Những bể cá cảnh của Bình Nhưỡng- 10 Năm Trong Trại Khổ Sai của Bắc Triều Tiên (Bài 3)

 Tác giả : KANG CHOL-HWAN

với Pierre Rigoulot

Trần Quang Nghĩa dịch

 5

TỔ LAO ĐỘNG 10

Hai nhân viên an ninh leo xuống từ phía sau xe tải.  Ở bên ngoài, tôi có thể nghe thấy họ thì thầm với những người khác.  Một lúc sau, một lính canh quay lại và hỏi hộ chiếu của người lớn và giấy khai sinh của trẻ em.  Anh ta lấy tài liệu và biến mất.  Hai mươi phút trôi qua trong sự im lặng nặng nề, rồi lính canh quay trở lại.  Họ leo trở lại xe tải và chúng tôi lại từ từ khởi hành.  Tính tò mò ngày càng lấn át tôi và không gặp phải sự phản đối nào của lính canh, tôi trèo lên nhìn qua lỗ thông hơi

 Trước mặt chúng tôi, những  lính bảo vệ đang mở cổng.  Trên cổng tò vò phía trên nó, tôi có thể nhìn thấy dòng chữ “Đội tuần tra biên giới của Nhân dân Triều Tiên, Đơn vị 2915”.  Tấm biển lúc đó không gây ấn tượng với tôi nhiều, nhưng giờ tôi nhận ra đó là một mắt xích khác trong chuỗi dối trá vô tận, một cách ngụy trang khu trại trông giống doanh trại quân đội, đánh lạc hướng sự chú ý của thế giới bên ngoài.  Đó là một lời nói dối trắng trợn nếu xét đến khoảng cách từ Yodok đến biên giới.  Cánh cổng là lối mở duy nhất trên bức tường bê tông dài.  Phía trên nó mọc lên hai tháp canh.  Xa hơn, những bức tường nhường chỗ cho những dãy tường dốc dựng đứng, có dây thép gai bao quanh đến tận chân trời.  Khung cảnh làm tôi nhớ đến những bộ phim từng xem ở trường về các trại giam do người Nhật xây dựng trong thời gian họ chiếm đóng.

Cách cổng không xa có một trạm gác được trang bị pháo.  Tôi đang tròn mắt tò mò nhìn quanh thì chiếc xe tải dừng lại.  Cánh cổng đóng lại sau lưng chúng tôi và một nhóm lính canh bắt đầu đi về phía chiếc xe tải.  Đồng phục của họ gợi nhớ đến quân phục của Quân đội Nhân dân, chỉ có điều màu kaki nhạt hơn một chút và áo khoác bốn túi kéo dài thẳng đến quần.  Những lính canh chúng tôi đánh vần tên của chúng tôi cho họ nghe, sau đó chúng tôi lại lên đường.  Lần tiếp theo chúng tôi dừng lại là khoảng 15 phút sau.  Bên ngoài ồn ào náo nhiệt;  tôi có thể nghe thấy những giọng nói, tiếng thì thầm.  Giống như một ủy ban đã tập hợp để chào mừng và vinh danh chúng tôi.  Sau đó, một lính canh của chúng tôi trèo xuống khỏi xe tải và bắt đầu la hét chửi bới.  Gã nói chuyện thật tàn nhẫn làm sao!  Sao gã dám xưng hô với mọi người một cách thô lỗ như vậy? Gã đưa ra rất nhiều mệnh lệnh và lăng mạ, tôi trở nên hoảng sợ và bắt đầu run rẩy.  Bố tôi phải đặt tay lên vai tôi để trấn tĩnh.

 Sau đó, lính canh kéo tấm bạt ra khỏi xe tải và tất cả chúng tôi đều đứng dậy.  Tôi vẫn đang ôm bể cá của mình trong tay.  Tôi có ấn tượng mơ hồ rằng đây là thời điểm quyết định.  Tấm bạt giống như một màn rạp hát được kéo lên quá sớm.  Một khung cảnh mới, thực sự là một màn mới, đã bắt đầu, và không ai trong chúng tôi sẵn sàng cho điều đó.  Tôi muốn biết thêm về những vai trò mà chúng tôi dự kiến ​​​​sẽ đóng.  Nhưng tôi không mất nhiều thời gian để hỏi thăm vì những người đàn ông và phụ nữ đứng xung quanh chiếc xe tải đã bước tới để nhìn kỹ hơn.  Tất cả họ đều bẩn thỉu khủng khiếp, ăn mặc như hành khất, tóc đóng bánh và dính đầy bụi bẩn.  Sự hoảng loạn lại xâm chiếm tôi lần nữa.  Những người này là ai?  Họ có phải chính là bọn người mà tôi vừa nghe nói đang gây náo loạn không?  Có lẽ nào họ thực sự là những người mà lính canh đã đối xử tàn nhẫn như vậy?  Trước sự ngạc nhiên của tôi, một số người họ đã nhận ra bà tôi và tiến tới chào bà.  Khi chúng tôi bước xuống xe tải, một bà già – tôi đoán là một người bạn cũ – chạy đến ôm bà, và hai người phụ nữ đứng nắm tay nhau một lúc lâu, thở dài thườn thượt và khóc.

 “Tôi đã rất lo lắng khi chị biến mất,” bà tôi nói.

 “Không ai nói cho chị biết à?”

 “Chúng tôi không nghe biết gì cả.”

 “Và bây giờ chị cũng ở đây, giống như em!  Sau tất cả những gì chúng ta đã làm cho Đảng!”

Khi tôi đang đứng quan sát thì có hai anh chàng tiến đến chỗ tôi.  Tôi tưởng họ bằng tuổi tôi nhưng hóa ra họ lớn hơn tôi hai tuổi.

 “Trại không phải là nơi để lớn lên khỏe mạnh,” một đứa trong bọn nói.  “Rất nhiều trẻ em ở đây ngừng cao lớn.”

 Người lớn tiếp tục trao đổi tin tức và thì thầm vào tai nhau, cố gắng kìm nén những giọt nước mắt.  Thật là một cảnh tượng bi thương mà những kẻ khốn khổ này đã tạo ra với những mảnh giẻ sờn rách gọi là áo, mái tóc dài quá mức, sự nhếch nhác bẩn thỉu của họ.  Vẻ ngoài của họ không tương xứng làm sao với cử chỉ lịch sự và cung cách nhã nhặn của họ đối với những người mới đến.  Sự chào đón có lẽ đã diễn ra lâu hơn nếu lính canh không can thiệp.  Họ tái lập trật tự trong nháy mắt, ra lệnh cho tất cả tù nhân quay trở lại với công việc của mình.  Điều đó chấm dứt sự mê mẫn có phần trừu tượng của tôi, đưa tôi trở lại thực tế và các con cá quan trọng nhất của mình.  Than ôi, một nửa trong số chúng đã chết.  Không biết phải làm gì khác, tôi bắt đầu đếm số nạn nhân.  Một số tù nhân ráng nán lại bước đến gần hơn và im lặng nhìn chằm chằm vào cảnh tượng đặc biệt đang diễn ra giữa họ: một đứa trẻ ở giữa trại, đang khóc khe khẽ trước một bể cá trong đó nổi lên, bụng trương phình, những chú cá kỳ lạ nhất.

 Trong khoảnh khắc, một gã có vẻ là quản giáo băng qua đám người.  “Những thứ này sẽ bốc mùi đến tận mây xanh,” gã gầm lên.  “Hãy vứt chúng đi nơi nào đó thật xa!”  Sau đó gã quay sang bố mẹ tôi và chỉ về phía một nhóm túp lều cách đó khoảng một trăm mét.  “Đó là chỗ các người sinh sống,” gã nói, ra hiệu cho chúng tôi đi theo.  Chúng tôi mới đi được mười bước thì đứng khựng khi thấy một người đàn ông đang chạy hết tốc lực về phía chúng tôi.  Hóa ra đó là chú tư của tôi. Chú đã ở trong trại được một tuần.  Lực lượng An ninh đã đón lõng chú khi chú đang họp.  Trước khi chúng tôi đến, chú đã sống trong khu dành cho người độc thân, một ngôi nhà rất đặc biệt, sau này còn đặc biệt nhiều hơn nữa.  Bà tôi – mặc dù đã hy vọng cậu con trai út của mình có thể trốn thoát khỏi trại – cảm thấy vô cùng vui mừng khi bất ngờ gặp lại con mình ở đây, và khi bà ôm hôn chú, những giọt nước mắt ấm áp chảy dài trên khuôn mặt bà.

 Chúng tôi đến gần túp lều được chỉ định.  Cha tôi đẩy cánh cửa gỗ trong im lặng.  Chúng tôi nối gót theo sau, và những gì chúng tôi nhìn thấy khiến chúng tôi choáng váng.  Đây là nơi chúng ta sẽ sống ư?  Dưới một mái nhà bằng ván gỗ trần, đất khô làm tường và đất nện làm sàn?  Lính canh ra lệnh cho một số tù nhân giúp chúng tôi hoàn thành việc tái định cư.  Việc đó không mất nhiều thời gian;  tất cả những gì chúng tôi có là hai chiếc tủ đựng quần áo, một chiếc bàn thấp, quần áo và 125 cân gạo.  Thật đau lòng khi nhìn những đồ đạc này, khi ký ức về căn hộ sang trọng ở Bình Nhưỡng vẫn còn đọng lại trong tâm trí chúng tôi.  Trong bầu im lặng nặng nề, mắt chúng tôi lang thang giữa những trang bị của quá khứ và khung cảnh ảm đạm của hiện tại.

Ngôi nhà gỗ có bốn phòng dành cho bốn gia đình.  Phòng của chúng tôi, lớn nhất trong số bốn phòng, có một vách ngăn ở giữa chia thành hai gian.  Bức vách ngăn còn cách cách trần nhà một khoảng trên đó treo một bóng đèn duy nhất có thể chiếu sáng cả hai gian.  Sau này tôi phát hiện ra rằng vách ngăn được xây dựng vì lợi ích của những gia đình không hòa thuận;  có thể được tháo ra.  Trại cũng có những ngôi nhà cỡ nhỏ hơn được xây cho hai và ba gia đình, do mái thấp và cửa ra vào nhỏ nên thường được gọi là “đàn khẩu cầm”.  Mỗi ngôi nhà đều được bao quanh bởi một mảnh đất có rào chắn để tù nhân có thể trồng bất cứ thứ gì họ muốn.  Hay đúng hơn là bất cứ thứ gì họ có thể, vì họ đã làm việc rất chăm chỉ vào ban ngày, đến nỗi ban đêm họ không có thời gian và năng lượng để làm gì khác ngoài việc ngủ.

 Toàn bộ điện của trại được tạo ra bởi một nhà máy thủy điện nhỏ nằm trong phạm vi trại.  Những hạn chế của hệ thống đã sớm lộ rõ: nước đóng băng vào mùa đông và quá ít vào mùa hè.  Do đó, tình trạng mất điện xảy ra thường xuyên.  Tuy nhiên, mối quan tâm trước mắt của chúng tôi trong đêm đầu tiên là tìm cách nhóm lửa mà không cần diêm hoặc bật lửa.  May mắn thay, những người hàng xóm đã ghé qua và dạy chúng tôi một số kỹ năng sinh tồn cơ bản trong trại.  Họ trình diễn cho chúng tôi xem cách chặt cây một cách nhanh chóng và an toàn, cách giữ ngọn lửa cháy trên bấc ngâm nhựa thông, cách nấu bột ngô trên lửa củi, v.v.  Trong nhà không có vòi nước, nên toàn bộ nước phải được lấy từ con sông cách đó mười phút đi bộ – hoặc lâu hơn một chút trên đường về, khi xô nước đầy.  Đối với một người được ăn no, những chuyến đi lấy nước này sẽ nhàm chán và không thoải mái nhưng sớm trở thành một thử thách không thể vượt qua. Chúng ta sẽ sớm yếu đuối và suy dinh dưỡng, và những chuyến xách nước sẽ vắt kiệt sức lực còn lại.  Một thứ khác mà chúng tôi không có là nhiên liệu sưởi ấm.  Đó là những gì chúng tôi đã sử dụng ở Bình Nhưỡng, nhưng ở Yodok không có những thứ xa xỉ như vậy.  Thay vào đó chúng tôi phải kiếm củi đủ khô dể bắt lửa.  Phòng của chúng tôi có một lò đốt củi, khi đặt một cái vạc lên trên sẽ thành bếp lò.  Chuẩn bị thức ăn là trách nhiệm của gia đình, và vì bà nội đã già nên lính canh giao cho bà nhiệm vụ này.  Bà đã rất sáng suốt khi mang theo một số đồ dùng nhà bếp từ Bình Nhưỡng: đồ dùng duy nhất mà trại cung cấp là những chiếc hộp thiếc cũ kỹ.

 Bên cạnh những ngôi nhà này, còn có một số ngôi nhà lớn hình móng ngựa là nơi giam giữ những tù nhân đơn độc.  Chú tôi kể với chúng tôi rằng họ ngủ năm hoặc sáu người trong một phòng và từ 70 đến 100 người mỗi ngôi nhà.  Giống như những khu nhà ở của gia đình, những ngôi nhà này cũng được bao quanh bởi những mảnh đất nhỏ để tù nhân có thể tự trồng rau, nhưng qua nhiều năm, những khu vực này ngày càng bị thu hẹp lại.  Lúc đầu chúng trở thành nơi đặt nhà bếp chung và hai nhà phụ, sau đó là chuồng nuôi bò đực và bò cái dùng để kéo xe.  Trong mỗi ngôi nhà, lính canh chọn một tù nhân làm trưởng khu và chỉ huy những  bạn tù độc thân của mình.  Trong số những tù nhân còn lại, bốn người được phân công làm việc trong bếp.  Họ luôn có ba phụ nữ và một người đàn ông, người đàn ông chịu trách nhiệm chính trong việc thu thập và vận chuyển gỗ.  Một số người độc thân phải ở Yodok vì họ thuộc gia đình tội phạm.  Những người khác chỉ vi phạm những tội nhỏ: trốn tránh một cuộc tuần hành chính thức, thể hiện sự thiếu nhiệt tình đối với Lãnh tụ Vĩ đại, hoặc thiếu nhiệt tình cần thiết trong việc tố cáo những kẻ phản bội nhà nước.  Những kẻ phạm tội như vậy thường tiết kiệm nhà  tù cho những tội phạm lì lợm hơn.  Tuy nhiên, họ bị giám sát đặc biệt và bị cấm rời khỏi khu nhà vào ban đêm.

 Tập hợp mười ngôi nhà trong vùng xung quanh chúng tôi tạo thành khu vực mà tù nhân chúng tôi gọi là “ngôi làng”, một từ không phù hợp với mớ hỗn độn vô tổ chức của những ngôi nhà không có đường xá, trung tâm, ngoại vi hoặc các tòa nhà chính  Về mặt chính thức, những khu định cư này được gọi là “tổ công nhân” và mỗi tổ được ấn định một số thứ tự để nhận diện.  Giữa chúng tôi, chúng tôi không sử dụng những cách gọi lạnh lùng, quan liêu này và nghĩ ra một danh pháp thơ mộng hơn của riêng mình.  Nhóm công nhân số 2 được gọi là “Làng thông”, nhóm công nhân số 4, “Làng cây hạt dẻ” và nhóm công nhân số 10 – nhóm chúng tôi – là “Làng đồng bằng”.

Mỗi làng tập hợp một loại người bị giam giữ cụ thể. Khu nhà của chúng tôi được xây dựng vào năm 1974, dành cho Hàn kiều ở Nhật Bản và gia đình họ sinh sống.  Sự phân biệt này nhằm ngầm thừa nhận sự hội nhập khó khăn của chúng tôi vào xã hội Bắc Triều Tiên, cũng như một cách để cô lập mọi đề cập đến địa ngục tư bản tồn tại bên ngoài biên giới đất nước.  Vì lý do tương tự, chúng tôi cũng bị cấm – dưới sự đe dọa trừng phạt nghiêm khắc – tiếp xúc với tù nhân từ các làng khác.  Tuy nhiên, những tin nhắn lén lút thỉnh thoảng được trao đổi trong các buổi lễ ở trại hoặc trên núi, nơi chúng tôi được phái đi thu thập dược liệu dưới sự giám sát lỏng lẻo của lính canh.  Thông tin liên lạc của chúng tôi thường chỉ giới hạn ở những ghi chú về cách bố trí của trại, khi chúng tôi nỗ lực mở rộng bức tranh giới hạn được các cựu tù trong trại truyền lại cho chúng tôi.  Chúng tôi trao đổi thông tin về dân số của các ngôi làng khác nhau, mức độ nghiêm khắc của lính canh, cách tìm thêm thực phẩm sẵn có, v.v.

 Tuy nhiên, tất cả việc này này đến sau.  Lần đầu đến Yodok, chúng tôi giống như những thủy thủ vừa đặt chân lên một hoang đảo, vẫn còn được đánh dấu bởi thế giới vừa rời xa của chúng tôi, nhưng buộc phải khám phá lại những cử chỉ của một quá khứ xa xôi hơn: lấy một chiếc rìu, chặt cây, nhóm lửa  và nấu món gì đó thành bữa ăn.  Chúng tôi không có nhiều thời gian: màn đêm sắp buông xuống và trong bóng tối, chúng tôi sẽ hoàn toàn bối rối.  Chú tôi, người biết rõ nơi này hơn chúng tôi một chút, đã đề nghị giúp đỡ.  Anh ta ra ngoài và chặt một cây nhỏ để làm củi, nhưng những khúc gỗ xanh cháy rất thảm hại và bốc ra nhiều khói đến nỗi một người hàng xóm của chúng tôi đã đưa ra một ít gỗ của mình – cùng với đề nghị rằng chúng tôi nên bắt đầu làm việc từ đống gỗ của riêng mình.  .

 Tuy nhiên, thử thách lớn nhất của đêm vẫn còn ở phía trước chúng tôi.  Chúng tôi cần tìm ra cách nấu cơm trên ngọn lửa trần.  Vấn đề chưa bao giờ xuất hiện trước đây và bà nội không đặc biệt tập trung vào nhiệm vụ.  Tôi vẫn còn nhớ mùi cơm của đêm đầu tiên đó: nửa khét nửa sống.  Tuy nhiên, đó lại là nguyên nhân gây ra nhiều sự ghen tị trong trại;  một người độc thân lẻn đến túp lều của chúng tôi và đề nghị đổi một túi ngô lấy một bát cơm ộn xộn gần như không ăn được.  Ngô trông rất tuyệt và tôi đã nài nỉ bà nhận nhưng bà từ chối.  Mặc dù được phục vụ với hy vọng không thể tin được là nâng cao tinh thần của chúng tôi, bữa tối không phải là một sự kiện đặc biệt vui vẻ.  Bà nội nhanh chóng thông báo rằng 125 cân gạo của chúng tôi sẽ không tồn tại được lâu với mức độ này và do đó lượng tiêu thụ của chúng tôi sẽ phải cắt giảm.  Chúng tôi không có lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý.  Đêm hôm đó, gia đình đã cam kết sẽ đoàn kết, dù thế nào đi nữa, và giúp đỡ lẫn nhau nhiều nhất có thể.  Ngày hôm sau chúng tôi sẽ nhận được thông tin chi tiết về công việc của mình;  chắc chắn là sẽ khó khăn, nhưng chúng tôi sẽ làm được nếu chúng tôi đoàn kết lại.  Họ sẽ không giữ chúng ta ở một nơi như vậy mãi mãi!

 Có ai trong chúng tôi thực sự tin rằng tương lai sẽ đơn giản đến mức những quyết tâm cao quý của chúng tôi thực sự đủ để bảo vệ chúng tôi khỏi thực tế không?  Tuy nhiên, chúng tôi đã hành động như thể chúng tôi tin tưởng, mặc dù vẻ ngoài lạc quan và những quyết tâm anh hùng đã bắt đầu hao mòn ngay trong đêm đó, khi chúng tôi trằn trọc không sao ngủ trên các chiếc chiếu.  Chúng tôi đã quyết tâm tạo ra một mặt trận chung, nhưng để chống lại cái gì?

Sáng sớm hôm sau, điều đầu tiên tôi nhìn thấy qua khung cửa sổ nhỏ là dãy núi xung quanh.  Các sườn dốc của nó được che phủ ở giữa bởi một tán cây dày đặc.  Khung cảnh thật tráng lệ.  Tôi vô cùng vô tư khi nghĩ lại điều đó, điều mà tôi chỉ có thể cho là do tuổi còn rất trẻ của mình.  Tôi rất thích thú trước những khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp – những khung cảnh hiếm có đối với một thiếu niên thành thị như tôi – và trong tâm trạng vô cùng phấn khích, tôi bước ra ngoài và bắt đầu đi về phía dòng sông. Riếng chim hót rộn rã xung quanh tôi, không khí trong lành và tràn ngập mùi thơm của cỏ khô mới cắt.  Đến sông, tôi phát hiện nước sông rất sâu và có màu xanh lục rất đẹp.  Tôi đứng nhìn vào đó một lúc, cố gắng tìm ra cá trong dòng nước, rồi quay trở lại túp lều.

 Khi tôi quay lại thì mọi người đã thức dậy rồi.  Tôi cảm thấy rằng tâm trạng mọi người không phù hợp để tôi kể lại những ấn tượng đồng quê vưa trải nghiệm và tốt nhất nên giữ những cảm xúc thiên nhiên cho riêng mình.  Vài phút sau, chú tôi đi tìm củi khô và tôi cũng tham gia cùng chú.  Vụ thu hoạch của chúng tôi rất ít ỏi: vì mặt hàng đó dường như được săn lùng nhiều.

 Trên đường về, chúng tôi gặp một cậu bé.  Tôi chắc chắn rằng anh chàng chỉ bằng tuổi tôi, nhưng cậu ta thề rằng mình hơn tôi hai tuổi.  Bất chấp những gì tôi được nghe ngày hôm trước – về việc cuộc sống trong trại kìm hãm sự phát triển của một đứa trẻ – tôi vẫn không khỏi hoài nghi.  Tên anh chàng là Oh Jung-il, và cậu ta là cựu binh bốn năm của ngôi làng gồm những cư dân ở Nhật trước đây như chúng tôi.  Khi trò chuyện, chú tôi đánh bạo nhận xét về vẻ đẹp của phong cảnh, lưu ý rằng “ít nhất chúng ta cũng có điều đó để an ủi”.

 “Cậu gọi đây là an ủi sao?”  anh chàng bắn trả lại.  “Hãy nhìn xung quanh kỹ hơn đi cậu.  Chúng ta đang  trong lòng một thung lũng.  Nó có thể không bằng phẳng và gập ghềnh, nhưng nó vẫn là một thung lũng và được bao quanh bởi những ngọn núi cao.  Ngày đến trại chắc hẳn bạn đã nhìn thấy hàng dây thép gai chạy dài từ hai bên lối vào.  Sự thật là họ chỉ cần nó ở một số nơi, nơi những trở ngại tự nhiên chưa đủ quyết liệt.  Trong mọi trường hợp, không thể giăng dây thép gai khi sườn dốc quá dốc.  Điều đó không thực sự quan trọng vì họ đã xâu một sợi dây kim loại xung quanh ngoại vi, nó sẽ kích hoạt báo động ngay khi cậu chạm vào.  Nếu như thế vẫn chưa đủ thì trên mỗi đỉnh núi đều có các đơn vị vũ trang đang tuần tra các sườn núi xung quanh.”

 Từ chỗ chúng tôi đang đứng, chúng tôi không thể nhìn thấy sợi dây điện, dường như nó chạy rất gần mặt đất.  Khi chúng tôi nheo mắt nhìn về phía xa, Oh Jung-il tiếp tục.

 “Ngoài hàng rào thép gai và quân đội tuần tra, họ còn đặt bẫy như bẫy thú rừng.  Họ đào mương, trồng những hàng cọc nhọn rồi ngụy trang bằng cành cây.  Đây là một vài điều cậu nên biết,” anh chàng tiếp tục, cười khúc khích, “phòng khi cậu thấy giò ngứa ngáy và muốn chạy trốn.”

 Lợi thế duy nhất mà một tù nhân vượt ngục có được là có thể vượt qua những kẻ truy đuổi mình trong 12 giờ đồng hồ.  Các cuộc điểm danh được tổ chức sáu giờ một lần, nhưng lính canh chỉ bắt đầu điều tra sau khi họ nhận thấy hai lần vắng mặt liên tiếp.

 “Điểm danh?  Khi nào?  Ở đâu?”

 “Cậu hoàn toàn không biết gì cả,” cậu ta trả lời và cười lớn.  “Có ba cuộc gọi phân công nhiệm vụ ở trại Yodok, vào lúc 5 giờ 30 sáng, vào buổi trưa và lúc 6 giờ 30 chiều.  Chúng diễn ra trước văn phòng cung ứng, nơi chi tiết công việc được phân công cho các nhóm khác nhau.  Các cuộc điểm danh kéo dài nửa giờ bất kể thời tiết.  Chỉ những người có giấy chứng nhận bị bệnh mới được miễn.  Nếu không, mọi người phải đi và cậu sẽ bị phạt nếu không đi hoặc đến muộn ”.

Sau đó, anh chàng quay trở lại chủ đề trốn thoát, rõ ràng là chủ đề rất tâm đắc của mình.  Chỉ có một lần cậu nghe thấy tiếng còi báo động vang lên và nhìn thấy các nhân viên an ninh tập hợp thành các tổ truy lùng và tiến lên núi.  Phải mất một lúc nhưng cuối cùng họ cũng hạ gục được con mồi.  Người tù vượt ngục đã bị bắt lại giữa chừng, khi đến gần đỉnh núi nơi ý hy vọng có thể tìm thấy tự do. Sau đó y bị tra tấn trong một hoặc hai tuần, sau đó bị xử tử.

 “Hình phạt cho việc cố gắng trốn thoát là hành quyết.  Không có ngoại lệ.  Lính canh bắt cả làng ra xem.  .  .  .  Vì vậy, với tất cả những điều đó, tớ khó có thể thấy những ngọn núi này đẹp đến thế nào.”

Chúng tôi im lặng, nhưng  có lẽ vẻ mặt chúng tôi lộ rõ vẻ kinh hoàng.  Anh chàng nhận ra, có lẽ cảm thấy hơi tội lỗi, nên đã cố gắng nói điều gì đó thân thiện và đưa ra cho chúng tôi một vài lời khuyên, điều đó cho thấy cậuq thực sự là một đứa trẻ tốt bụng và tính nhân văn vẫn còn rất sống động.

 “Ừ,” anh chàng tiếp tục, “cậu phải thực sự điên rồ mới cố gắng trốn thoát.  Mặt khác, đôi khi cậu còn điên rồ hơn nếu muốn ở lại, đặc biệt nếu cậu chỉ có một mình, không có gia đình hay bạn bè.  Công việc rất vất vả và hiếm khi có đủ thức ăn để làm dịu đi cơn đói của cậu.  .  .  . Người nhà cậu sẽ phải gắn bó với nhau, giúp đỡ lẫn nhau – và hãy nhớ rằng, đừng tin tưởng bất cứ ai.”

 “Còn cậu,” cậu bé nói, quay sang tôi, “cậu sẽ ngạc nhiên về cái mà người ta gọi là trường học ở đây.  Dù sao thì chúc cậu may mắn.”

 Anh chàng đã quay lưng lại và  bước đi, một bó cỏ cao chót vót dựng đứng trên đầu cậu.  Chúng tôi đã nói chuyện quá lâu và cần phải quay lại ngay.  Lính canh đã nói với chúng tôi rằng vào lúc 8 giờ sáng hôm đó, đội trưởng của chúng tôi sẽ đến để giải thích chi tiết công việc và các quy tắc và kỷ luật trại.  Người ta nhấn mạnh rằng cả gia đình phải có mặt.  Ở Triều Tiên – như sau này tôi được biết là rập khuôn theo Liên Xô và Đức Quốc xã – lính canh trại không muốn tự mình thực hiện mọi công việc giám sát: họ chỉ định các tù nhân, đôi khi họ không muốn, trở thành trưởng nhóm và thực hiện các trách nhiệm của mà cảnh sát không muốn làm .  Họ thu thập thông tin và có quyền trừng phạt những tên ngoan cố, đặc biệt nhất là bằng cách tố cáo họ với cấp trên.  Các cai tù là mắt xích quan trọng trong chuỗi chỉ huy giữa chính quyền trại và tù nhân thông thường.  Mỗi cai tù giám sát khoảng mười đội lao động và chỉ cần làm việc nửa thời gian.

 Tên cái tù đã có mặt ở đó khi chú tôi và tôi quay lại ngôi nhà.  Đứng bên cạnh một người lính canh, người bạn đồng hành của y trong những nhiệm vụ này, y đang kể cho gia đình tôi bản tóm tắt các nội quy làm việc của trại.  Bà sẽ là người duy nhất được miễn làm việc, trách nhiệm của bà là ở nhà nấu ăn cho chúng tôi.  Công việc thường ngày của tôi và chị gái là buổi sáng đi học và buổi chiều lao động chân tay.  Ngoài ra còn có những công việc thông thường như chặt gỗ và vận chuyển gỗ, trồng ngô, nhổ cỏ, v.v., cũng như việc bắt buộc phải tham gia vào chiến dịch tìm kiếm nhân sâm rừng trên núi do Đảng khởi xướng gần đây, một dự án chắc chắn chúng ta phải nỗ lực hết sức để lấy công chuộc lỗi.  Các chi tiết công việc khác nhau của trại được giao cho các đội lao động gồm năm tù nhân, mỗi đội có chỉ tiêu riêng.  Chi tiết công việc được truyền từ cai tù đến đội trưởng và từ y đến các thành viên khác trong đội  Bản thân cai tù cũng là cấp dưới của một tù nhân-giám thị, người được trại trưởng chọn để đại diện cho toàn thể làng.  Mặc dù được miễn lao động thể chất nhưng người giám thị có trách nhiệm theo dõi các tù nhân và lập báo cáo.  Nếu khối lượng công việc của y trở nên quá nặng nề, một giám thị thứ hai có thể được bổ nhiệm để hỗ trợ. Tên cai tù giải thích tất cả những điều này cho chúng tôi nhưng chưa hề đề cập đến các tiêu chí được sử dụng để lựa chọn người giám sát, nhưng sau đó tôi đã có thể tự đoán ra thông tin này: yêu cầu của người đó phải vạm vỡ – có thể chất rất đe dọa – và phải có một thân hình cân đối, xu hướng chung là hợp tác hết lòng với chính quyền trại.  Với những phẩm chất nền tảng này trong tính cách của y, không có gì ngạc nhiên khi người giám thị có xu hướng nghiêm khắc hơn cả những lính canh – và thường bị các bạn tù của y ghê tởm.  Mạng lưới cộng tác không kết thúc với y.  Ngoài ra còn có “đại biểu” giúp các đặc vụ chuẩn bị, sắp xếp chi tiết công việc;  hai nhân viên thống kê để theo dõi tiến độ của các vụ thu hoạch khác nhau (gỗ, ngũ cốc, v.v.);  và hai người quản lý chung: một người giám sát việc phân phối thực phẩm, dụng cụ và đồng phục, người còn lại tổ chức các nghi lễ đặc biệt.

 Khi cai tù đã chỉ thị xong, người lính gác bước tới phát biểu phần của mình.

Y tuyên bố: “Các người không đáng được sống, nhưng Đảng và Lãnh tụ vĩ đại của chúng ta đã cho các người một cơ hội để chuộc lỗi.  Đừng lãng phí nó và đừng làm ngài thất vọng.  Chúng ta sẽ thảo luận thêm về tất cả những điều này trong cuộc họp tiếp theo để phê bình và tự phê bình.”

 Sau đó cả hai rời đi mà không nói thêm một lời nào, điều này có phần đáng khích lệ.  Người lính gác thực sự làm tôi sợ hãi.  Sau này tôi đã học được cách phân biệt những kẻ cuồng tín thực sự—những tên rình rập từng lời nói hay một cái nhìn có thể tiết lộ tội ác gia đình—với những người mà bạn nói chuyện. Bọn lính gác hầu hết đều thất học, thô lỗ và nói chung là không tốt.  Tất nhiên cũng có một vài ngoại lệ, nhưng họ không bao giờ có thể chịu đựng được nhiệm vụ của mình lâu dài.  Cuối cùng, bầu không khí của trại sẽ ảnh hưởng đến họ và họ sẽ yêu cầu được chuyển đi nơi khác.

 Để trở thành lính bảo vệ ở một nơi như Yodok, yêu cầu đầu tiên là phải có lý lịch tốt, hay nói cách khác là xuất thân từ một gia đình nông dân hoặc công nhân nghèo.  Tiếp theo, trong gia đình bạn không được có “tội phạm chống Cộng” là những anh em họ trực tiếp của bạn.  Sau đó, bạn được đánh giá dựa trên những phẩm chất cá nhân, cụ thể là sức mạnh thể chất và mức độ chính thống về chính trị của bạn.  Nếu mọi thứ được thông qua, bạn sẽ được nhận vào chương trình đào tạo cần thiết để phục vụ tại trại.

 Các lính canh chuyển đến Yodok cùng gia đình và sống trong một doanh trại nhỏ gần lối vào chính của trại.  Con cái của họ theo học tại một trường học trong khuôn viên trại – tất nhiên là một trường khác với trường của chúng tôi, việc tách lúa mì ra khỏi trấu là rất quan trọng.  Trường của họ là một ngôi trường thực sự, mở cửa không chỉ vào buổi sáng, với những giáo viên thực sự thay vì những kẻ vũ phu hung ác.  Con cái của lực lượng bảo vệ được đối xử như người dân Bình Nhưỡng và nhận được một nền giáo dục tốt.  Là con cháu của tội phạm, chúng tôi thậm chí còn không được phép tiếp xúc với những đứa trẻ này.  Tuy nhiên, trong một vài trường hợp, tôi đã cố gắng nhìn thoáng qua chúng.  Tôi nhớ lần đầu tiên tôi đã ngạc nhiên như thế nào.  Đó là tháng 9 năm 1979 và tôi đang làm việc trên cánh đồng gần trường học của chúng.  Tôi nghe thấy một tiếng kêu vui mừng và nhìn lên thì thấy chúng ở ngoài sân.  Tôi bị mê hoặc bởi nghị lực của họ, sự sạch sẽ trong quần áo của họ, khuôn mặt hồng hào và mái tóc cắt tỉa cẩn thận, tất cả những điều đó khiến chúng có vẻ rất khác so với hạng người mà tôi đã trở thành.

 Trong chuyến thăm buổi sáng, cai tù đã phân công bố và chú tôi vào một đội công tác nông nghiệp, họ phải báo cáo vào lúc 6 giờ sáng.  Ngày hôm sau, đúng giờ tôi và chị gái phải đến trường.  Nửa ngày làm việc của chúng tôi sẽ bắt đầu lúc 1 giờ chiều.  Lịch trình sẽ không thay đổi cho đến khi chúng tôi đủ mười lăm tuổi, lúc đó chúng tôi sẽ được coi là người lớn và được giao toàn bộ nhiệm vụ công việc.  Tuy nhiên, trước khi thói quen mới của chúng tôi có thể bắt đầu, chúng tôi phải đến văn phòng cung cấp đồng phục.  Cả nhà tôi có mặt ở đó cùng nhau để thử số quần áo cũ ít ỏi.  Trải nghiệm này khiến chúng tôi cảm thấy hơi xấu hổ.  Khi trút bỏ quần áo cũ, chúng tôi có thể cảm thấy cuộc sống dân sự trước đây của mình đang trôi đi, cuộc sống mà chúng tôi đeo cà vạt và mặc áo sơ mi sạch sẽ, quần đùi và tất thoải mái.  Từ thời điểm này trở đi, tủ quần áo của chúng tôi sẽ chỉ có một chiếc áo khoác màu tím và một chiếc quần dài, cả hai đều được may vụng về từ một loại vải thô và nặng.  Đồng phục được cài rất nhiều nút và giống với trang phục nhà tù Trung Quốc mà sau này tôi thấy trên truyền hình và trong phim ảnh.  Lần đầu tiên tôi mặc bộ đồng phục này đã đủ kỳ lạ rồi, nhưng nhìn thấy bố và em gái tôi trong bộ đồng phục đó còn lạ hơn nữa.  Khi trời mưa vài tuần sau đó, chúng tôi lại phát hiện ra một điều khó chịu khác: quần áo co lại ngay khi bị ướt.  Bây giờ chúng không chỉ không thoải mái mà còn hết sức lố bịch.  Đó là điều mà không một cựu tù nào từng bị giam giữ nhận thấy.  Những bộ đồng phục này được phân phát cho chúng tôi vào giữa tháng 8 và dự định sẽ phục vụ chúng tôi trong suốt cả năm.  Một số tù nhân nói với tôi rằng trại có những quy định chính xác về việc phân phát đồ vải và đồng phục.  Nếu những quy tắc này tồn tại, chắc chắn chúng đã không được tuân theo khi chúng tôi ở đó.  Trong suốt thời gian ở Yodok, tôi chỉ nhận được đồng phục hai lần, và mặc dù chúng nhanh chóng tan biến nhưng đó là tất cả những gì tôi phải mặc—ngày này qua ngày khác, năm này qua năm khác, trên đồng ruộng, dưới hầm mỏ, trong rừng núi.

Trong những năm bị giam giữ, giẻ rách thường là thứ quần áo duy nhất chúng tôi có.  Quần áo của chúng tôi cuối cùng đã đạt tới mức kinh tởm đến mức lính canh không còn lựa chọn nào khác ngoài việc để chúng tôi mặc quần áo cũ “ở bên ngoài trại”.  Chẳng bao lâu sau, những thứ này cũng trở nên rách rưới và bẩn thỉu đến mức không thể phân biệt được với đồng phục của chúng tôi.  Sau vài tháng ở trại, vẻ ngoài rách rưới của chúng tôi không làm chúng tôi khó chịu hơn bất cứ ai khác.  Điều duy nhất quan trọng là giữ ấm.  Khi cái lạnh mùa đông kéo đến, chúng tôi mặc mọi thứ có thể trong tay, hy vọng rằng những lớp giẻ rách có thể bảo vệ chúng tôi.  Chúng tôi cũng liên tục tìm cách lấy trộm thêm quần áo.  Làm việc trong đội tang lễ, chúng tôi không bao giờ chôn một thi thể mà không lột trần người đó trước.  Ngoài cái lạnh, điều tệ nhất là đồ lót.  Ban quản lý trại cung cấp cho chúng tôi quần đùi và áo lót, nhưng vải của chúng quá thô đến nỗi cọ xát vào da chúng tôi, khiến chúng tôi ngứa ngáy và đôi khi để lại những vết thương hở, đến nỗi chúng tôi sớm nhận ra rằng tốt hơn là nên đi mà không có chúng.  Cuối cùng, tôi nảy ra ý tưởng tái chế chiếc quần lót cũ rách nát của mình thành lớp lót, khâu chúng vào bên trong chiếc quần lót do trại cấp cho tôi.  Đối với tất, hạn ngạch hàng năm của chúng tôi là một đôi không bao giờ kéo dài lâu, bất chấp lời nguyền rủa không ngừng và thường kỳ diệu của bà tôi.

 Buổi tối, sau bữa ăn tối ngắn ngủi với ngô, tất cả chúng tôi đi ngủ ngay, nghĩ về ngày sắp tới, ngày đầu tiên làm việc ở trại, một ngày chắc chắn sẽ khó khăn.  Đối với tôi nó đơn giản là khủng khiếp.

 

 

6

LỢN RỪNG: MỘT THẦY GIÁO VŨ TRANG VÀ BẠO LỰC

Bà nội đánh thức tôi đúng lúc mặt trời bắt đầu mọc.  Tại Yodok, không thể có chuyện tranh cãi hay ngủ nướng.  Tôi lăn ra khỏi giường dưới ánh sáng nhợt nhạt của bóng đèn đơn độc.  Tôi mặc bộ đồng phục khủng khiếp của mình, nuốt thêm một miếng ngô nữa rồi đi đến địa điểm tập hợp được chỉ định.  Khi tôi đến nơi, một vài đứa trẻ đã đợi sẵn ở đó.  Tất cả bọn chúng đều nhìn tôi với đôi mắt mở to đầy tò mò.  Vài phút trôi qua, sau đó một vài học sinh – tôi đoán chúng là đại biểu nào đó – xếp chúng tôi vào hàng và dẫn chúng tôi diễu hành về phía trường,  vừa đi vừa cất tiếng hát “Bài ca Kim Nhật Thành” mà tôi biết từ những ngày học tại Trường Nhân dân ở Bình Nhưỡng.  Tiếc thay, bài hát sáng nay của chúng tôi bị các thầy cô đang đợi ở cổng trường đánh giá là quá ỉu xìu và chúng tôi được lệnh lùi lại mười thước và tiếp tục diễu hành và ca hát một cách mạnh mẽ hơn, khí thế hơn

 Ngôi trường là một khu đất hình vuông gồm hai tòa nhà quay mặt vào nhau hai đầu nối nhau bằng một bức tường.  Một luống hoa và một bãi cỏ trải dài giữa các tòa nhà.  Các lớp học được sưởi ấm sàn theo cách truyền thống của Triều Tiên, nhưng chỉ khi nhiệt độ xuống dưới âm 10˚C.  Phía trên bảng đen, thống trị mọi lớp học, là chân dung của Kim Il-sung và Kim Jong-il.  Bộ bàn ghế ọp ẹp của trường là những thứ được các tù nhân đóng lại  từ những vật liệu xây dựng còn sót lại.  Vì Triều Tiên luôn cho rằng chiến tranh sắp xảy ra và kẻ thù ở khắp mọi nơi nên đất nước này luôn trong tình trạng báo động.  Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi các tòa nhà trong trường học của chúng tôi được giám sát 24/24 giờ.  Để thực hiện việc giám sát này, hai khu nhà phụ đã được thêm vào phía sau tòa nhà.  Tòa nhà đầu tiên là nơi ở của hiệu trưởng đang tại chức, trong khi tòa nhà thứ hai, lớn hơn một chút là nơi ở của 12 học sinh trực làm việc theo ca 12 giờ.  Xa hơn một chút là tòa nhà nhỏ có Phòng Kim Nhật Thành, một loại đền thờ chứa đầy áp phích, sách và ảnh tôn vinh chiến công của Lãnh tụ vĩ đại.  Phía sau dãy nhà phụ là dãy chuồng thỏ của trường.

 Vào tháng 9 năm 1977, tôi bắt đầu học năm cuối ở trường tiểu học.  (Ở Triều Tiên, giáo dục tiểu học kéo dài bốn năm và tiếp theo là năm năm trung học cơ sở.) Tại Yodok, tất cả trẻ em từ một số làng lân cận được xếp vào một trong hai lớp học có trình độ hỗn hợp, mỗi lớp có 50 học sinh.  Chúng tôi bắt đầu ngày học bằng việc quét và lau sàn lớp học.  Sau khi bài tập nhỏ này hoàn thành, vào khoảng bảy giờ, giáo viên giao cho chúng tôi bài tập buổi sáng.  Trong giờ đầu tiên, học sinh phải chia nhóm và ôn lại bài học ngày hôm trước.  Vì là người mới nên tôi chẳng có việc gì làm ngoài việc ngồi chờ.  Sau buổi ôn tập là các bài học về tiếng Hàn, toán, sinh học và cuối cùng là chính trị của Đảng, môn học rõ ràng được giáo viên yêu thích.  Lớp về sau về cơ bản bao gồm việc lặp lại những công thức mà tôi đã ngấu nghiến suốt đời, về những ưu điểm của hệ tư tưởng “Juche” xuất sắc ca ngợi khả năng tự cung tự cấp của cộng đồng Triều Tiên, nơi sự tồn tại đặc biệt của họ được làm sinh động bởi tinh thần của một Lãnh tụ vĩ đại.và duy nhất của chúng ta.   Trong khóa học này cũng như những khóa học khác, tôi đã học được rất ít điều mà tôi chưa biết.  Mỗi bài học kéo dài năm mươi phút và sau đó là thời gian nghỉ giải lao mười phút.  Lớp học kết thúc vào buổi trưa.

Tôi có những giáo viên ở Yodok thực sự coi trọng công việc của họ.  Tuy nhiên, hầu hết các giáo viên đều tỏ ra coi thường sức khỏe của chúng tôi, thậm chí đôi khi còn để chúng tôi gục đầu xuống bàn ngủ trưa với lý do rằng điều này đang dạy chúng tôi tính tự lập và tính kỷ luật.  Ngoài chế độ tư tưởng ít nhiều giống nhau ở khắp mọi nơi ở Bắc Hàn, đơn giản là không có sự so sánh nào giữa cuộc sống của học  viên Yodok và học viên bên ngoài.

 Các giáo viên của chúng tôi thường nói chuyện với chúng tôi theo cách khắc nghiệt nhất, thô thiển nhất.  Thay vì sử dụng họ hoặc tên của chúng tôi, họ buột miệng nói những câu như “Này, mày,  xuống cuối lớp!  Này, mày, tên ngốc ở hàng thứ ba!  Này, thằng khốn nạn.”  Việc họ đánh chúng tôi cũng là điều bình thường.  Đó thực sự là một khám phá đối với tôi.  Không giống như những giáo viên mà tôi đã học ở Bình Nhưỡng – những người chu đáo, kiên nhẫn và tận tâm – những người hướng dẫn của tôi ở Yodok chỉ đơn giản là những kẻ cục súc, mối quan tâm hàng đầu của họ là tiêu diệt “bọn sâu bọ phản cách mạng” – hay đúng hơn là con của bọn sâu bọ phản cách mạng, mà đối với họ cũng cùng một giuộc.

 Trại đã trải qua nhiều thời điểm khó khăn – cái chết của những người bạn tốt, bệnh tật của bà tôi, tình trạng tê cóng của tôi, việc bắt buộc phải chứng kiến ​​những vụ hành quyết công khai – nhưng vào thời điểm những điều này xảy ra, tôi đã có những trải nghiệm giúp tôi vượt qua cú sốc.  Người ta không bao giờ mong đợi điều tốt lành nào từ một tai nạn, bệnh tật hay hành quyết.  Nhưng một đứa trẻ mười tuổi có thể mong đợi một số điều tốt đẹp đến từ trường học, chẳng hạn như bạn bè và giáo viên quan tâm và giúp trẻ khám phá mọi thứ, những thầy cô biết lắng nghe và khuyến khích.  Mọi hy vọng như vậy của tôi đã bị phản bội vào ngày đầu tiên tôi bước qua cửa lớp học.  Giáo viên của chúng tôi, với khẩu súng lục bên cạnh, la hét vào mặt chúng tôi khi chúng tôi làm thầy bực bội dù chỉ một chút và nhanh chóng chuyển sang lăng mạ và đánh đập.

 Mới đến và vẫn chưa quen với những gì được coi là hành vi tốt, tôi quá sốt sắng để giành được sự ưu ái của giáo viên và thể hiện sự vượt trội của mình so với các bạn cùng trang lứa.  Có lẽ những đứa trẻ khác trong lớp thực sự là bọn trẻ hư, nhưng tôi chắc chắn không phải vậy.  Bà tôi từng là đại biểu Quốc hội, ông nội tôi đã dâng toàn bộ tài sản cho Đảng.  Để chứng tỏ mình là một chiến binh xuất sắc của Kim Il-sung, tôi liên tục đặt câu hỏi và tài lanh góp ý búa xua dù không được hỏi.

 Thật là một sai lầm!  Khi giáo viên đang giảng về hội nghị Namhodu và bài phát biểu xuất sắc của Kim Il-sung ngày 27 tháng 4 năm 1936, tôi nhận ra rằng thầy đang nhầm lẫn các tình huống xung quanh bài phát biểu này với những âm mưu của hội nghị Dahongdan.  Tôi giơ tay và hỏi thầy có phải thầy nhầm lẫn hay không.  Thầy lập tức cầm khẩu súng lục bước từng bước nặng nề và tát mạnh vào mặt tôi.  Trong lớp vang lên tiếng cười.  Chàng trai mới vừa học bài học đầu tiên.  Tôi kinh hoàng – mặc dù phẫn nộ hơn là buồn bã, đầy căm ghét hơn là tuyệt vọng.  Tôi quyết định rằng tôi sẽ làm mọi thứ trong khả năng của mình để hạ bệ kẻ vũ phu hèn hạ đang mạo danh giáo viên đó.  Tôi sẽ làm như những người khác và ngồi đó mà không nói một lời.  Tuy nhiên, thỏa thuận im lặng của tôi sẽ chỉ là một liều thuốc xoa dịu yếu ớt trước nỗi đau kéo dài của giai đoạn đó.  Khi nhận cái tát đó, tôi hiểu rằng cuộc đời mình đã rơi vào “một nơi tồi tệ”, nhắc lại câu nói của những bạn bè cũ ở Bình Nhưỡng.

 Việc chia tay với thế giới cũ của tôi không trùng với thời điểm tôi đến trại.  Ở một số khía cạnh, bản thân nơi này không có lỗi.  Đôi khi tôi có thể quên đi việc bị giam giữ và để mình được tận hưởng niềm vui được ở quê.  Dòng sông và những ngọn núi xa xôi thường là nguồn an ủi giúp tôi khuây khỏa.  Nhưng ngày đầu tiên đến lớp đó vẫn là một kỷ niệm kinh hoàng.  Khi đó tôi cảm thấy có điều gì đó xé nát bên trong mình – điều gì đó đã kết nối tôi với cuộc sống khác duy nhất mà tôi từng biết.  Từ đó trở đi, tôi cảm thấy sợ hãi trước một số giáo viên giống như cảm giác của ngày chúng tôi đến, khi từ trong xe tải tôi nghe thấy lính canh la hét chửi bới những người đang muốn gặp chúng tôi, những tội phạm mới.  Tôi đã bị buộc phải tin – và thực sự đã muốn tin – rằng Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên là quốc gia tốt nhất trên thế giới.  Tôi tôn kính Kim Il-sung như một vị thần.  Tuy nhiên, ở đây lại có những giáo viên có vũ trang đánh đập và lăng mạ học sinh của mình.

Trong thời gian bị giam giữ, tôi có nửa tá giáo viên nam và hai giáo viên nữ, cả hai đều là vợ của lính canh.  Trong tất cả, chỉ có một người xứng đáng với danh hiệu người hướng dẫn.  Kẻ tệ nhất là người mà chúng tôi gọi là Lợn Rừng – cũng chính là kẻ đã nổi giận vì hiểu biết của tôi về hội nghị Namhodu.

Tàn nhẫn không kém là Pak Tae-seu, hay còn gọi là Cáo già, người đôi khi trừng phạt học sinh của mình bằng cách bắt chúng đứng trần truồng trong sân cả ngày với hai tay chắp sau lưng.  Chúng tôi ghét thầy ấy đến mức có lần lấy hết can đảm phá hỏng chiếc xe đạp của thầy.  Để bắt chúng tôi khai ra thủ phạm, thầy nhốt tất cả chúng tôi vào lều.  Khi điều đó không hiệu quả, thầy thử đe dọa, đánh đập và bắt làm thêm giờ vào ban đêm, khi mong muốn duy nhất của chúng tôi trong cuộc sống là được ngủ.  Nhưng chúng tôi vẫn kiên cường.

 Một trong những hình thức trừng phạt phổ biến nhất ở trường học là nghĩa vụ làm vệ sinh.  Luôn có hai người giám sát – cả hai đều là bạn tù – đứng ở lối vào trường để kiểm tra học sinh đến và chọn ra những học sinh đi muộn.  Một học sinh đi trễ có thể phải làm nhiệm vụ vệ sinh tương đương một tuần, bao gồm dọn dẹp buồng vệ sinh hoặc đổ bể tự hoại.  Các bễ tự hoại phải được đổ mỗi năm một lần, và nếu thiếu học sinh cần bị trừng phạt, giáo viên sẽ chọn ngẫu nhiên các học sinh.

 Một lần, một người bạn cùng lớp của tôi bắt đầu phàn nàn với chúng tôi vì cậu ấy đã bị chọn vào một công việc khó chịu nhiều lần liên tiếp.  “Tôi luôn là người duy nhất,” cậu rên rỉ.  “Các giáo viên không có điều gì tốt hơn để chúng ta làm sao?  Có lẽ là vì họ thích cứt!”  Chắc hẳn ai đó đã đến mách với Lợn Rừng, vì một phút sau chúng tôi thấy hắn đi về phía chúng tôi với vẻ mặt điên cuồng.  Hắn túm lấy cậu học sinh phạm tội và bắt đầu đánh đập cậu một cách dã man, đầu tiên là đấm cậu bằng nắm đấm, sau đó đá cậu.  Bị đánh đập và loạng choạng, cậu bé rơi xuống bể tự hoại, bị mắc kẹt trong đó rất lâu, không tìm được chỗ nắm để leo lên hay nhờ ai đến giúp đỡ.  Hài lòng với công việc của mình, giáo viên mất hứng thú và bỏ đi.  Sau một hồi cố sức, bạn tôi cũng đã tới được thành bễ và trèo ra ngoài, nhưng cậu ấy đang trong tâm trạng buồn bã đến nỗi không ai muốn giúp cậu ấy tắm rửa hay băng bó vết thương.  Vài ngày sau cậu ta qua đời.  Chúng tôi chưa bao giờ biết rõ điều gì.  Nhưng câu chuyện có một đoạn kết: vài ngày sau, mẹ cậu đến gặp thầy, khóc lóc và đòi con về.  Lợn Rừng bình tĩnh trả lời rằng cậu bé đã nói những điều phản cảm và đáng bị trừng phạt.  Về cái chết của cậu ta, à, đó không phải là trách nhiệm của hắn.  Và rồi hắn ta đuổi người mẹ đau khổ ra ngoài!

 Lợn Rừng đối xử với chúng tôi như thú vật hơn là trẻ con – điều mà thầy ấy không hề quên nhắc nhở chúng tôi, đối với hắn chiều chuộng chúng tôi như vậy là quá tốt rồi: “Vì cha mẹ của chúng mày là đồ phản cách mạng, họ đáng phải chết, và chúng mày, con cái của họ, cũng đáng bị như vậy. Thật may mắn cho chúng mày, Đảng rất nhân hậu và Lãnh tụ vĩ đại của Đảng rất hào hiệp.  Ngài đã ban cho chúng mày sự ân xá và cơ hội để chuộc tội.  Chúng mày nên biết ơn, nhưng thay vào đó chúng mày lại phạm thêm tội!  Phạm tội quá nhiều sẽ không được tha thứ!”  Tất cả chúng tôi đều cụp mắt xuống, cầu mong cái chết cho kẻ tra tấn mình.  Nam sinh và nữ sinh đều được lãnh đủ như nhau từ sự tàn bạo không phân biệt đối xử và hình phạt yêu thích của hắn ta, bao gồm việc ra lệnh cho học sinh quỳ xuống và bắt vừa bò trước lớp vừa nói: “Tôi là con chó.  .  .  Tôi là con chó.  .  .  .”

Hai nữ giáo viên của chúng tôi bớt thô bạo hơn nhiều.  Chúng tôi đã đặt tên cho một cô, một phụ nữ tròn trịa ở độ tuổi năm mươi, là Bắp cải Trung Quốc.  Mặc dù khỏe hơn hầu hết các giáo viên nam nhưng cô lại ít đánh đập dã man hơn.  Tuy nhiên, cô ấy có sở trường của mình: một cú nhéo khó chịu để lại một mảng lớn màu xanh trên da bạn.  Mong muốn thực hành chuyên môn nhỏ này của mình có thể xâm chiếm cô ấy bất cứ lúc nào, điều này đã dạy chúng tôi luôn tránh xa tầm tay của cô ấy.  Cô giáo còn lại trẻ hơn, khoảng ba mươi tuổi.  Cô này không xấu tính, nhưng lại cố tỏ ra như vậy.  Cô thường la mắng học sinh nhưng hiếm khi có sự tức giận trong giọng nói.  Để chấm dứt những cơn la hét điên cuồng của mình, đôi khi cô ấy dùng thước đánh vào tay chúng tôi, nhưng những cú đánh của cô không nặng hơn tiếng la hét của cô.  Than ôi, cô rời trại sau hai năm để cho một đứa trẻ ra chào đời.  Ngoài người phụ nữ này và một giáo viên khác mà tôi vẫn biết ơn, tất cả các giáo viên đều là những kẻ vũ phu.  Lợn Rừng, với những trận đòn và cơn thịnh nộ vô bờ bến, thực sự rất phiền toái.  Về phần mình, Cáo Già đã thực hiện một hành động tàn ác không khác gì thói bạo dâm. Thầy ấy đã tấn công chúng tôi bằng phương pháp của một kỹ thuật viên gây đau khổ lão luyện, luôn tìm cách để tăng cường mức đau đớn  Ví dụ, khi bàn tay của chúng tôi bị ố đen do bóc quả óc chó, thầy sẽ bắt chúng tôi làm sạch chúng bằng cách chà đi chà lại trên mặt đất.  Và nếu chúng tôi chà xát không đủ mạnh, thầy sẽ chà xát tay chúng tôi dưới gót ủng của y.

 Mối tin tưởng giữa học sinh và giáo viên là hoàn toàn không thể có được trong điều kiện như vậy.  Đối với người thầy đã gây ra cái chết cho một người bạn chúng tôi, cảm giác duy nhất gắn kết chúng tôi với hắn ta là lòng căm thù không nguôi.  Chúng tôi không thể chịu được sự kiêu ngạo của những nhà sư phạm giả hiệu này, sự phù phiếm lố bịch của họ khi họ đi vòng quanh trại trên chiếc xe đạp của mình.  Tôi nhớ ngày mùa đông khi chúng tôi nhìn thấy người thầy mà chúng tôi gọi là Cậu Bé đến sân trên chiếc xe đạp mới toanh.  Thầy cố khoe mẽ bằng cú dừng bóp thắng sau đột ngột, nhưng thay vào đó lại trượt xe và bay xuống bùn.  Chúng tôi bật  cười tới tận mây xanh.  Đỏ bừng lên vì giận và quê, tên ngốc bắt đầu cầm gậy đuổi chúng tôi vòng quanh.  Tất cả bọn lính canh đều có quyền sử dụng một trong những chiếc xe đạp này, được gọi là Hải Âu.  Việc sở hữu một con Hải âu là một dấu hiệu khác biệt, một biểu tượng cho thấy sự vượt trội của lính canh đối với những tù nhân thấp kém, phải lê bước quanh trại trong những đôi giày tồi tàn hoặc với những miếng giẻ rách quấn quanh chân.  Không giống như hầu hết các sản phẩm do Triều Tiên sản xuất, Hải âu được sản xuất tại nhà tù Susong có chất lượng rất tốt – trên thực tế, đủ tốt để cạnh tranh trên thị trường quốc tế.  Chúng thường được bán với giá 3.000 won (tức là 40 USD trên thị trường chợ đen, hoặc gấp 10 lần nếu tính theo tỷ giá hối đoái chính thức).  Trong khi đó, xe đạp Trung Quốc có giá 2.000 won, trong khi các mẫu xe Nhật Bản thường có giá khoảng 10.000 won.  Nếu nhà tù Susong vượt quá hạn ngạch, số xe đạp dư thừa chỉ được bán với giá 1.500 won.  Đầu tiên trong số người được mua với giá này là người thân của các nhân viên an ninh, lính canh trại và nhà tù.  Tất cả họ đều say mê chiếc xe đạp của mình, đó chính xác là lý do tại sao chúng tôi quyết định phá hoại chiếc xe đạp yêu quý của Sói Già.

 Trò phá phách trẻ con này, giống như những trò được trẻ em khắp nơi trên thế giới ưa chuộng, có thể gây ra rắc rối nghiêm trọng ở Yodok.  Đó là trường hợp khi Lợn Rừng nhờ một người trong chúng tôi – tên anh ấy là Kim Chae-yu – trông chừng con hải âu của y khi y đi họp giáo viên.  Ngay khi Lợn Rừng quay lưng lại, tất cả chúng tôi đều bắt đầu nài nỉ Kim cho chúng tôi đạp xe vài vòng.  Phải mất một số công sức, nhưng cuối cùng cậu ta đã nhượng bộ.  Tôi là người thứ năm được đạp xe một vòng trên chiếc xe tuyệt vời đó trong niềm tự đắc, mặc dù đến lượt tôi, chiếc xe đạp trông không được đẹp cho lắm.  Đứa bạn đầu tiên chỉ mới đạp xe được khoảng một phút thì bị ngã và làm cong một tấm chắn bùn.  Chúng tôi cố gắng chỉnh nó lại bằng tay, nhưng vết lõm rất rõ ràng.  Tay đua thứ hai đã cố gắng hoàn thành vòng đua của mình mà không gặp sự cố nào, nhưng sau đó đứa bạn thứ ba làm gãy nan hoa, và tất cả chúng tôi đều rất bất cẩn khi vượt qua bùn và vũng lầy.  Chúng tôi đang cười giỡn khi Lợn Rừng về sớm hơn dự kiến. Hắn ta ngay lập tức bắt đầu đánh Kim Chae-yu, và sau khi đánh xong, hắn đá những đứa còn lại trong nhóm chúng tôi.  Tuy nhiên, hình phạt thực sự là một tuần làm việc bổ sung vào ban đêm, trong thời gian đó chúng tôi bị buộc phải đào mương, sau đó lấp đá vào, rồi đào mương mới và lấy đất từ ​​mương đầu tiên lấp vào mương thứ hai, v.v.  Giống như trong một giấc mơ tồi tệ.

Lớp học kết thúc vào buổi trưa.  Chúng tôi có một giờ để nghỉ ngơi và ăn bột ngô đựng trong hộp đồ ăn mang từ nhà.  Sau đó chúng tôi làm việc ngoài trời dưới sự giám sát của giáo viên. Chúng tôi học cách trồng lúa, trồng ngô và chặt cây.  Nhiệm vụ đầu tiên của tôi là trong một nhóm hỗ trợ những người trưởng thành khai thác gỗ trên núi.  Chúng tôi được giao nhiệm vụ kéo những khúc gỗ xuống làng, ở đó một nhóm người lớn khác cắt gỗ thành những khúc nhỏ, dài khoảng một mét rồi chất lên xe tải.  Những khúc gỗ nặng kinh khủng, ngay cả khi có hai người chúng tôi khiêng, và nơi cây bị chặt  đốn cách làng ba bốn cây số.  Để đạt đủ chỉ tiêu hàng ngày, chúng tôi phải hoàn thành mười hai chuyến khứ hồi, mỗi chuyến tổng cộng khoảng bốn mươi cây số, nửa chặng đường phải vác khúc gỗ trên vai.  Công việc này có lẽ sẽ khiến những đứa trẻ nông thôn cần cù nhất cũng đuối sức;  huống hồ đối với một chàng thiếu gia thành phố như tôi, lần đầu tiên làm quen với lao động chân tay, điều đó đơn giản là không thể.  Đến chuyến thứ ba, tôi đứng khựng lại và phải yêu cầu đứa trẻ làm việc cùng tôi dừng lại một phút để tôi lấy lại hơi thở.  Cậu ta càu nhàu đồng ý.  Tôi ngồi xuống.  Ngay lập tức, một tấm màn đen buông xuống trước mắt tôi và tôi ngã vật xuống đất.  Tôi đã bất tỉnh khoảng một giờ.  Khi tỉnh lại, xung quanh tôi là bọn trẻ trong nhóm làm việc, tất cả đều giận dữ với tôi.

 Giống như người lớn, chúng tôi làm việc theo nhóm năm người.  Nếu bệnh tật hoặc khuyết tật về thể chất khiến một người trong nhóm tụt lại phía sau, cả nhóm sẽ tụt lại phía sau và có nguy cơ bị trừng phạt.  Không có cái gọi là trách nhiệm cá nhân: công việc của một người chỉ được tính là một phần của sản phẩm tập thể.  Chừng nào đội chưa đạt được chỉ tiêu thì không thành viên nào trong đội có thể quay trở lại làng, bất kể họ có già yếu, mệt mỏi hay ốm đau như thế nào.  Người lao động cần phải ở lại với nhóm của họ và nhóm cần phải đáp ứng chỉ tiêu của mình.  Chính sách này có tác dụng gây ra sự thù địch giữa những kẻ bị giam giữ và phá hủy bất kỳ sự đoàn kết nào có thể coi là niềm an ủi về mặt đạo đức.  Đây có thể chính là lý do cho sự tồn tại của chính sách này.  Về cơ bản, các lính canh có thể ngồi nghỉ và thư giãn: các tù nhân buộc phải tạo ra một hệ thống tự giám sát, tuy có hiệu quả hoàn hảo trong việc duy trì trật tự nhưng lại cần ít sự can thiệp từ bên ngoài.

 Thật dễ dàng để tưởng tượng các đồng đội của tôi đã giận dữ với tôi như thế nào vào buổi chiều hôm đó.  Một số người trong số họ buộc tội tôi đã diễn kịch và thậm chí còn bắt đầu đấm đá tôi, ngụy trang những cú đánh của họ như một sự tiếp đón thân thiện để đánh thức tôi khỏi trạng thái sững sờ.  Ngày hôm sau, giáo viên giao cho tôi một công việc dễ dàng hơn: theo dõi những chuyến đi khứ hồi mà những người khác đã hoàn thành.  Nhưng không lâu sau, tôi lại bị đánh giá là thể lực đã sẵn sàng cho lao động khổ sai.

Bình luận về bài viết này