Những bể cá cảnh của Bình Nhưỡng- 10 Năm Trong Trại Khổ Sai của Bắc Triều Tiên (Bài 2)

Tác giả : KANG CHOL-HWAN

với Pierre Rigoulot

Trần Quang Nghĩa dịch

 3

NĂM SAU Ở BÌNH NHƯỠNG

Ông nội đồng ý chuyển đi nhưng ông vẫn tiếp tục chần chừ.  Hoàn cảnh mà cuối cùng khiến ông đi đến quyết định của mình khá hài hước, đặc biệt là khi xét đến các lợi ích chính trị và kinh tế.  Trước đây, ông nội đã nhanh chóng trở thành bạn của thủ lĩnh yakusa, hay ông trùm của băng đảng khét tiếng ở Kyoto.  Ông tôi hoàn toàn bị mê hoặc và tin rằng y sở hữu trí thông minh phi thường, sự nhạy bén trong kinh doanh, lòng dũng cảm và theo một nghĩa nào đó là sự trung thực.  Niềm tin của ông tôi dành cho y là vô bờ bến.  Ông và trùm băng đảng yakusa còn hơn cả tình bạn;  họ giống như anh em, qua đó tôi suy ra rằng họ đã từng kết nghĩa huynh đệ.  Đó là một thực tế phổ biến ở Viễn Đông, nơi hai người trở nên gắn bó thông qua việc uống máu ăn thề. Những gì người Âu có thể coi là trò chơi dành cho trẻ em lại là công việc nghiêm túc đối với người lớn ở khu vực đó trên thế giới và tôi chắc chắn rằng ông nội và trùm mafia địa phương thực sự coi đó là lời thề suốt đời.  Đến lúc ông nội phải quyết định, ông tự nhiên tìm đến gã đàn ông này để xin lời khuyên, và chính tay xã hội đen này đã xua tan những nghi ngờ còn sót lại cuối cùng của ông bằng cách nói với ông rằng nhiệm vụ của ông là phải đáp lại tiếng gọi của tổ quốc, giúp đất nước hưng thịnh, và để thay đổi cuộc đời mình.

 Số phận của gia đình tôi và của tôi đã được quyết định như vậy.  Tất cả mọi người – những người như bà tôi, vốn  thực sự muốn ra đi và những người, chẳng hạn như bố tôi và hầu hết các em của ông, chỉ cam chịu ra đi – đã lên tàu đi Triều Tiên.  Ngay cả chú hai của tôi, người kiên quyết không đi, cũng không thể thoát khỏi.  Một số thành viên trong đại gia đình đã cố gắng tập hợp lại phía sau chú, và một số anh em họ thậm chí còn đề nghị bảo bọc chú. Chú đã phản kháng quyết liệt, nhưng chiến thắng cuối cùng sẽ dẫn đến việc chia tay với cha mẹ, điều mà chú chưa sẵn sàng làm. Chú cố gắng giải thích lý do muốn ở lại và thậm chí còn đề nghị quản lý sòng bạc của gia đình trong khi tiếp tục học đại học.

Ông nội từ chối: một khi đã quyết định ra đi, ông muốn dứt khoát hoàn toàn.  Đối với chú tôi, ý tưởng rời bỏ quê hương nơi chú đã lớn lên và đi học, nơi cha mẹ đã gặp gỡ và yêu nhau, là điều không ttưởng tượng được.  Đến giờ lên đường, chú bỏ chạy sang nhà anh họ.  Bà nội phải đến đó tìm chú, và khi chú không chịu vâng lời bà – một điều hiếm thấy vào thời đó – bà đã tát chú và kéo chú đến bến tàu, đúng lúc con tàu chuẩn bị khởi hành.

 Chú tôi vẫn còn một lựa chọn:chủ có thể phản đối với chính quyền Nhật Bản, cho rằng cha mẹ mình đã cưỡng bách trái với ý muốn và yêu cầu sự bảo vệ của nhà nước Nhật Bản.  Khi chính phủ Nhật Bản nhận thấy Đảng Lao động và các hiệp hội của nó đang ép các chủ hộ gia đình phải rời đi cùng cả gia đình, họ đã mở một văn phòng chính phủ nhỏ gần cửa quay của các con tàu đi đến Triều Tiên, nơi có một quan chức và một số thành viên của Hội Chữ thập đỏ để phỏng vấn các hành khách khởi hành nhằm xác minh rằng họ thực sự tự nguyện rời đi.

 Chú hai tôi dao động cho đến giây phút cuối cùng.  Một cuộc đấu tranh khủng khiếp diễn ra bên trong lòng chú.  Một bên là chữ hiếu dành cho cha mẹ và mong muốn vâng lời họ, một bên là sự gắn bó với cuộc sống hiện tại và một cuộc sống bất định đang chờ đợi mình ở nước ngoài.  Có lẽ chú cũng có một số điềm báo đen tối.  Vẫn trù trừ, đôi mắt chú lướt qua ánh mắt hống hách, đáng sợ của bà nội, và rồi dường như chú đã lựa chọn. Chính quyền hỏi chú liệu cá nhân chú có muốn chuyển đến Triều Tiên không, và chú trả lời rằng có.  Và thế là thêm một số phận bị niêm phong

Trên suốt chuyến tàu, giấc mơ bấy lâu nay dường như đã thành hiện thực.  Gia đình được đối xử với sự ân cần hoàn hảo, được ở trong một cabin sang trọng và được thưởng thức những bữa ăn ngon nhất.  Trong khi những người yêu nước khác trên tàu được đối xử như những hành khách bình thường, thì gia đình tôi được phục vụ như những cán bộ Đảng Cộng sản – hay hơn nữa, giống như một nhóm đại biểu đến dự lễ tôn vinh Kim Il-sung vào ngày sinh nhật của ông.  Bà nội kể với tôi rằng một trong những hành khách trên tàu là Kim Yong-ghil, một ca sĩ opera người Hàn Quốc đã thành danh và giàu có ở Nhật Bản.  Khi tàu đến gần bờ biển Triều Tiên, anh lên cầu tàu, hướng về miền đất hứa và hát “O Sole Mio” (Ôi, ánh dương của tôi), khiến cảm xúc dâng trào trong tâm khảm những hành khách đứng gần đó.  Người đàn ông tội nghiệp.  Anh ấy là một nghệ sĩ muốn chia sẻ tài năng của mình với mọi người, nhưng cuối cùng anh lại bị kết tội làm gián điệp và bị giam đến chết trong trại lao động khổ sai Seghori — nổi tiếng là một trong những trại khắc nghiệt nhất ở Triều Tiên.  Khi anh mới đến Triều Tiên, chế độ này đã chào đón anh hết sức long trọng, và Kim Il-sung thậm chí còn ban cho anh vinh dự được bắt tay thật lâu.  Ở Nhật Bản, Kim Yong-ghil đã đạt được tầm vóc huyền thoại, trở thành biểu tượng cho thảm kịch mà rất nhiều cư dân Nhật Bản chuyển đến Triều Tiên phải trải qua.  Cứ cho là tôi chai đá đi, nhưng tôi nghĩ điều duy nhất mà Kim Yong-ghil tượng trưng chính là sự ngu đốt.

 Câu chuyện của anh ấy – cũng là câu chuyện về gia đình tôi và của tất cả những người đã tự tin lao vào hố sâu bất hạnh – phần lớn chứng tỏ sức mạnh ảo tưởng của con người quá khủng khiếp đến nổi chúng ta hoàn toàn mù quáng.  Kể từ đó, tôi đã biết được rằng ở những vĩ độ khác và vào những thời điểm khác, chính các cường quốc Cộng sản đã giăng ra những cái bẫy ảo tưởng tương tự để khiến mọi người cả tin và hy vọng.  Điều này dẫn đến sự khốn cùng của vô số dân tộc: ở Pháp, ở Mỹ, ở Ai Cập, và có lẽ đáng chú ý nhất là ở Armenia.  Hàng chục nghìn người đã chết ở đó vào năm 1947 dưới sự tuyên truyền của Stalin, vốn đã coi Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết Armenia là vùng đất của sữa và mật ong.  Liên Xô cho rằng còn nhiều việc phải làm và mọi người sẽ phải xắn tay áo lên, nhưng họ cũng hứa rằng văn hóa và tôn giáo của tổ tiên Armenia sẽ được tôn trọng và những người mới đến sẽ sớm chứng kiến ​​​​một thế hệ mới trỗi dậy và phát triển trong công bằng xã hội.

 Những người Hàn Quốc nhiệt tình rời cảng Nikada trên bờ biển phía tây Nhật Bản cũng giống như những người Armenia rời cảng Marseilles mười lăm năm trước, ném lại những ổ bánh mì trắng thơm ngon được phân phát cho họ, cho  các thân nhân đưa tiễn trên bờ.  Vài năm sau, họ tự nguyền rủa chính mình và bất kỳ ai đã từng nói với họ về vùng đất được cho là trù mật đó.  Họ gửi lời kêu gọi tuyệt vọng tới Pháp, sẵn sàng làm bất cứ điều gì chỉ để được thoát ra.  Nhưng đã quá muộn rồi.  Điều tương tự cũng xảy ra với những người Hàn Quốc yêu nước ở Nhật trở về Triều Tiên.  Họ lên đường với đầy niềm tin và hy vọng, thường là với người hôn phối và con cái người Nhật, những người chỉ biết đến cuộc sống ở Nhật Bản, và họ cũng đang hướng tới một hố thẳm lớn, mà dưới đáy của nó  họ sẽ thấy sự cô lập, nghèo đói, bị giám sát hàng ngày,  và đôi khi là các trại tập trung.

Kết thúc chuyến hành trình kéo dài mười lăm giờ, ông bà tôi đã cập bến Chongjin ở phía đông bắc Triều Tiên. Chú tư của tôi sau này kể cho tôi nghe về trải nghiệm khi đến bến đỗ mới của gia đình: “Giống như một thành phố đã chết—không khí kỳ lạ nhất.  Mọi người trông thật tồi tàn và đi lang thang vô mục đích.  Có một cảm giác buồn bã sâu sắc trong cảnh quan, và moi di chuyển đều bộc lộ vẻ ngượng ngập chút.”  Chú tôi sợ hãi trước những bóng người này, sao quá trái ngược với thiên đường trần thế mà chú đã được dẫn giải để mong đợi.  Cảm giác sợ hãi âm ỉ đã tạo thêm sức nặng mới cho những lời cảnh báo mà gia đình đã nhận được trước khi khởi hành.  Nhưng tại sao họ phải chú ý tới những lời nói tầm phào của bọn phản động chứ? Chú tôi đã coi thường một sự việc mà sau này quay lại chú như một cú boomerang: khi hành khách xuống bến tàu, một số người Hàn Quốc đã đến từ Nhật Bản vài tuần trước đó, đã lợi dụng tình trạng hỗn loạn chung của các cuộc đoàn tụ gia đình để thì thầm nỗi kinh ngạc của họ khi thấy gia đình chúng tôi lục tục lên bờ.

 Một trong số họ đã đến gặp chú tôi.  “Chuyện gì đã xảy ra thế?”  người ấy buột miệng hỏi.  “Chúng tôi đã gửi thư cho bạn bè và gia đình cảnh báo mọi người đừng đến đây kia mà!  Tại sao gia đình cậu không nghe?” chú tôi chợt tái mặt.  Cha tôi bước tới, thay mặt chú trả lời, hỏi chàng trai trẻ rằng anh đã ở miền Bắc bao lâu.  “Vài tháng,” anh ta trả lời, “nhưng đủ lâu để hiểu.”  Cha tôi khẳng định rằng Chosen Soren không giấu giếm những khó khăn, thử thách trong quá trình xây dựng đất nước.  “Nhưng đó chỉ là tuyên truyền,” người đối thoại trả lời.  “Cậu sẽ không xây dựng một cuộc sống mới ở đây;  cha mẹ cậu sẽ bị tước hết tài sản rồi bỏ mặc cho đến chết. Cậu sẽ sớm biết được những tên Cộng sản Bắc Triều Tiên này là ai.”

Cuộc trao đổi lén lút tạo ra một cảm giác ớn lạnh.  Đây không phải là kiểu chào đón mà cha và các chú tôi mong đợi.  Tuy nhiên, đây đúng là những kẻ gièm pha chỉ mới đến gần đây.  Những cuộc chuyển mình lớn luôn cần có sự điều chỉnh;  những người này chưa ở đó đủ lâu.  Và tại sao gã thanh niên xa lạ đó lại đến với họ sau đó?  Họ không phải là những kẻ khiêu khích sao?  Sau đó bà ngoại chỉ ra rằng nếu ý định của họ thực sự là khiến chúng tôi quay trở lại thì chắc chắn họ đã chọn sai thời điểm và địa điểm để làm điều đó.  “Chúng ta đeo kính màu hồng khi đến đây  Niềm tin của chúng ta vào cuộc sống mới đã được neo rất sâu, đã được vun đắp từ lâu, đến nỗi những lời cảnh báo nghiệt ngã này không thể chạm đến chúng ta.”  Bên cạnh đó, có vẻ như giấc mơ Triều Tiên vẫn có thể trở thành hiện thực: các quan chức tiếp nhận đã tận tay phục vụ gia đình tôi.  Trong khi những người nhập cư mới đến khác tạm thời được chuyển đến nhiều thành phố khác nhau trên khắp đất nước, gia đình tôi nhận được sự quan tâm thường dành cho các cán bộ Đảng.  Ông nội đã mang theo ô tô của mình lên tàu.  Đó là một chiếc Volvo đời cũ – có lẽ là chiếc duy nhất thuộc loại này ở khắp Triều Tiên.  Các quan chức đề nghị gia đình lái chiếc Volvo đến Bình Nhưỡng trong khi chiếc xe thứ hai của chính phủ đi theo chở hành lý của gia đình.  Chính quyền tin tưởng họ và cố gắng làm cho việc đến đây của họ trở nên thú vị và dễ chịu nhất có thể.

Gia đình trải qua vài tuần đầu tiên trong một căn hộ tạm bợ tồi tàn trước khi được chuyển đến, như đã hứa, một ngôi nhà mới xinh đẹp ở thủ đô, không xa ga xe lửa trung tâm và rất gần đại sứ quán Liên Xô.  Bất chấp sự thịnh vượng tương đối của Bình Nhưỡng và sự tráng lệ của vùng nông thôn, bất chấp sự sạch sẽ của Bình Nhưỡng và sự uy nghi của các di tích, một cảm giác bất ổn sớm ập đến. Mỗi ngày trôi qua, gia đình lại cảm thấy bị lãng quên nhiều hơn.  Không có chuyến thăm chính thức, không có sự chào đón nồng nhiệt từ những người hàng xóm mới, không có thông tin cập nhật từ bộ máy quan liêu trung ương, vốn tuyên bố luôn chờ chỉ thị thêm từ cấp trên.

 Họ còn khác xa với mối quan hệ anh em được các nhà tuyên truyền ở Kyoto quảng cáo;  còn khác xa với nỗ lực tập thể mà đất nước cần đến – nỗ lực được cho là phải trải qua những khó khăn và hy sinh nhưng cũng thấm đẫm nhiệt huyết và tình đồng chí.  Gia đình cảm thấy như thiếu một số phần cần thiết để hiểu được tình hình, nhưng không ai sẵn lòng giúp điền vào chỗ trống.  Tôi chắc rằng sẽ không lâu trước khi họ bắt đầu lo sợ mình đã phạm sai lầm. Nỗi ngờ vực của họ chỉ càng thêm sâu sắc hơn trước sự tuyên truyền có ở khắp nơi, tình trạng thiếu lương thực và sự kém cỏi của một bộ máy quan liêu cực kỳ phân cấp, không có khả năng giải quyết ngay cả những vấn đề cơ bản nhất của cuộc sống hàng ngày: làm thế nào để có được thức ăn, làm thế nào để tìm được thợ điện, thợ làm tóc, bác sĩ.  Tại sao việc kiếm được 8 gallon xăng lại khó đến vậy?  Tại sao không thấy các đại biểu Đảng bộ khu vực đó?  Tại sao gia đình lại không có việc gì để làm khi muốn tỏ ra mình có ích?  Không có gì tương ứng với mong đợi của họ.  Trong số những đứa trẻ, không ai muốn là người đầu tiên thú nhận cảm xúc mà tất cả họ đều chia sẻ: cảm giác rằng có lẽ, chỉ có thể thôi, cha mẹ đã dẫn chúng vào con đường tồi tệ.

 Vì mọi người đều phải chờ đợi – bọn trẻ được nhận vào trường học và ông bà tôi chờ việc làm tương lai – nên ông nội quyết định cả gia đình nên tìm hiểu về đất nước này nhiều hơn một chút.  Tận dụng hoàn cảnh khó khăn, ông đã đưa cả gia đình đi chơi những chuyến dài quanh co trên chiếc Volvo.  Chính trong những kỳ nghỉ này, gia đình lần đầu tiên cảm nhận được sự giám sát của chính quyền.  Họ không đi được bao xa trước khi các thành viên của Lực lượng An ninh Nhân dân, cảnh sát chính trị, cho ông tôi hiểu rằng ở Bắc Triều Tiên, việc đi chơi không được thực hiện nếu không được phép.  Ông nội và các chú tôi rất phẫn nộ trước lời khiển trách đó, họ coi đó là biểu hiện của bộ máy quan liêu ngu ngốc của đất nước.

 Cuối cùng, bà tôi được triệu tập để trình diện trước các quan chức của Hiệp hội Phụ nữ Dân chủ Triều Tiên, một hiệp hội mà Đảng Lao động kiểm soát từng li từng tí  như nó làm với Chosen Soren  Bà nội đã được trao chức phó chủ tịch chi nhánh Bình Nhưỡng của hiệp hội.  Sau đó, bà cũng được bầu làm đại biểu Hội đồng Nhân dân Tối cao, một vị trí hoàn toàn mang tính danh dự nhưng lại khiến bà rất tự hào, cũng như ba huân chương mà chính phủ sau đó đã trao tặng cho bà.  Lời hứa hẹn dành cho ông nội, cuối cùng cũng đến, và cũng đúng ý ông.  Ông được bổ nhiệm làm phó chủ tịch Văn phòng Quản lý các vấn đề Thương mại, cơ quan chịu trách nhiệm quản lý nguồn thực phẩm vào thủ đô.  Chính vị trí này đã giải thích cho việc chúng tôi có quá nhiều thực phẩm chọn lọc và những chuyến viếng thăm cung kính thường xuyên của các quan chức cầu lợi.

Mẹ tôi cũng sinh ra trong một gia đình người Hàn Quốc định cư tại Nhật Bản.  Ông ngoại tôi, một người gốc ở thành phố phía nam Taegu, từng làm điệp viên ngầm cho chế độ Bình Nhưỡng.  Một ngày nọ, ông bị cảnh sát Nhật Bản bắt và chết trong khi bị giam giữ.  Chính phủ Bắc Hàn sau đó đã chính thức phong tặng ông là anh hùng cách mạng và những người trong gia đình ông danh hiệu gia đình anh hùng.  Ai lại không mong được trở về đất nước mà chồng mình là anh hùng?  Bà ngoại của tôi cùng năm cô con gái theo sau đã rời Nhật Bản không chút do dự, đến Triều Tiên ngay sau ông bà nội tôi.  Sáu người phụ nữ định cư ở Nampo, một thành phố cảng lớn ở bờ biển phía Tây.  Trong khi những người còn lại trong gia đình ở lại Nampo, mẹ tôi và em gái út chuyển đến Bình Nhưỡng để học kinh tế và y học.  Cả năm chị em đều sớm kết hôn thông qua người mai mối, theo phong tục thời đó.  Ngày nay, 1/4 số cuộc hôn nhân ở Hàn Quốc và một nửa số cuộc hôn nhân ở Triều Tiên  được sắp xếp với ít, nếu không muốn nói là không có, sự tham khảo ý kiến trước ​​của vợ hoặc chồng tương lai.  Đây là cách cha mẹ tôi gặp nhau và kết hôn vào năm 1967.

 Vào thời điểm tôi sinh ra, gia đình tôi – ý tôi là một phần của gia đình sống chung dưới một mái nhà: ông bà nội, bố mẹ tôi và chú tư của tôi – đã quen với cuộc sống ở Bắc Triều Tiên. Cuộc sống không chỉ có những nỗi bất bình hàng ngày, nhưng nhờ địa vị của ông bà tôi và những gói hàng liên tục được bạn bè và gia đình ở Nhật gửi đến, cuộc sống không phải là không có những tiện nghi vật chất.  Bạn bè luôn muốn đến nhà tôi vì chúng biết rằng sẽ được ăn thịt nguội, đồ ngọt và món tráng miệng.  Tuy nhiên, địa vị của ông tôi cũng là nguyên nhân khiến ông thường xuyên lo lắng, và cuối cùng ông phải trả giá bằng mạng sống của mình.  Ông là một doanh nhân đã học được cách hoàn thành công việc trong hệ thống thị trường tự do.  Khi đối mặt với tình trạng rối ren của bộ máy quan liêu ở Triều Tiên, ông có xu hướng bộc lộ sự thất vọng, điều mà nhìn lại thì không quá khôn ngoan.  Mặc dù ông chỉ chỉ trích các phương pháp kinh tế và chính trị xuất sắc của đất nước “vì mục đích cải thiện và củng cố đất nước”, mong muốn cải cách của ông chắc chắn đã va chạm với thói quen làm việc trì trệ của “các đồng chí” mình.  Ông liên tục phải chịu đựng sự thù địch của họ, mà vì ông không chịu giữ im lặng nên càng ngày sự thù địch càng gia tăng.  Bất chấp mọi danh dự và lợi ích đến từ địa vị của ông bà tôi, cuộc sống ở Triều Tiên không như mong đợi của gia đình.  Những xiềng xích ý thức hệ áp đặt lên mọi người dân Triều Tiên, sự giám sát của cảnh sát đôi khi kín đáo, đôi khi lộ liễu đã đè nặng lên lớp con cái. Họ phán xét nghiêm khắc sự nghèo khó của chốn thiên đường tương lai này cũng như sự hạn hẹp của đời sống trí tuệ và nghệ thuật ở đây.  Cuối cùng, điều gì đó bên trong họ đã sụp đổ và những lời buộc tội bấy lâu kìm nén bắt đầu tuôn ra.  “Sao bố mẹ lại đưa chúng con tới đây?  Bố mẹ đã hứa rằng chúng con sẽ có một cuộc sống mới.  Nhưng chúng con đã mất tự do.  Chúng con thậm chí không có những thứ thiết yếu có thể tìm thấy ở bất cứ đâu tại Nhật Bản. Ở đây chúng con không hạnh phúc.  Và bố mẹ cũng vậy, chỉ có điều bố mẹ không muốn thừa nhận điều đó mà thôi.”

Ông bà tôi bối rối, lúng túng.  Tôi nghĩ ông nội là người đầu tiên nhận ra mình đã không hạnh phúc.  Người chủ gia đình, chỉ riêng tầm vóc của ông đã từng đủ để dập tắt mọi ý nghĩ nổi loạn, ngày càng trông thảm hại hơn, không còn giống người đàn ông mà các con ông từng gọi là “mặt hổ”.  Không còn nữa thái độ tự tin kiêu hãnh và cùng với nó là nỗi sợ hãi các con trai mình dám nói ra suy nghĩ của mình. Mặt khác, bà nội vẫn giả vờ hy vọng tình hình sẽ được cải thiện, kiên quyết phản bác những lời chỉ trích gián tiếp nhắm vào Kim Il-sung.  Hệ tư tưởng cộng sản đã cung cấp cho bà vô số lời đáp trả có sẵn mà bà không bao giờ ngần ngại trút lên đầu các con mình: “Thật thiếu kiên nhẫn!  Làm sao tụi con có thể mong đợi một đất nước sẽ giàu có chỉ mười năm sau sự tàn phá khủng khiếp do đế quốc Mỹ gây ra?  Mọi thứ cần phải được xây dựng lại từ đầu.  Các con đã quên rằng kẻ thù vẫn bước đi trên hành lang quyền lực?  Làm thế nào mà chế độ chuyên chính vô sản có thể nới lỏng sự kìm kẹp của mình?  Các con không tin tưởng vào người lãnh đạo tuyệt vời mà chúng ta rất vinh hạnh được đi theo  sao?”  Các con bà chỉ biết nhún vai.  Họ cảm thấy Triều Tiên đã tiếp nhận họ không phải như những người đồng hương mà như bọn ngoại bang  – tệ hơn nữa, như những người nước ngoài phải chịu một phần trách nhiệm về việc đó.  Nhà nước Triều Tiên rất muốn thu tiền của cư dân Nhật Bản, nhưng họ không nỗ lực xóa tan sự ngờ vực mà nhiều người bản xứ cảm thấy đối với người mới đến.

 Trong khi bầu không khí không bao giờ ngăn cản các cô chú tôi tiến bộ xuất sắc trong học tập, thì cũng không còn bất kỳ đề cập nào đến viễn cảnh từng lơ lửng trước mắt họ là việc được đi Moscow.  Chú hai tôi trở thành nhà báo sau khi học triết học tại Đại học Kim Nhật Thành;  chú ba có bằng về khoa tiêu hóa tại khoa y ở Bình Nhưỡng;  và chú tư trở thành nhà sinh vật học sau khi học chuyên ngành khoa học tự nhiên tại Đại học Pyongsan.  Còn các cô tôi, có người học dược, rồi làm nghiên cứu cho một nhà máy dược phẩm ở Bình Nhưỡng.  Cô thứ hai học y khoa, sau đó kết hôn với một chàng trai trẻ mà gia đình chú ấy – cũng di cư từ Nhật Bản – gần đây đã bị đưa đến trại tập trung.  Khi bà tôi biết tin về việc trục xuất, bà đã hành động nhanh chóng để cố gắng giải thoát con gái mình khỏi môi trường phản động này.  Vì con gái bà đang mang thai nên bà đã thúc giục cô phá thai và thường làm mọi cách trong khả năng của mình để gây rạn nứt trong hôn nhân.  Tuy nhiên, những nỗ lực của bà đều không thành công và cặp đôi vẫn ở bên nhau.  Sau này, đến lượt chúng tôi bị bắt, bà nội càng thêm tủi nhục khi phải đối mặt với bọn phản động này.  Về phần cha tôi, người đã học nhiếp ảnh ở Nhật Bản, ông đã leo lên vị trí đứng đầu studio lớn nhất Bình Nhưỡng, Onngyu.  Là một nhiếp ảnh gia bán chính thức của nhà nước, ông dành phần lớn thời gian để chụp các nghi lễ công cộng và in chân dung các lãnh tụ Đảng.

Tất cả những điều này có thể được coi là dấu hiệu cho thấy sự hòa nhập thành công của gia đình, nhưng thực tế không phải như vậy.  Sự cay đắng của gia đình ngày càng sâu sắc.  Bố tôi và các em ông biết rằng dù có muốn thì bố mẹ họ cũng không thể chính thức yêu cầu quay về Nhật Bản.  Làm như vậy thậm chí có thể nguy hiểm.  Quyết định chuyển đến  Triều Tiên không mấy khôn ngoan của họ là không thể đảo ngược được, và tất cả họ đều coi mình như những tù nhân.  Đến một thời điểm nào đó, chú hai của tôi không còn nêu vấn đề này với ông bà nội nữa.  Người thanh niên to lớn vốn từng rất hướng ngoại và tràn đầy sức sống này ngày càng trở nên lầm lì và ủ rũ hơn.  Chú ba tôi, người thích truyện tranh hơn là văn học chính thức, bắt đầu uống rượu mạnh – một cách thể hiện bản thân mà không nói ra lời nào. Chỉ có chú tư còn giữ được tinh thần phấn chấn.  Niềm đam mê thực vật học và sinh học của chú đủ mạnh để khiến chú bỏ qua thực tế chính trị. Chú sưu tập cây cỏ và côn trùng, thậm chí các bảng trưng bày của chú còn được đưa vào danh mục trong bảo tàng.  Thật trớ trêu khi chú ấy lại là người duy nhất trong số các chú của tôi bị đưa vào trại cải tạo. Khác với hai người anh trai đã lấy vợ và dọn ra ngoài, chú vẫn tiếp tục sống với bố mẹ và chịu chung số phận của gia đình.

 Khi lớn lên, tôi chưa bao giờ biết đến sự bất mãn của các chú tôi đối với Kim Il-sung: Tôi còn quá trẻ để tưởng tượng một điều như vậy có thể xảy ra.  Bây giờ nhìn lại, sự biến đổi của họ dường như đang nói lên: sự câm lặng của một người, chứng nghiện rượu của người kia, nỗi ám ảnh bất ngờ của cha tôi với âm nhạc.  Mỗi người đều cố chạy trốn khỏi thực tế, tránh những lời lẽ có thể buộc tội hệ thống chính trị hoặc tệ hơn nữa là buộc tội cha mẹ đã đưa họ đến sống trong đó.  Cha tôi đã học thuộc lòng tất cả các bài hát quốc tế nổi tiếng.  Ông biết “Nathalie” và “La Paloma.”  Trước niềm vui lớn lao của chúng tôi, ông cũng hát cho chúng tôi nghe bài “O Sole Mio” nổi tiếng.  Bây giờ tôi nhận ra đây là cách ông ấy muốn  thoát khỏi các hành khúc và bài thánh ca suy tôn Kim Il-sung.

 Tôi đã đề cập đến việc bố tôi  đã kết hôn với một phụ nữ thuộc gia đình cũng từ Nhật Bản trở về.  Nhiều cuộc hôn nhân đã diễn ra trong cộng đồng người nhập cư này, điều đó chứng tỏ việc hòa nhập vào xã hội Triều Tiên thực sự khó khăn đến mức nào.  Những cư dân Nhật Bản trước đây, đặc biệt là những người trẻ tuổi, đã lớn lên trong một nền văn hóa khác.  Điều này khiến việc giao tiếp với người Triều Tiên trở nên khó khăn.  Hàng xóm và nhân viên an ninh không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để nhắc nhở họ rằng họ không còn ở Nhật Bản nữa, rằng họ nên thể hiện tính độc đáo ít hơn và nên thể hiện sự tôn trọng luật pháp nhiều hơn.

Được tiếp xúc với thế giới rộng lớn hơn, bố mẹ tôi, giống như hầu hết cư dân Nhật Bản trước đây, cảm thấy mình vượt trội hơn những người chưa bao giờ rời khỏi Triều Tiên.  Đáp lại họ được xem như những người xa lạ.  Mối thù xưa cũ giữa Triều Tiên và Nhật Bản cũng chống lại chúng tôi.  Đối với nhiều người, quyết định nhập cư vào Nhật Bản trước đây của gia đình tôi dường như quan trọng hơn quyết định quay trở lại.  Lợi thế vật chất của gia đình cũng là nguyên nhân dẫn đến sự ganh tị không che giấu.  Là một phần của thế hệ tiếp theo, tôi luôn cảm thấy sâu sắc và rõ ràng mình là người Triều Tiên —đúng ra là người Bắc Triều Tiên.  Tuy nhiên, ngay từ khi còn nhỏ, tôi đã cảm nhận được vực thẳm ngăn cách cha mẹ tôi với hàng xóm.  Giọng nói của mẹ tôi, mang dấu vết của những năm tháng bà ở Nhật Bản, là nguyên nhân khiến bạn bè tôi liên tục cười nhạo.  Mỗi lần bà đi làm về và gọi tôi vào nhà, chúng lại bắt chước giọng bà để trêu chọc, khiến tôi đỏ mặt xấu hổ.  Cuối cùng tôi yêu cầu mẹ đừng làm điều đó nữa.  Tôi nghĩ tôi đã làm tổn thương bà ấy, nhưng bà không nói gì, và từ đó trở đi, bất cứ khi nào mẹ tôi muốn tôi về nhà, bà đều đến chỗ tôi đang chơi và vỗ nhẹ vào vai tôi.

Nói một cách đơn giản, người Hàn Quốc hồi hương không hòa hợp được với những người khác, cũng như những người Armenia từ Pháp và Mỹ không hòa hợp với những người bà con Liên Xô của họ.  Mặc dù ngày càng bực bội hơn, ông nội thỉnh thoảng vẫn rung dây xích.  Được cung cấp những giấy tờ cần thiết, thỉnh thoảng ông lái chiếc Volvo và đưa chúng tôi đi du lịch khắp vùng nông thôn.  Đó là cách chúng tôi đúc kết bằng chuyến thăm địa điểm du lịch nổi tiếng Núi Kumgang, gần đây được đưa tin các nhóm du lịch được công ty du lịch Hàn Quốc Hyndai tổ chức đưa đến đó, sau khi trả cho chính phủ Bình Nhưỡng hàng triệu đô la tiền hợp đồng.  Vào thời điểm đó, việc lái xe đến núi Kumgang trên một chiếc ô tô mang tính biểu tượng cho sự phô trương của chủ nghĩa tư bản có thể bị coi là một hành động khiêu khích.  Chúng tôi đang tiến tới một hành động phản cách mạng!  Tuy nhiên, cảnh sát dường như không để ý và cấp cho chúng tôi những giấy phép chúng tôi cần mà không gặp nhiều rắc rối, ít nhất một phần là nhờ những khoản tiền hào phóng mà ông tôi đã phân phát cho Lực lượng An ninh và nhà nước.

 Sau này việc cấp phép trở nên khó khăn hơn.  Sau đó, cảnh sát bắt đầu đề nghị ông tôi nên tự nguyện hiến tặng cho chính phủ chiếc Volvo yêu quý của mình.  Những đề nghị trở thành yêu cầu, yêu cầu trở thành mệnh lệnh.  Cuối cùng, ông tôi phải nhượng lại chiếc Volvo của mình, rất có thể là cho một quan chức cảnh sát hoặc quan chức chính phủ có địa vị tốt nào đó, vốn khao khát muốn có một chiếc ô tô đẹp để đi lại trong thị trấn.  Khi hoàn cảnh gia đình trở nên tồi tệ hơn, Nhật Bản trở thành nơi chứa đựng những ký ức lý tưởng hóa, những hình ảnh hoài niệm. Gia đình tôi một lần nữa lại là gia đình của những người di cư bị bỏ rơi.  Cảm giác hoài niệm đó vẫn còn trong gia đình, nhưng qua mỗi thế hệ, đối tượng của nó vẫn tiếp tục thay đổi.  Ông tôi sống ở Nhật Bản với niềm hoài hương đảo Cheju quê quán.  Cha tôi sống ở Bắc Triều Tiên mà nhớ nhung Nhật Bản.  Còn tôi, tôi ngồi ở Seoul mà nhớ lại chuyện đời mình, cõi lòng bị gặm nhấm bởi hồi ức thời niên thiếu ở Bình Nhưỡng.

 

 

4

TRONG TRẠI TẬP TRUNG LÚC 9 TUỔI

Dù lo lắng và thu mình hơn, ông nội vẫn là nhân vật trung tâm của gia đình.  Đôi lông mày rậm, đôi mắt tròn long lanh và giọng nói khàn khàn của ông luôn mê hoặc tôi. Cũng mê hoặc tôi là sự tôn trọng mà các cán bộ Đảng Bình Nhưỡng dành cho ông  Tuy nhiên, điều này không bao giờ cản trở sự thân mật của chúng tôi.  Những chuyến đi dạo ngày chủ nhật của chúng tôi, với giọng nói hết sức bí mật, ông sẽ kể cho tôi nghe những câu chuyện về ngày xưa ở Kyoto: về cửa hàng trang sức nơi ông thức suốt đêm để thực hiện những đơn đặt hàng đầu tiên, những kho gạo mà ông bảo vệ trước những đối thủ cạnh tranh ghen tị, về thành công rực rỡ của các sòng bài;  và vận may tăng giảm ở đó chỉ trong vài phút.  Những câu chuyện này luôn là nguồn mê hoặc đối với tôi mà kiến ​​trúc sư và anh hùng của chúng là ông tôi.  Tôi yêu ông, và không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng những cuộc trò chuyện và những chuyến đi dạo ngày chủ nhật của chúng tôi có thể kết thúc một ngày nào đó.

 Vậy mà ông lại biến mất.  Đó là vào tháng 7 năm 1977. Một đêm nọ, ông không đi làm về.  Cảnh sát nói họ không biết gì cả. Những người đứng đầu bộ phận của ông nội tôi, người mà bà tôi lo lắng hỏi thăm, cuối cùng đã nói với chúng tôi rằng ông đã đi công tác, một việc khẩn cấp.  Đảng đã ra lệnh và ông phải quyết định ngay.  “Nhưng hãy quay lại vào tuần sau và đồng chí sẽ nhận được tin tức,” họ đảm bảo với bà.  “Không cần phải lo lắng đâu.”

 Bà tôi nghi ngờ về chuyến công tác này.  Chồng bà không phải là loại người bỏ đi mà không báo trước.  Một tuần sau, chính quyền bảo bà hãy tiếp tục chờ đợi, nhưng bà không thể kiềm chế được và quay lại phòng làm việc của ông nội tôi.  Sự đón tiếp mà bà gặp chỉ làm nỗi sợ hãi của bà thêm sâu sắc.  Mọi người đều có vẻ lúng túng khi chỉ cần nhắc đến tên chồng bà và tránh nói về ông.  Bức tường im lặng đầy lo lắng đó nhanh chóng xuất hiện ở mọi nơi bà đi đến.

 Cha mẹ tôi nghi ngờ rằng Lực lượng An ninh đứng đằng sau vụ mất tích bí ẩn, nhưng họ không dám thừa nhận điều này ngay cả với chính mình.  Trong những tháng trước đó, một số người quen của họ cũng biến mất theo cách tương tự.  Tuy nhiên, gia đình lại muốn tin – bà tôi hơn ai hết – rằng không thể có sự so sánh nào giữa ông tôi và những người khác, những người chắc chắn đã âm mưu chống lại nhà nước hoặc phạm tội nghiêm trọng nào khác.  Không ai trong chúng tôi sẵn sàng đối mặt với khả năng cảnh sát đã rứt ông khỏi tay chúng tôi.  Chúng tôi biết rằng ông nội không bao giờ biết kiềm chế và ông thường chỉ trích các quan chức Đảng và phương pháp quản lý của họ khá gay gắt.  Chúng tôi cũng biết rằng ông hiếm khi có mặt tại các cuộc họp Đảng và mít tinh, nhưng sự tham dự của bà nội tưởng cũng đã đủ cho cả hai người!  Và chẳng phải ông luôn là một công dân lương thiện, hoàn thành mọi việc mà Đảng giao phó sao?  Chẳng phải ông đã giao lại khối tài sản khổng lồ của mình khi từ Nhật đến đây sao?  Chẳng phải ông đã cống hiến cho Đảng tất cả mọi thứ, kể cả chiếc Volvo của mình sao?

  Vài tuần sau khi ông nội mất tích, tôi đang chơi bên bờ sông thì một vài thằng bạn đến báo với tôi rằng có một nhóm người đang ở nhà tôi.  Bối rối, tôi đứng dậy và chạy về căn hộ.

 Theo truyền thống Triều Tiên, mọi người phải cởi giày khi vào nhà ở.  Không làm như vậy là một dấu hiệu thiếu tôn trọng đối với chủ nhà.  Tôi ngạc nhiên nhận thấy dù phòng khách chật kín người nhưng tiền sảnh chỉ có số lượng giày như thường lệ.  Điều này có nghĩa là gì?  Tôi muốn tiến về phía trước nhưng có quá nhiều người trong phòng nên khó di chuyển.  Ngoài bố, mẹ, bà và em gái tôi, còn có một số người khác mà tôi chưa từng gặp trước đây.  Người duy nhất mất tích là chú tôi, người sống cùng chúng tôi nhưng đã đi vắng vài ngày tại một hội nghị chuyên môn ở phía nam tỉnh Hamkyung.  Những người lạ này là ai?  Tôi chào bố mẹ bằng một cái vẫy tay mạnh mẽ, nhưng họ, vốn thường rất vui khi gặp tôi, lại đáp lại một cách kỳ lạ, giữ khoảng cách, giống như những người lớn trịch thượng không có thời gian cho những chuyện vặt vãnh như vậy.  Mẹ tôi thở dài và cứ lặp đi lặp lại (như thể có ai đó sẽ trả lời!), “Nhưng chuyện gì đang xảy ra với chúng ta vậy?  Nhưng chuyện gì đang xảy ra với chúng ta vậy?”  Tôi tiến tới, quyết tâm xem chuyện gì đang xảy ra: ba người đàn ông mặc đồng phục đang lục lọi đồ đạc của chúng tôi trong khi người thứ tư ghi chép.  Đây là sự kiện đặc biệt gì?  Và làm thế nào họ có thể mang đôi giày của mình vào phòng?  Đó là điều khiến tôi sốc nhất, nhưng khi tôi cố nói với mẹ thì mẹ cũng không trả lời tôi.

 Căn hộ của chúng tôi có bốn phòng ngủ và một phòng khách.  Phòng ngủ nhỏ nhất cất giữ những món quà được gói ghém mà ông bà tôi nhờ bạn bè và gia đình từ Nhật Bản đến thăm mua dùm nhiều năm rồi.  Kho đồ trang sức, quần áo và đồng hồ sẽ được tặng trong đám cưới của chú tư tôi – bất cứ khi nào điều đó xảy ra.  (Theo thông lệ, các gia đình Hàn Quốc bắt đầu chuẩn bị cho đám cưới của con cái họ  rất sớm—thường là trước nhiều năm.) Căn phòng còn có một số máy ảnh và nhiều vật liệu phòng tối khác nhau mà cha tôi đã sử dụng trong công việc của mình.  Những  báu vật này khiến các nhân viên an ninh – bốn vị khách không mời của chúng tôi – vô cùng phấn khích.  Trước đây, bố mẹ tôi từng được “động viên” tặng nhà nước một chiếc máy ảnh nhưng ông luôn kiếm cớ để từ chối.  Lần này các đặc vụ chỉ đơn giản là tự tiện xử lý.  Sau này cha tôi kể cho tôi nghe về những bàn bạc bí mật giữa các đặc vụ ở trong góc phòng, về sự phẫn nộ giả tạo của họ khi tìm thấy những món quà cưới – như thể chúng tôi là những kẻ buôn lậu hoặc chứa chấp hàng gian – và về ánh mất tham lam và hả hê của chúng  khi chia nhau chiến lợi phẩm trước sự chứng kiến ​​của bố mẹ tôi đang quẫn trí.

Sau đó, các đặc vụ tiếp tục rà soát phần còn lại của căn hộ, ba người tìm kiếm, trong khi người thứ tư tiếp tục ghi chép.  Việc kiểm kê tiến triển chậm chạp, và tôi nhanh chóng cảm thấy nhàm chán với một tình huống không thực sự liên quan đến mình, vì các quý ông dường như không mấy quan tâm đến bể cá cảnh của tôi.  Tôi đi và dắt em gái tôi, Mi-ho, và chúng tôi bắt đầu chơi, không quan tâm đến điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.  Chúng tôi nhanh chóng chạy vòng quanh, nô đùa trong mớ hỗn độn mà cuộc lục soát để lại.  Tôi bắt đầu nhảy lên nhảy xuống chiếc giường Nhật Bản lớn của bố mẹ và khuyến khích em gái tôi làm tương tự.  Cha tôi để ý nhưng không hề có ý định dừng trò chơi thường bị cấm này. Hứng chí, tôi nhảy cao hơn bao giờ hết, cho đến khi điều chắc chắn đã xảy ra: Tôi làm gãy một cái lò xo nệm, hay một tấm lưới, tôi không còn nhớ là cái nào nữa.  Tôi và em tôi cứng đờ.  Một ranh giới đã bị vượt qua, chúng tôi biết điều đó.  Vậy mà bố vẫn không nói gì.  Tôi không biết em gái tôi nghĩ gì về sự thoái vị của người cha, nhưng nó khiến tôi cảm thấy rất kỳ lạ.  Trật tự của mọi thứ đã thay đổi.  Tôi vẫn chưa lo lắng, nhưng tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu, hình dạng và nguyên nhân mà tôi không thể hiểu hết được.  Có lẽ đây là lý do tại sao trong ký ức của tôi vẫn tồn tại một lỗ hổng.

 Tuy nhiên, tôi nhớ rất rõ khoảnh khắc lần đầu tiên tôi nghe phát âm cái tên “Yodok”.  Một trong những đặc vụ bắt đầu lục lọi đồ lót của mẹ tôi, và khi nhìn thấy đồ đạc riêng tư của bà bị ném khắp phòng, mẹ tôi cho phép mình cao giọng.  Quá tức giận, người đàn ông cầm cuốn sổ đứng dậy ra lệnh cho bà im lặng, rồi rút ra một tờ giấy và đọc to lên.  Theo tài liệu, ông tôi đã phạm “tội phản quốc”, hậu quả của việc đó là gia đình ông – tức là tất cả chúng tôi đang tụ tập ở đó – phải “ngay lập tức” có mặt tại khu vực an ninh ở Yodok, một tỉnh mà tôi chưa bao giờ nghe nói đến.  Mọi người xung quanh tôi dường như đã chết.  Im lặng kéo dài, rồi rơi nước mắt và những bàn tay nắm lấy nhau.  Rõ ràng cảm thấy hài lòng trước hiệu quả lời nói của mình, người chỉ huy ra lệnh cho người của mình tiếp tục công việc.  Các đặc vụ lục tung không gian từ trong ra ngoài, kiểm tra ga trải giường, quần áo, nệm, dụng cụ nhà bếp.  Tôi ngơ ngác nhìn, không hiểu họ đang tìm kiếm thứ gì giữa những chiếc bát, đĩa, nồi và thậm chí cả tủ đồ chơi của tôi. Việc kiểm kê kết thúc vào khoảng ba giờ sáng.  Các đặc vụ thực hiện công việc của mình theo những quy tắc được xác định rõ ràng – do chính họ tạo dựng ra – với một phần nhỏ thuộc về chính phủ và phần lớn hơn thuộc về họ.  Các thiết bị chụp ảnh và đồng hồ đeo tay Omega của bố tôi, đồ trang sức của mẹ và bà tôi, quà cưới của chú tôi và chiếc tivi màu Nhật Bản của gia đình đều được chia sẻ giữa các đặc vụ.  Không quá một trong số mười món được để lại cho chính phủ.

 Có một khoảnh khắc đặc biệt nổi bật trong ký ức của tôi về đêm đó.  Bà tôi đang đối đầu với bọn đặc vụ.  Họ cố gắng ép bà ký một văn bản, nhưng bà phản đối, khăng khăng chỉ vào một số đoạn văn.  Các đặc vụ đưa ra một số lời giải thích chiếu lệ, giọng điệu của họ xen kẽ giữa sự kiềm chế ôn tồn và những tiếng quát tháo giận dữ.  Đột nhiên tôi thấy bà với lấy hộp đựng bút và ký tên vào tờ giấy.  Điều tiếp theo xảy ra khiến tôi còn ngạc nhiên hơn nữa: bà vừa mới ký xong thì những gã đàn ông tóm lấy bà và nhốt vào một căn phòng!

 Khi mặt trời mọc và tôi biết rằng chúng tôi sẽ sớm rời đi đến một nơi xa lạ mà việc nhắc đến đã khiến bố mẹ tôi choáng váng, tôi không quá buồn.  Tôi nghĩ đó như một chuyến chuyển về vùng quê, một cuộc phiêu lưu, một điều gì đó mang lại chút hứng thú cho cuộc sống của chúng tôi.  Thành thật mà nói, ý tưởng đó thực sự làm tôi hài lòng.  Mối quan tâm thực sự của tôi là tìm cách mang bộ sưu tập cá của mình theo.  Ở một khía cạnh nào đó, việc chúng tôi chuyển đến Yodok giống như một động thái.  Chúng tôi không bị đưa đến trại với tư cách tội phạm mà là người thân của tội phạm, điều đó có nghĩa là chúng tôi được đối xử khoan hồng hơn một chút.  Ông tôi đã bị đón lỏng khi đi làm và bị đưa đến trại lao động khổ sai mà thậm chí không có cơ hội để gói ghém hành lý.  Số phận của ông giống như nhiều người bị bắt ở Liên Xô và Đức Quốc xã, những người mà sau này tôi có thể đọc được lịch sử của họ.  Ít nhất, chúng tôi được phép mang theo tối thiểu đồ đạc, quần áo và thậm chí cả thức ăn.

Từ một góc độ nào đó, trường hợp của chúng tôi có thể được coi là một vụ trục xuất đơn giản, nhưng như chúng tôi sẽ sớm khám phá ra, hàng rào thép gai, những túp lều, tình trạng suy dinh dưỡng và tình trạng tra tấn khiến người ta không còn nghi ngờ gì nữa đó thực sự là một trại tập trung.  Chính sách của trại nhằm duy trì sự gắn kết của đơn vị gia đình chỉ là minh chứng cho tính bền bỉ – ngay cả ở một quốc gia Cộng sản – của truyền thống Nho giáo  Tuy nhiên, chính sách này không làm thay đổi bản chất cơ bản của trại.  Mục đích đã nêu của việc gửi chúng tôi đi cùng một gia đình là để chúng tôi được giáo dục lại thông qua lao động và học tập.  Là những người không phải tội phạm bị nhiễm tư tưởng phản động, chúng tôi được lệnh đến một nơi được xây dựng dành riêng cho những trường hợp “có thể cứu vãn”.  Nhưng hãy trở về với hiện tại.

 Cuộc khám xét hoàn tất, bố mẹ tôi bắt đầu đóng gói đồ đạc với sự giúp đỡ của một số nhân viên ở văn phòng ông nội tôi.  Họ đến từ sáng sớm, có lẽ do các nhân viên an ninh huy động để đẩy nhanh chuyến khởi hành của chúng tôi.  Các đồng nghiệp cũ của ông nội tôi có thể vui lòng giúp đỡ gia đình tôi một tay, nhưng không chắc đó là cử chỉ tự phát.  Thể hiện tình đoàn kết với một gia đình tội phạm là điều nguy hiểm.  Quả thực, kể từ khi lực lượng an ninh đến chỉ có một người dám ghé vào thăm.  Ngoại lệ duy nhất đó là một bà già sống cùng tầng với chúng tôi.  Bà ấy gõ cửa nhà chúng tôi, rồi luồn thân hình nhỏ nhắn của mình vào giữa những chiếc hộp đóng gói.  Bà mỉm cười với mọi người, chào hỏi các đặc vụ một cách lịch sự và nói chung là cố gắng hết sức để hòa mình vào hậu cảnh.  Sau đó bà ấy lướt đến chỗ bà tôi và thì thầm vào tai bà.  “Mạnh mẽ lên nhé em yêu.  Hãy can đảm lên…. Đừng bao giờ bỏ cuộc.  Bạn không có lý do gì để tự trách mình, và bạn biết chồng mình không làm gì sai cả.  Và một lời khuyên cuối cùng: khi bạn gặp khó khăn, hãy nghĩ đến con cháu bạn và bạn sẽ vượt qua được.”

 Khi những gói hàng của chúng tôi được chất vào năm chiếc thùng lớn được phân cho chúng tôi, tôi thấy em tôi đang ôm con búp bê yêu thích của mình. Điều này khiến tôi nảy ra một ý tưởng: Tôi vội vàng chộp lấy một bể cá và thả vào đó những con cá đẹp nhất của mình.  Sau đó tôi ôm chặt cái bể cá vào người, giống như tôi thấy em tôi làm với con búp bê của em.  Một trong những đặc vụ để ý đến tôi và nói rằng việc mang “cái đó” – hất cằm về phía bể cá – là điều không thể.  Sự tàn bạo của mệnh lệnh, được truyền lại bởi một người mà tôi thậm chí không hề quen biết, đã khiến tôi nổi cơn thịnh nộ.  Tôi chửi bới, la hét và lải nhải nhiều đến nỗi người đại diện cuối cùng cũng phải mủi lòng.  Những giọt nước mắt của tôi dần nguôi đi nhưng số phận của các con cá bị bỏ lại vẫn khiến tôi lo lắng.  Khi tôi lần đầu tiên được thông báo về những điều kỳ lạ đang diễn ra ở nhà mình, một số người bạn phản bội của tôi đã nói rằng tôi có thể sẽ bị đưa đến “một nơi tồi tệ” và vì vậy sẽ tốt hơn nếu tôi tặng con cá của mình cho bạn bè.  Vào thời điểm đó, tôi đã không nghiêm túc xem xét lời đề nghị của họ, nhưng bây giờ, trước lúc ra đi, tôi rất hối tiếc.

 Một chiếc xe tải đậu trước tòa nhà của chúng tôi.  Những người đàn ông bắt đầu chất lên các thùng và một số đồ đạc lỉnh kỉnh mà các đặc vụ chê không lấy: một chiếc bàn thấp, một số dụng cụ nhà bếp và một bao gạo nặng 125 cân, mức tối đa mà trại cho phép.  Tiếng động cơ lạch cạch, tiếng than thở của một số người và mệnh lệnh của những người khác bắt đầu đánh thức những người hàng xóm.  Lần lượt đèn ở các căn hộ xung quanh bật sáng.  Tôi có thể thấy mọi người đang nhìn chằm chằm từ phía sau ô cửa sổ của họ.  Một số lấy hết can đảm đi xuống để nhìn kỹ hơn.  Đám đông đang tụ tập giữ một khoảng cách nhất định, nhưng đó không phải là kiểu tụ tập mà các đặc vụ thích lắm, và giờ họ đã cố gắng hết sức để di chuyển mọi thứ nhanh hơn.  Một cơn hoảng loạn nhỏ xảy ra sau đó khi bố tôi quay trở lại căn hộ để lấy vài thứ vào phút chót.  Điều đó làm tôi nhớ đến những cuốn truyện tranh yêu thích của mình.  Giống như tất cả những đứa trẻ, tôi yêu thích câu chuyện về trận chiến của đội quân nhím, trong đó nhím và sóc hợp lực để đánh bại sói, chuột, cáo và đại bàng, tất cả đều đại diện cho thế giới khủng khiếp của chủ nghĩa tư bản.  Tôi cầu xin nhân viên an ninh – tôi nghĩ anh ta chính là người đã nhượng bộ cơn giận dữ trước đó của tôi – hãy để tôi đi lấy nó.  Nhưng bây giờ anh ta đã chán những trò hề của tôi và hét lên yêu cầu tôi lên xe tải.  Lần này tôi sợ hãi và vâng lời mà không phản đối.  Quá sức cho đội quân nhím.  Ít nhất tôi đã có những con cá yêu thích của mình.

Gia đình tôi lần lượt leo lên phía sau xe tải, ngoại trừ mẹ tôi, người làm tôi vô cùng ngạc nhiên là vẫn đứng trên vỉa hè.  Tôi vẫn còn nhớ nỗi buồn vô hạn trên khuôn mặt bà ấy, nước mắt tuôn rơi. “Mẹ không đi à?”  Tôi hỏi.  “Không, không phải ngay bây giờ đâu, con yêu.  Mẹ sẽ sớm họp mặt với các con.”  Trong lúc vội vàng kết thúc mọi việc, các đặc vụ đã xác nhận lời nói của mẹ tôi một cách cộc lốc và để mọi người tiếp tục công việc của mình.  Yên tâm, tôi ép mình vào bể cá, phía trên tôi đậy một tấm ván gỗ để giữ nước không tràn ra ngoài.  Sau lời tạm biệt cuối cùng, sự chú ý của tôi chuyển sang cảm giác mới lạ khi được ngồi trên một ô tô to lạ, thật khác biệt với chiếc Volvo của ông nội tôi. Lúc đó tôi không nhận ra sự khác biệt bi thảm nhất là chiếc xe cồng kềnh này chỉ mang gia đình tôi trên chuyến đi một chiều đến một tương lai vô định.

Người mẹ tội nghiệp của tôi!  Chắc hẳn điều đó thật khủng khiếp đối với bà.  Dù cố gắng nhưng bà vẫn không giấu được nỗi u sầu.  Tuy nhiên, đứa con trai nhỏ chín tuổi của bà hầu như không hiểu gì cả.  Cậu ta đã trèo lên xe khá vui vẻ, ôm sát bể cá ép vào ngực.  Mẹ cậu không biết sẽ phải mất bao nhiêu năm nữa mới được gặp lại đứa con trai mình.  Là con gái của một “gia đình anh hùng”, bà được miễn chuyến đi đến trại cải tạo nơi chồng con bà phải trải qua mười năm sau đó. Không lâu sau khi chúng tôi bị bắt, Lực lượng An ninh đã buộc bà ấy phải ly hôn và chấm dứt mọi quan hệ với gia đình “bọn phản động” ​​chúng tôi.  Mẹ tôi chưa bao giờ được hỏi ý kiến, thậm chí chưa bao giờ ký tên. Bà ấy đã đau khổ rất nhiều và khao khát xum họp với gia đình đã mất trong suốt những năm tháng dài chúng tôi bị giam cầm.  Sau này tôi được biết mẹ đã nhiều lần nộp đơn xin Lực lượng An ninh cho phép được vào trại cùng chúng tôi, nhưng những yêu cầu ấy bị coi là lầm lạc và không bao giờ được chấp nhận.

 Chúng tôi bắt đầu lên đường ngay khi ngày vừa rạng.  Chiếc xe tải đó là loại Tsir, cỗ máy mạnh mẽ do Liên Xô chế tạo, là thiết bị tiêu chuẩn để chở tù nhân đi.  Người Triều Tiên gọi nó là “con quạ”, biểu tượng của cái chết, vì mặc dù màu trắng vẫn là màu áo tang truyền thống ở Triều Tiên nhưng màu đen lại là màu của chết chóc.  Đó là một chiếc xe tải có mái che, và trong chặng đầu tiên của chuyến đi, tôi và em gái không được phép nhìn ra ngoài.  Tuy nhiên, khi chúng tôi đã ra đến vùng quê, các đặc vụ cho phép chúng tôi ngắm nhìn phong cảnh trôi qua bao nhiêu tùy thích.  Chuyến đi gập ghềnh, băng qua những con đường đất gồ ghề, lởm chởm.  Bản thân tôi cũng đang cố gắng chịu đựng—mối quan tâm thực sự của tôi là giữ cho nước không tràn ra khỏi bể cá cảnh—nhưng Mi-ho bắt đầu nôn mửa.  Bà ngoại tìm cho em một chiếc túi nilon, rồi trải chăn xuống sàn xe cho em nằm.  Thùng và đồ đạc của chúng tôi ở phía trước giường.  Hai nhân viên an ninh có vũ trang đứng canh gác phía sau.

Có lúc bà tôi hỏi các đặc vụ họ dự định làm gì với đứa con trai út của bà, thành viên duy nhất vắng mặt trong gia đình.  Bà nói chú tư tôi vô tội và họ không có lý do gì để bắt chú.  Các đặc vụ đồng ý.  Giờ nghĩ lại, bà nội chắc hẳn đã tuyệt vọng lắm. Bà hẳn phải biết lính canh hoàn toàn bất lực trong việc quyết định bất cứ điều gì.  Tất cả những gì bà đang tìm kiếm là một chút an ủi, và bằng cách nào đó, có lẽ bà đã tìm thấy nó.  Tuy nhiên, khi câu hỏi của chúng tôi chuyển sang địa điểm chúng tôi được đưa đến, lính canh lại cũng tuyên bố là không biết gì.  Tuy nhiên, họ đã cố gắng làm chúng tôi vui lên và thậm chí còn thể hiện một chút lòng nhân từ, nhưng họ thề thốt rằng họ thậm chí còn không biết trại trông như thế nào.  “Tất cả những gì tôi biết,” một người trong số họ nói, “là nơi đó không quá tệ.  Sẽ không có chuyện gì xảy ra với cậu đâu.”

 Giữ cho chúng tôi bình tĩnh rõ ràng là trách nhiệm chính của lính canh.  Mọi người đều biết rằng những người ở trong hoàn cảnh của chúng tôi thường thích tự kết liễu đời mình hơn.  Những lính canh không muốn điều đó.  Tự sát là một cách bất tuân, thể hiện sự mất niềm tin vào tương lai do Đảng vạch ra.  Sự cổ vũ vui vẻ của những người lính nhằm mục đích duy trì huyền thoại không tưởng đủ lâu để đưa chúng ta đến đích.  Nhưng điều đó chẳng giúp ích được gì nhiều trong việc ngăn tiếng khóc của bà tôi hay giữ cho bố tôi khỏi chìm vào sự im lặng ủ rũ.  Có phải bố đang nghĩ về mẹ không?  Hay bố nhớ ngôi nhà ở Kyoto?  Hay những ngày tháng vui vẻ hơn khi học nhiếp ảnh cùng bạn bè?  Hay mong muốn không lay chuyển của bà nội là rời khỏi Nhật Bản và trở về Tổ quốc Cách mạng?  Mọi thứ đã trở nên tồi tệ hơn kể từ quyết định đó mà bố hầu như không nói một lời nào.  Đối với bố, có lẽ việc bắt giữ dường như là bước mới nhất trong một loạt các bước đi xuống địa ngục.

 Bố đang ngồi trước mặt tôi, đôi mắt trống rỗng, chìm đắm trong suy nghĩ.  Đi được một đoạn, chiếc xe tải dừng lại và một đặc vụ nhảy ra ngoài.  Một phút sau hắn quay lại, dẫn theo một bà già trạc tuổi bà tôi.  Bà ấy ăn mặc đẹp, toàn màu đen, không có hành lý.  Tất cả chúng tôi đều đoán bà ấy là người quen hoặc họ hàng của lính canh, muốn đi nhờ xe.  Lúc đầu bà ấy chỉ im lặng, nhưng sau khoảng mười lăm phút, bà bắt đầu nói và không ngừng nói.  Hóa ra bà cũng đang trên đường đến Yodok, câu chuyện của bà ấy diễn ra song song với câu chuyện của chúng tôi – từ quyết định di cư từ Kyoto đến việc chồng bà ấy mất tích trước đó vì bị buộc tội làm gián điệp.  Bà không có con và giờ hoàn toàn ở một mình, không hiểu tại sao mình lại bị bắt đi.  Khi bà bắt đầu chỉ trích Đảng, hai đặc vụ nãy giờ đứng im lặng bên cạnh đã ra lệnh cho bà im miệng.  Nhưng bà vẫn tiếp tục nói, chỉ hạ thấp giọng hơn, và những lính canh, vốn chỉ quan tâm đến việc tránh rắc rối, giả vờ như không nghe thấy.

“Làm sao tôi có thể sống sót ở đó nếu không có con hay chồng?”  Bà ấy tiếp tục hỏi.

 Bà tôi trả lời: “Nếu chúng ta được gửi đến cùng một trại, chị có thể tin tưởng vào chúng tôi: chúng ta sẽ gắn bó với nhau”.

 Người phụ nữ cảm ơn, thần kinh của bà dịu đi đôi chút.  Bà đã đóng gói hai mươi quả trứng luộc cho chuyến hành trình và giờ bắt đầu phân phát chúng cho mọi người trong xe tải, kể cả nhân viên an ninh.  Khi lấy được quả trứng, tôi vò nát lòng trứng để cho cá ăn.  Nhưng khi tôi chuẩn bị rắc vụn màu vàng lên mặt bể cá thì bà nội tát mạnh vào mặt tôi và ra lệnh cho tôi ăn.  Đây là lần đầu tiên bà tát đứa cháu nội của mình.  Tôi rất khổ sở nhưng vẫn làm như được bảo.  Thì giờ trôi qua thật chậm rãi.  Khi cảm thấy buồn chán, tôi trèo lên những chiếc thùng và nhìn ra ngoài qua một cửa sổ kính nhỏ.  Nhưng phần lớn thời gian tôi chỉ ngồi yên, choáng váng khi nhớ lại cái tát đó và đau buồn về cái chết của nhiều con cá của mình.  Tôi muốn khóc vô cùng nhưng cố gắng kìm dòng nước mắt bằng tất cả sức lực của mình.  Tôi lại đậy nắp bể cá lại và ôm chặt nó trong lòng, nhìn thẳng về phía trước, buộc mình không được nghĩ đến điều gì.  Con đường đất tiếp tục vượt qua những khúc cua ngoằn ngoèo.  Tuyến đường chiến lược cũ, ban đầu được người Nhật xây dựng để nối phần phía đông và phía tây của Triều Tiên, được biết đến là cực kỳ nguy hiểm.  Với tất cả những cú giật nảy, quanh quẹo, tôi cũng quặn thắt dạ dày.  Cuối cùng, đến giữa trưa, chúng tôi đến được Wolwangnyong, Đèo Vua, phía trên hàng cây 3.000 bộ.  Người Triều Tiên còn gọi nó là đèo Nước mắt vì đây là đoạn đường cuối cùng trên đường tới Yodok.  Phải hai giờ chiều chúng tôi mới tới được rìa trại.  Khi chiếc xe tải dừng lại, không ai trong số người lớn muốn nhìn ra ngoài.  Trong vài giờ vừa qua họ đã có rất nhiều cơ hội để làm quen với phong cảnh, nhưng chỉ có Chúa mới biết họ sẽ nhìn thấy gì nếu bây giờ nhìn ra ngoài.  Họ không cử động nên tôi cũng không cử động, và tất cả chúng tôi chỉ ngồi đó chờ đợi điều gì đó sẽ xảy ra.

Bình luận về bài viết này