Chiến tranh Nga- Ukraine (Bài 2)

SERHII PLOKHY

Trần Quang Nghĩa dịch

2 Dân chủ và chuyên chế

Đây là cuộc xung đột vũ trang lớn nhất nổ ra trên đường phố Moscow kể từ Cách mạng Nga năm 1917. Vào sáng ngày 4 tháng 10 năm 1993, sáu xe tăng T-80 của Sư đoàn  Cận vệ Taman tinh nhuệ đã chiếm giữ các vị trí trên Cầu New Arbat bắc qua Sông Moskva đối diện với tòa nhà quốc hội Nga, còn được gọi là Nhà Trắng.

Vào lúc nào đó sau 9:00 sáng, xe tăng nổ súng, nhắm vào các tầng nhà nơi đặt văn phòng của ban lãnh đạo quốc hội. Phòng họp bị trúng đạn đầu tiên, sau đó là văn phòng của chủ tịch quốc hội, Giáo sư Ruslan Khasbulatov, và sau đó là văn phòng của phó tổng thống, Tướng Aleksandr Rutskoi, người đã phản đối Boris Yeltsin và biến quốc hội nổi loạn thành ngôi nhà mới của mình.

“Tôi đang ở trong văn phòng khi quả đạn xuyên qua kính và phát nổ ở góc bên phải”, Rutskoi nhớ lại sau đó. “May mắn thay, bàn làm việc của tôi ở phía bên trái của căn phòng. Tôi vội vã chạy ra ngoài hoàn toàn bị sốc. Tôi không biết điều gì đã cứu tôi.” Xe tăng bắn 12 phát đạn, đốt cháy tòa nhà. Hàng chục người đã thiệt mạng ngay tại chỗ. “Khi tôi mở cánh cửa nơi một quả đạn pháo vừa phát nổ, tôi không thể vào được”, một người sống sót sau vụ tấn công đã ở tầng sáu kể lại. “Bên trong đó là một mớ hỗn độn đẫm máu.”

Đến giữa trưa, quân đội đã tiến vào tòa nhà quốc hội, chiếm hết tầng này đến tầng khác. Những người sống sót, bao gồm Rutskoi và Khasbulatov, đã bị bắt giữ. Trận chiến giành Nhà Trắng, bắt đầu cách đây vài ngày trước đó giữa những người bảo vệ quốc hội và quân đội chính phủ, đã khiến hơn một trăm người chết – 77 thường dân và 24 quân nhân. Chỉ riêng ngày hôm đó, theo các báo cáo chính thức, 158 cá nhân đã được đưa đến bệnh viện, trong đó có 19 người tử vong. Quốc hội Nga ngừng hoạt động trong vài tháng tiếp theo và tòa nhà được chuyển giao cho nhánh hành pháp của chính phủ, do tổng thống đứng đầu.

Đối với Yeltsin, đây là trận chiến thứ hai giành Nhà Trắng trong hơn hai năm một chút. Trong cuộc đảo chính cứng rắn chống lại Mikhail Gorbachev vào tháng 8 năm 1991, Yeltsin đã chỉ huy cuộc bảo vệ tòa nhà, nơi đã trở thành biểu tượng của nền dân chủ Nga. Bây giờ ông chỉ huy quân đội chính phủ trong cuộc tấn công vào chính tòa nhà quốc hội này, nơi được các phó tướng hàng đầu của ông bảo vệ vào tháng 8 năm 1991. Yeltsin đã chiến thắng trong cả hai cuộc đấu tranh; nền dân chủ Nga thì không. Được cứu khỏi sự phá hủy của xe tăng Liên Xô vào tháng 8 năm 1991, tòa nhà đã bị xe tăng Nga phá hủy gần như hoàn toàn vào tháng 10 năm 1993.

Vào cuối năm 1993, Yeltsin đã tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp mới của Nga, điều này đã cải thiện đáng kể quyền lực của văn phòng tổng thống. Cử tri Nga ủng hộ tổng thống. Trong hai năm, một tháng và hai tuần, Nga đã gần như kết thúc cuộc thử nghiệm của mình với nền dân chủ nghị viện và đặt nền tảng hiến pháp cho một chế độ tổng thống mạnh mẽ. Trên thực tế, tính toán đó đã phóng đại thời gian của thử nghiệm: trong suốt phần lớn năm 1992 và 1993, Tổng thống Yeltsin đã cai trị đất nước bằng sắc lệnh.

Ra đời sau sự sụp đổ của Liên Xô, nền dân chủ Nga đã loạng choạng trên nền móng đá của nhà nước Nga, đã bị đục một lỗ thủng lớn ở bên hông. Đây là sự thất vọng đối với nhiều người đã ngóng mong Nga là ngọn hải đăng của nền dân chủ trong những năm 1990-91. Nhưng thử nghiệm dân chủ thời Gorbachev vẫn tồn tại ở nước cộng hòa lớn thứ hai của Liên Xô cũ, Ukraine. Năm 1993 đã chứng tỏ là khó khăn đối với Ukraine cũng như đối với Nga, và sự suy thoái kinh tế đã tạo ra mối đe dọa thực sự về sự phục hồi chủ nghĩa cộng sản ở cả hai nước. Nhưng Ukraine đã tìm ra một cách khác để thoát khỏi cuộc khủng hoảng chính trị.

Vào giữa những năm 1990, Nga và Ukraine rẽ nhánh trong quá trình phát triển chính trị: Nga trở nên độc đoán hơn qua từng năm, trong khi Ukraine vẫn duy trì nền dân chủ mặc dù văn phòng tổng thống liên tục nỗ lực noi theo mô hình của Nga và thúc ép quốc hội phục tùng mình. Nhiều yếu tố góp phần vào những cục diện khác nhau này, điều này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa hai đối tác cấp cao trước đây của hệ thống Liên Xô.

Nền dân chủ Ukraine đã tạo ra mối đe dọa lớn đối với chế độ chính trị của Nga vì nó là kiểu mẫu về một hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả với một quốc hội mạnh mẽ, khuyến khích và hỗ trợ cho phe đối lập tự do của Nga chống đối chế độ ngày càng độc đoán ở Moscow. Ngoài ra, truyền thống dân chủ và hệ thống nghị viện của Ukraine khiến Nga khó giành lại quyền kiểm soát Ukraine hơn nhiều. Hơn nữa, phương Tây, vốn chủ trương chế độ dân chủ như một điều kiện tiên quyết cho mối quan hệ tốt đẹp với các quốc gia hậu Xô Viết, đã trao đặc quyền cho Ukraine trong việc xây dựng mối quan hệ chính trị lâu dài với châu Âu và Hoa Kỳ.

Cuộc đụng độ giữa nền dân chủ Ukraine và chủ nghĩa độc đoán Nga đã trở thành một cuộc khủng hoảng quốc tế trong thời kỳ Cách mạng Cam ở Ukraine năm 2004, khi cử tri từ chối chấp nhận kết quả giả hiệu của cuộc bầu cử tổng thống đã mang lại chiến thắng cho  ứng cử viên được Nga  ủng hộ, Viktor Yanukovych. Các cường quốc Phương Tây đã có lập trường cứng rắn, ủng hộ nền  dân chủ Ukraine và ứng cử viên cuối cùng được tuyên bố là người chiến thắng, Viktor Yushchenko. Cách mạng Cam đưa Ukraine và Nga và sau đó, Nga và phương Tây trên một lộ trình va chạm cuối cùng  dẫn đến chiến tranh.

Cải cách đấu với Dân chủ

Con đường đi đến chế độ độc tài của Nga thực sự bắt đầu vào ngày 21 tháng 9 năm 1993, khi tổng thống được bầu lên trong cuộc phổ thông đầu phiếu, Boris Yeltsin, ký sắc lệnh số 1400, giải tán hai cơ quan lập pháp của đất nước, Đại hội đại biểu nhân dân, một siêu quốc hội có quyền sửa đổi hiến pháp và luận tội tổng thống, và một quốc hội nhỏ hơn, được gọi là Xô Viết tối cao, có quyền thông qua luật và có thể phủ quyết các sắc lệnh của tổng thống.

Yeltsin không có quyền lực dưới hiến pháp hiện hành để giải tán bất kỳ cơ quan lập pháp nào, nhưng đó là những gì ông đã làm vào tháng 9 năm 1993. Lý do rất đơn giản: theo ông thấy, các nghị sĩ không chỉ thách thức quyền lực của ông mà còn khiến ông không thể tiếp tục các cải cách kinh tế mà ông đã quyết tâm thực hiện kể từ khi được bầu vào chức vụ chính trị tối cao vào mùa hè năm 1991. Các cải cách, được gọi là “liệu pháp sốc”, bắt đầu vào ngày 2 tháng 1 năm 1992. Chính phủ thả lỏng giá cả và cắt giảm trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước, tạo nên toàn bộ nền kinh tế Nga vào thời điểm đó. Giá cả tăng mạnh, các doanh nghiệp thấy mình bên bờ vực phá sản, và thu nhập trung bình giảm một nửa chỉ sau một đêm, chỉ để tiếp tục giảm. Gần một nửa dân số thấy mình dưới mức nghèo khổ, được định nghĩa là thu nhập 21,00 đô la Mỹ mỗi tháng.

Sự bất mãn của dân chúng với “liệu pháp sốc” đã dẫn đến tình trạng hỗn loạn chính trị. Cuối năm 1991, những người cải cách và những người theo chủ nghĩa dân tộc Nga đã cùng nhau vào quốc hội để “cứu nước Nga” khỏi sự sụp đổ kinh tế đang rình rập vì đã  trao cho Yeltsin những quyền hạn đặc biệt để cai trị bằng sắc lệnh trong một năm. Phép màu kinh tế mà Yeltsin hứa với quốc hội đã không xảy ra. GDP của Nga, giảm 5 phần trăm vào năm 1991, đã giảm mạnh gấp ba lần vào năm 1992.

Những người ủng hộ cải cách cấp tiến đã rút lui, trong khi những người cộng sản và dân tộc chủ nghĩa trước đây đã chuyển sang thế tấn công. Họ tin rằng Yeltsin đã lạc lối, trở thành con tin của các nhà kinh tế trẻ tự do được phương Tây hậu thuẫn như Yegor Gaidar, người mà Yeltsin đã bổ nhiệm làm thủ tướng Nga ở tuổi ba mươi lăm.

Vào tháng 12 năm 1992, với ân hạn một năm của Yeltsin sắp hết, quốc hội Nga từ chối gia hạn quyền hạn khẩn cấp cho ông và tái bổ nhiệm Gaidar làm thủ tướng. Yeltsin, người chưa bao giờ cai trị theo bất kỳ cách nào khác, đã phản đối. Ông muốn có một hiến pháp mới. Cuộc khủng hoảng đã được giải quyết bằng một sự thỏa hiệp: Yeltsin đồng ý với một thủ tướng khác, và quốc hội đồng ý gia hạn quyền cai trị của ông bằng sắc lệnh cho đến tháng 4 năm 1993, khi một cuộc trưng cầu dân ý về hiến pháp mới sẽ diễn ra. Nhưng vào tháng 3, Đại hội đại biểu nhân dân – siêu quốc hội do những người phản đối Yeltsin kiểm soát – đã sửa đổi hiến pháp, bãi bỏ một số quyền hạn của Yeltsin. Yeltsin đáp trả bằng cách tuyên bố một “chế độ đặc biệt” không chỉ kéo dài thời gian cai trị của ông bằng sắc lệnh mà còn trao cho ông nhiều quyền hạn hơn nữa.

Một cuộc khủng hoảng hiến pháp đã xảy ra ở Nga 16 tháng sau khi đất nước này hoàn toàn độc lập. Tòa án Hiến pháp và văn phòng tổng chưởng lý đã phản đối động thái của Yeltsin là vi hiến, và Quốc hội Đại biểu Nhân dân đã cố gắng luận tội Yeltsin nhưng không thể tập hợp được đa số hai phần ba cần thiết để buộc ông phải rời khỏi chức vụ. Cuộc trưng cầu dân ý về việc ủng hộ Tổng thống và các cải cách của ông diễn ra vào cuối tháng 4, và hầu hết cử tri đều ủng hộ tổng thống và ra lệnh bầu cử quốc hội sớm. Cả Quốc hội và Xô viết Tối cao đều bị đánh bại, nhưng cuộc khủng hoảng vẫn chưa kết thúc.

Mùa hè đã trôi qua trong một cuộc chiến tranh vô ích của các sắc lệnh trong đó quốc hội tìm cách giành lại vị thế đã mất bằng cách ban hành các nghị quyết về chính sách đối ngoại và xác nhận việc bầu cử chính quyền địa phương. Vào tháng 9 năm 1993, Yeltsin quyết định giải tán cả Quốc hội và Xô viết Tối cao, một lần nữa dùng đến trưng cầu dân ý để thông qua một hiến pháp mới với quyền hạn tổng thống được tăng cường. Vào ngày 21 tháng 9, ông đã ký một sắc lệnh giải tán cả hai cơ quan. Sắc lệnh này vi phạm trực tiếp hiến pháp hiện hành, trong đó quy định rằng bất kỳ tổng thống nào cố gắng giải tán một “cơ quan quyền lực nhà nước được bầu” sẽ ngay lập tức trở nên bất hợp pháp.

Về mặt pháp lý, bằng cách ký sắc lệnh, Yeltsin tự động mất hết mọi quyền lực của mình. Không chỉ các nhà lãnh đạo quốc hội mà cả phó tổng thống của Yeltsin, Aleksandr Rutskoi cũng nói như vậy, kêu gọi sắc lệnh đảo chính. Xô Viết Tối cao đã hủy bỏ sắc lệnh, và Quốc hội đã luận tội tổng thống. Rutskoi thay thế ông làm tổng thống lâm thời và bổ nhiệm chính phủ của riêng mình, bao gồm một bộ trưởng quốc phòng mới. Những người ủng hộ quốc hội có vũ trang đã cố gắng chiếm lấy trung tâm truyền hình Ostankino nhưng đã bị lực lượng chính phủ ủng hộ Yeltsin đẩy lùi.

Bộ trưởng quốc phòng, Tướng Pavel Grachev, và các quan chức cấp cao vẫn trung thành với Yeltsin. Sau khi yêu cầu một lệnh bằng văn bản từ tổng thống để vào thủ đô và nhận được nó vào sáng sớm ngày 3 tháng 10, Grachev đã ra lệnh cho quân lính của mình ở Moscow. Ông đích thân chỉ thị cho một đại úy phụ trách một trong những chiếc xe tăng đồn trú trên cầu Sông Moskva nhắm vào văn phòng của người đứng đầu quốc hội, Ruslan Khasbulatov. “Đó hẳn là văn phòng của Khasbulatov – tất cả bọn họ đều ở đó. Anh phải bắn vào cửa sổ đó. Anh có thể làm được không?” Grachev hỏi. Đại úy đảm bảo với bộ trưởng rằng anh có thể. Quốc hội đã bị bắn, những người bảo vệ quốc hội đã bị chế ngự và các nhà lãnh đạo của quốc hội đã bị bắt giữ. Yeltsin đã giải tán hàng chục tổ chức chính trị và cấm xuất bản nhiều tờ báo, bao gồm cả tờ Pravda, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản.

Trong một cuộc điện đàm với Tổng thống Bill Clinton vào ngày hôm sau, Yeltsin đã trình bày những gì đã xảy ra như một chiến thắng cho nền dân chủ. Theo truyền thống diễn ngôn chính trị của Liên Xô, ông gọi những người đối đầu của mình là “phát xít”. “Bây giờ những sự kiện này đã kết thúc, chúng ta không còn trở ngại nào nữa đối với cuộc bầu cử dân chủ của Nga và quá trình chuyển đổi sang nền dân chủ và nền kinh tế thị trường”, Yeltsin đảm bảo với Clinton. “Các tổ chức phát xít hoạt động trong các sự kiện này hiện đã bị cấm, vì vậy bây giờ tôi cảm thấy mọi thứ sẽ ổn thôi.” Clinton háo hức ủng hộ đồng minh người Nga của mình. “Ngài đã làm mọi thứ chính xác như ngài phải làm, và tôi xin chúc mừng ngài vì cách ngài xử lý vấn đề”, tổng thống Mỹ tuyên bố.

Cuộc tấn công vào nền dân chủ diễn ra trước sự chứng kiến ​​của Washington và được Washington công khai chấp thuận. Trong nội bộ, một số viên chức Hoa Kỳ đã nêu ra những câu hỏi về việc thiếu tự do ngôn luận trong chiến dịch tranh cử và “hiến pháp nửa vời”, đảm bảo quyền lực “áp đảo” trong tay người đứng đầu cơ quan hành pháp.” Nhưng trước công chúng, các đại diện của chính quyền đã ca ngợi Yeltsin. Đối với Clinton và nhiều người khác ở Hoa Kỳ, Nga và nhiều nơi khác, Yeltsin không chỉ là biểu tượng của nền dân chủ Nga mà còn là hy vọng cuối cùng của nước này. Những gì tốt cho Yeltsin cũng tốt cho Nga, Hoa Kỳ và bản thân nền dân chủ, đó là suy nghĩ của mọi người vào thời điểm đó.

Vào tháng 12 năm 1993, công dân Nga đã bỏ phiếu cho bản hiến pháp mới do các phụ tá của Yeltsin soạn thảo. “Tôi không phủ nhận  quyền hạn của tổng thống trong bản dự thảo là thực sự đáng kể”, Yeltsin nói với một phóng viên vào tháng 11 năm 1993. “Và bạn muốn gì? Ở một đất nước đã quen với các sa hoàng hoặc tù trưởng; một đất nước mà các nhóm lợi ích được xác định rõ ràng là chưa hợp nhất, và các nhà lãnh đạo của họ chưa được xác định, trong đó các đảng phái bình thường hầu như chưa được hình thành; một đất nước mà kỷ luật hành pháp cực kỳ yếu kém, nơi chủ nghĩa hư vô đối với luật pháp hoàn toàn tràn lan – ở một đất nước như vậy, người ta có thể chỉ hoặc chủ yếu đặt cược vào quốc hội không? Trong nửa năm nữa, nếu không muốn nói là sớm hơn, người dân chắc chắn sẽ đòi hỏi một nhà độc tài. Tôi dám đảm bảo với bạn rằng một tên độc tài như vậy sẽ nhanh chóng được tìm thấy. Và có lẽ ngay trong quốc hội đó.”

Yeltsin tuyên bố, trên thực tế, rằng Nga chưa sẵn sàng cho nền dân chủ và tự coi mình là vị cứu tinh của nước này tránh khỏi một chế độ độc tài còn tệ hại hơn. Ông đã giành chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý với 58 phần trăm sự ủng hộ cho hiến pháp mới. Đó là một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm vào Yeltsin: hầu hết những người bỏ phiếu ủng hộ hiến pháp đều không đọc bản dự thảo. Các cuộc bầu cử quốc hội được tổ chức đồng thời với cuộc trưng cầu dân ý cho thấy người Nga muốn có một quyền lực tổng thống không cần cải cách. Những người theo chủ nghĩa cải cách của Yegor Gaidar, được Yeltsin hậu thuẫn, chỉ giành được 15 phần trăm số phiếu bầu. Người chiến thắng, với 23 phần trăm, là chính trị gia theo chủ nghĩa dân tộc cấp tiến – thực ra là phát xít mới Vladimir Zhirinovsky, người lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do. Những người cộng sản, hiện đã bị cấm, giành được 12 phần trăm.

Hiến pháp mới đã làm giảm đáng kể quyền lực của ngành lập pháp và tăng quyền lực của tổng thống và cơ quan hành pháp, gây ra những hậu quả tiêu cực cho đời sống chính trị của Nga. Quốc hội chưa bao giờ có nhiều ảnh hưởng trong nền chính trị của đất nước hậu Xô Viết và bị gạt ra ngoài lề vì sự cai trị bằng sắc lệnh của Yeltsin, giờ đây đã bị đẩy ra ngoài lề của tiến trình chính trị không chỉ trên thực tế mà còn trên pháp lý. Boris Yeltsin và các phụ tá của ông tin rằng bằng cách tăng cường quyền lực của tổng thống, họ không chỉ cứu được chương trình cải cách mà còn cứu cả nền dân chủ khỏi những gì Yeltsin mô tả là chế độ độc tài sắp xảy ra. Nhưng hiến pháp mới đã thiết lập một tiền lệ cho chế độ độc tài.

Dân chủ đấu với Cải cách

Sự chuyển hướng sang chủ nghĩa độc tài của Nga diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế suy thoái nghiêm trọng và được giải thích bởi nhiều yếu tố khác nhau, từ lời nguyền tài nguyên liên quan đến sự giàu có về dầu mỏ và khí đốt của Nga cho đến hệ thống chính phủ “siêu tổng thống” của nước này.

Xét về mặt lịch sử, sự chuyển hướng độc đoán đã được định trước bởi sự sụp đổ của đế quốc vào cuối những năm 1980 và 1990 và được báo trước bởi sự liên kết lâu dài của quần chúng và giới tinh hoa Nga với một nhà nước mạnh. Sự oán giận sinh ra ở cả hai cấp độ quần chúng và tinh hoa do Nga mất vị thế siêu cường từ hậu quả của thất bại thực tế trong Chiến tranh Lạnh khiến cho sự thay đổi sang chế độ chuyên chế có nhiều khả năng xảy ra hơn. Nó được củng cố thêm bởi nỗi nhục nhã  do mất đế chế bên ngoài ở Đông Âu và nội bộ đế chế bên trong biên giới của Liên Xô. Quân đội chiếm đóng hiện đã được triệu hồi khỏi Đông Âu, và nhiều người Nga bản địa sống ở các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã chạy về Liên bang Nga. Cuối cùng, những nỗ lực của Moscow nhằm ngăn chặn sự tan rã của Liên bang Nga sản sinh hai cuộc chiến tranh chống Chechnya (1994-96 và 1999-2009), tạo ra một nhà nước Nga có tính quân phiệt cao, giáng đòn cuối cùng vào sự phát triển dân chủ của đất nước.

Suy thoái kinh tế thậm chí còn rõ rệt hơn ở Ukraine, nơi thiếu nguồn dự trữ dầu khí phong phú tương tự như Nga để có thể sử dụng nhằm giảm thiểu tác động của suy thoái. 62 phần trăm người Ukraine thấy mình dưới mức nghèo khổ là 21,00 đô la Mỹ một tháng vào năm 1995, so với chưa đến 50 phần trăm người Nga vào năm 1993. Nhưng nền dân chủ vẫn tồn tại ở Ukraine mặc dù có nhiều khó khăn chung với các quốc gia, xã hội và nền kinh tế hậu Xô Viết. Một lý do cho điều này là sự đa dạng vùng miền của Ukraine và sự yếu kém của chủ nghĩa dân tộc Ukraine, vốn đã hạn chế sức lôi kéo địa phương vào những năm 1990, khiến một số học giả gọi đó là “tín ngưỡng thiểu số”.

“Ukraine đã trở thành quốc gia có tính cạnh tranh và dân chủ nhất trong Khối Thịnh vượng các Nhà nước Độc lập  trong thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh – trải qua bốn lần thay đổi bầu cử, một nền truyền thông sôi động, và các phong trào quần chúng liên tục đòi thay đổi chính trị”, nhà khoa học chính trị Lucan Way đã viết vào năm 2015, mô tả nền chính trị Ukraine là “chủ nghĩa đa nguyên theo mặc định”. Theo ông, “chủ nghĩa đa nguyên đáng ngạc nhiên của Ukraine bắt nguồn từ các đảng cầm quyền kém phát triển, một nhà nước độc tài yếu kém và sự chia rẽ quốc gia giữa miền đông và miền tây Ukraine”. “Nhìn chung”, Way nói tiếp, “các nhà lãnh đạo có ít năng lực để giữ cho các đồng minh đi đúng hướng, thao túng quá trình bầu cử, cắt đứt nguồn lực của phe đối lập và đàn áp bạo lực các thách thức của phe đối lập”.

Nếu trong mắt công chúng Nga và một bộ phận lớn giới tinh hoa, sự sụp đổ của Liên Xô với tư cách là một siêu cường và đế chế là một mất mát đối với Nga, thì giới tinh hoa Ukraine và phần lớn công chúng coi đó là một lợi ích cho đất nước mình. Về mặt lịch sử, Ukraine đã bị cai trị bởi các thủ đô nước ngoài, vì vậy dân số và giới tinh hoa chính trị của nước này không mấy nuối tiếc về sự phụ thuộc trước đây của mình vào Moscow. Không có truyền thống gần đây về nhà nước dân tộc, đất nước này khó có thể nhanh chóng hợp nhất xung quanh một trung tâm chính trị của riêng mình: thay vào đó, có một chủ nghĩa vùng miền mạnh mẽ đã phân mảnh không gian chính trị của Ukraine và khiến chính trị trở nên cạnh tranh hơn nhiều so với trước đây ở Nga. Sự yếu kém của chủ nghĩa dân tộc Ukraine đã ngăn cản giới tinh hoa chính trị của đất nước này chấp nhận một câu chuyện quốc gia duy nhất, như đã xảy ra ở Nga. Tuy nhiên, Ukraine không bao giờ bị chia cắt hoàn toàn, vì giới tinh hoa khu vực cạnh tranh giành uy thế ở quốc gia mới giành được độc lập, nơi họ có thể đóng vai trò nổi bật hơn nhiều so với những vai trò được giao cho mình dưới chế độ Xô Viết.

Leonid Kravchuk, người đồng cấp Ukraine của Yeltsin, được bầu làm tổng thống nước mình vào năm 1991 và giống như Yeltsin, được thăng lên chức tổng thống từ vị trí chủ tịch quốc hội.

Kravchuk có vấn đề riêng với cơ quan lập pháp mà ông đã sử dụng làm cơ sở quyền lực để lên nắm giữ chức vụ cao nhất trong nước. Bản năng chính trị của ông khá giống với người đồng cấp Nga của mình.

Kravchuk không thích quốc hội nổi loạn của Ukraine – Verkhovna Rada – và muốn tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để tăng quyền hạn cho chức vụ mới của mình. Nhưng giới tinh hoa chính trị Ukraine và xã hội nói chung không mấy mặn mà với một kịch bản như vậy. Ở Ukraine, cũng như ở Nga, nền kinh tế và phản ứng của công chúng đối với sự tan rã của Liên Xô là hai vấn đề chính biến chính trị quốc gia thành một vở kịch không hồi kết, đưa tổng thống và quốc hội vào những vai trò đối lập. Nhưng những vấn đề đó diễn ra khác ở Ukraine, nơi mà, quan trọng nhất, giới tinh hoa chính trị đã tăng cường chứ không làm suy yếu các thể chế dân chủ sinh ra từ sự hỗn loạn của các cải cách chính trị và kinh tế của Gorbachev. “Khoảnh khắc dân chủ” của Nga đã trở thành “thời đại dân chủ” ở Ukraine. Leonid

Kravchuk chưa bao giờ là kiểu nhà cách mạng như Yeltsin đã trở thành trong giai đoạn cuối của Liên Xô. Nếu Yeltsin đã phục vụ trong suốt sự nghiệp đảng của mình với tư cách là một ông chủ khu vực chịu trách nhiệm quản lý các thực thể hành chính và kinh tế lớn như tỉnh Sverdlovsk  và Moscow, Kravchuk là một apparatchik (cán bộ cao cấp trong bộ máy đảng) tinh túy, điều hành bộ phận tuyên truyền của Ủy ban Trung ương Ukraine. Trong khi Yeltsin rời khỏi Đảng Cộng sản sớm, phản đối tốc độ cải cách chậm chạp của Gorbachev, Kravchuk vẫn trung thành đến cùng. Nếu Yeltsin được bầu vào quốc hội và sau đó trở thành chủ tịch quốc hội bất chấp ý muốn của ban lãnh đạo đảng, thì Kravchuk đã nắm quyền lãnh đạo quốc hội Ukraine nhờ sự ủng hộ của các ông chủ đảng. Và trong khi Yeltsin tranh cử tổng thống Nga với một ứng cử viên cộng sản được Kremlin ủng hộ, Kravchuk đã cạnh tranh thành công với một ứng cử viên ủng hộ dân chủ, người cũng tình cờ là một cựu tù nhân của Gulag.

Sự khác biệt giữa Yeltsin và Kravchuk mở rộng đến phong cách lãnh đạo tổng thống của mình. Nếu Yeltsin là một người theo chủ nghĩa dân túy có sức lôi cuốn, có tham vọng cao đối với quyền lực, Kravchuk là một người khéo léo và là người xây dựng sự đồng thuận. Ông sẽ cần những kỹ năng đó khi nhậm chức, vì ông lãnh đạo một đất nước rất khác với Nga và đối mặt với một quốc hội rất khác. Ukraine bị chia rẽ bởi lịch sử, văn hóa và khuynh hướng cũng như bản năng chính trị của người dân trong khi Liên bang Nga chưa từng như vậy.

Phía đông và phía nam của Ukraine từng là trung tâm công nghiệp của Liên Xô, rất Nga hóa về văn hóa, và có hàng triệu người Nga trong số cư dân của mình. Trung tâm Ukraine chủ yếu là nông thôn và nói tiếng Ukraine, một sản phẩm của dự án quốc gia Ukraine Xô Viết những năm 1920, chấp nhận bản sắc văn hóa Ukraine nhưng không chấp nhận bản sắc chính trị. Sau đó là phía Tây Ukraine, vốn từ lâu đã là một phần của các quốc gia và đế chế Trung Âu. Bản sắc dân tộc cực kỳ độc đáo của nó đã được củng cố bởi phong trào dân tộc chủ nghĩa giữa các cuộc chiến và cuộc chiến tranh du kích kéo dài chống lại sự cai trị của Liên Xô do Quân đội nổi dậy Ukraine tiến hành vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950.

Cũng như ở Nga, “những người dân chủ” Ukraine nổi lên như một lực lượng năng động nhất trong nền chính trị cuối thời Xô Viết và đầu thời hậu Xô Viết. Mối quan tâm chính của họ không phải là cải cách kinh tế mà là xây dựng nhà nước. Đến cuối năm 1991, Yeltsin đã thiết lập quyền kiểm soát đối với tất cả các cán bộ quản lý và các tổ chức của Liên bang có nhiều kinh nghiệm trong việc điều hành một nhà nước độc lập; ở Ukraine, các tổ chức như vậy phải được xây dựng gần như từ con số không trên cơ sở các bộ mà vào thời Xô Viết chỉ chuyển tiếp các lệnh từ Moscow đến vùng ngoại vi, đảm bảo rằng hạn ngạch sản xuất và chỉ thị từ cấp trên được thực hiện kịp thời.

Khi nói đến cải cách thị trường, quốc hội Ukraine thiếu một nhóm vận động hành lang mạnh mẽ để ủng hộ hoặc thông qua chúng, và công chúng không sẵn sàng tán thành chúng. Cải cách kinh tế có nghĩa là khó khăn, điều này rất có thể sẽ chia rẽ đất nước và phá hỏng nền độc lập của nó. Một cuộc thăm dò được tiến hành vào năm 1993 cho thấy chỉ có 19 phần trăm người Ukraine sẵn sàng chịu đựng các cải cách kinh tế để củng cố và duy trì nền độc lập, trong khi 44 phần trăm thì không. Hầu hết những người trước  sống ở phía tây, trong khi hầu hết những người sau sống ở phía đông và phía nam. Do đó, Ukraine thấy mình trước tiên là chống lại, sau đó là trì hoãn, và cuối cùng là đi theo các cải cách.

Việc trì hoãn cải cách kinh tế đó đã ngăn chặn được suy thoái kinh tế nhưng cuối cùng lại khiến nó trở nên nghiêm trọng hơn. Nếu nền kinh tế Nga mất 15 phần trăm GDP vào năm 1992, 9 phần trăm vào năm 1993 và 13 phần trăm vào năm 1994, thì ở Ukraine, con số tương ứng là 10 phần trăm vào năm 1992, 14 phần trăm vào năm 1993 và 23 phần trăm vào năm 1994. Quốc hội Ukraine in tiền liên tục mất giá; Yeltsin không cho phép quốc hội Nga làm như vậy. Đồng karbovanet của Ukraine bắt đầu giảm gần như ngay lập tức sau khi được đưa vào sử dụng. Vào ngày 1 tháng 10 năm 1992, giá trị chính thức của nó là 340 karbovanet đổi một đô la Mỹ; hai tháng sau, là 715 karbovanet đổi một đô la. Năm 1993, đồng karbovanet giảm từ 740 xuống 40.000 đổi một đô la, và lạm phát đạt 10.256 phần trăm. Ngân sách nhà nước đạt mức thâm hụt 40 phần trăm.

Ở Ukraine, cũng như ở Nga, khủng hoảng kinh tế đã gây ra hoặc làm trầm trọng thêm khủng hoảng chính trị.

Không giống như Yeltsin, Kravchuk không bao giờ giành được từ quốc hội quyền cai trị bằng sắc lệnh. Thay vào đó, quốc hội đã trao quyền đó tạm thời cho thủ tướng, người mà sự sống còn của ông phụ thuộc vào một cuộc bỏ phiếu của quốc hội. Căng thẳng chính trong nền chính trị Ukraine nổi lên không phải giữa tổng thống và quốc hội mà là giữa tổng thống và thủ tướng. Cuộc đối đầu đó đã làm tê liệt nhánh hành pháp, làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng kinh tế nhấn chìm đất nước và gây ra các cuộc đình công lớn trong số những người thợ mỏ Donbas, họ đã diễu hành đến Kyiv để trình bày yêu sách của mình.

Để giải quyết xung đột, Kravchuk đã sao chép cách thức của Yeltsin và đề xuất một cuộc trưng cầu dân ý để xác định xem tổng thống có nên được trao quyền điều hành chính phủ hay không, để thể hiện sự tin tưởng vào người đương nhiệm. Cuộc trưng cầu dân ý được lên lịch vào cuối tháng 9 năm 1993, tháng mà Yeltsin thực hiện cuộc đảo chính của riêng mình chống lại quốc hội Nga. Nhưng các cuộc biểu tình quần chúng ở Kyiv đã ngăn cản Kravchuk thực hiện cuộc trưng cầu dân ý của mình. Thay vào đó, các cuộc bầu cử mới, cả quốc hội và tổng thống, được lên lịch vào năm sau.

Hiến pháp Ukraine

Leonid Kravchuk đã cố gắng hết sức để biến cuộc bầu cử thành một cuộc trưng cầu dân ý về nền độc lập của Ukraine, tự coi mình là người sáng tạo và bảo vệ nền độc lập này. Đối thủ của ông, cựu giám đốc nhà máy tên lửa lớn nhất châu Âu và cựu thủ tướng Ukraine, Leonid Kuchma, đã vận động trên nền tảng xây dựng lại quan hệ kinh tế với Nga. Cử tri Ukraine chia rẽ theo trục đông-tây, ủng hộ Kravchuk chủ yếu là vùng nông thôn và nói tiếng Ukraine ở phía tây và trung tâm của đất nước và ủng hộ Kuchma là vùng đô thị và nói tiếng Nga ở phía đông và phía nam. Không có ứng cử viên nào vượt qua mốc 50 phần trăm trong vòng đầu tiên của cuộc bầu cử. Ở vòng thứ hai, Kuchma đã giành chiến thắng với 52 phần trăm so với 45 phần trăm của Kravchuk. Kravchuk rời nhiệm sở, không đưa ra nỗ lực nào để thách thức kết quả.

Ukraine đã làm được điều mà Nga không bao giờ có thể đạt được, đó là chuyển giao quyền lực tổng thống thông qua các cuộc bầu cử tự do và công bằng.

Cuộc bầu cử quốc hội Ukraine kết thúc rất giống với những cuộc bầu cử ở Nga, với chiến thắng trên thực tế của các ứng cử viên cộng sản và đồng minh của họ, được đưa vào quốc hội bởi làn sóng bất bình của người dân do cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra. Tổng thống mới, Leonid Kuchma, hướng đến cải cách kinh tế, bao gồm cả tư nhân hóa hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước: Ukraine đã trì hoãn quá lâu và hiện đang ở trong tình hình kinh tế tồi tệ hơn Nga. Nhưng quốc hội cánh tả muốn quay trở lại với quy định của nhà nước. Ở Nga, hiến pháp mới trao quyền cho tổng thống tự mình hành động về các cải cách kinh tế, nhưng ở Ukraine, tổng thống không thể làm được gì nhiều nếu không có sự đồng ý của quốc hội.

Leonid Kuchma muốn có một hiến pháp mới, nhưng các nhà lãnh đạo quốc hội lại muốn giữ nguyên hiến pháp cũ. Đi theo bước chân của Yeltsin, Kuchma đe dọa sẽ đưa dự thảo hiến pháp của riêng mình ra trưng cầu dân ý. Biết được từ kinh nghiệm của Nga rằng điều đó có thể dẫn đến đâu, quốc hội đã quyết định thỏa hiệp. Tính cấp bách càng tăng  thêm bởi cuộc bầu cử tổng thống năm 1996 ở Nga, trong đó một ứng cử viên cộng sản đang có cơ hội tốt để đánh bại Yeltsin. Nỗi lo sợ ngày càng tăng ở Kyiv rằng với một người cộng sản lãnh đạo ở Nga và những người cộng sản chiếm đa số trong quốc hội Ukraine, họ có thể tiếp tay cố gắng khôi phục lại Liên Xô.

Vào tháng 6 năm 1996, quốc hội Ukraine đã thông qua văn bản hiến pháp mới của Kuchma, tạo ra một hệ thống chính phủ hỗn hợp giữa tổng thống và nghị viện. Trong sự sắp xếp chia sẻ quyền lực này, tổng thống đã giành được quyền phủ quyết một số trường hợp nhất định. Nhưng quốc hội đã giành được vai trò quyết định trong việc bổ nhiệm thủ tướng và các thành viên chủ chốt trong nội các, bao gồm cả người đứng đầu ngân hàng quốc gia. Quốc hội cũng đưa đại diện của mình vào tòa án hiến pháp và hội đồng quản trị của ngân hàng quốc gia. Hơn nữa, quốc hội dành riêng cho mình quyền sửa đổi hiến pháp và tiến hành trưng cầu dân ý.

Quốc hội Ukraine do đó đã vượt qua được cuộc khủng hoảng kinh tế và chính trị vào giữa những năm 1990 với tư cách là một thể chế chính trị độc lập và mạnh mẽ, có khả năng hạn chế đặc quyền của tổng thống. Không kém phần quan trọng, quốc hội vẫn rất đa nguyên về đại diện chính trị. Không có đảng phái chính trị hay giới tinh hoa khu vực nào đủ mạnh để nắm giữ quốc hội và áp đặt ý chí hay tầm nhìn chính trị của mình lên toàn bộ đất nước. Thỏa hiệp xuất hiện như cách khả thi duy nhất để giới tinh hoa giải quyết những khác biệt của họ và dung hòa lợi ích của nhau. Luật bất thành văn của chính trị Ukraine sẽ không thay đổi theo sự kế thừa của những người môi giới quyền lực. Cho dù họ là những ông chủ của Đảng Cộng sản, “giám đốc đỏ” hưởng lợi từ việc Kuchma tư nhân hóa các doanh nghiệp mà họ đã quản lý, hoặc đại diện cho tầng lớp tinh hoa kinh tế và đầu sỏ mới, các quy tắc chính trị vẫn giữ nguyên: người ta phải tìm kiếm đồng minh và sẵn sàng thỏa hiệp.

Vấn đề then chốt được tranh luận trong chính trường Ukraine không phải là cải cách kinh tế mà là xây dựng quốc gia và quan hệ với cựu đế quốc, Nga. Ở Ukraine, không giống như ở Nga, những người cộng sản và dân tộc chủ nghĩa bị chia rẽ và đấu đá lẫn nhau, những người dân tộc chủ nghĩa ủng hộ phương Tây và cải cách, những người cộng sản phản đối cải cách và thân Nga. Sự đa dạng về văn hóa và khu vực của đất nước, được thừa hưởng từ lịch sử lâu dài bị các đế chế và  nước ngoài cai trị, đã đóng góp rất lớn vào sự đa nguyên chính trị của xã hội Ukraine.

Những người dân tộc chủ nghĩa dân chủ, chủ yếu có trụ sở ở miền tây Ukraine, nhấn mạnh phải chấm dứt sự phụ thuộc vào Nga về mặt chính trị, kinh tế và văn hóa càng sớm càng tốt và bằng mọi giá. Về phần những ông chủ công nghiệp và đảng viên cộng sản trước đây được bầu lên ở phía đông đã thúc đẩy mối quan hệ chặt chẽ hơn với Nga, nước cung cấp năng lượng cho nền kinh tế khu vực và ngôn ngữ và văn hóa của họ được chia sẻ bởi một bộ phận lớn dân số miền đông và miền nam Ukraine. Còn vùng trung tâm nổi lên như một chiến trường trong cuộc chiến văn hóa và kinh tế không được tuyên bố này giữa đông và tây, khiến mỗi bên không muốn dùng đến các biện pháp cực đoan, chủ trương sự thỏa hiệp và giúp giữ cho đất nước thống nhất. Vai trò tương tự được thực hiện bởi hàng triệu người Ukraine sắc tộc Nga, những người đóng vai trò vừa là vùng đệm vừa là chất kết dính liên kết những người sắc tộc Nga nói tiếng Nga ở phía đông và phía nam và người sắc tộc  Ukraine nói tiếng Ukraine ở phía tây và trung tâm đất nước.

Bất chấp sự đa dạng về chính trị, kinh tế và văn hóa, đất nước vẫn đoàn kết. Nếu ở Nga, sự sụp đổ của Liên Xô mang lại cảm nhận thất bại và oán giận, thì giới tinh hoa Ukraine lại coi mình là những người hưởng lợi từ sự sụp đổ của đế quốc và có nhiều động lực để đoàn kết xung quanh ý tưởng về chủ quyền của Ukraine, bất chấp những cách khác nhau mà họ hình dung về nó. Có nhiều nét lạc quan trong các hành lang quyền lực ở Kyiv hơn so với ở Moscow, bất chấp hiệu quả kinh tế  thảm khốc của Ukraine

Chức Tổng thống Nga

Cuộc bầu cử tổng thống Nga năm 1996, khiến các nghị sĩ Ukraine lo sợ phải thông qua một bản hiến pháp thỏa hiệp để ngăn chặn sự phục hồi của Liên Xô theo chủ nghĩa cộng sản, đã đưa Nga vào con đường hướng tới một hình thức chính phủ độc tài mà sau này họ gọi là nền dân chủ “có quản lý” hoặc “có chủ quyền” – tức việc sử dụng và lạm dụng hệ thống bầu cử để duy trì và củng cố chế độ độc tài.

Bước đầu tiên đã được thực hiện vào ngày 15 tháng 3 năm 1996, khi những người cộng sản Nga giành chiến thắng trong cuộc bầu cử quốc hội năm trước đã bảo trợ cho một cuộc bỏ phiếu tại Duma (Hạ viện Nga) từ bỏ việc phê chuẩn các thỏa thuận Belavezha giữa Nga, Ukraine và Belarus theo đó tuyên bố giải thể Liên Xô vào tháng 12 năm 1991 và  thành lập Khối Thịnh vượng Chung các Nhà nước Độc lập. Nghị quyết của đảng cộng sản được 250 đại biểu ủng hộ, chỉ có 98 người bỏ phiếu chống. Nghị quyết này không mang tính ràng buộc và theo hiến pháp mới, quốc hội không có quyền thực hiện nó, nhưng đó là một thách thức trực tiếp đối với Yeltsin và tính hợp pháp của ông với tư cách là tổng thống nước Nga hậu Xô Viết.

Yeltsin ngay lập tức lên án cuộc bỏ phiếu là một cuộc tấn công vào nước Nga – “một nỗ lực nhằm thanh lý nhà nước của chúng ta.” Cho dù các nhà lãnh đạo cộng sản của Duma có thực sự chuẩn bị khôi phục Liên Xô hay không, họ không để lại nghi ngờ gì rằng họ muốn hạ bệ Yeltsin trong cuộc bầu cử tổng thống sắp tới. Những đối thủ của ông trong cuộc khủng hoảng hiến pháp năm 1994, phó tổng thống Aleksandr Rutskoi và chủ tịch quốc hội, Ruslan Khasbulatov, người đã bị bắt sau cuộc tấn công của Yeltsin vào quốc hội, giờ đã được Duma trả tự do khỏi nơi giam giữ bằng lá phiếu của mình. Nhưng ứng cử viên mạnh nhất cho chức tổng thống không phải là Rutskoi hay Khasbulatov. Họ bị lu mờ trước người đứng đầu Đảng Cộng sản Nga, Gennadii Ziuganov, người được hơn 20 phần trăm cử tri Nga ủng hộ, trong khi sự ủng hộ dành cho Yeltsin đã giảm xuống còn khoảng từ 5 đến 8 phần trăm cử tri đủ điều kiện.

Nhóm thân cận của Yeltsin, bao gồm cả vệ sĩ đáng tin cậy của ông là Aleksandr Korzhakov, cũng từng là  người gác cổng cho tổng thống, đã lập luận rằng Yeltsin nên cấm Đảng Cộng sản hoạt động, giải tán Duma, hoãn bầu cử đến năm 1998 và cai trị bằng sắc lệnh. Yeltsin đồng ý và ra lệnh cho các phụ tá của mình chuẩn bị các sắc lệnh thực thi tất cả các biện pháp đó. Nền dân chủ Nga sắp phải chịu một đòn giáng nữa, một lần nữa dưới tay Yeltsin và một lần nữa, bề ngoài là với mục tiêu cao cả là bảo vệ nó. Nhưng những người cải cách trong chính phủ của Yeltsin, do tác giả của chương trình cải cách tư nhân hóa Nga, Anatolii Chubais, lãnh đạo, đã nổi loạn chống lại kế hoạch do đội an ninh của tổng thống đề xuất.

Chubais đã vận động con gái Yeltsin, Tatiana Diachenko, thuyết phục cha cô gặp ông. Ông gần như cáo buộc Yeltsin phản bội các nguyên tắc mà ông đã đấu tranh trong suốt những năm đó. Theo hồi ức của mình, Yeltsin cảm thấy hổ thẹn. Các kế hoạch hoãn cuộc bầu cử đã bị hủy bỏ; Korzhakov và nhóm của y mất quyền lực và bị cấm vào Điện Kremlin. Yeltsin quyết định đối mặt với cử tri đoàn, và Chubais trở thành người đứng đầu chiến dịch tranh cử của ông. Dân chủ dường như đang đẩy lùi bản năng độc đoán.

Đó là một canh bạc, theo phong cách của Yeltsin. Cũng như năm 1991, ông một lần nữa đặt sự nghiệp chính trị của mình, nếu không muốn nói là mạng sống của mình, vào thế nguy hiểm. Một lần nữa, ông tự coi mình là vị cứu tinh đem nước Nga ra khỏi chủ nghĩa cộng sản, lần này là ra khỏi sự trỗi dậy của chủ nghĩa cộng sản.

Ngân sách được định hướng vào việc trả lương hưu và lương, trong khi các quan chức chính phủ được huy động để giành được phiếu bầu ủng hộ Yeltsin. Liệu pháp sốc của Yeltsin đã khiến ông mất đi sự ủng hộ của công chúng nhưng cũng tạo ra một tầng lớp siêu giàu mới sẵn sàng ủng hộ ông. Vào mùa thu và đầu mùa đông năm 1995, một nhóm các chủ ngân hàng Nga đã thực hiện một thỏa thuận không chính thức với văn phòng tổng thống, cung cấp các nguồn lực truyền thông và tiền bạc để thúc đẩy chiến dịch tranh cử của ông và hối lộ cử tri và giới tinh hoa khu vực bằng cách cung cấp các dự án xây dựng. Đổi lại, họ được hứa hẹn cổ phần trong các doanh nghiệp do chính phủ sở hữu với giá hời.

Boris Yeltsin lao vào cơn cuồng loạn của chiến dịch tranh cử. Sức khỏe không tốt trong một thời gian dài và dễ rơi vào trạng thái trầm cảm, mà ông giải khuây bằng rượu, Yeltsin đã phải chịu đựng một cơn đau tim giữa chiến dịch nhưng đã xoay xở để vượt qua vạch đích. Nhờ sự hỗ trợ của bộ máy nhà nước và các chủ ngân hàng, ông đã thắng thế. Chiến lược tự coi mình là lực lượng duy nhất có khả năng ngăn chặn sự trở lại của chủ nghĩa cộng sản đã phát huy tác dụng. Yeltsin đã về đích trước ứng cử viên cộng sản, Ziuganov, trong vòng đầu tiên, giành được 36 phần trăm số phiếu so với 32 phần trăm của Ziuganov, và sau đó đánh bại ông này với tỷ lệ 54 so với 41 phần trăm trong vòng thứ hai. Vào thời điểm đó, người về thứ ba trong vòng đầu tiên, Tướng Aleksandr Lebed, đã tham gia chính phủ của Yeltsin, được bổ nhiệm làm thư ký Hội đồng An ninh.

Yeltsin thắng, những người cộng sản và dân tộc chủ nghĩa đã bị ngăn chặn, và một số hình thức dân chủ đã được bảo tồn. Những chủ ngân hàng đã tài trợ cho chiến dịch tranh cử tổng thống của Yeltsin và sở hữu phương tiện truyền thông giờ đây cũng trở thành những nhà công nghiệp. Một tầng lớp đầu sỏ mới đã ra đời. Các thành viên của nó không sợ một cuộc trả thù cộng sản hoặc việc thành lập một chế độ độc tài ở Nga. Cách tốt nhất để giữ gìn tài sản của họ là duy trì một số hình thức dân chủ bầu cử. Yeltsin coi chiến thắng của mình là một ủy thác để tiếp tục, thực sự là tăng tốc, cải cách thị trường. Hy vọng đẩy nhanh như vậy đã bị dập tắt bởi cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, khiến Nga vỡ nợ trái phiếu bằng đồng rúp vào tháng 8 năm 1998. Trong vòng vài tuần, đồng tiền này đã giảm từ 6,3 xuống còn 21 rúp đổi được một đô la Mỹ. Lạm phát sẽ sớm đạt tới 87 phần trăm.

Sự sụp đổ tài chính năm 1998 đã đặt ra một thách thức mới cho hệ thống chính trị Nga. Cuộc bầu cử tổng thống đã được lên lịch vào năm 2000, nhưng cả sức khỏe của Yeltsin lẫn hiến pháp Nga đều không cho phép ông ra tranh cử thêm một nhiệm kỳ nữa. Ai sẽ kế nhiệm tổng thống vẫn là một câu hỏi bỏ ngỏ. Yeltsin tin rằng ông có quyền và thực sự có trách nhiệm lựa chọn người kế nhiệm. Phần còn lại sẽ được thực hiện theo phương pháp được sử dụng trong cuộc bầu cử năm 1996, tập hợp các nguồn lực của nhà nước và các nhà tài phiệt thân thiện, những người đã đoàn kết xung quanh Yeltsin và được gọi là “gia đình”. Bước đệm để trở thành tổng thống là chức vụ thủ tướng. Đạt được vị trí đó với tư cách là chủ tịch của quốc hội, như chính Yeltsin từng làm, giờ đây là điều không thể—Duma đã nằm trong tay những người phản đối tổng thống.

Các cuộc đọ sức cho chức tổng thống trong cái được gọi là Chiến dịch “Người kế nhiệm” bắt đầu với việc bổ nhiệm Sergei Stepashin, cựu bộ trưởng nội vụ 47 tuổi, làm thủ tướng. Nhiệm vụ của ông ta, theo như Yeltsin quan tâm, là chứng minh lòng trung thành với chính Yeltsin và giành được sự ủng hộ của cử tri. Stepashin không đạt được cả hai điều đó. Về điểm đầu tiên, ông tìm cách thỏa hiệp với những đối thủ của Yeltsin, hứa hẹn vị tổng thống tương lai sẽ không làm gì để bảo vệ Yeltsink trước kẻ thù sau khi ông ta kết thúc nhiệm kỳ của mình.

Stepashin cũng không thể giải quyết được tình hình an ninh trong và quanh Chechnya, vấn đề nội bộ chính của Liên bang Nga và là vết thương hở từ đầu những năm 1990.

Stepashin đã rời nhiệm sở vào tháng 8, được thay thế bởi một đại diện khác của khối an ninh chính quyền, cựu giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang và thư ký Hội đồng An ninh, Vladimir Putin. Một cựu sĩ quan KGB và là trợ lý của đồng minh chủ chốt của Yeltsin đầu những năm 1990, thị trưởng St. Petersburg, Anatolii Sobchak, Putin đã chuyển đến Moscow sau khi Sobchak thua cuộc bầu cử năm 1996. Ông gia nhập chính quyền tổng thống và sau đó được bổ nhiệm làm người đứng đầu Cục An ninh Liên bang. Putin cũng thiết lập các mối quan hệ tốt đẹp với những nhà cải cách, các nhà tài phiệt và những người ủng hộ Yeltsin, đặc biệt là Valentin Yumashev, người đứng đầu chính quyền tổng thống sau Chubais, người bản xứ Urals như Yeltsin, và sau đó là con rể của ông. Chính gia đình đã chọn Putin làm thủ tướng và người kế nhiệm của Yeltsin.

Giống như Stepashin, Putin được kỳ vọng sẽ bảo vệ Yeltsin khỏi các cuộc tấn công của những đối thủ chính trị của ông ta và chứng tỏ được khả năng giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử. Putin đã thành công trong cả hai nhiệm vụ. Ngay cả trước khi được bổ nhiệm vào chức thủ tướng, ông đã chứng minh lòng trung thành của mình với Yeltsin bằng cách truy đuổi kẻ thù của ông ta. Với tư cách là người đứng đầu Cơ quan An ninh Liên bang, ông đã cung cấp băng ghi hình về các cuộc gặp gỡ giữa Tổng chưởng lý Yurii Skuratov, người công kích Yeltsin, với gái mại dâm trong một căn hộ ở Moscow. Skuratov đã hợp tác không chính thức với các đặc vụ an ninh để giải quyết các đối thủ chính trị của Yeltsin. Bây giờ sự nghiệp của ông ta đã kết thúc, trong khi triển vọng của Putin được cải thiện: ông sớm được bổ nhiệm làm thư ký Hội đồng An ninh và đang trên đường trở thành thủ tướng.

Putin, một cán bộ đảng cao cấp mờ nhạt, tên tuổi thậm chí không được biết đến trong giới tinh hoa chính quyền, nói chi đến công chúng nói chung, đã thực hiện một phép màu sau khi được bổ nhiệm, trở thành chính trị gia Nga được ưa chuộng nhất chỉ trong vài tháng ngắn ngủi. Vào tháng 8, chỉ có 2 phần trăm cử tri Nga sẵn sàng ủng hộ ông ta, nhưng đến cuối năm ông ta đã có được sự ủng hộ của 51 phần trăm cử tri tiềm năng.

Làm sao điều đó có thể xảy ra? Hai lợi thế chính là sự kiểm soát hoàn toàn phương tiện truyền thông của chính phủ và sự giúp đỡ của các nhà tài phiệt thân thiện với Điện Kremlin, cùng với các nguồn lực truyền thông của họ. Nhưng quan trọng hơn nữa là hình ảnh của vị thủ tướng mới mà phương tiện truyền thông mang đến cho công chúng. Ông ta xuất hiện như một nhà lãnh đạo trẻ, năng nổ và quyết đoán, người có thể bảo vệ nước Nga khỏi thù trong và giặc ngoài.

Yeltsin đã trao cho Putin nhiệm vụ tiến hành chiến tranh chống lại nhóm phiến quân Chechnya đã rút khỏi Chechnya và tràn vào cộng hòa  Dagestan láng giềng vào tháng 8 năm 1999, tháng Putin được bổ nhiệm làm thủ tướng, và nhóm phiến quân tuyên bố thành lập Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan tại đó.

Putin đã kiểm soát nỗ lực chiến tranh theo cách công khai nhất có thể, xuất hiện trên truyền hình nhiều lần để đe dọa phiến quân và chứng minh quyết tâm của mình và Nga trong việc đánh bại cuộc nổi loạn. Nhiều nhà quan sát cho rằng cả cuộc đột kích của người Chechnya vào Dagestan và các hành động khủng bố ở các thành phố Nga được cho là do người Chechnya thực hiện thực chất là bị kích động hoặc dàn dựng bởi các cơ quan an ninh Nga, tất cả đều nhằm mục đích thể hiện khả năng giải quyết khủng hoảng của vị quan chức an ninh hàng đầu của Nga và giành được lòng tin của công chúng, những người sẽ bỏ phiếu trong cuộc bầu cử tổng thống một năm sau đó.

Chiến tranh Chechnya

Chechnya đã nổi lên như một nhân tố chủ chốt trong chính trị Nga ngay cả trước khi Liên Xô sụp đổ. Người Chechnya do Tướng Dzhokhar Dudaev lãnh đạo đã ủng hộ Boris Yeltsin trong cuộc đảo chính tháng 8 năm 1991 tại Moscow với hy vọng rằng sự lãnh đạo dân chủ mới của Nga sẽ công nhận quyền tự quyết của họ. Mục tiêu của họ là giành độc lập cho Chechnya. Nhưng Yeltsin và các cố vấn của ông đã phân biệt rõ ràng giữa các nước cộng hòa Liên bang như Ukraine và Estonia, mà họ cho phép rời đi mà không cần chiến đấu, và các nước cộng hòa và khu vực tự trị trong biên giới của Liên bang Nga, mà họ muốn giữ lại, coi tính bất khả xâm phạm của biên giới các nước cộng hòa Liên bang là nguyên tắc sáng lập của nhà nước riêng của họ.

Vào mùa thu năm 1991, Yeltsin đã gửi quân đội Nga tới Chechnya nhưng không thể ngăn cản được động lực giành độc lập của họ. Nhưng binh lính của ông đã suy sụp tinh thần, không sẵn sàng chiến đấu, và Mikhail Gorbachev, người vẫn kiểm soát quân đội toàn Liên bang, đã từ chối ủng hộ nỗ lực của Yeltsin. Chechnya, đổi tên thành Ichkeria, tuyên bố độc lập vào ngày 1 tháng 11 năm 1991 và lợi dụng tình hình hỗn loạn đang diễn ra ở Moscow vào đầu những năm 1990 để biến tuyên bố này thành hiện thực.

Yeltsin ra lệnh cho quân đội của mình tiến vào Chechnya một lần nữa vào tháng 12 năm 1994 với mục tiêu chiếm thủ đô Grozny. Nhưng các chiến binh Chechnya phục kích xe tăng và xe bọc thép Nga trên đường phố Grozny, gây ra nhiều thương vong. Trận chiến giành thành phố kéo dài cho đến tháng 3 năm 1995 và người Nga chỉ thành công trong việc chiếm được thủ đô Grozny của Chechnya sau khi phá hủy một phần lớn thành phố bằng không kích và hỏa lực pháo binh. Quân nổi loạn rút lui vào các vùng núi của đất nước, từ đó họ tiếp tục tấn công lực lượng chiếm đóng ngay cả sau khi một tên lửa dẫn đường của Nga đã giết chết Tướng Dudaev. Người kế nhiệm ông, Aslan Maskhadov, đã chiếm lại được Grozny vào tháng 8 1996. Cùng tháng đó, Tướng Aleksandr Lebed, người đứng đầu Hội đồng An ninh Nhà nước của Yeltsin, đã ký một thỏa thuận ngừng bắn với các nhà lãnh đạo Chechnya dẫn đến việc quân đội Nga rút lui.

Chechnya phần lớn được tự do hành động nhưng bị cô lập và không được công nhận không chỉ bởi Nga mà còn bởi cộng đồng quốc tế, nên tình hình không mấy khả quan. Aslan Maskhadov, tổng thống được bầu vào năm 1997, có rất ít quyền kiểm soát đối với lãnh thổ Chechnya bên ngoài Grozny, nơi chủ yếu do các lãnh chúa nắm giữ. Bắt cóc đòi tiền chuộc trở thành một trong những cách mà họ lấp đầy kho bạc của mình. Các phe phái cực đoan trong số những người nổi loạn tiếp tục các cuộc tấn công khủng bố vào lãnh thổ Nga.

Nhiều nhà lãnh đạo quân sự Chechnya và bộ binh của họ đã trao đổi hệ tư tưởng độc lập dân tộc của cuối những năm 1980 để lấy những ý tưởng và niềm tin của Hồi giáo cực đoan. Các nhóm Hồi giáo ở Trung Đông là những tác nhân quốc tế duy nhất sẵn sàng công nhận nền cộng hòa tự xưng này. Cuộc xâm lược của Chechnya vào Dagestan vào mùa hè năm 1999 và tuyên bố của họ về Cộng hòa Hồi giáo Afghanistan được thúc đẩy bởi lòng nhiệt thành tôn giáo và hệ tư tưởng mới. Họ không được giới lãnh đạo cấp cao của Chechnya chấp thuận, những người không có hứng thú khiêu khích Nga vào một cuộc tấn công mới. Nhưng cuộc khủng hoảng do các chiến binh Chechnya tiến vào Dagestan tạo ra vẫn gây ra chiến tranh, vì nó có lợi thế rất lớn theo quan điểm chính trị trong nước của Nga. Một số nhà bình luận cho rằng việc đó quá có lợi, ngụ ý sự tham gia của các cơ quan an ninh Nga trong việc kích động cuộc tấn công.

Được giám sát bởi Putin, cuộc tấn công của Nga bắt đầu vào cuối tháng 8 năm 1999 với cuộc ném bom trên không ồ ạt vào Chechnya, khiến 100.000 người phải di cư và tạo ra cuộc khủng hoảng tị nạn ở các khu vực lân cận của Nga. Vào tháng 9, các vụ nổ không chỉ làm rung chuyển Chechnya mà còn cả các thành phố của Nga, bao gồm cả Moscow. Một số tòa nhà chung cư đã bị nổ tung bằng thuốc nổ được gài đặt một cách chiến lược trong tầng hầm, giết chết hơn 300 thường dân. Cơ quan An ninh Liên bang (viết tắt tiếng Nga là FSB), cơ sở quyền lực của Putin, đổ lỗi cho các chiến binh Chechnya về vụ nổ, nhưng bằng chứng chỉ ra chính FSB là thủ phạm. Tại Riazan, một thành phố cách Moscow 200 km về phía đông nam với dân số nửa triệu người, cảnh sát địa phương đã bắt quả tang các điệp viên FSB đang đặt bom trong một tòa nhà chung cư. FSB tuyên bố rằng đó là một cuộc diễn tập chống khủng bố. Mặc dù câu hỏi về trách nhiệm vẫn chưa được giải quyết ngay cả tận bây giờ, các hành động khủng bố đã gây ra sự phẫn nộ ở Nga và cung cấp cho Putin một mệnh lệnh được lòng dân là phát động một cuộc xâm lược toàn diện trên bộ vào Chechnya.

Putin đã ra lệnh xâm lược vào tháng 10 năm 1999 sau khi tuyên bố tổng thống Chechnya, Aslan Maskhadov, là bất hợp pháp. Mục tiêu được nêu ra là phân chia Chechnya, tạo ra một vùng đệm phía bắc giữa các vùng lãnh thổ do phiến quân chiếm giữ và Liên bang Nga. Lời kêu gọi đàm phán hòa bình của Maskhadov đã bị bác bỏ. Với sự hỗ trợ của không quân và pháo binh, quân đội Nga bắt đầu tiến sâu vào lãnh thổ Chechnya, khiến hàng trăm nghìn thường dân phải rời bỏ nhà cửa. Đến tháng 12 năm 1999, quân đội Nga một lần nữa lại có mặt tại các bức tường của thủ đô Grozny của Chechnya. Bất cứ thứ gì không bị phá hủy bởi cuộc ném bom vào năm 1995 đều đã bị san bằng Thành phố đã sụp đổ vào tháng 2 năm 2000 và được Liên hiệp quốc chỉ định là thành phố bị tàn phá nặng nề nhất thế giới. Đến tháng 5 năm 2000, Putin đã lập lên một chính quyền bù nhìn, chấm dứt giai đoạn hoạt động của Chiến tranh Chechnya lần thứ hai.

Vào thời điểm đó, Putin đã trở thành tổng thống Nga, chính thức chuyển đến văn phòng tổng thống vào ngày 7 tháng 5 năm 2000. Trong bài phát biểu năm mới vào ngày 31 tháng 12 năm 1999, Yeltsin đã khiến mọi người ngạc nhiên khi tuyên bố từ chức. Putin, người có mức độ ủng hộ của cử tri đã vượt qua mốc 50 phần trăm vào đầu tháng đó, đã trở thành quyền tổng thống, nắm toàn quyền kiểm soát không chỉ chính phủ và quân đội mà còn cả phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành và “nguồn lực hành chính” cần thiết để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống theo phong cách Nga. Đầu tháng 12, một luật mới đã được thông qua yêu cầu các ứng cử viên phải thu thập ít nhất một triệu chữ ký để đủ điều kiện tham gia chiến dịch. Luật này cũng điều chỉnh tài chính bầu cử để ưu tiên cho ứng cử viên được chính phủ ủng hộ. Chỉ có Putin mới có thể trông cậy vào điều đó.

Cuộc bầu cử mà phe đối lập mong đợi vào mùa hè năm 2000 bây giờ đã chuyển lên mùa xuân, khiến các ứng cử viên đối lập, đặc biệt là thị trưởng Moscow, Yurii Luzhkov, không đủ thời gian để chuẩn bị. Luzhkov đã rút lui khỏi việc ứng cử của mình, cũng như Yevgenii Primakov, để lại trung tâm của quang phổ chính trị của Nga cho Putin. Vào tháng 3 năm 2000, ông dễ dàng giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống ở vòng đầu tiên, giành được 53 phần trăm số phiếu. Nhà lãnh đạo cộng sản, Gennadii Ziuganov, nhận được 22 phần trăm, trong khi nhà lãnh đạo tự do, Grigorii Yavlinsky, giành được 6 phần trăm. Chiến dịch được những người trong cuộc gọi là “Người kế nhiệm” đã hoàn thành. Sắc lệnh đầu tiên của Putin khi nhậm chức tổng thống liên quan đến việc bảo đảm cho Boris Yeltsin, người được miễn trừ truy tố hình sự bất kể mọi cáo buộc chống lại ông.

Thời đại Yeltsin trong nền chính trị Nga đã thực sự kết thúc, và ông để lại một di sản có ảnh hưởng. Là một cựu quan chức của Đảng Cộng sản, Yeltsin muốn dân chủ đến mức ông đã chuẩn bị sử dụng các phương pháp độc đoán để đạt được điều đó. Ông không chỉ dẫn dắt Liên bang Nga thoát khỏi Liên Xô trên làn sóng huy động dân chủ mà còn thiết lập nó như một nền cộng hòa siêu tổng thống hạn chế nền dân chủ đã đưa ông lên nắm quyền. Yeltsin cũng đã khởi xướng một hệ thống kế nhiệm trong đó viên chức cấp cao mới sẽ được người đương nhiệm lựa chọn trước. Sau khi đắc cử, Putin đã tận dụng tối đa hệ thống chính trị hiện tại, đưa nó từ giai đoạn siêu tổng thống lên giai đoạn chuyên quyền. Điều đó sẽ có tác động to lớn không chỉ đến chính trị trong nước của Nga mà còn đến chính sách đối ngoại của đất nước.

Cuộc cách mạng cam

Vào mùa thu năm 1999, khi Yeltsin đang chuẩn bị từ chức và đề bạt Putin lên làm người kế nhiệm, tổng thống Ukraine, Leonid Kuchma, đang chuẩn bị tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Trong nhiệm kỳ đầu tiên, ông đã ổn định được nền kinh tế Ukraine bằng cách khởi động quá trình tư nhân hóa quy mô lớn và hợp tác chặt chẽ với các nhà tài trợ phương Tây, đặc biệt là Quỹ Tiền tệ Quốc tế.

Kuchma cũng đã đưa nền chính trị Ukraine vào trạng thái cân bằng tạm thời bằng cách thông qua một hiến pháp mới, trong đó đưa ra thỏa thuận chia sẻ quyền lực giữa tổng thống và quốc hội. Tuy nhiên, hệ thống này không hề ổn định, vì hai nhân tố chính trị không nhất trí về định hướng chính trị và kinh tế của đất nước. Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 1997 và sự vỡ nợ của Nga năm 1998 đã gây tổn hại đến nền kinh tế Ukraine, nâng cao vị thế của những người cộng sản như là phe phái có quyền lực nhất trong quốc hội. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1998, họ đã giành được 25 phần trăm số phiếu phổ thông. Những người dân chủ quốc gia, được tổ chức tại Rukh và do cựu bất đồng chính kiến ​​Viacheslav Chornovil lãnh đạo, đứng thứ hai với 10 phần trăm số phiếu bầu, trong khi đảng Dân chủ Nhân dân do Kuchma hậu thuẫn chỉ giành được 5 phần trăm.

Năm 1999, Kuchma gần như ở cùng một vị trí với Yeltsin vào đêm trước khi ông tái đắc cử năm 1996. Ông quyết định học theo chiến dịch tranh cử của Yeltsin, tự coi mình là lực lượng duy nhất có khả năng ngăn chặn sự trở lại nắm quyền của cộng sản. Quan điểm này thu hút các ông chủ công nghiệp mới ở miền đông Ukraine, những người đã xoay xở để tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước trước đây dưới sự giám sát của Kuchma và với sự hỗ trợ của ông. Các cử tri ở các khu vực phía tây, những người trân trọng nền độc lập của Ukraine, hướng về châu Âu và phản đối việc quay trở lại Liên Xô.

Sử dụng quyền kiểm soát của mình đối với các phương tiện truyền thông do nhà nước điều hành và giành được sự ủng hộ từ các phương tiện truyền thông do các ông trùm và đầu sỏ khu vực kiểm soát, vừa nổi lên trong nhiệm kỳ đầu tiên của mình, Kuchma đã giành được cả miền đông và miền tây Ukraine, chỉ thua ở trung tâm, nơi vùng nông thôn vẫn do những người còn sót lại của hệ thống nông trại tập thể kiểm soát. Ông đã giành được 58 phần trăm số phiếu phổ thông so với 39 phần trăm của đối thủ, lãnh đạo cộng sản Ukraine Petro Symonenko.

Giống như Yeltsin, Kuchma quyết định sử dụng chiến thắng của mình trước những người cộng sản để thúc đẩy cải cách thị trường. Ông may mắn hơn người đồng cấp Nga của mình, vì không có cuộc khủng hoảng tài chính châu Á nào cản trở kế hoạch của ông. Sau khi tái đắc cử, Kuchma đã khởi xướng một lộ trình mới hướng tới việc đưa Ukraine vào các cấu trúc chính trị và kinh tế châu Âu. Ông bổ nhiệm Viktor Yushchenko, người đứng đầu ngân hàng quốc gia Ukraine trẻ tuổi, người được Quỹ Tiền tệ Quốc tế  (IMF) ủng hộ mạnh mẽ, với tư cách là thủ tướng mới. Trong hơn một năm một chút, Yushchenko và đồng minh Yulia Tymoshenko, nhân vật trở thành phó thủ tướng trong chính phủ mới, đã xoay xở để ngăn chặn sự suy thoái kinh tế, tăng doanh thu bằng cách bịt kín các lỗ hổng cho doanh nghiệp lớn và các gia tộc đầu sỏ mới nổi, và trả lại tiền lương, tiền công và lương hưu chưa trả. Nền kinh tế bắt đầu phục hồi nhanh chóng do các ngành công nghiệp luyện kim và khai khoáng dẫn đầu, tăng gấp đôi kim ngạch xuất khẩu của họ. Tăng trưởng kinh tế sẽ tiếp tục cho đến tận thập kỷ đầu tiên của thiên niên kỷ mới.

Kuchma đã sử dụng chiến thắng bầu cử của mình để đàm phán lại thỏa thuận hiến pháp mà ông đã đạt được với quốc hội vào năm 1996. Đầu tiên, ông buộc những người cộng sản chấp nhận ban lãnh đạo quốc hội mới do các đảng ủng hộ tổng thống thành lập, và sau đó kêu gọi một cuộc trưng cầu dân ý về quyền lực của tổng thống. 81 phần trăm cử tri đã tham gia cuộc trưng cầu dân ý và, tùy thuộc vào câu hỏi, kết quả từ 83 đến 91 phần trăm cử tri ủng hộ việc cải tổ hoàn toàn quốc hội như một thể chế, tạo ra hai viện thay vì một, giảm số lượng đại biểu đi một phần ba, cho phép truy tố hình sự các đại biểu và cho phép tổng thống giải tán quốc hội nếu không tạo ra được đa số ổn định trong vòng một tháng kể từ khi  phiên họp bắt đầu.

Kuchma hiện đã sẵn sàng viết lại hiến pháp Ukraine theo tinh thần của văn bản của Yeltsin nhưng đã bị phe đối lập ngăn chặn, những đại diện quốc hội của họ không công nhận kết quả của cuộc trưng cầu dân ý. Về phần mình, Kuchma có quá ít phiếu bầu để có thể đưa ra các sửa đổi hiến pháp được chấp thuận.

Tình trạng bế tắc bùng nổ thành một vụ bê bối chính trị lớn vào cuối tháng 11 năm 2000, khi Oleksandr Moroz, lãnh đạo Đảng Xã hội và cựu chủ tịch quốc hội, công khai các băng ghi âm bí mật về các cuộc trò chuyện xảy ra tại văn phòng của Kuchma. Các băng ghi âm, được cho là do một trong những vệ sĩ của Kuchma thực hiện, đã ghi lại cảnh tổng thống thảo luận về các chương trình tư nhân hóa có tính tham nhũng và truy tố các đối thủ chính trị của mình.

Gây tổn hại nhất trong các bản ghi âm là các cuộc trò chuyện trong đó Kuchma ra lệnh cho Bộ trưởng Nội vụ của mình bắt cóc một nhà báo đối lập, Heorhii Gongadze. Anh ấy đã biến mất vào tháng 9 năm đó, và cái xác không đầu của anh được tìm thấy trong một khu rừng gần Kyiv vào tháng 11.

Vụ bê bối chính trị đã làm rung chuyển nền móng của chế độ Kuchma. Tổng thống phủ nhận việc từng ra lệnh giết nhà báo, điều này có lẽ là đúng, nhưng các băng ghi âm cho thấy ông yêu cầu bộ trưởng nội vụ của mình, Yurii Kravchenko, bắt cóc Gongadze và trục xuất anh ta khỏi đất nước. Sau này, người ta chứng minh rằng biệt đội tử thần bí mật của Kravchenko đã giết Gongadze, nhưng không bao giờ phát hiện ai là người đã ra lệnh không chỉ bắt cóc mà còn giết chết nhà báo này. Kravchenko cuối cùng cũng đã chết trong tình huống đáng ngờ, ông đã tự bắn mình không chỉ một mà là hai phát trong một nỗ lực rõ ràng là tự sát.

Vào tháng 12 năm 2000, phe đối lập, bao gồm những người xã hội chủ nghĩa do Moroz lãnh đạo và những người dân túy chủ nghĩa do Yulia Tymoshenko lãnh đạo, đã diễu hành trên đường phố Kyiv, yêu cầu tổng thống từ chức và phát động một chiến dịch lớn dưới khẩu hiệu “Ukraine không có Kuchma”.

Vị tổng thống yếu đuối từ bỏ đường lối cải cách của mình. Yulia Tymoshenko bị bắt, và Viktor Yushchenko theo đường lối cải cách, người được phương Tây ủng hộ, đã bị cách chức thủ tướng. Với các nhà lãnh đạo Mỹ và châu Âu yêu cầu một cuộc điều tra công bằng về vai trò của tổng thống trong vụ bắt cóc và giết hại Gongadze, Kuchma đã từ bỏ tham vọng hội nhập châu Âu và chuyển hướng về Nga và tổng thống mới của nước này, Vladimir Putin.

Trong khi ít người nghi ngờ việc Kuchma thực sự đã ra lệnh bắt cóc và cưỡng chế trục xuất Gongadze khỏi Ukraine – băng ghi âm cho thấy rằng ông ấy đã ra lệnh cho Bộ trưởng Nội vụ của gửi nhà báo đến Chechnya – nhưng vẫn chưa rõ ai đã ra lệnh giết anh ta, và tại sao. Tình huống mà Kuchma bị một vệ sĩ của mình, Mykola Melnychenko, ghi âm, vẫn còn mơ hồ cho đến ngày nay. Tuy nhiên, điều có vẻ không thể tranh cãi là Melnychenko đã làm việc này thay mặt cho các sĩ quan cấp cao trong các cơ quan an ninh Ukraine và sau đó đã hợp tác với các đối tác người Nga của họ.

Rõ ràng người hưởng lợi chính của vụ tai tiếng Kuchma là Vladimir Putin, ông ta đã lợi dụng thẩm quyền chính trị suy yếu của Kuchma và mối quan hệ sa sút của ông với Hoa Kỳ, do vụ bê bối gây ra, để moi được một số nhượng bộ từ ông. Trong số đó có việc Ukraine gia nhập các tổ chức và diễn đàn Á-Âu do Nga lãnh đạo thúc đẩy tái hòa nhập kinh tế của không gian hậu Xô Viết. Kuchma cũng đã từ bỏ mục tiêu gia nhập NATO khỏi học thuyết quân sự của Ukraine.

Hiến pháp Ukraine không cho phép tổng thống tại vị quá hai nhiệm kỳ, và sau một thời gian do dự, Leonid Kuchma quyết định tuân thủ, bác bỏ ý tưởng tranh cử nhiệm kỳ thứ ba với lý do cuộc bầu cử đầu tiên của ông diễn ra trước khi hiến pháp được thông qua và do đó không được tính. Một lần nữa, Kuchma lại tìm đến tiền lệ của Nga hoặc cụ thể hơn là của Yeltsin, tìm kiếm một người kế nhiệm có thể đảm bảo an toàn cá nhân và tài sản của mình.

Sự lựa chọn rơi vào người lãnh đạo gia tộc khu vực lớn nhất Ukraine, thống đốc vùng Donetsk, Viktor Yanukovych, thủ lĩnh nhóm lớn nhất trong phe ủng hộ tổng thống của quốc hội. Yanukovych đã được bổ nhiệm làm thủ tướng và được quốc hội chấp thuận vào tháng 11 năm 2002. Chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2004, trong đó Yanukovych, được Kuchma ủng hộ, chống lại cựu thủ tướng, Viktor Yushchenko, thủ lĩnh phe lớn nhất trong quốc hội, là chiến dịch bẩn thỉu nhất trong lịch sử Ukraine. Phe Yanukovych đã sử dụng phương tiện truyền thông chính phủ, áp lực hành chính, tiền trợ cấp nhà nước cho các nhóm xã hội dễ bị tổn thương nhất, cũng như sức mạnh tài chính của phe Donetsk để giành chiến thắng trong cuộc bầu cử. Nõ cũng sử dụng đến một hành động khủng bố chống lại Yushchenko.

Vào tháng 9 năm 2004, Yushchenko, 50 tuổi, đã bị bệnh nặng và sớm được chẩn đoán là bị ngộ độc dioxin. Những kẻ tình nghi sắp xếp vụ việc đã trốn sang Nga và được cấp nơi trú ẩn an toàn ở đó.

Yushchenko đã sống sót một cách kỳ diệu sau vụ đầu độc và đã quay trở lại chiến dịch tranh cử trong bộ dạng tiều tụy nhưng vẫn còn sống. Thay vì hạ gục Yushchenko, việc ông bị  ứng cử viên đối lập hãm hại đã làm tăng sự nổi tiếng của ông. Khi người dân Ukraine đến các điểm bỏ phiếu vào ngày 31 tháng 10, hầu hết họ đều bỏ phiếu cho Yushchenko, không phải Yanukovych.

Đó là kết quả của các cuộc thăm dò ý kiến ​​cử tri do nhiều tổ chức của Ukraine tiến hành vào ngày bầu cử, nhưng Ủy ban Bầu cử Trung ương, do Kuchma và Yanukovych kiểm soát, đã công bố một kết quả khác. Theo báo cáo của ủy ban, Yanukovych là người đã giành chiến thắng cuộc đua với 49 phần trăm số phiếu bầu so với 47 phần trăm của Yushchenko.

Những người ủng hộ Yushchenko, từ chối chấp nhận kết quả giả mạo, đã tràn vào quảng trường chính của Kyiv, Maidan, và dựng một thành phố lều bạt ở đó. Người dân Kyiv sớm được những người ủng hộ từ các tỉnh tham gia. Cuộc cách mạng Cam, lấy tên từ màu sắc của chiến dịch tranh cử của Yushchenko, đã bắt đầu.

Nhiều yếu tố góp phần vào sự bùng nổ của cuộc cách mạng Cam. Trong số đó có cuộc xung đột kéo dài và chưa được giải quyết giữa các nhánh của tổng thống và lập pháp; sự chia rẽ trong giới tinh hoa chính trị, bao gồm các đầu sỏ chính trị với các nguồn lực truyền thông của họ, những người ủng hộ các phe đối lập; và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, sự ủng hộ nửa vời của Kuchma đối với Yanukovych, vốn không phải là lựa chọn ưa thích của ông làm người kế nhiệm nhưng vì hoàn cảnh ép buộc. Cuối cùng, chính chủ nghĩa khu vực của Ukraine, bắt rễ từ những khác biệt về chính trị và văn hóa, đã cứu vãn nền dân chủ của Ukraine. Phe ủng hộ Cách mạng Cam, nhiều người trong số họ là cư dân ở phía tây và trung tâm Ukraine, liên kết bản thân mình với bản sắc, ngôn ngữ và văn hóa Ukraine, cũng như có định hướng theo phương Tây tự do.

Đối mặt với các cuộc biểu tình quần chúng đang tiếp diễn và sự chia rẽ trong giới tinh hoa, Kuchma quyết định gạt bỏ tiền lệ của Yeltsin sang một bên. Bất chấp những yêu cầu từ Yanukovych, ông đã khước từ sử dụng quân đội chống lại lực lượng biểu tình và nổ súng, như đã xảy ra ở Moscow vào năm 1993. Thay vào đó, ông đã chọn một sự thỏa hiệp. Phe Yanukovych đã đồng ý tổ chức một vòng bầu cử mới để đổi lấy lời hứa của Yushchenko về việc sửa đổi hiến pháp hạn chế đặc quyền của tổng thống.

Vào ngày 26 tháng 12, trong vòng thứ ba của cuộc bầu cử tổng thống, Yushchenko đã được bầu với 52 phần trăm số phiếu so với 44 phần trăm của Yanukovych.

Cuộc khủng hoảng bắt đầu vào tháng 4 năm 2000 với nỗ lực của Kuchma nhằm tăng quyền lực của tổng thống thông qua trưng cầu dân ý đã kết thúc vào tháng 12 năm 2004 với việc làm suy yếu quyền lực của tổng thống. Một số đặc quyền của tổng thống đã được chuyển giao cho thủ tướng, mà việc bổ nhiệm ông và vận mệnh chính trị của ông phụ thuộc vào sự sắp xếp của các lực lượng chính trị trong quốc hội. Ukraine đang bước vào thế kỷ mới với tư cách là một nước cộng hòa tổng thống-quốc hội với quyền lực quản lý bị phân chia. Đây không phải là một kết quả lý tưởng, vì theo hệ thống mới, cả tổng thống và thủ tướng đều không có đủ quyền lực để thực hiện chính sách một cách độc lập. Nhưng đó là cục diện đã cứu nền dân chủ Ukraine.

Trong năm cuối cùng tại nhiệm, Kuchma đã xuất bản hồi ký của mình dưới tiêu đề hấp dẫn, Ukraine không phải là Nga. Sau khi thử nghiệm mô hình của Nga hơn một lần và chắc chắn không đạt được kết quả mong muốn, ông biết chính xác những gì mình đang nói. Cuốn sách được xuất bản tại Moscow và ra mắt tại đó trước khi bản dịch tiếng Ukraine của nó được cung cấp cho độc giả ở Kyiv. Nó đã gửi một thông điệp mà rất ít người ở Nga coi trọng và không ai ở Điện Kremlin sẵn sàng chấp nhận.

Bình luận về bài viết này