đã được chuyển giao bất hợp pháp cho Ukraine và sau đó tuyên bố thành phố Sevastopol ở Crimea thuộc về Liên bang Nga.

Nga muốn vũ khí hạt nhân của Ukraine được chuyển giao đến lãnh thổ của mình càng sớm càng tốt, điều này sẽ củng cố đáng kể yêu sách của họ đối với một phạm vi ảnh hưởng độc quyền trong không gian hậu Xô Viết. Ukraine không hề muốn tuân thủ. Họ không có quyền kiểm soát hoạt động đối với các loại vũ khí – các mật mã cần thiết để phóng tên lửa nằm ở Moscow – nhưng có quyền sở hữu vật lý và một số quan chức trong quốc hội và chính phủ Ukraine coi việc chuyển giao là không thể chấp nhận được về mặt chính trị. Lý do thì rõ ràng – yêu sách lãnh thổ của Nga đối với Crimea và có khả năng đối với các vùng lãnh thổ khác của Ukraine.

Lập trường của Ukraine về vũ khí hạt nhân đã phát triển theo thời gian. Kyiv bắt đầu sự nghiệp của mình trên trường quốc tế với tuyên bố chủ quyền vào năm 1990 với tư cách là người ủng hộ mạnh mẽ phi hạt nhân hóa vì hai lý do chính. Lý do đầu tiên là di sản của thảm họa hạt nhân Chernobyl năm 1986, thảm họa đã làm ô nhiễm một phần lớn lãnh thổ Ukraine và khiến quốc hội Ukraine thông qua luật cam kết tạm dừng xây dựng các nhà máy hạt nhân mới. Sau đó, người ta nhận ra rằng một cuộc tranh chấp với trung tâm Liên bang về quyền kiểm soát vũ khí hạt nhân sẽ kéo dài và hỗn loạn, có thể trì hoãn tiến trình hướng tới độc lập hoàn toàn của Ukraine. Vào thời điểm đó, người ta cho rằng việc trao đổi vũ khí để công nhận nền độc lập của Ukraine và quyền thành lập lực lượng vũ trang của riêng mình là điều cần thiết. Tuyên bố về chủ quyền của Ukraine được quốc hội thông qua vào mùa hè năm 1990 đã cam kết Ukraine sẽ không có vũ khí hạt nhân.

Những nghi ngờ đầu tiên về cam kết đó xuất hiện vào mùa thu năm 1991, sau cuộc bỏ phiếu của quốc hội Ukraine về độc lập, vì phản ứng của Nga. Tuyên bố của Boris Yeltsin, do thư ký báo chí của ông, Pavel Voshchanov, đưa ra, chỉ ra rằng biên giới của Ukraine chỉ có thể được đảm bảo khi hợp nhất với Nga. Nhiều người ở Kyiv bắt đầu xem xét lại vấn đề hạt nhân. Volodymyr Filenko, một thành viên có ảnh hưởng của quốc hội Ukraine, đã nói với một nhà báo Anh vào tháng 9 năm 1991, “Hầu hết các nghị sĩ đều nghĩ rằng chúng tôi không thể chỉ cung cấp vũ khí cho Nga. Điều đó sẽ làm đảo lộn cán cân quyền lực giữa Nga và Ukraine.” Sau đó, ông nói thêm: “Chúng tôi sợ Nga, nếu bạn muốn biết. Chúng tôi đang đấu tranh giành độc lập khỏi Nga. Chúng tôi không thể nói là đang có mối đe dọa hạt nhân, nhưng gần đây họ đã nêu lên vấn đề lãnh thổ.”

Giới tinh hoa chính trị Ukraine phải đối mặt với một tình thế tiến thoái lưỡng nan: cách nhanh nhất và có lẽ là cách khả thi duy nhất để giành được sự công nhận quốc tế về nền độc lập của Ukraine là từ bỏ vũ khí hạt nhân, nhưng cách hiệu quả nhất và có thể là cách hợp lý duy nhất  để đảm bảo sự trường tồn của đất nước là giữ lại chúng. Vào tháng 10 năm 1991, để đảm bảo sự ủng hộ của Hoa Kỳ đối với nền độc lập của Ukraine, quốc hội đã cam kết với tình trạng phi hạt nhân nhưng cũng tuyên bố quyền quyết định việc xử lý vũ khí hạt nhân trong tư cách là người có quyền sở hữu. “Ukraine nhấn mạnh quyền kiểm soát việc không sử dụng vũ khí hạt nhân nằm trên lãnh thổ của mình”, nghị quyết của quốc hội nêu rõ. Vào tháng 12 năm 1991, quốc hội đã bỏ phiếu phê chuẩn các văn bản thành lập Khối Thịnh vượng Chung các Nhà nước Độc lập với điều kiện Ukraine trở thành quốc gia phi hạt nhân bằng cách đảm bảo sự kiểm soát quốc tế đối với việc phá hủy vũ khí hạt nhân của mình.

Nút thắt Crimea

Tranh chấp lãnh thổ là dấu hiệu của sự tan rã đế quốc và sự sụp đổ của Liên Xô cũng không phải là ngoại lệ. Chính phủ Nga đã thách thức sự toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine ngay cả trước khi nước này trở nên độc lập một cách hợp pháp và rời khỏi Liên bằng Xô Viết. Thách thức đầu tiên đối với biên giới Ukraine đến từ chính phủ dân chủ của Nga ngay sau khi quốc hội Ukraine tuyên bố đất nước độc lập vào ngày 24 tháng 8 năm 1991. Hai ngày sau, người phát ngôn của tổng thống Nga, Pavel Voshchanov, đã đưa ra tuyên bố thay mặt cho cấp trên của mình.

“Trong những ngày gần đây nhất, chủ quyền nhà nước đã được tuyên bố và việc rút khỏi Liên Xô đã được công bố trong một loạt các nước cộng hòa Liên bang”, tuyên bố viết. “Về vấn đề đó, tôi đã được Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nga trao quyền đưa ra tuyên bố sau. Liên bang Nga không nghi ngờ gì về quyền tự quyết theo hiến pháp của mọi quốc gia và dân tộc. Nhưng có vấn đề về biên giới, có thể cho thấy là chưa được quy định, một điều kiện chỉ được chấp nhận nếu có điều khoản về quan hệ Liên minh được bảo đảm bằng một hiệp ước thích hợp. Nếu các quan hệ bị bãi bỏ, Cộng hòa Liên bang Nga giữ quyền đặt ra vấn đề sửa đổi biên giới.”

Tuyên bố này được gửi đến mọi nước cộng hòa Xô Viết có thể tuyên bố độc lập khỏi Liên Xô. Nhưng khi Voshchanov được các nhà báo yêu cầu nêu cụ thể hơn, ông đã chỉ đích danh Ukraine và Kazakhstan. “Nếu những nước cộng hòa đó gia nhập liên minh với Nga, thì không có vấn đề gì”, ông giải thích. “Nhưng nếu họ rút lui, thì chúng tôi phải quan tâm đến dân số sống ở đó và không được quên rằng những vùng đất đó đã được người Nga chiếm làm thuộc địa. Nga khó có thể đồng ý cho đi dễ dàng như vậy.” Cả Ukraine và Kazakhstan đều có cộng đồng thiểu số Nga đông đảo, và cả hai nước cộng hòa, toàn bộ Ukraine, và Kazakhstan ở vùng đất phía bắc, đều được xem là một phần của nhà nước Nga tương lai bởi một nhân vật chính có uy tín, Aleksandr Solzhenitsyn [nhà văn kịch liệt lên án tính vô nhân đạo của chế độ Liên Xô, từng đoạt giải Nobel Văn hoc 1970: ND], người có bài viết ủng hộ việc thành lập một nhà nước như vậy đã được các tờ báo lớn của Liên Xô đăng tải vào năm trước.

Kyiv và Almaty phản đối, buộc Yeltsin phải tách mình ra khỏi những phát biểu của Voshchanov. Phát ngôn viên được miêu tả là người đã mất kiểm soát và đưa ra quan điểm cá nhân  thay vì chính sách của chính quyền Yeltsin. Nhưng Voshchanov thực tế sẽ xây dựng chính sách mới của Liên bang Nga trong nhiều năm tới. Các hiệp ước công nhận biên giới của các nước cộng hòa Liên bang như hiệp ước đã ký giữa Nga và Ukraine năm 1990 chỉ được áp dụng nếu các nước cộng hòa, đặc biệt là Ukraine, vẫn liên minh chặt chẽ với Nga. Sự hiểu biết về ý nghĩa của liên minh đó sẽ thay đổi theo thời gian, từ Liên Xô của Gorbachev đến Khối Thịnh vượng Chung của Yeltsin và, cuối cùng, một số dự án Á-Âu do Putin cổ xúy. Các mô hình và nhà lãnh đạo đã thay đổi, nhưng nguyên tắc cơ bản vẫn giữ nguyên: việc Nga công nhận toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của các quốc gia hậu Xô Viết sẽ có điều kiện là phải liên minh với Moscow.

Voshchanov sau đó nhớ lại rằng Donbas và Crimea là các vùng lãnh thổ của Ukraine mà giới lãnh đạo Nga lúc bấy giờ quan tâm. Bán đảo Crimea là vùng lãnh thổ mới nhất được thêm vào Ukraine, được chuyển từ Liên bang Nga sang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraine năm 1954 vì lý do kinh tế, vì nền kinh tế của nước này không hoạt động hiệu quả nếu không có sự phối hợp chặt chẽ với nền kinh tế của đất liền, tức là Ukraine.

Crimea trở thành khu vực duy nhất của Ukraine mà người Nga chiếm đa số, với 1.635.000 người vào năm 1989, so với 625.000 người Ukraine và 38.000 người Tatar Crimea. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1991, 54 phần trăm dân số của bán đảo ủng hộ nền độc lập của Ukraine. Số liệu tương tự ở khu vực Donetsk vùng Donbas là 77 phần trăm và, ở khu vực lân cận Luhansk là 85 phần trăm. Sự ủng hộ cho nền độc lập trong toàn bộ đất nước vượt quá 92 phần trăm. Crimea nổi lên như là khu vực dễ bị tổn thương nhất của Ukraine không chỉ vì sự ủng hộ ít phổ biến hơn cho nền độc lập mà còn vì nhiều người ở Nga, từ những người theo chủ nghĩa dân chủ đến những người theo chủ nghĩa cộng sản và dân tộc, tin rằng Nga có quyền lịch sử đối với bán đảo và nên đòi lại nó.

Bản đồ Crimea

Bản đồ vùng Donbas

Vào tháng 1 năm 1992, quốc hội Nga đã đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc chuyển giao Crimea từ Nga sang Ukraine. Nó đã thông qua một nghị quyết với mục đích để Ukraine dễ sai khiến hơn trong cuộc tranh chấp sẽ diễn ra về tương lai của Hạm đội Biển Đen của Liên Xô. Kyiv lập luận rằng hạm đội này cấu thành bộ phận của mình trong cơ sở hạ tầng quân sự của Liên Xô, với phần còn lại của Hải quân Liên Xô sẽ thuộc về Nga. Về phần mình, giới lãnh đạo Nga tuyên bố hạm đội này là một phần của lực lượng chiến lược của mình, được đặt dưới sự chỉ huy chung (trên thực tế là của Nga). Yêu sách của Nga được đưa ra một cách ngầm hiểu không chỉ liên quan đến hải quân mà còn liên quan đến căn cứ của nó là thành phố Sevastopol ở Crimea.

Trong khi Yeltsin và chính phủ của ông không ủng hộ nghị quyết của quốc hội, Yeltsin đã đồng ý với một số đồng minh chủ chốt của mình, chẳng hạn như Anatolii Sobchak, thị trưởng St. Petersburg và là cấp trên của Putin vào thời điểm đó, rằng Hạm đội Biển Đen phải vẫn là của Nga bất kể Ukraine và ban lãnh đạo của họ có thể có lập trường như thế nào. Trước khi kết thúc tháng, Yeltsin đã bay đến cảng Novorossiysk của Nga để gặp chỉ huy Hạm đội Biển Đen, Đô đốc Igor Kasatonov, trên tàu tuần dương Moskva [con tàu này sẽ bị tên lửa Ukraine đánh chìm 30 năm sau trong cuộc chiến tranh Nga-Ukraine]. Mục đích của chuyến thăm là để chứng minh quyết tâm của Moscow trong việc giữ hạm đội dưới quyền tài phán của mình.

Yeltsin và các cố vấn của mình theo một kế hoạch do Vladimir Lukin, đại sứ đầu tiên của Nga độc lập tại Hoa Kỳ đề xuất. Trước khi lên đường đến Washington năm 1992, Lukin đã viết một đề xuất rằng vấn đề chủ quyền của Crimea sẽ được sử dụng để làm suy yếu vị thế của Ukraine tại các cuộc đàm phán về tương lai của Hạm đội Biển Đen.

Vào tháng 4 năm 1992, sau khi Tổng thống Leonid Kravchuk nắm quyền kiểm soát quân đội Liên Xô cũ trên lãnh thổ Ukraine, Yeltsin đã ban hành sắc lệnh đặt Hạm đội Biển Đen dưới quyền chỉ huy của mình. Phó tổng thống của Yeltsin, Aleksandr Rutskoi, đã đến thăm Crimea và đứng về phía quốc hội Nga, tuyên bố rằng việc chuyển giao Crimea cho Ukraine năm 1954 phải được đảo ngược. “Lý lẽ thường tình chỉ ra rằng Crimea phải trở thành một phần của Nga”, Rutskoi tuyên bố.

“Những người ký vào quyết định năm 1954 [nhường Crimea cho Cộng hòa Ukraine] rõ ràng là say xỉn hoặc say nắng.” Ông tuyên bố rằng Hạm đội Biển Đen là và sẽ vẫn là của Nga, trong khi cố vấn của Yeltsin là Sergei Stankevich đặt câu hỏi về tính hợp pháp của việc chuyển giao năm 1954.

Sự chuyển giao đó đã diễn ra cùng với một chiến dịch tuyên truyền đánh dấu kỷ niệm 300 năm “Sự thống nhất của Ukraine với Nga”, cụm từ được sử dụng vào thời điểm đó để chỉ việc thủ lĩnh Cossack người Ukraine Bohdan Khmelnytsky chấp nhận chế độ bảo hộ của sa hoàng Nga. Ông này đã tuyên thệ trung thành với Sa hoàng Aleksei Romanov tại thành phố Pereiaslav của Ukraine vào tháng 1 năm 1654. Mô hình thống nhất Liên Xô được mượn từ thời đế quốc, và ở Crimea, nó đã làm nổi bật một huyền thoại lâu đời khác có nguồn gốc đế quốc mạnh mẽ—đó là huyền thoại Sevastopol như một thành phố vinh quang của Nga, sinh ra từ cuộc phòng thủ anh hùng của thành phố này trong Chiến tranh Crimea năm 1853–56 với Liên minh Anh, Pháp và Thổ Nhĩ Kỳ. Hai huyền thoại này bổ sung cho nhau trong câu chuyện lấy Nga làm trung tâm thống trị của thời kỳ Liên Xô nhưng đã xung đột nhau sau khi Ukraine rời khỏi quỹ đạo của Nga.

Căng thẳng về Crimea đã lên đến đỉnh điểm vào tháng 5 năm 1992, khi quốc hội Crimea – vùng Crimea đã trở thành cộng hòa tự trị trong Ukraine,  và mới năm ngoái có quốc hội riêng – tuyên bố cộng hòa là một nhà nước theo đúng nghĩa của nó. Tuyên bố rằng Crimea sẽ xác định mối quan hệ của mình với Ukraine trên cơ sở một hiệp ước liên minh, quốc hội thông qua một hiến pháp và ấn định ngày trưng cầu dân ý về nền độc lập của Crimea. Sáng kiến ​​này được các lực lượng dân tộc chủ nghĩa ở Nga ủng hộ, và trong cùng tháng đó, quốc hội Nga đã khiến tình hình trầm trọng thêm khi tuyên bố rằng việc chuyển giao bán đảo cho Ukraine vào năm 1954 là bất hợp pháp và đề xuất Ukraine tham gia đàm phán về tình trạng của Crimea.

Kyiv phản công trên hai mặt trận, bên trong và bên ngoài. Quốc hội Ukraine từ chối đàm phán, lên án đề nghị của Moscow là sự can thiệp vào công việc nội bộ của Ukraine. Trong khi đó, chính phủ Ukraine đã thuyết phục chính quyền Crimea sửa đổi hiến pháp và hủy bỏ cuộc trưng cầu dân ý được đề xuất. Xung đột pháp lý đã được giải quyết mà không cần sử dụng vũ lực, điều này khác với tình hình ở nước láng giềng Moldova, một cộng hòa cũ của Liên bang Xô Viết và tuyên bố độc lập và được Nga công nhận vào cuối năm 1991. Ở đó, xung đột giữa những người ly khai thân Nga ở vùng Transnistria đã dẫn đến chiến tranh công khai liên quan đến quân đội Nga và dẫn đến sự tách biệt trên thực tế của vùng đất này khỏi Moldova. Nhưng căng thẳng trong và xung quanh Crimea không hề giảm bớt. Ở Nga, chúng đã trở thành một phần của cuộc chiến giữa quốc hội và tổng thống.

Vào tháng 7 năm 1993, quốc hội Nga đã thông qua một nghị quyết tuyên bố thành phố Sevastopol, căn cứ của Hạm đội Biển Đen, là một phần lãnh thổ và quyền tài phán của Liên bang Nga. “Tôi xấu hổ về quyết định của quốc hội”, Boris Yeltsin nói để đáp lại, và nói thêm: “Suy cho cùng, chúng ta không thể bắt đầu một cuộc chiến tranh với Ukraine.” Vào tháng sau, Yeltsin đã gặp Kravchuk tại khu nghỉ dưỡng Massandra ở Crimea, nơi hai vị tổng thống thảo luận về tương lai của Hạm đội Biển Đen cũng như khoản nợ ngày càng tăng của Ukraine đối với Nga về nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên. Người Ukraine bị đe dọa sẽ bị cắt nguồn khí đốt trừ khi họ “bán” phần hạm đội của mình cho Nga để trả nợ. Kravchuk cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chấp nhận “lời đề nghị”, nhưng quốc hội Ukraine từ chối phê chuẩn một thỏa thuận được thực hiện dưới sự ép buộc.

Hiệp định Massandra đã giúp Yeltsin chủ động giải quyết các vấn đề của Hạm đội Biển Đen và Crimea khỏi tay quốc hội chỉ vài tuần trước khi ông ra lệnh cho xe tăng của mình bắn vào tòa nhà quốc hội Nga.

Nhưng các hiệp định này không thúc đẩy được giải pháp. Chiến thắng của các lực lượng cộng sản và dân tộc chủ nghĩa được bổ sung vào Duma mới trong cuộc bầu cử mùa thu năm 1993 đã cổ xúy mạnh hơn phong trào ly khai ở Crimea. Năm 1994, Crimea có được một tổng thống riêng, Yurii Meshkov, người đã đưa vấn đề độc lập của Crimea trở lại chương trình nghị sự chính trị, đề xuất một cuộc trưng cầu dân ý mới. Cuối năm đó, hội đồng thành phố Sevastopol, nơi vẫn là căn cứ của Hạm đội Biển Đen và phụ thuộc vào Moscow để thanh toán các hóa đơn, đã bỏ phiếu chấp nhận quyền tài phán của Nga đối với thành phố.

Cuộc khủng hoảng Crimea đã được giải quyết phần lớn là do nền dân chủ Ukraine vẫn tiếp tục hoạt động. Sự thay đổi tổng thống ở Kyiv do kết quả của cuộc bầu cử năm 1994 đã đưa ra một ứng cử viên được cử tri Crimea ủng hộ mạnh mẽ. Leonid Kuchma đã nhận được 90 phần trăm phiếu bầu ở Crimea nói chung và 92 phần trăm ở Sevastopol. Kuchma, một người nói tiếng Nga đến từ vùng đông nam công nghiệp của Ukraine, đã đảm bảo với người sắc tộc Nga trên bán đảo rằng quyền ngôn ngữ và văn hóa của họ sẽ được chính quyền trung ương bảo vệ. Các quan chức Ukraine đã đạt được một thỏa thuận chia sẻ quyền lực không chính thức với các nhà lãnh đạo quốc hội Crimea, những người đã bãi bỏ chức vụ tổng thống Crimea và đồng ý điều chỉnh hiến pháp và luật pháp của họ với Ukraine.

Căng thẳng ở Crimea đã không bùng nổ thành nội chiến cũng vì Nga từ chối lợi dụng những người trung thành của mình trong Hạm đội Biển Đen để can thiệp vào phe ly khai, như đã làm ở Moldova. Có một số lý do khiến Yeltsin miễn cưỡng chấp nhận hoàn toàn chủ nghĩa ly khai của Crimea. Việc ly khai của Crimea sẽ được coi là một sự nhượng bộ cho những người theo chủ nghĩa dân tộc và cộng sản trong quốc hội Nga, có thể khiến các vùng tự trị của Nga thêm bạo dạn và cung cấp cho họ cơ sở pháp lý để noi theo gương của Crimea – điều này đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp của Tatarstan. Cũng quan trọng không kém, sự ủng hộ của Nga cho nền độc lập của Crimea và sự hội nhập thực tế vào Liên bang Nga sẽ gây nguy hiểm cho những nỗ lực của chính quyền Yeltsin nhằm củng cố mối quan hệ với Hoa Kỳ. Điều này liên quan đến những nỗ lực chung của Moscow và Washington nhằm thuyết phục Ukraine từ bỏ kho vũ khí hạt nhân mà họ thừa hưởng từ Liên Xô.

Bản ghi nhớ Budapest

Kể từ khi tuyên bố độc lập, Kyiv đã sẵn sàng chấp nhận một quy chế phi hạt nhân của Ukraine nhưng không chuyển giao vũ khí hạt nhân của mình cho Nga mà không có sự đảm bảo rằng chúng sẽ bị phá hủy và không được sử dụng để chống lại Nga. Vào tháng 3 năm 1992, khi căng thẳng về quyền kiểm soát Hạm đội Biển Đen bắt đầu gia tăng, Tổng thống Kravchuk đã ra lệnh dừng chuyển giao vũ khí hạt nhân chiến thuật cho Nga, gây ra sự nghi ngờ và lo ngại không chỉ ở Moscow mà còn ở Washington. Việc chuyển giao chỉ được tiếp tục sau khi người Ukraine được phép quan sát việc phá hủy vũ khí của họ trên lãnh thổ Nga.

Vào tháng 5 năm 1992, dưới áp lực nặng nề của Mỹ, Leonid Kravchuk đã ký Nghị định thư Lisbon, cam kết Ukraine sẽ tham gia Hiệp ước Không Phổ biến Vũ khí Hạt nhân với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân. Nghị định thư này cũng khiến Ukraine, cùng với Nga, Belarus và Kazakhstan—ba nước cộng hòa hậu Xô Viết khác có vũ khí hạt nhân—trở thành bên ký kết START-I, một hiệp ước Liên Xô-Mỹ năm 1991 về việc cắt giảm kho vũ khí hạt nhân. Nhưng việc ký kết nghị định thư trùng với việc gia tăng căng thẳng khác giữa Nga và Ukraine về vấn đề Crimea, khiến quốc hội Ukraine không hề sẵn lòng phê chuẩn Nghị định thư Lisbon. Việc phê chuẩn START-I cũng  gặp khó khăn vào tháng 7 năm 1993, sau khi Duma Nga tuyên bố Sevastopol là lãnh thổ của Nga. Những nỗ lực của Yeltsin nhằm buộc Ukraine từ bỏ vũ khí hạt nhân, cũng như các yêu sách của nước này đối với Hạm đội Biển Đen, để đổi lấy việc xóa nợ khí đốt tự nhiên cho Moscow đã bị quốc hội Ukraine bác bỏ. Căng thẳng càng gia tăng về Crimea, thì Ukraine càng muốn nắm giữ vũ khí nhiều hơn.

Tại Hoa Kỳ, Tổng thống George H. W. Bush đã dành năm cuối cùng của nhiệm kỳ, 1992, để tiếp tục con đường mà ông đã vạch ra trong những ngày tháng suy tàn của Liên Xô: Ukraine và các nước cộng hòa hậu Xô Viết khác phải giải giáp và gửi kho vũ khí hạt nhân của họ đến Nga, bất kể họ có muốn làm như vậy hay không. Nhưng lễ nhậm chức của Bill Clinton vào tháng 1 năm 1993 đã mở ra cánh cửa để xem xét lại chính sách đó, giá như để cố gắng tìm hiểu nguyên nhân chống đối của Ukraine và cuối cùng là vượt qua nó.

Vài tháng sau khi Clinton nhậm chức tổng thống, nhà khoa học chính trị và chuyên gia quan hệ quốc tế nổi tiếng John Mearsheimer đã cho đăng một bài viết trong tờ Foreign Affairs, lập luận rằng Ukraine nên được khuyến khích giữ lại vũ khí hạt nhân, không bị ép buộc  phải từ bỏ chúng. Theo quan điểm của Mearsheimer đó là cách hiệu quả nhất để ngăn chặn một cuộc chiến Nga-Ukraine mà ông mô tả như một “thảm họa” có thể dẫn đến việc tái chiếm Ukraine và “tác hại đến triển vọng hòa bình trên khắp Châu Âu.” Ông ấy lập luận: “Vũ khí hạt nhân Ukraine là thứ duy nhất đáng tin cậy để ngăn chặn Nga xâm lược. Nếu mục tiêu của Hoa Kỳ là để tăng cường sự ổn định ở Châu Âu, việc chống lại một Ukraine có vũ khí hạt nhân là không thuyết phục.”

Clinton và các cố vấn của ông không sẵn sàng nghe theo lời khuyên của Mearsheimer nhưng lại quan tâm hơn đến những lo ngại của Ukraine. Washington công nhận quyền sở hữu vũ khí hạt nhân của Ukraine trên lãnh thổ của mình và đồng ý thảo luận về việc bồi thường tài chính cho việc loại bỏ chúng. Khi nói đến các mối quan ngại về an ninh, chính quyền đã chuẩn bị xem xét khả năng cung cấp cho Ukraine các đảm bảo an ninh. Quan trọng hơn, cuối cùng công nhận mối quan tâm an ninh chính của Ukraine là Nga, Washington đã thay Moscow làm nhà đàm phán dẫn dắt trong các cuộc đàm phán ba bên về giải trừ vũ khí hạt nhân của Ukraine.

Cách tiếp cận mới đã có hiệu quả. Trước khi kết thúc năm 1993, Washington và Kyiv đã đạt được đồng thuận trên nguyên tắc về các điều kiện phi hạt nhân hóa của Ukraine.

Theo thỏa thuận mới, Hoa Kỳ đồng ý bồi thường cho các vũ khí của Ukraine với số tiền là một tỷ đô la. Hoa Kỳ và Nga cùng cam kết cung cấp cho các nhà máy hạt nhân của Ukraine nhiên liệu được sản xuất từ ​​các đầu đạn hạt nhân Ukraine đã được tháo dỡ. Họ cũng đồng ý đảm bảo về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Đây là nền tảng của hiệp ước Hoa Kỳ-Nga-Ukraine về phi hạt nhân hóa Ukraine, được ký vào tháng 1 năm 1994. Vào tháng 2 năm 1994, quốc hội Ukraine đã phê chuẩn Nghị định thư Lisbon và vào tháng 11 năm đó đã bỏ phiếu cho phép Ukraine gia nhập Hiệp ước Không phổ biến Vũ khí Hạt nhân (NPT) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân.

Vào tháng 12 năm 1994, Clinton và Kuchma đã ký Bản ghi nhớ Budapest về các đảm bảo an ninh sẽ được cung cấp cho Ukraine bởi Hoa Kỳ, Nga và Vương quốc Anh. Trung Quốc và Pháp sau đó đã thêm chữ ký của họ vào văn kiện. Các văn kiện tương tự đã được ký bởi các nhà lãnh đạo của Belarus và Kazakhstan, hai nước cộng hòa hậu Xô Viết khác sẽ được phi hạt nhân hóa. Những người bảo lãnh đã hứa sẽ “tôn trọng độc lập và chủ quyền và biên giới hiện tại của Ukraine” và “kiềm chế không đe dọa hoặc sử dụng vũ lực chống lại toàn vẹn lãnh thổ hoặc độc lập chính trị của Ukraine, và không một loại vũ khí nào của họ sẽ được sử dụng chống lại Ukraine.”

Vấn đề là không có cam kết bảo vệ Ukraine trong trường hợp các lời hứa bị phá vỡ và Ukraine bị tấn công. Nếu có một cuộc tấn công hạt nhân vào Ukraine, những người bảo lãnh đã hứa “sẽ tìm kiếm hành động đáp trả ngay lập tức của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc để cung cấp hỗ trợ cho Ukraine”. Họ cũng hứa sẽ tham vấn “trong trường hợp có tình huống phát sinh làm nảy sinh câu hỏi liên quan đến những cam kết này”. Đó là một sự thay thế tồi tệ cho việc bảo đảm sắt đá mà người Ukraine yêu cầu, nhưng đó là kết quả tối đa mà họ có thể đạt được sau các cuộc đàm phán kéo dài.

Tổng thống Kuchma và các cố vấn của ông hy vọng vào điều tốt nhất nhưng không có nhiều ảo tưởng. “Nếu ngày mai Nga tiến vào Crimea, sẽ chẳng ai buồn nhíu mày”, Kuchma tuyên bố, ông là cựu giám đốc nhà máy tên lửa lớn nhất châu Âu và là người ủng hộ ý tưởng Ukraine nên từ bỏ vũ khí hạt nhân nêu ra trong START-I nhưng giữ  lại phần vũ khí còn lại cho an ninh của chính mình. Tại sao Kuchma, trước mọi người khác, lại quyết định chấp nhận thỏa thuận mới do Washington đưa ra? Lý do rất đơn giản: ông đã quay trở lại lập trường trước khi giành được độc lập mà các chính trị gia Ukraine đã áp dụng. Một lần nữa, việc loại bỏ vũ khí đã trở thành cách chắc chắn nhất để bảo đảm nền độc lập của Ukraine và sự công nhận của cộng đồng quốc tế. Nền độc lập đã bị đe dọa vào năm 1993, không chỉ vì căng thẳng liên tục giữa Ukraine với Nga và áp lực từ Hoa Kỳ mà còn vì sự sụp đổ thực sự của nền kinh tế Ukraine: vào năm 1994, năm mà  Bản ghi nhớ Budapest được ký kết, Ukraine mất gần một phần tư GDP.

Bản ghi nhớ Budapest đã lấp đầy khoảng trống được tạo ra trong an ninh của Ukraine do việc giải trừ vũ khí hạt nhân bắt buộc bằng những lời hứa từ các cường quốc hạt nhân. Khoảng trống này ngày càng rộng hơn cho đến khi, ba thập kỷ sau, cuộc xâm lược toàn diện của Nga vào Ukraine đã phơi bày sự không hiệu quả của những lời đảm bảo được đưa ra bởi Bản ghi nhớ Budapest và các hiệp ước đi kèm. Nhưng khi các hiệp ước được ký kết, chúng đã thực hiện một chức năng quan trọng đối với Ukraine, ổn định nền kinh tế và quyền tự chủ.

Viện trợ tài chính của Mỹ bắt đầu được chuyển đến Ukraine ngay sau khi Clinton, Yeltsin và Kravchuk ký Hiệp định ba bên về giải trừ vũ khí hạt nhân vào tháng 1 năm 1994. Việc giải quyết vấn đề hạt nhân cũng giúp Kuchma ổn định tình hình ở Crimea, vì Yeltsin hiện có ít động lực hơn để ủng hộ chủ nghĩa ly khai của Nga ở đó và ở vị thế mạnh hơn để ngăn chặn những nỗ lực như vậy từ phía quốc hội Nga.

Vào tháng 5 năm 1997, Kuchma và Yeltsin đã ký Hiệp ước hữu nghị theo đó Nga công nhận toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine, hiện nằm trong biên giới hậu Xô Viết của nước này. Hiệp ước này đi kèm với một số thỏa thuận giải quyết tranh chấp lâu dài về tương lai của Hạm đội Biển Đen và căn cứ hải quân của Hạm đội này tại Sevastopol. Kyiv đồng ý chuyển giao cho Nga hầu hết lực lượng hải quân thời Liên Xô, chỉ giữ lại 18 phần trăm số tàu, và cho Nga thuê căn cứ hải quân Sevastopol trong 20 năm. Năm 2014, việc kiểm soát căn cứ Sevastopol sẽ cho phép Vladimir Putin tiếp quản toàn bộ bán đảo trong vài ngày, nhưng vào thời điểm đó Kyiv không làm được gì tốt hơn trong các cuộc đàm phán của họ với Nga. Chúng không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yêu sách lãnh thổ của Nga mà còn bởi sự phụ thuộc liên tục của Ukraine vào dầu khí của Nga. Ukraine không thể trả giá cao cho các mặt hàng đó một cách đầy đủ và đúng hạn.

Bản ghi nhớ Budapest năm 1994 và Hiệp ước Hữu nghị năm 1997 đã giúp Ukraine được cả Nga và Hoa Kỳ cam kết trên giấy tờ về các nguyên tắc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine. Nhưng phải mất hai năm để quốc hội Nga phê chuẩn Hiệp ước Hữu nghị trước sự phản đối mạnh mẽ từ các lực lượng dân tộc chủ nghĩa và dân túy. Nhưng không có nhiều thành viên chính phủ Ukraine coi một trong hai hiệp ước, hoặc cả hai, là đủ để đảm bảo an ninh cho Ukraine. Với đầu đạn hạt nhân cuối cùng rời khỏi lãnh thổ của họ vào năm 1996, người Ukraine bắt đầu tìm kiếm một sự thay thế để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn của họ.

Sự thay thế duy nhất mà họ có thể mong đợi là Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Vài tháng sau khi Ukraine cuối cùng cũng ký được Hiệp ước Hữu nghị với Nga, hai trong số các nước láng giềng phía tây, Ba Lan và Cộng hòa Séc, được mời tham gia liên minh NATO, giải quyết “vấn đề Nga” của họ.

Quan hệ đối tác vì hòa bình

Vào buổi tối ngày 21 tháng 4 năm 1993, Tổng thống Clinton đã đến muộn  cho bài phát biểu tại buổi tiếp tân trong lễ khai mạc Bảo tàng tưởng niệm Holocaust của Hoa Kỳ. Ông không phải là người duy nhất khiến các vị khách quý phải chờ đợi vào buổi tối hôm đó. Cùng với ông là một số nhà lãnh đạo của các quốc gia Đông Âu đã đến muộn để tham dự sự kiện này. “Tôi đã dành rất nhiều thời gian để nói chuyện với các nhà lãnh đạo thế giới về những vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm và có liên quan mật thiết đến sự kiện đã đưa tất cả các bạn đến đây hôm nay”, Clinton giải thích. Tất nhiên, sự kiện này là để tưởng nhớ các nạn nhân của cuộc diệt chủng Holocaust; “những vấn đề mà tất cả chúng ta đều quan tâm” là yêu cầu của các nước Đông Âu mở cửa NATO cho các quốc gia của họ.

Một trong những nhà lãnh đạo đó là Lech Wałęsa, tổng thống Ba Lan và cựu lãnh đạo phong trào Đoàn kết ở quốc gia đó. Ông đã thúc đẩy để nước mình trở thành thành viên của liên minh.

“Sau nhiều thập kỷ bị Liên Xô thống trị, tất cả chúng ta đều sợ Nga”, Wałęsa nói với Clinton. “Nếu Nga lại áp dụng chính sách đối ngoại hung hăng, thì hành động xâm lược này sẽ nhắm vào Ukraine và Ba Lan. Chúng ta cần nước Mỹ để ngăn chặn điều này”. Wałęsa không chỉ nói về đất nước của mình mà còn nói về hai thành viên khác của Nhóm Visegrad, Hungary và Slovakia, những nước đã đồng ý phối hợp các nỗ lực của họ để gia nhập các thể chế phương Tây. Một nhà bất đồng chính kiến ​​chống cộng khác, khi đó là tổng thống Cộng hòa Séc, Vaclav Havel, đã nói với Clinton trong một dịp khác rằng đất nước mình như đang “sống trong chân không” trước khi nói thêm: “đó là lý do tại sao chúng tôi muốn gia nhập NATO.”

Người Đông Âu đã gõ cửa NATO từ đầu năm 1990, khi vấn đề mở rộng về phía đông của khối này được nêu ra trong bối cảnh đàm phán về việc thống nhất nước Đức.

Trong quá trình đàm phán đó, Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ, James Baker, đã hỏi Gorbachev: “Ông muốn thấy một nước Đức thống nhất bên ngoài NATO, độc lập và không có lực lượng Hoa Kỳ, hay ông muốn một nước Đức thống nhất gắn liền với NATO, với đảm bảo rằng thẩm quyền của NATO sẽ không dịch chuyển một phân về phía đông so với vị trí hiện tại?” Gorbachev phản đối bất kỳ sự mở rộng nào của “khu vực NATO”. Cuối cùng, thỏa thuận chỉ giới hạn ở việc thống nhất nước Đức. Thỏa thuận cuối cùng, được ký kết vào tháng 9 năm 1990, cho phép nước Đức mới thống nhất gia nhập NATO mà không cần di chuyển cơ sở hạ tầng của NATO vào phía đông của đất nước.

Vào tháng 3 năm 1990, đại diện của Slovakia, Ba Lan và Hungary chỉ trích Điện Kremlin vì phản đối việc mở rộng NATO về phía đông, và vào tháng 5, Gorbachev đã cảnh báo người Mỹ rằng ông biết về sự ủng hộ của họ đối với nguyện vọng của các cựu vệ tinh của Moscow muốn gia nhập liên minh. Tổng thống Bush thực sự đã từ chối xác nhận lập trường của Baker trong các cuộc đàm phán, nhưng ông cũng không nhượng bộ bất kỳ mong muốn nào của Liên Xô hoặc các đồng minh cũ của Liên Xô. Gorbachev sau đó thừa nhận rằng tuyên bố của Baker chỉ được đưa ra trong bối cảnh đàm phán về Đức. Nhưng điều đó đã không ngăn cản các nhà lãnh đạo Nga, bao gồm Putin, sử dụng lời của Baker làm “bằng chứng” cho thấy NATO đã đồng ý không mở rộng ra ngoài miền đông nước Đức.

Mối quan ngại về sự phản đối của Liên Xô và sau đó là Nga đối với tư cách thành viên NATO của các nước Đông Âu là yếu tố chính khiến Tổng thống George H. W. Bush từ chối cân nhắc việc NATO mở rộng ra ngoài biên giới phía đông của Đức, mặc dù ông vẫn khăng khăng giữ tổ chức này tồn tại sau Chiến tranh Lạnh. Đây cũng là lý do chính khiến nhiều thành viên của chính quyền Clinton từ chối lời kêu gọi của các nhà lãnh đạo Đông Âu gia nhập liên minh. Đến năm 1993, có thêm một lý do nữa để đặt câu hỏi về sự mở rộng như vậy. Lý do đó là Ukraine hoặc cụ thể hơn là việc phi hạt nhân hóa của nước này. Ngoại trưởng của Clinton, Warren Christopher, đã đưa ra công thức về vấn đề Ukraine như sau: “Thật khó để thấy Ukraine có thể chấp nhận làm vùng đệm giữa NATO, Châu Âu và Nga. Điều này sẽ cản trở nỗ lực của chúng ta nhằm loại bỏ vũ khí hạt nhân của Ukraine.”

Mối liên hệ trực tiếp giữa vũ khí hạt nhân và mong muốn tư cách thành viên của NATO cho các nước Đông Âu đã được chứng minh vào năm 1992, khi một số quan chức Ba Lan đề xuất với các đối tác người Mỹ của họ rằng họ sẽ mua vũ khí hạt nhân nếu không được phép gia nhập NATO. Triển vọng về một  Ba Lan vũ trang hạt nhân đối mặt với một nước Nga mới hung hăng khiến nhiều người ở Washington sợ hãi, và một số người đã chuẩn bị cung cấp tư cách thành viên NATO cho người Ukraine như một củ cà rốt để từ bỏ kho vũ khí hạt nhân của họ. Sợ hãi trước khả năng mất vũ khí của họ trong khi bị kẹt trong vùng xám giữa NATO và Nga, các nhà ngoại giao Ukraine đã cố gắng nhảy vào đoàn tàu Đông Âu để tham gia liên minh. Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, Borys Tarasiuk, tuyên bố rằng sẽ “không thể chấp nhận được khi NATO mở rộng mà không có Ukraine trở thành thành viên chính thức.”

Vào tháng 4 năm 1993, khi Clinton gặp Wałęsa và Havel tại Washington, và cả hai nhà lãnh đạo đều nêu vấn đề về tư cách thành viên NATO, tổng thống Hoa Kỳ bắt đầu suy nghĩ lại về các chính sách thận trọng hơn của người tiền nhiệm. Nhưng có hai trở ngại chính trên con đường Đông Âu đến với liên minh. Một là sự phản đối từ Nga; mối lo ngại còn lại là về Ukraine, quốc gia vẫn giữ lại vũ khí hạt nhân và vô cùng lo ngại về việc thấy mình ở trong vùng đất không có ai kiểm soát giữa NATO và Nga.

Sự phản đối của Nga đối với việc mở rộng NATO đã gây ra một vấn đề, nhưng chính quyền Clinton cũng lo ngại rằng bất kể Yeltsin có lập trường như thế nào, việc mở rộng như vậy sẽ khuyến khích những người trong nước chỉ trích ông. “Nếu NATO áp dụng một lý lẽ chống Nga để tiếp nhận các thành viên mới, nó có thể làm thay đổi cán cân quyền lực trong chính trường Nga theo đúng hướng mà chúng tôi … sợ nhất”, Strobe Talbott, người đại diện của Clinton về Nga và Đông Âu, đã viết.

Bước đột phá về Nga diễn ra vào tháng 8 năm 1993, khi Wałęsa đạt được một thỏa thuận không chính thức với Yeltsin đảm bảo tư cách thành viên của Ba Lan trong NATO với cái giá phải trả là Ukraine. Các điều khoản là Nga sẽ không phản đối đơn xin gia nhập liên minh của Ba Lan, và đổi lại Ba Lan sẽ không can dự vào các vấn đề của Ukraine trừ khi có một cuộc khủng hoảng quân sự ở Ukraine. Mặc dù rất không chính thức, thỏa thuận đã được duy trì: Nga không đưa ra phản đối việc các nước Đông Âu tham gia liên minh, nhưng ranh giới đã được vạch ra tại biên giới Ukraine.

Với Nga dường như đang ở thế bị động, vấn đề chính đối với Washington chính là Ukraine. Talbott đã xây dựng nhiệm vụ của Washington đối với Ukraine như sau: “Chúng ta phải cẩn thận để không phải thực hiện điều này theo cách khiến Ukraine cảm thấy bị bỏ rơi trong giá lạnh với người hàng xóm lông lá ở phía bắc.”

Vấn đề Ukraine của Washington đã sớm được giải quyết bằng việc thành lập Chương trình Đối tác vì Hòa bình của NATO, mở cửa cho tất cả các nước Đông Âu, bao gồm cả Ukraine và Nga. Đây là phản hồi của Clinton đối với bức thư của Yeltsin vào tháng 9 năm 1993, được viết ngay sau khi Yeltsin thực hiện thỏa thuận với Wałęsa, trong đó ông đề xuất với người đồng cấp Mỹ của mình rằng Nga sẽ đồng ý mở rộng NATO nếu mình cũng có thể tham gia vào quá trình này. Đây cũng là giải thưởng an ủi cho Ukraine, mà Clinton đã trao cho Tổng thống Kravchuk tại Kyiv vào tháng 1 năm 1994 trên đường đến Moscow để ký thỏa thuận ba bên giữa Mỹ-Nga-Ukraine về việc chuyển giao vũ khí hạt nhân của Ukraine cho Nga. Chương trình Đối tác vì Hòa bình đã được công bố tại Brussels vào ngày trước khi Clinton dừng chân tại Kyiv.

Chương trình mới đóng vai trò như một tiền sảnh cho người Đông Âu trên con đường trở thành thành viên chính thức của liên minh. Nó thực hiện một chức năng khác đối với Nga và Ukraine, những nước không có triển vọng gia nhập NATO. Việc trở thành thành viên của chương trình nhằm đảm bảo với Moscow rằng Brussels không âm mưu chống lại Liên bang Nga. Đối với Kyiv, nó đóng vai trò như một sự đảm bảo rằng Ukraine sẽ không bị bỏ lại một mình với một nước  Nga hung hăng. Nếu Đông Âu và Nga chậm rãi, người Ukraine đã nhanh chóng bắt cơ hội. Ukraine trở thành quốc gia đầu tiên tham gia chương trình, chưa đầy một tháng sau khi chương trình được công bố. Quan hệ đối tác với NATO trở thành hy vọng duy nhất của họ để chống lại Nga.

Nhưng Chương trình Đối tác vì Hòa bình chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Vào tháng 7 năm 1997, các nguyên thủ quốc gia thành viên NATO, do Bill Clinton dẫn đầu, đã họp tại Madrid để mời Ba Lan, Cộng hòa Séc và Hungary tham gia liên minh. Đồng thời, họ đưa ra hai thỏa thuận riêng biệt cho Nga và Ukraine. Văn kiện của Nga được gọi là “Đạo luật Thành lập NATO-Nga”, trong khi văn kiện của Ukraine có tên là “Hiến chương về Quan hệ Đối tác Đặc biệt”. Mục đích của các thỏa thuận này cũng giống như mục đích của Chương trình Đối tác vì Hòa bình – đảm bảo với Nga rằng NATO không âm mưu chống lại nước này và với Ukraine rằng NATO sẽ giữ Nga ở thế bị động.

Nga cũng được mời tham gia nhóm G7 gồm các nền kinh tế dân chủ lớn nhất, mặc dù uy tín dân chủ của nước này sau vụ pháo kích vào quốc hội năm 1993 vẫn còn đáng ngờ, trong khi quy mô nền kinh tế của nước này chắc chắn là yếu kém. Bill Clinton sau đó đã giải thích với Tổng thống Kuchma rằng Nga đang được cấp một ghế trong hội đồng G7 (nay là G8) với Ukraine trong tâm trí. “Tôi đã hứng những chỉ trích vào G8 và APEC vì đã đưa Nga vào,” Clinton nói với Kuchma. “Nhưng tôi muốn họ thấy nhiều lợi ích hơn từ việc hợp tác với những nước khác, như Ukraine, hơn là từ việc thống trị nó.” Yeltsin đã chấp nhận tư cách thành viên G7 nhưng đã cố gắng chèn một điều khoản vào Đạo luật Thành lập NATO-Nga cho phép Nga phủ quyết bất kỳ sự mở rộng nào trong tương lai của liên minh. Ông đã bị từ chối nhưng đã tuyên bố với quốc hội rằng Nga đã đã giành được quyền đó. 

Mối quan hệ của Nga với NATO đã có một bước ngoặt quyết định theo chiều hướng xấu đi vào mùa xuân năm 1999, ngay sau khi Cộng hòa Séc, Ba Lan và Hungary chính thức gia nhập NATO. Nguyên nhân trực tiếp không liên quan đến việc mở rộng liên minh mà xuất phát từ việc NATO quyết định ném bom Serbia, cùng với Montenegro, hình thành nên nhà nước tàn dư của Nam Tư. Các nước NATO bắt đầu chiến dịch ném bom của họ để ngăn chặn những hành động tàn bạo mà quân đội Nam Tư gây ra đối với người dân Kosovo, một khu vực Hồi giáo trong Serbia. Clinton và các nhà lãnh đạo phương Tây khác tin rằng họ phải ngăn chặn cuộc diệt chủng, nhưng Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc từ chối chấp thuận các cuộc không kích, vì Nga và Trung Quốc phản đối. Do đó, NATO đã đảm nhận trách nhiệm cho hoạt động quân sự. Chỉ sau một đêm, NATO đã chuyển từ liên minh phòng thủ sang liên minh tấn công – một diễn biến mà người Nga không bỏ qua.

Chính phủ Nga, được lãnh đạo sau cuộc khủng hoảng tài chính Nga năm 1998 bởi cựu giám đốc cơ quan tình báo nước ngoài của đất nước, Yevgenii Primakov, cũng như phe đối lập cộng sản và dân tộc chủ nghĩa ủng hộ chính phủ Primakov đều không sẵn sàng chấp nhận những gì đang diễn ra ở Serbia. Mặc dù Yeltsin không đi theo con đường của nhà lãnh đạo Serbia, Slobodan Milošević, và sử dụng quân đội của mình để giữ Liên Xô thống nhất, biến nó thành một “Nam Tư có vũ khí hạt nhân”, nhưng Nga và Serbia đã phát triển quan hệ hữu nghị vào cuối những năm 1990. Hoàn toàn bị lãng quên là những năm tháng thù địch khi  Stalin-Tito rạn nứt vào cuối những năm 1940 và giai đoạn ngờ vực do Milošević gây ra khi ủng hộ cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 tại Moscow. Mối quan hệ lâu dài dựa trên nguồn gốc Slav chung, di sản Chính thống giáo và sự hỗ trợ của Đế chế Nga đối với người Nam Slav trong cuộc đấu tranh chống lại sự cai trị của Ottoman vào thế kỷ XIX đã được khôi phục. Chủ nghĩa toàn Slav, chủ nghĩa dân tộc và tôn giáo đang trở thành những yếu tố quan trọng của chính sách mới của Nga, thay thế hệ tư tưởng Mác-xít lỗi thời và nền dân chủ tự do đang suy yếu. Đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc Nga, Serbia “anh em”  chịu cú sốc mất đế chế giống như chính nước Nga.

Primakov đang trên đường đến Hoa Kỳ bằng đường hàng không khi ông biết vào ngày 24 tháng 3 năm 1999 rằng NATO đã bắt đầu ném bom Serbia. Ông rất tức giận vì những gì ông coi là thế chủ động ​​không thân thiện của Mỹ đến nỗi ông đã ra lệnh cho phi công của mình đổi hướng bay qua Đại Tây Dương và quay trở lại Moscow. Nga tiếp tục cắt đứt quan hệ với NATO để phản đối sự can thiệp của Mỹ vào những gì họ coi là phạm vi lợi ích của mình. Theo thời gian, điều này đã trở thành ẩn dụ cho một bước ngoặt đáng kể của chính sách đối ngoại Nga xa rời hợp tác với Hoa Kỳ. Chiến dịch ném bom kéo dài 78 ngày đã gây ra thương tích hoặc tử vong cho hàng ngàn quân nhân và thường dân Serbia, cũng như phá hủy cơ sở hạ tầng trên diện rộng của Nam Tư. Sau khi cuộc ném bom dừng lại, quân đội Nga đã tiến vào thủ đô Priština của Kosovo, gặp một lực lượng NATO đang tiến vào từ Macedonia và khăng khăng đòi cùng nhau chiếm đóng khu vực này. Tại Priština, Nga và NATO vừa gần gũi vừa xa cách nhau cùng một lúc—đồng minh trên danh nghĩa và đối thủ trên thực tế. 


Bình luận về bài viết này