
Hình ảnh tái dựng quan Tham tụng – Quốc tử giám Tế tửu Vũ Miên
Vũ Tú
Danh nhân Vũ Miên là một trong số những vị quan hàng đầu, có dấu ấn đậm nét tại Thăng Long, với chức quan Tri Lễ phiên, Tham tụng, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử quán Tổng tài, ông đã có nhiều công lao với đất nước trong thời kỳ Lê – Trịnh.
Vũ Miên là người thôn Thọ Diên, xã Xuân Lan, tổng Lâm Thao, huyện Lang Tài, phủ Thuận An, trấn Kinh Bắc xưa; nay là thôn Ngọc Quan, xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh.
Dòng họ Vũ của Vũ Miên có gốc từ làng Tiến sĩ xứ Đông là Mộ Trạch, Hải Dương. Bởi vậy, truyền thống khoa bảng của dòng họ Vũ thôn Ngọc Quan quê hương ông là: Khoa bảng truyền gia, Văn chương Hoa quốc.

Hình ảnh thôn Ngọc Quan, quê hương Vũ Miên
Vũ Miên xuất thân dòng dõi khoa bảng: cha của Vũ Miên tên Vũ Khuê là Cống sĩ thi đậu Tam trường khoa thi Hội, làm quan Huấn đạo phủ Lâm Thao (thuộc Phú Thọ ngày nay), được phong đến chức Đặc tiến Kim tử Vinh lộc Đại phu, Công bộ tả Thị lang, Đông các điện Đại học sĩ, tước Lan Khê hầu.
Vũ Miên từ nhỏ là một thần đồng trong vùng, nổi tiếng thông minh, và sớm có thành tựu khoa cử: mới 15 tuổi Vũ Miên đã đỗ Đầu Xứ, 18 tuổi thi đỗ Hương giải, được ra kinh đô học tại Quốc tử giám. Năm 31 tuổi, Vũ Miên dự thi Hội đỗ Hội nguyên, văn, phú, sách đều giỏi loại nhất. Đình thí xếp sau 2 người, sách Đăng khoa lục sưu giảng cho biết tư cách ông thực sự là Trạng nguyên, nhưng vì thiếu may mắn nên kết quả lại xếp sau 2 vị khác trong thi Đình:
“Vũ Miên: Người làng Xuân Lan, huyện Lương Tài, học rộng tài cao. Năm 31 tuổi, đỗ Tiến sĩ (Hội nguyên khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng). Ngày hôm Đình thí, đầu bài nghĩa sách nhớ thuộc vanh vách, hỏi đâu biết đấy, thả sức làm văn; nghĩ rằng đoạt khôi nguyên, như thò tay vào túi lấy đồ vật gì vậy; không ngờ khi đi thi, đương viết văn mới viết được một lúc, ngòi bút đã cùn sạch, chỉ còn trơ lại quản bút, không thể nào viết được, nên phải viết trả lời mấy câu hỏi qua loa.
Vậy thì, khoa bảng tự trời cho, cân nhắc phúc đức mà định số phận.”
Sau khi Vũ Miên đỗ đạt, ông liên tục làm quan dưới triều Lê – Trịnh, và là vị quan hiếm có trong lịch sử khi không bao giờ bị sai phạm phải giáng chức mà chỉ có thăng dần lên cương vị cao, cùng lúc giữ nhiều trọng trách. Khi đỉnh cao hoạn lộ ông được giữ đồng thời nhiều chức quan hàng đầu triều đình Lê-Trịnh: Tri Lễ phiên, Tham tụng, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử quán Tổng tài.
Trong khi thi khảo xét tất cả các quan lại về Phép Thư giản, ông đỗ đầu và được giữ chức Giản quan.
Vũ Miên có đóng góp quan trọng ở lĩnh vực sử học. Khi làm Tổng tài Quốc sử quán, ông được giao chủ trì biên soạn Đại Việt sử ký tục biên. Nhóm biên soạn gồm Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn và Nguyễn Sá; việc trông coi biên soạn do Vũ Miên, Lê Quý Đôn, Nguyễn Hoàn phụ trách. Bộ sách này chép sự việc từ niên hiệu Vĩnh Trị đời Lê Hy Tông đến niên hiệu Vĩnh Hựu đời Lê Ý Tông, gồm 6 quyển.
Hoàn thành bộ quốc sử, Vũ Miên lại cùng Nguyễn Hoàn, Uông Sĩ Lãng, Phan Trọng Phiên biên soạn sách Đại Việt lịch triều đăng khoa lục chép danh sách đỗ đại khoa từ 1075 đến 1787.
Chúa Trịnh Sâm muốn làm cuộc cải cách lớn về văn trị, bổ nhiệm Nguyễn Nghiễm làm Trung thư giám trông coi công việc chung, Vũ Miên kiêm giữ chức Tế tửu, Phan Trọng Phiên và Lê Quý Đôn cùng giữ chức Tư nghiệp. Tế tửu và Tư nghiệp hàng ngày đến nhà Thái học, hội họp học trò để giảng bàn sách kinh sử; mỗi tháng cứ ngày mồng một và ngày rằm tập văn; mỗi năm cứ 4 tháng 1 lần thi xét duyệt. Kể từ đó chấn hưng được văn học. Trong thời gian kiêm chức Tế tửu Quốc tử giám, ông đã có nhiều đóng góp vào việc chấn chỉnh giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước. Cùng với Nguyễn Nghiễm, ông cho tu sửa lại nhà Thái học, đúc Bích Ung đại chuông, tham gia tổ chức các khoa thi Tiến sĩ Nho học để lựa chọn nhân tài.

Hình ảnh Văn Miếu-Quốc tử Giám tại Hà Nội, nơi Vũ Miên làm Tế tửu
Có khoa thi Hương (khoa thi liên tỉnh để chọn ra một số Cống sĩ tài giỏi ra làm quan), ông cho rằng các nơi khảo hạch chưa tinh, số lấy đỗ quá lạm; Ông cho rằng các sĩ tử chỉ đáng xem là hạng Khá, và cho phép họ công khai chỉ trích nhau cho thỏa đáng, để chọn được người thực tài. Vũ Miên nổi tiếng về thơ, phú vào bậc nhất thời Lê-Trịnh. Tác phẩm của ông có thơ, văn được chép trong các tư liệu: Quốc âm thi, Lịch đại quần anh thi văn tập, Việt thi tục biên, Hồng ngư trú tú lục, Cẩm tuyền vinh lục, Đạo giáo nguyên lưu…Ông có tập Bắc sứ tự thuật ký kể về chuyến đi sứ từ Thăng Long đến Yên Kinh (tức Bắc Kinh) và các nơi danh thắng trên đường đi.
Cùng với Nguyễn Lệ (tức Nguyễn Khản), Ninh Tốn, Phạm Vĩ Khiêm trong nhóm Cúc Lâm cư sĩ, Vũ Miên tham gia dịch tác phẩm Tam thiên tự lịch đại văn, lấy tên là Tam thiên tự lịch đại văn Quốc âm để giảng dạy.
Ông có công bắt được giặc Thành cùng đồ đảng gây nhiễu vùng Hưng Hóa và biên giới Việt-Trung (ông từng giữ chức Tán lý quân vụ đạo Hưng Hóa, lúc ấy quân đạo Hưng Hóa của Vũ Miên vây giặc Thành đã lâu, quân sĩ nhiều người bị nhiễm chướng dịch. Sau đó, giặc Thành nhân cơ hội nước lên to, phá vây chạy, quan quân đuổi theo bắt được, giải về kinh sư). Ông cũng tham gia bàn định kế sách dẹp giặc Lê Duy Mật (Khởi nghĩa Lê Duy Mật diễn ra suốt 30 năm với quy mô rất rộng lớn. Vũ Miên tham gia vào việc bàn công việc tiến đánh đưa ra được sách lược, nhờ vậy dẹp tan được giặc).
Vũ Miên coi trọng âm nhạc, mở ca viện, nuôi nghệ nhân ca trù ở Thăng Long.
Năm 1782 ông bị ốm nặng, mặc dù được các ngự y cùng chữa trị nhưng không qua khỏi; chúa Trịnh Sâm sai quan trung sứ đến thăm hỏi, khi ấy ông tự tay viết tờ khải, khuyên Trịnh Sâm định thứ tự trưởng – ấu cho đúng với đạo đời và lòng dân.
Khi mất Vũ Miên được truy tặng chức Binh bộ Thượng thư và được ban tên thụy là Ôn Cẩn.
Nhận định
“Khoa bảng Khôi nguyên – Triều chính Tể tướng”, danh nhân Vũ Miên là điểm sáng trong lịch sử nước ta thời Lê trung hưng, ông xứng đáng được coi là tinh hoa xứ Kinh Bắc, nhà sử học, và là tấm gương cho các thế hệ đến mai sau.