Lược sử các Giáo Hoàng- Bài 17

Christopher Lascelles

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 18

Chiến tranh

Nếu Cơ đốc giáo được gìn giữ theo các quy định của người sáng lập thì các quốc gia và khối thịnh vượng chung của Cơ đốc giáo sẽ đoàn kết và hạnh phúc hơn nhiều. Cũng không thể có bằng chứng nào lớn hơn về sự suy đồi của Cơ đốc giáo bằng thực tế là người nào càng đến gần Giáo hội La Mã, người đứng đầu tôn giáo này, họ càng ít mộ đạo hơn.”

Niccolò Machiavelli, 1513

Alessandro Farnese – em trai của tình nhân của Alexander VI – người có biệt danh là ‘Hồng y Váy lót’, kế vị Clement VII làm Giáo hoàng Paul III (1534-49). Lấy Alexander VI làm hình mẫu, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi ông tập trung vào việc thúc đẩy lợi ích của gia đình mình, nhưng việc phong cho các cháu trai tuổi thiếu niên của ông trở thành hồng y chỉ hai tháng sau khi ông lên ngôi đã khiến ngay cả Hồng y đoàn khét tiếng thế tục cũng phải kinh ngạc.  Tuy nhiên, ngoài điều này ra, có rất ít thứ có thể so sánh họ. Không giống như Alexander VI và Leo X, Paul III hiểu sự cần thiết phải cải cách và sẵn sàng hành động.

Năm 1537, ông thành lập một ủy ban để kiểm tra tình trạng của Giáo hội. Bản báo cáo sau đó có tựa đề Consilium de Emendanda Ecclesia (Khuyến nghị về Cải cách Giáo hội) – viết không dễ đọc, liệt kê vô số hành vi lạm dụng đặc hữu, từ buôn bán chức vụ và thói vô đạo đức đến việc bán ân xá, cuối cùng đổ lỗi cho giáo hoàng về sự tham nhũng của Giáo hội. Bản thân Luther không thể làm tốt hơn, và một bản sao bị rò rỉ đã sớm đến được Đức, nơi nó được đọc từ mọi bục giảng Tin lành. Thật trớ trêu thay, một trong những người kế nhiệm Paul III, Paul IV, mặc dù bản thân đã đóng góp cho báo cáo, lại đặt nó vào Danh mục Sách Cấm, danh mục mà ông lập ra vào năm 1557 (xem bên dưới). Rõ ràng là nó quá nóng để xử lý. Một lần nữa, Giáo hội hoàn toàn không có khả năng chấp nhận việc tự kiểm tra có tính phê phán.

Paul III đã bị Hồng y Carafa cuồng tín – người sẽ sớm trở thành giáo hoàng – thuyết phục rằng người theo đạo Tin lành dị giáo nên bị thanh trừng, đặc biệt khi xem xét sự ủng hộ mà họ dường như đang giành được ở các thành phố nổi loạn khét tiếng ở miền bắc nước Ý. Năm 1540, Paul III chấp thuận cho Hiệp hội Jesus – hay Dòng Tên – truyền bá việc giảng dạy đức tin Thiên chúa giáo trên khắp thế giới thông qua hoạt động giáo dục và truyền giáo. Họ sẽ trở thành đội tiên phong của cuộc Phản Cải cách Thiên chúa giáo  và cuối cùng ở Rome người ta nói đùa rằng người đứng đầu Dòng Tên  – được gọi là ‘Giáo hoàng đen’ vì áo choàng đen của Dòng Tên – có nhiều quyền lực hơn chính giáo hoàng. Trong khi điều này trở thành chủ đề cho các thuyết âm mưu khủng khiếp và buồn cười, thì vào năm 2013, một trong những thành viên của nó thực sự đã trở thành Giáo hoàng Francis.

Năm 1542, Paul III thành lập một cơ quan đặc biệt để thực thi giáo lý chính thống và bảo vệ Giáo hội khỏi lạc giáo: Thánh Bộ Tòa Dị giáo La Mã và Hoàn Cầu  hay ‘Tòa án dị giáo La Mã’ như tên nó được biết đến. Đây là Tòa án dị giáo lớn thứ tư được khai sinh sau Tòa án dị giáo thời Trung Cổ chống lại dòng Cathar, Tòa án dị giáo Tây Ban Nha được thành lập gần nửa thế kỷ trước, và Tòa án dị giáo Bồ Đào Nha được thành lập vào năm 1536.

Lần này trọng tâm chính của nó là bảo vệ những người Thiên chúa giáo ở Ý dễ bị ảnh hưởng cải sang  đạo Tin lành.

Biếm họa “The Papal Belvedere’ (1545) của họa sĩ, thợ in người Đức thời Phục hưng và là bạn của Luther, Lucas Cranach the Elder, cho thấy hai nông dân Đức tụt quần xuống và đánh rắm về phía Giáo hoàng Paul III, người đang phát ra một giáo lệnh của giáo hoàng. Belvedere có nghĩa là “hình ảnh đẹp.” Tránh này không ăn nhầm gì khi so sánh với một bức tranh khắc gỗ khác vào năm 1534, trong đó Cranach mô tả Satan đang bài tiết ra một giáo hoàng.

Tòa án dị giáo, dưới bất kỳ hình thức nào, đều vi phạm luật đạo đức mà không thể bào chữa được: ‘Trong lịch sử Giáo hội Thiên chúa giáo không có gì nó làm đáng bị nguyền rủa và mang tai tiếng là hành động man rợ thời Trung Cổ trong con mắt của những nhà tư tưởng lý trí, sáng suốt hơn là Tòa án Dị giáo.’

Tuy nhiên, chỉ đến cuối thế kỷ 20, một giáo hoàng mới thừa nhận rằng Tòa án Dị giáo thuộc về “một giai đoạn đau đớn trong lịch sử Giáo hội”.  Lập luận, như một số người đã làm, rằng số người chết trong Tòa án Dị giáo La Mã thấp khi so sánh với số người bị các thế lực thế tục hành quyết từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19, và rằng không phải chính đích thân Giáo hội tiến hành các vụ hành quyết, cùng lắm chỉ là lối ngụy biện.

Giáo hội Anh đoạn tuyệt với Rome

Chính dưới thời Paul III, Giáo hội Anh đã đoạn tuyệt vĩnh viễn với La Mã. Kể từ năm 1527, Vua Henry VIII, khao khát có một người con trai để thừa kế và phát điên vì khao khát đó, đã tìm kiếm sự cho phép của Giáo hoàng để ly dị vợ mình, Catherine xứ Aragon, và kết hôn với người hầu gái hấp dẫn của bà, Anne Boleyn. Giáo hoàng Clement VII đã từ chối thực hiện mong muốn của nhà vua: với tư cách là dì của Hoàng đế Charles V, và với ký ức về việc thành Rome bị cướp phá vẫn còn in sâu trong tâm trí mọi người, Catherine có thể rất chắc chắn được sự  ủng hộ của Giáo hoàng. Tuy nhiên, Henry vẫn quyết tâm làm theo cách của mình, và mặc dù ban đầu ông đã đứng ra bảo vệ Thiên chúa giáo  chống lại Luther, giành được danh hiệu Fidei Defensor (‘Người bảo vệ Đức tin’), nhưng giờ đây ông đã lợi dụng Phong trào Cải cách để phủ nhận quyền lực của Giáo hoàng,

Năm 1533, Henry VIII hủy hôn mà không có sự cho phép của Giáo hoàng, tuyên bố mình là người đứng đầu Giáo hội quốc gia của riêng mình – Giáo hội Anh – và kết hôn với Anne Boleyn đang mang thai. Bằng cách đó, ông đã trở thành người cai trị có chủ quyền đầu tiên nắm quyền kiểm soát Giáo hội, đặt nó dưới sự quản lý của nhà nước và sử dụng tài sản của Giáo hội để củng cố vương miện. Clement VII đã nhanh chóng rút phép thông công ông ta. Năm 1536, quyền lực của giáo hoàng bị tuyên bố vô hiệu ở Anh. Paul III trả đũa bằng cách rút phép thông công Henry và tước bỏ danh hiệu Fidei Defensor của ông.

Có một sự trỗi dậy ngắn ngủi của Thiên chúa giáo  – được giáo hoàng ủng hộ dưới thời Mary I, con gái cuồng tín của Henry, nhưng Anh giáo đã được thiết lập vững chắc dưới thời Elizabeth I, con gái của ông với Anne Boleyn và là nữ hoàng Tin lành đầu tiên.

Công đồng Trent (1545-1563) Những lời kêu gọi liên tục về việc thành lập một hội đồng Giáo hội cuối cùng đã được đền đáp khi Paul III khai mạc Công đồng Trent vào năm 1545. Cuộc họp trong ba phiên họp riêng biệt trong suốt 18 năm tiếp theo là một cách tiếp cận có phần lề mề trong khi động lực đang thúc đẩy cuộc Cải cách tiến tới – công đồng là một sự thất vọng rõ rệt. Học thuyết của Giáo hội đã được tranh luận không ngừng và, trong khi một số bước được thực hiện nhằm tăng cường việc giáo dục giáo sĩ và hạn chế lạm dụng – chẳng hạn, thừa nhận rằng cuộc nổi dậy của Luther đã được thúc đẩy bởi ‘tham vọng quyền lực, tham lam của cải’ của giới giáo sĩ’  – nhưng cải cách chế độ giáo hoàng thậm chí còn không được đề cập đến. Thay vì giải quyết một cách hợp lý và có hệ thống các vấn đề do đạo Tin lành đặt ra, Giáo hội chỉ đơn giản trình bày lại niềm tin Thiên chúa giáo  “theo những thuật ngữ có cùng mối quan hệ với đạo Tin lành như âm bản đối với ảnh in”.  Chắc chắn, không có nỗ lực nào được thực hiện để loại bỏ hoặc tái cấu trúc khái niệm ân xá, vì điều này sẽ dẫn đến việc nhận ra tính bấp bênh không cơ bản của nó. Thay vào đó, đề xuất của các nhà cải cách về việc công chính hóa chỉ bằng đức tin đã bị bác bỏ hoàn toàn. Thay vì dẫn đến một cuộc Cải cách Thiên chúa giáo , những gì diễn ra sau đó là một cuộc Phản Cải cách, trong đó Giáo hội cố gắng củng cố niềm tin Thiên chúa giáo  ở châu Âu bằng các biện pháp chính trị hoặc nếu thất bại thì bằng vũ lực quân sự.

*

Những thập kỷ còn lại của thế kỷ 16 chứng kiến ​​sự kế thừa của các giáo hoàng chủ yếu là cuồng tín, trong đó có nhiều cựu thẩm phán. Người kế vị Paul III, Julius III (1550-55), nổi tiếng khi đón một thanh niên 15 tuổi tên là Innocenzo del Monte trên đường phố Parma và phong anh ta làm hồng y. Triều đại của ông cũng chứng kiến ​​sự khởi đầu của một cuộc chiến tranh tàn khốc giữa người Thiên chúa giáo  và người Tin lành ở Đức, với phần còn lại của châu Âu cũng bị tàn phá tương tự trong 100 năm tiếp theo, đặc biệt là trong các cuộc chiến tranh tôn giáo của Pháp (1560-1590), cuộc chiến tranh kéo dài 80 năm giữa Tây Ban Nha. và Hà Lan (1568-1648), và Chiến tranh ba mươi năm trên toàn châu Âu (1618-1648).

Người kế vị Julius III, Marcellus II (1555), qua đời sau hai mươi hai ngày, và người kế vị ông, Paul IV (1555-59), là một kẻ cuồng tín mù quáng, có quan điểm hạn hẹp về thế giới gợi nhớ đến quan điểm của Boniface VIII. Không khoan dung và chuyên quyền, Paul IV có lòng căm thù sâu sắc đối với những tín đồ Tin lành và thực tế là đối với bất kỳ ai dám thách thức ông hoặc đức tin Thiên chúa giáo . Ông kinh hoàng khi, khoảng năm tháng sau cuộc bầu cử của ông, một thế hệ xung đột tôn giáo ở Đức kết thúc bằng Hòa bình Augsburg (1555), trong đó tuyên bố rằng tôn giáo của nhà cai trị tại bất kỳ khu vực nào sẽ trở thành tôn giáo của thần dân họ  và cho phép những công dân phản đối được di cư tự do.

Thỏa thuận này chắc chắn có những mục đích cao cả – để tránh đổ máu thêm một cách không cần thiết nhưng Paul IV đã tố cáo nó là dị giáo và đẩy mạnh công việc ‘thánh thiêng’ của Tòa án Dị giáo để đáp trả, thậm chí còn tự mình tham dự một số phiên họp của nó.

Năm 1557, ông lập ra Librorum Prohibitorum (Danh mục Sách Cấm) trong nỗ lực bảo vệ các tín đồ Thiên Chúa khỏi những ảnh hưởng ô nhiễm của đạo Tin lành, khoa học, triết học, văn học và bất kỳ loại tư tưởng tự do nào khác đang thách thức truyền thống thời trung cổ, và đến bây giờ thế giới quan của Giáo hội chắc chắn là lỗi thời. Theo thời gian, Danh mục sẽ bao gồm tất cả những nhân vật sáng lập nên nền khoa học hiện đại, các triết gia hàng đầu, các nhà tư tưởng Khai sáng và các nhà sử học vĩ đại.. Tuy nhiên, đây là một hành động vô ích: kỹ thuật in ấn cho phép phổ biến nhanh chóng các ý tưởng, đồng thời việc cấm sách chỉ làm mọi người tăng thêm tò mò  mong muốn tìm đọc chúng.

Tất nhiên, các quốc gia theo đạo Tin Lành đơn giản phớt lờ danh sách này.

Tuy nhiên, tín đồ đạo Tin lành không phải là mục tiêu duy nhất của chủ nghĩa cuồng tín của Paul IV. Ông thấy người Do Thái cũng khó chịu không kém. Năm 1555, ông ban hành giáo lệnh khét tiếng, Cum nimis absurdum, buộc người Do Thái ở Rome vào ở trong khu ổ chuột và yêu cầu họ mặc quần áo để tạo sự khác biệt. Ông tuyên bố rằng thật vô lý và không đúng đắn khi dân Do Thái, những người bị Chúa Trời lên án do lỗi của họ, lại có thể sống tự do ở Rome, nơi họ có thể mua nhà và mướn những người hầu theo đạo Cơ đốc. Ông yêu cầu họ bán tài sản của mình và tránh làm ô uế tâm trí của người Cơ đốc thông qua giao tiếp xã hội. Từ đó, đàn ông Do Thái phải đội mũ màu vàng, còn phụ nữ phải mặc bộ quần áo màu vàng khác. Việc giáo lệnh này không trở thành học thuyết của Giáo hội không phải là lời bào chữa thực sự cho một hành động sẽ được viện dẫn để biện minh cho một trong những hành động tàn bạo nhất của thế kỷ 20.

Sự căm ghét người Do Thái của Paul IV chỉ kém lòng căm thù của ông đối với người Tây Ban Nha, điều này khiến ông phải liên minh với Pháp để đuổi họ ra khỏi Naples. Sự phẫn nộ của ông xuất phát từ ảnh hưởng lâu dài của Tây Ban Nha đối với Ý, vốn đã phát triển đáng kể kể từ khi Charles V thống nhất Tây Ban Nha và Đức dưới sự cai trị của Habsburg. Tây Ban Nha hiện cai trị Sicily, Sardinia, Naples và Công quốc Milan và giáo hoàng coi đây là mối đe dọa tiềm tàng lớn đối với quyền lực của mình. Hơn nữa, người Pháp không còn là đối trọng hiệu quả trước ảnh hưởng của Tây Ban Nha, họ đã từ bỏ mọi yêu sách đối với Ý sau khi quân đội Pháp bị quân đội Hoàng gia Tây Ban Nha đánh bại vào năm 1525. Các nỗ lực của quân đội Giáo hoàng nhằm trục xuất người Tây Ban Nha khỏi Naples trong khoảng thời gian 1555-57 chỉ kết thúc bằng thất bại và cuộc xâm lược vào Lãnh thổ Giáo hoàng.

Trước khi qua đời, Paul IV đã thành công trong việc xa lánh tất cả mọi người, trừ những người Thiên chúa giáo thuần thành nhất. Ngay khi tin tức về cái chết của ông được công bố rộng rãi, một đám đông đã đột kích và đốt cháy các văn phòng của Tòa án Dị giáo ở Rome trước khi đập nát bức tượng của ông và ném đầu tượng xuống sông Tiber. Đó là cái kết xứng đáng cho triều đại tàn bạo của một kẻ xấu xa.

Người kế vị Paul IV, Pius IV (1559-65), đã cố gắng tiết chế các chính sách cực đoan của Paul IV, nhưng đến giai đoạn này, thẩm quyền đạo đức của giáo hoàng đã suy giảm nghiêm trọng từ lâu. Giáo hội không bao giờ chấp nhận sự thật rằng từ nay trở đi Giáo hội chỉ là một trong nhiều nhánh của Cơ đốc giáo, trái ngược với việc là Giáo hội phổ quát và duy nhất.

Đáng buồn thay, thông điệp tiết độ của Pius IV đã không được bắt chước bởi người kế nhiệm ông, người được bảo trợ của Paul IV và là cựu quan tòa, Pius V (1566-72). Một lần nữa,  Giáo hội lại chọn nhầm người cho công việc một cách đáng kinh ngạc. Cuồng tín, khó chịu và cố chấp, Pius V đã tiến hành cuộc chiến một người chống lại sự vô đạo đức và dị giáo, xây dựng cho Tòa án dị giáo một cung điện mới (và ngục tối) mà chính ông thường xuyên đến thăm. Ông cũng thường xuyên tổ chức đốt sách có tên trong Danh mục Sách Cấm. Không hạnh phúc khi ở gần người Do Thái hơn Paul IV, Pius V đã gia tăng sự bức hại  bằng cách trục xuất họ khỏi Lãnh thổ Giáo hoàng. Không gì bằng một vài hành vi tra tấn, trục xuất và thiêu sống  để thanh lọc Giáo hội.

Để ngăn chặn mối đe dọa Tin lành ở Anh, Pius V đã ban hành sắc lệnh phế truất Nữ hoàng Elizabeth I – ‘nữ hoàng giả danh của nước Anh và là đầy tớ của tội phạm’, miễn trừ các thần dân Thiên chúa giáo  khỏi lòng trung thành với bà và đe dọa rút phép thông công nếu họ tiếp tục vâng lời bà. Những người Thiên chúa giáo  Anh bị giằng xé giữa việc vâng lời nữ hoàng hay giáo hoàng, và ngay lập tức bị chính quyền nghi ngờ là những kẻ phản bội tiềm năng.

Có thể cho rằng, thành tựu thực sự duy nhất của Pius V là tạo ra một Liên đoàn Thần Thánh, ràng buộc Venice và Tây Ban Nha chống lại người Thổ Nhĩ Kỳ, và họ đã đánh bại hoàn toàn trên biển vào năm 1571 trong Trận Lepanto, đây là chiến thắng quan trọng đầu tiên của lực lượng hải quân Thiên chúa giáo trước một hạm đội Thổ Nhĩ Kỳ. Đáng chú ý là Pius V đã được phong thánh vào thế kỷ 18, mặc dù rất khó có khả năng ông sẽ nhận được sự chào đón nồng nhiệt tại cổng ngọc trai của Thiên đường nơi Thánh Peter đứng gác.

Các giáo hoàng trong thời kỳ này phải đối mặt với sự thành công ngày càng tăng của đạo Tin lành ở Pháp, Anh và Hà Lan.

Ở Pháp, người Thiên chúa giáo  và người Tin lành đã giao đấu với nhau trong các cuộc chiến tranh tôn giáo kéo dài từ những năm 1560 đến những năm 1590. Khi các báo cáo tràn ngập Rome về vụ thảm sát khủng khiếp những người Huguenot Tín lành ở Paris vào Ngày Thánh Bartholomew (tháng 8 năm 1572), châm ngòi cho những trận tàn sát tương tự trên khắp nước Pháp, Giáo hoàng Gregory XIII (1572-85) ngay lập tức ra lệnh mọi người cùng hát Te Deum (một bài thánh ca vui mừng và tạ ơn). Phải 26 năm nữa khoan dung tôn giáo mới được khởi xướng ở Pháp thông qua Sắc lệnh Nantes (tháng 5 năm 1598), và sau đó chỉ vì vị vua mới của Pháp, Henry xứ Bourbon, đã theo đạo Tin lành trước khi lên ngôi, rồi sau đó ông cải sang đạo Thiên chúa.

Gregory XIII cũng ngầm khuyến khích các nỗ lực ám sát Elizabeth I. Khi những nỗ lực này thất bại, người kế vị của ông, Sixtus V (1585-90), đã khuyến khích Philip II của Tây Ban Nha đơn giản xâm lược đất nước Anh. Philip II không cần nhiều đến sự khích lệ. Elizabeth đã tích cực hỗ trợ quân nổi dậy theo đạo Tin lành ở các Quốc gia vùng Thấp và bằng cách tấn công các thuyền buồm Tây Ban Nha mang bạc từ Tân Thế giới về, bà đã đánh vào Tây Ban Nha nơi nó đau đớn nhất:  túi tiền của nó. Khi, vào năm 1587, Elizabeth xử tử người chị em họ Thiên chúa giáo  của mình, Mary, Nữ hoàng Scotland, Philip II lập tức hành động, và vào năm 1588, ông đã tung ra Hạm Đội Armada khổng lồ của Tây Ban Nha để loại bỏ ‘nữ hoàng dị giáo’ khỏi ngai vàng của bà. Sixtus không chỉ chúc phúc cho nỗ lực này mà còn hứa hỗ trợ tài chính trong trường hợp xâm lược thành công. Tuy nhiên, khi chiến dịch kết thúc với một trong những thảm bại ngoạn mục và tốn kém nhất trong lịch sử hải chiến, Sixtus V đã từ chối đóng góp dù chỉ một xu để bù đắp những tổn thất to lớn của Philip, lý luận khá ranh ma rằng rốt cuộc thì ông ta đâu đã xâm chiếm được nước Anh.

Sixtus V đã thể hiện mình là một lãnh đạo được lựa chọn tồi tệ do tính thiếu linh hoạt của ông ta. Trước khi trở thành giáo hoàng, mức độ nghiêm khắc quá mức của ông đã khiến ông bị thu hồi chức vụ Thẩm phán Venice. Không thể làm dịu đi cơn khát máu của mình trong các văn phòng của Tòa án Dị giáo, thay vào đó, ông quyết tâm thanh lọc tội phạm tại các Nhà nước của Giáo hoàng, đưa ra vô số án tử hình cho tội phạm và tuyên bố môt câu nổi tiếng, ‘Khi tôi còn sống, mọi tội phạm đều phải chết.’ Một tình cách đáng ngưỡng mộ đối với một nhà độc tài, nhưng có lẽ không mấy đáng ngưỡng mộ đối với người đại diện cho Ông Hoàng của Hòa bình. Các giám mục đến thăm phải hôn chân ông trong các buổi tiếp kiến ​​và không hề suy nghĩ rõ ràng về hành động của những người tiền nhiệm, ông yêu cầu xử tử các giáo sĩ và nữ tu bị kết tội vi phạm lời thề khiết tịnh của họ. Khi ông qua đời, bức tượng của ông, giống như tượng của Paul IV, đã bị một đám đông giận dữ phá hủy.

Triều đại của người kế vị Sixtus V, Urban VII (1590), bị cắt giảm quá ngắn, ông qua đời trước khi đăng quang nhưng hoàn cảnh của cuộc bầu cử này rất đáng chú ý: Philip II đã gửi một danh sách chỉ có 7 vị hồng y mà ông cho là có thể chấp nhận làm giáo hoàng, cùng với một danh sách 30 hồng y ông không chấp nhận. Trong 300 năm tiếp theo, các quốc vương Thiên chúa giáo  sẽ phủ quyết những ứng cử viên mà họ cho là không phù hợp mà không có sự phản kháng rõ ràng nào từ phía các hồng y. Các vị vua Pháp và Tây Ban Nha thường phủ quyết sự lựa chọn của nhau, điều này chắc chắn dẫn đến việc bầu ra một ứng cử viên thỏa hiệp ít được ưa chuộng hơn. Quyền phủ quyết của hoàng gia chỉ bị từ chối vào năm 1903.

Sau khi ba giáo hoàng trị vì chỉ trong một năm, thế kỷ cũ và mới đã được cân bằng bởi Clement VIII (1592-1605). Là một chính khách có năng lực, tuy nhiên giống như nhiều người tiền nhiệm, ông phạm tội đạo đức giả trắng trợn: đã chỉ trích chủ nghĩa gia đình trị trước khi lên ngôi, một trong những hành động đầu tiên của ông là phong hai cháu trai và chắt 14 tuổi của mình làm hồng y. Những người không theo Thiên chúa giáo  phải chịu đựng dưới triều đại của ông: giống như những người tiền nhiệm, ông sợ ảnh hưởng của người Do Thái đối với người  Cơ đốc ở các Nhà nước Giáo hoàng và ra lệnh rằng tất cả các bản sao của kinh Talmud Do Thái phải được giao nộp cho Tòa án Dị giáo để đốt, và ông đã đẩy hơn 30 kẻ dị giáo vào lửa đỏ.

Thời đại của lý trí

Trong khi thế kỷ 17 được gọi là Thời đại của Lý trí, nhờ có nhiều bước tiến nhảy vọt về kiến ​​thức khoa học, Giáo hội vẫn kiên trì duy trì thế giới quan thời Trung cổ của mình và tiếp tục đàn áp những người thách thức quan điểm đó. Vào năm 1600, nhà thông thái người Ý, Giordano Bruno (1548-1600), bị bịt miệng không cho ông phát biểu và thiêu sống theo lệnh của Giáo hội Thiên chúa giáo  và với sự bạn phước của Clement VIII vì ông đã tuyên bố, cùng với những điều khác, rằng có thể có vô số thế giới khác hoặc thậm chí cả vũ trụ. Ý tưởng về các vũ trụ riêng biệt không chỉ thách thức câu chuyện sáng tạo như được trình bày trong Sách Sáng Thế mà còn thách thức tầm quan trọng mà Giáo hội gán cho trái đất. Tất nhiên cũng chẳng khá hơn gì khi ông phủ nhận việc sinh con đồng trinh và tuyên bố rằng Jesus chỉ đơn giản là một ‘thầy phù thủy’. Ba năm sau, tất cả sách của ông đều bị đưa vào Danh mục Sách Cấm và ở đó trong nhiều thế kỷ. Gần 300 năm sau, vào năm 1899, Giáo hoàng Leo XIII đã phản đối kịch liệt khi bức tượng của Bruno được khánh thành tại Campo de’Fiori ở Rome, nhưng vào năm 2000, Giáo hội Thiên chúa giáo  tuyên bố rằng họ ‘rất tiếc’ việc thiêu sống ngài: một sự thừa nhận ngầm có sai sót. Trong năm 2015, các cơ quan thông tấn đưa tin rằng cơ quan vũ trụ châu Âu tin rằng một ánh sáng kỳ lạ nhìn thấy từ một trong các kính viễn vọng của họ có thể bắt nguồn từ một vũ trụ riêng biệt.

Tượng của Giordano Bruno tại Campo de’Fiori, Rome

Leo XI (1605), người kế vị Clement VIII, sống sót chưa đầy một tháng nhưng người kế vị ông, Paul V (1605-21), đã bù đắp được điều đó bằng triều đại kéo dài 16 năm. Ông đã ở vị trí may mắn được làm giáo hoàng trong thời kỳ tạm lắng hiếm hoi trước tình trạng thù địch ngày càng thường xuyên ở châu Âu. Các cuộc nội chiến ở Pháp đã kết thúc, Tây Ban Nha và Hà Lan tuyên bố đình chiến vào năm 1609 và kéo dài 12 năm. Chỉ đến cuối triều đại của ông, chiến tranh lại nổ ra.

Triều đại giáo hoàng của Paul V đã chứng kiến ​​sự khởi đầu của cuộc cách mạng khoa học đã thay đổi căn bản cách mọi người nhìn nhận thế giới. Trong thế kỷ 17, những lối suy nghĩ chiếm ưu thế là triết học của Plato (khoảng 428-348 trước Công nguyên) và Aristotle (khoảng 384-322 trước Công nguyên); thiên văn học và toán học của Ptolemy (khoảng 90-168); Y học của Galen (khoảng 130-201) và thần học của Aquinas (1225-74) về cơ bản đã bị thách thức bởi những người như Galileo, Descartes, Boyle, Bacon, Newton, Spinoza, Leibniz, Kepler, Pascal, Hobbes và Locke. Trước thế kỷ 17, việc học tập tập trung vào việc hiểu rõ hơn các chân lý Kitô giáo, chủ yếu thông qua lý luận, nhưng những triết gia mới này, với Descartes đi đầu, đã đưa ra các khái niệm về giả thuyết, quan sát và thí nghiệm. Bất cứ điều gì không thể chứng minh đều bị bác bỏ, bao gồm cả những lời giải thích đơn giản trong Kinh thánh về các quy luật tự nhiên đã ngự trị trong nhiều thế kỷ. Những lời giải thích hợp lý hiện đang được tìm kiếm và cuộc cách mạng trí tuệ này sẽ lần lượt làm nảy sinh cuộc cách mạng chính trị và xã hội,

Cuộc cách mạng khoa học có tác động đến tư tưởng châu Âu lớn hơn nhiều so với thời Phục hưng hay Cải cách, mặc dù cả hai đều góp phần vào sự tiến bộ của nó. Thời Phục hưng đã ngày càng chú trọng đến khả năng của con người và tầm quan trọng của việc học tập, trong khi Phong trào Cải cách đã thách thức thành công quyền lực của giáo hoàng. Tuy nhiên, cả hai đều không thách thức những cách thức phổ biến mà thế giới – và vị trí của con người trong đó – được giải thích.

Những thay đổi chính trị cũng đang diễn ra. Bị phá sản nhiều lần bởi các cuộc chiến tranh chống lại Châu Âu theo đạo Tin lành, Tây Ban Nha cuối cùng đã suy giảm vị thế cường quốc chính ở Châu Âu. Số lượng lớn bạc mà nó đã vận chuyển từ Tân Thế giới dẫn đến tình trạng lạm phát khủng khiếp, trong khi những người có tư tưởng tự do và trí thức có thể mang lại tiến bộ công nghệ hoặc xã hội lại bị Tòa án Dị giáo săn lùng. Kết quả là xã hội Tây Ban Nha trở nên đóng băng, và các nước theo đạo Tin lành như Anh và Hà Lan trở thành những người hưởng lợi chính từ cuộc di cư của các nhà khoa học và triết gia.

Thế giới đang thay đổi, tuy nhiên, tuy nhiên… tuy nhiên Giáo hội ở La Mã vẫn quyết tâm duy trì hiện trạng hàng thế kỷ của mình. Tiến bộ và hiện đại được coi là những thách thức phải đối mặt, chắc chắn không được hoan nghênh hoặc thậm chí không được xem xét, và hầu như tất cả các tác phẩm của các nhà khoa học và triết gia lỗi lạc thời bấy giờ đều được thêm vào Danh mục Sách Cấm. Phản ứng tiêu cực đối với sự thay đổi này về cơ bản vẫn tồn tại trong Giáo hội cho đến thế kỷ 21.

Từ chối thừa nhận rằng quyền lực của giáo hoàng đã suy yếu kể từ thời Trung cổ, Paul V tiếp tục hành xử như những người tiền nhiệm cứng đầu nhất của mình đã làm. Ngay trong năm ông lên ngôi, hai giáo sĩ đã bị Cộng hòa Venice bắt giữ và xét xử. Khi Venice từ chối giao họ cho chính quyền giáo hội, Paul V đã đặt toàn bộ nền cộng hòa dưới sự khai trừ. Nhưng thời kỳ đưa ra vạ tuyệt thông từ trên cao đã qua và giáo hoàng bị buộc phải xuống dốc một cách nhục nhã khiến uy tín của giáo hoàng càng bị tổn hại thêm. Không có vị giáo hoàng kế tiếp nào từng ban hành một sắc lệnh chống lại một quốc gia có chủ quyền.

Galileo

Dưới triều đại giáo hoàng của Paul V, nhà thiên văn học và nhà toán học Galileo Galilei bị lên án vì nghi vấn về thuyết Địa tâm cho rằng Trái đất là trung tâm của vũ trụ. Đó không phải là một lý thuyết mới. Nhà thiên văn học người Ba Lan, Nicholas Copernicus (1473-1543), đã tuyên bố trong tác phẩm của mình – Về sự chuyển động của các thiên thể được xuất bản ngay trước khi ông qua đời vào năm 1543 – rằng Trái Đất quay quanh Mặt Trời, nhưng giờ đây Galileo đã có những công cụ khoa học để chứng minh điều đó. Năm 1610 Galileo đã viết về những khám phá mà ông đã thực hiện khi sử dụng công nghệ mới phát minh là kính thiên văn. Đặc biệt ông đã phát hiện ra rằng Sao Mộc có các vệ tinh không khác gì mặt trăng của Trái đất, chứng tỏ rằng Trái đất không phải là tâm quay duy nhất trong vũ trụ.

Ông cũng chứng minh rằng sao Kim quay quanh Mặt trời giống như Mặt trăng quay quanh Trái đất và Mặt trời quay quanh trục của nó.

Giáo hội không ngay lập tức buộc tội ông là dị giáo; ông đã được chào đón ở Rome và được các nhà khoa học Dòng Tên vinh danh và thậm chí đã được diện kiến  Giáo Hoàng. Tuy nhiên, những câu kinh khác nhau của Kinh thánh đã nói rõ rằng đó là Trái đất chứ không phải Mặt trời, là đứng yên. Vào tháng 3 năm 1615, một ủy ban do Paul V thành lập,  tuyên bố rằng ‘quan điểm cho rằng Mặt trời đứng yên tại trung tâm của vũ trụ thật ngu ngốc, sai lầm về mặt triết học và hoàn toàn dị giáo.”

Trong năm đó, Galileo thất vọng đã viết một bài tiểu luận dưới dạng một bức thư gửi cho Nữ công tước Christina xứ Tuscany, nói rằng Chúa Thánh Thần muốn Kinh thánh chỉ ra ‘người ta lên thiên đàng như thế nào, chứ không phải thiên đường diễn ra như thế nào’ và tuyên bố rằng rằng ‘bất kỳ tạo vật nào cũng không có khả năng biến mọi thứ thành đúng hay sai.’ Ông kết luận, ‘Vì vậy, theo đánh giá của tôi, trước tiên người ta phải yên trí về chân lý cần thiết và bất biến của sự kiện mà không ai có quyền lực đối với nó.. Đây là lời khuyên khôn ngoan hơn là lên án một trong hai bên khi không có sự chắc chắn như vậy, do đó tước đi quyền tiếp tục và khả năng lựa chọn bằng cách xác định những điều hiện chưa được xác định và để mở và vẫn nằm trong ý chí của quyền lực tối cao. Và tóm lại, nếu không thể tuyên bố một kết luận là dị giáo trong khi chúng ta vẫn còn nghi ngờ về tính xác thực của nó, thì những người này đang lãng phí thời gian khi kêu gọi lên án chuyển động của Trái đất và sự ổn định của Mặt trời, điều mà họ  chưa chứng minh được là không thể hoặc sai.

Năm sau, tác phẩm vĩ đại của Copernicus được thêm vào Danh mục Sách Cấm và Galileo bị triệu tập đến Rome và ra lệnh ngừng giảng dạy thuyết Trái đất quay quanh Mặt trời. Hiện giờ,  vấn đề này đã kết thúc.

Những cuộc đại chiến  tôn giáo cuối cùng

Vào cuối giáo triều đại Paul  V, Châu Âu bị nhấn chìm trong một cuộc chiến tranh kinh hoàng không gì sánh bằng mà cuộc chiến tranh tương tự như vậy sẽ không còn xảy ra nữa cho đến thế kỷ 20. Tia lửa ban đầu xuất hiện vào năm 1618, khi Ferdinand II, hoàng đế sùng đạo Thiên chúa giáo Habsburg và gần đây đã công nhận Vua Bohemia – một vương quốc trong Đế chế La Mã Thần thánh Habsburg ít nhiều tương đương với Cộng hòa Séc ngày nay – đã cố gắng thu hồi các quyền tự do tôn giáo đã được đảm bảo. đối với những người theo đạo Tin lành ở Bohemia chỉ khoảng mười năm trước. Người theo Tin lành ở Praha liền đáp trả bằng cách ném các sứ giả của Ferdinand ra ngoài cửa sổ, phế truất Ferdinand II khỏi ngai vàng của người Bohemia và thay thế ông ta bằng Frederick V theo Tin lành. Ferdinand II trả đũa bằng cách tuyên chiến với những người theo Tin lành ở Bohemia, và tất cả các cường quốc châu Âu đều bị cuốn vào một cuộc chiến chỉ kết thúc vào 30 năm sau.

Quân đội Thiên chúa giáo bước đầu thành công, giành đại thắng vào năm 1620, sau đó Ferdinand II buộc phải Thiên chúa giáo hóa Bohemia. Điều này đã cảnh báo các quốc gia theo đạo Tin lành phía bắc như Đan Mạch và Thụy Điển, những quốc gia cuối cùng đã bị thuyết phục tham gia cuộc chiến chống lại Ferdinand. Nó cũng khiến người Pháp lo lắng, mặc dù trên danh nghĩa là người Thiên chúa giáo , nhưng họ hiểu rằng chủ quyền của họ có thể bị đe dọa bởi quyền lực của Habsburg – cả Tây Ban Nha và đế quốc ở phía nam và phía đông của họ. Một lần nữa, bóng ma xuất hiện về một thế lực thống trị lục địa. An ninh quốc gia giờ đây được ưu tiên hơn lòng trung thành với tôn giáo, và nước Pháp theo Thiên chúa giáo không chỉ ủng hộ chính nghĩa Tin Lành mà cuối cùng đã dẫn đến điều mà Ferdinand II không thể lường trước được. Do đó, bắt đầu trên cơ sở tôn giáo, cuộc xung đột chủ yếu trở thành cuộc chiến giữa nhà Bourbon của Pháp và nhà Habsburg của  Đức gốc Tây Ban Nha.

Bản thân nước Đức đã trở thành một chiến trường và tất cả các bên. hứng chịu những tổn thất khủng khiếp. Khoảng 20% ​​dân số Đức thiệt mạng, mặc dù số người chết tập trung ở một số khu vực cụ thể. Đó là thảm họa tồi tệ nhất ở châu Âu kể từ Cái Chết Đen thế kỷ 14.

Chính điều này đã chia cắt châu Âu với một miền bắc chủ yếu theo đạo Tin lành và một miền nam chủ yếu là Thiên chúa giáo mà Urban VIII (1623-44) được thừa hưởng sau triều đại giáo hoàng ngắn ngủi của Gregory XV (1621-23). Kinh hoàng khi các thế lực Thiên chúa giáo đang có chiến tranh với nhau vào thời điểm mối đe dọa của đạo Tin lành rất cao, Urban VIII đã cố gắng hết sức để thuyết phục họ làm hòa nhưng không thành công. Việc đó chẳng ích lợi gì khi người ta hiểu rằng ông ấy rõ ràng là thân Pháp.

Chiến tranh đã tạo ra một quan điểm cứng rắn hơn chống lại bất kỳ điều gì được nhận thức là dị giáo: các nhà khoa học, triết gia và bất kỳ ai thách thức đạo Thiên chúa giáo đều bị đối xử với sự nghi ngờ như nhau. Do đó, việc Galileo xuất bản một cuốn sách vào năm 1632 so sánh lý thuyết Copernicus với lý thuyết Địa tâm được Giáo hội thừa nhận là khá sai thời điểm. Cuốn sách được xuất bản dưới dạng cuộc đối thoại giữa ba nhân vật, hai người ủng hộ ý tưởng của Copernicus và một người ủng hộ ý tưởng của Ptolemy (tác giả thuyết Địa tâm thời Hy Lạp cổ đại). Urban VIII, người trước đây đã ca ngợi Galileo, đã tỏ ra phẫn nộ khi nhân vật ủng hộ các ý tưởng của Ptolemy – những ý tưởng được chính Urban VIII tán thành lại được đặt tên là ‘Simplicius’, điều này cho thấy rằng bất kỳ ai nghi ngờ những phát hiện của Copernicus đều thiếu thông minh. Galileo bị lôi đến Tòa án Dị giáo, nơi ông được thông báo một cách dứt khoát rằng những vấn đề như vậy nằm ngoài thẩm quyền của ông và bị kết án vì đã bất chấp lệnh rõ ràng là không được dạy lý thuyết Copernicus. Tòa phán rằng nếu không từ bỏ ngay lập tức, ông sẽ bị tra tấn và thậm chí có thể bị xử tử. Mặc dù đã tuân theo – một động thái hợp lý đối với giải pháp tình huống, ông vẫn bị kết án tù chung thân, bị quản thúc tại gia và buộc phải đọc thánh vịnh để sám hối. . Cuốn sách của ông được đưa vào Danh mục Sách Cấm và vẫn ở đó cho đến năm 1822 mặc dù phải thêm 170 năm nữa trôi qua trước khi ông thực sự được Giáo hội phục hồi. Phần nào thích hợp là ngón tay giữa của ông vẫn còn tồn tại và có thể được nhìn thấy tại Bảo tàng Galileo ở Thành phố Florence, nước Ý. Galileo tương đối may mắn: vào năm 1619, triết gia người Ý cùng thời với ông, Lucilio Vanini, bị kết tội báng bổ, bị cắt lưỡi và bị thiêu trên cọc. Thông điệp gửi đến các nhà khoa học ở Ý rất rõ ràng: cứ thách thức những lời dạy của Giáo hội, dù đã lỗi thời, sẽ phải đối mặt với những hậu quả khôn lường.

Mặc dù không chấm dứt được các nghiên cứu khoa học của   người Thiên chúa giáo bằng bất kỳ phương tiện nào, Tòa án Dị giáo chắc chắn đã khiến các nhà khoa học Thiên chúa giáo phải suy nghĩ kỹ trước khi họ công bố công trình của mình, và từ đó trở đi những tiến bộ khoa học vĩ đại nhất sẽ đến từ những xứ  Bắc Âu theo đạo Tin lành. Động cơ của chủ nghĩa tư bản và công nghiệp hóa, vốn đã thúc đẩy sự trỗi dậy của Hà Lan và Anh từ thế kỷ 17, đã được khuyến khích ở mức độ lớn hơn nhiều ở miền Bắc theo đạo Tin Lành so với ở miền Nam theo Thiên chúa giáo.

Năm 1648, các bên tham chiến ở châu Âu cuối cùng đồng ý với một loạt các hiệp ước hòa bình được gọi là Hòa bình Westphalia, đã khôi phục một cách hiệu quả sự khoan dung tôn giáo đối với Châu Âu. Hoàng đế Ferdinand III (1637-57) cuối cùng đã thừa nhận sự vô ích của việc cố gắng chống lại tình hình thực tế chính trị mới và hiểu rằng quyền của mỗi người cai trị trong việc xác định tôn giáo trên vùng đất của mình như được nêu rõ trong Hòa bình Augsburg năm 1555 là cách hợp lý duy nhất để đảm bảo hòa bình trên lục địa. Từ nay trở đi bất kỳ chính sách nào có mục đích là áp đặt sự thống nhất tôn giáo chắc chắn sẽ thất bại. Chiến tranh đã bắt đầu với một cuộc tấn công vào đạo Tin lành nhưng trớ trêu thay lại kết thúc bằng việc hợp pháp hóa nó. Hơn nữa, trong khi tôn giáo là nền tảng động lực đầu tiên cho chiến tranh, thì giờ đây an ninh nội bộ và sự cân bằng của quyền lực đã nhanh chóng chiếm lấy vị trí chính trong mối quan tâm của các bên tham gia. Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc sẽ dần dần xếp tôn giáo vào  vấn đề lương tâm cá nhân hơn là mối quan tâm của nhà nước.

Tuy nhiên, người kế vị của Urban VIII, Innocent X (1644-55), quyết tâm không thừa nhận thực tế mới. Ông ấy đã rất kinh hoàng khi người đạo Thiên chúa đã làm hòa với người Tin lành dị giáo, và kinh hoàng gấp đôi khi hiệp ước cho phép các quốc gia lựa chọn tôn giáo riêng của mình. Những hậu quả đối với quyền bá chủ của Thiên chúa giáo và quyền lực của giáo hoàng trên lục địa đã rõ ràng. Vì thế, theo thói quen cao ngạo, ông đã tố cáo Hòa bình Westphalia trong tuyên bố giáo hoàng Zelo domus Dei (1650), trong đó ông vạch ra những điều khoản làm ông không hài lòng, chẳng hạn như dung nạp đạo Tin lành, mà ông cho là  ‘trống rỗng, vô hiệu, vô giá trị, sai trái, bất công, đáng nguyền rủa, đáng chê trách, ngu ngốc và hoàn toàn yếu kém’ và cấm người Thiên chúa giáo tuân theo chúng. Nhưng ông ấy đã lội ngược dòng thủy triều không thể ngăn cản và những nỗ lực của ông phần lớn bị phớt lờ. Xung đột về lòng trung thành chính trị và tôn giáo đang suy yếu và lòng trung thành cá nhân giờ đây không còn dành cho hoàng đế hay giáo hoàng, mà là dành cho vua và đất nước.

Chiến tranh đã làm thay đổi cán cân quyền lực ở châu Âu. Nhà Habsburg đã thành công trong việc củng cố quyền lực của họ ở Áo, Bohemia, Hungary và Croatia, trở thành Đế quốc Áo và tiếp tục cai trị Tây Ban Nha cho đến năm 1700. Tuy nhiên, Đế chế Habsburg ở Đức, dân số bị tàn phá do chiến tranh kéo dài gần như bị tiêu diệt, với hoàng đế nắm giữ rất ít quyền lực dân sự đối với một đất nước ngày càng bị chia cắt, và các hoàng tử của nó thống nhất dưới sự lãnh đạo của Hohenzollerns của Phổ. Tây Ban Nha hầu như đã bị phá sản trong suốt thế kỷ 16 và 17, và đời sống trí tuệ của nước này bị đè bẹp bởi cuộc khủng hoảng Tòa án Dị giáo, rơi vào một thời kỳ suy thoái kéo dài. Chính Pháp, dưới thời ‘Vua Mặt trời’, Louis XIV (1643-1715), đã nổi lên như một cường quốc vượt trội trên lục địa.

Khi thế kỷ trôi qua, ngôi vị giáo hoàng ngày càng không còn liên quan đến các vấn đề châu Âu. Càng ngày, các quốc vương càng tin rằng họ cai trị bằng quyền thiêng liêng – rằng quyền cai trị của họ là do Chúa ban và không phụ thuộc vào bất kỳ quyền lực trần thế nào. Vua James I của Anh (1603-25) là người đề xuất lớn cho lý thuyết này, cũng như Louis XIV (1643-1715) của Pháp, người đã tuyên bố nổi tiếng ‘L’État, c’est moi’ (‘Nhà nước, đó là tôi’). Khái niệm về quyền thiêng liêng cũng góp phần lớn vào xung đột giữa vua Anh Charles I và quốc hội, gây ra cuộc nội chiến ở Anh vào giữa thế kỷ 17 và dẫn đến việc nhà vua bị hành quyết. Càng ngày càng ít người tin vào khái niệm thần quyền này  sau các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp vào cuối thế kỷ 18.

Giáo hội Thiên chúa giáo, vốn luôn chống lại sự thay đổi, đã từ chối thừa nhận địa vị suy giảm của mình như một giáo hội giữa nhiều giáo hội, cũng như đạo Tin lành vẫn ở đây.  Tuy nhiên, những nỗ lực ngày càng vô ích của La Mã nhằm áp đặt quyền lực của mình đã bị cản trở bởi tình hình tài chính suy giảm. Địa Trung Hải đã giảm tầm quan trọng như một khu vực thương mại kể từ khi châu Mỹ được phát hiện, và trung tâm kinh tế, trong nhiều thế kỷ bị khóa chặt vào Địa Trung Hải, giờ đã chuyển về phía bắc. Trải qua hàng trăm năm là một quốc gia thương mại lớn, Ý hiện là một nền kinh tế trì trệ ở rìa phía đông châu Âu và đơn giản là không thể cạnh tranh. Tương tự như vậy, các giáo hoàng vào thế kỷ 17  nhận thấy rằng sự giàu có và quyền lực của họ đang dần biến mất.

Sự khai sáng

Bước sang thế kỷ mới mang lại nhiều chiến tranh hơn: tranh chấp quyền kế vị ngai vàng Tây Ban Nha (1701-14) giữa Habsburgs và Bourbons sẽ khiến xung đột tiếp tục ầm ĩ suốt thế kỷ, lan rộng đến cả thế giới mới.

Nhưng thế kỷ 18 cũng là thế kỷ Khai sáng: tác giả người Pháp Voltaire có thể là bộ óc lỗi lạc nhất trong thời đại của ông và những người đồng hương của mình là Rousseau, Montesquieu và Diderot; của Immanuel Kant người Đức; và của người Scotland, David Hume. Ở Mỹ, cuộc tấn công được lãnh đạo bởi Thomas Paine (người đã trốn khỏi Anh), Thomas Jefferson, John Adams, Benjamin Franklin và những người khác. Những người này đã thống nhất khẳng định khái niệm về các quyền tự nhiên của con người, sự khoan dung tôn giáo, tiến bộ khoa học, sự lãnh đạo sáng suốt, quyền tự do ngôn luận, phản đối mê tín và ghê tởm chế độ chuyên quyền và chuyên chế. Năm 1784, Kant mô tả sự khai sáng là “không gì khác hơn là sự tự do tranh luận về ý tưởng của riêng mình mà không bị những người có thẩm quyền buộc phải tuân theo”.

Nếu cuộc cách mạng khoa học đã thay đổi cách mọi người nghĩ về tự nhiên và khoa học, thì công cuộc Khai sáng – đứa con của nó theo nhiều phương diện – đã thay đổi cách mọi người nghĩ về quyền lực, và việc áp dụng những ý tưởng này vào thế giới thực sẽ được thấy rõ nhất ở Pháp. Ở đây, ví dụ điển hình nhất là chế độ quân chủ tuyệt đối vào đầu thế kỷ mà Vua Mặt Trời Louis XIV cai trị, trong khi hậu duệ của ông, Louis XVI, lại bị hành quyết khi thế kỷ khép lại.  Lấy cảm hứng từ những lý tưởng tự do và dân chủ của các triết gia khai sáng, các nhà Cách mạng Pháp đã vứt bỏ trật tự cũ, giống như các nhà Cách mạng Mỹ trước đó. Người Anh tránh được chế độ quân chủ tuyệt đối vào thế kỷ 18 chỉ bằng cách xử tử vua của họ vào thế kỷ trước.

Những người cách mạng đã nhất trí: vua nắm quyền không phải bởi quyền thiêng liêng, mà bởi sự đồng ý của thần dân họ.

Tương tự như vậy, khái niệm về quyền lực tuyệt đối của Giáo hội đã bị loại bỏ. Mọi người đều có quyền tin hoặc không tin vào Chúa, họ tuyên bố, và thật điên rồ khi bắt bớ mọi người vì niềm tin của mình. Tuy nhiên, mọi thứ về những những khẳng định này trái ngược với giáo lý của Giáo hội. Ngành khoa học tiến bộ dẫn đến việc đặt câu hỏi về thẩm quyền của Kinh Thánh là một thách thức nguy hiểm, nhưng quyền tự do ngôn luận đã rõ ràng là không thể chấp nhận được, và quyền tự do tín ngưỡng quá sức chịu đựng. Rốt cuộc, sai lầm không có quyền, và thậm chí cả những kẻ dị giáo thích hợp hơn những người hoài nghi. Khi tác giả người Pháp và triết gia Dennis Diderot cố gắng ghi lại kiến thức mới mẻ này trong một bộ Bách khoa toàn thư đồ sộ, Giáo hội đã ra sức đàn áp nó trên cơ sở nó khuyến khích mọi người tự thân suy nghĩ. Tất nhiên, cũng chẳng ích gì khi ông ta gọi Cơ đốc giáo là ‘’tôn giáo lố bịch nhất’ và ‘tôn giáo tàn bạo trong giáo điều của nó.’ Nói tóm lại, trong khi xã hội đang trở nên ngày càng thế tục và có học thức, Giáo hội vẫn quyết tâm bám vào quan điểm thời trung cổ của nó. Bất kỳ bài viết nào thách thức những điều này đều được thêm vào Danh mục Sách cấm.

*

Clement XI (1700-21) – vị giáo hoàng trị vì lâu nhất kể từ thế kỷ 12 cũng bị sốc như những người tiền nhiệm khi chứng kiến ​​các nhà nước Thiên chúa giáo  tiến hành chiến tranh với nhau thay vì chống lại những kẻ dị giáo Tin Lành. Tuy nhiên, những nỗ lực can thiệp của ông đều không thành công. Sau khi tuyên chiến với Habsburg Áo sau khi họ xâm lược Naples của mình, Clement XI nhận thấy quân đội Giáo hoàng của mình buộc phải đầu hàng ngay khi có dấu hiệu đầu tiên của trận chiến. Ông đã ngăn chặn được một cuộc xâm lược thành Rome chỉ bằng cách chấp nhận việc quân Áo chiếm Naples và đồng ý công nhận yêu sách ngai vàng Tây Ban Nha của Habsburg. Đó là thước đo cho thấy ảnh hưởng đang suy giảm của giáo hoàng khi quyết định ủng hộ vua Habsburg của ông bị phớt lờ ở Tây Ban Nha, nơi ứng cử viên Bourbon tiếp tục cai trị với tư cách là Philip V, cháu trai của Louis XIV

Cộng thêm sự mất mát uy tín và quyền lực này, Giáo hội đã bầu ra một loạt những ông già yếu ớt, ốm yếu và tẻ nhạt để lãnh đạo Giáo hội, khi rõ ràng cần có tuổi trẻ và nghị lực để kéo Giáo hội vào thời hiện đại. Innocent XIII (1721-24) bị ốm khi đắc cử, trong khi Benedict XIII (1724-30) và Clement XII (1730-40) đều ở độ tuổi cuối bảy mươi, từng giao quyền lực cho một kẻ tham ô đã tàn phá ngân khố, và người sau mất đi thị lực trước tiên, sau đó là trí nhớ. Tuy nhiên, vẫn còn tranh cãi liệu một vị giáo hoàng mạnh mẽ hơn có tạo được nhiều tác động hơn hay không: một người có tham vọng lớn hơn có thể chỉ khiến xã hội châu Âu cứng rắn hơn chống lại Giáo hội.

Benedict XIV (1740-58) – một người tương đối trẻ ở tuổi 65 – đã mang lại sự kính trọng cho giáo hoàng. Được giáo dục tốt, khoan dung, có năng lực, sắc sảo về chính trị và hóm hỉnh, ông nhận ra sự vô ích trước sự cố chấp của Giáo hội. Quan tâm đến quyền lực tinh thần của Giáo hội hơn là quyền lực thế tục của giáo hoàng, ông cũng coi trọng chủ nghĩa thực dụng hơn chủ nghĩa giáo điều. Người ta cũng chắc chắn lưu ý việc ông bác bỏ chủ nghĩa gia đình trị đang hoành hành trong giáo triều của những người tiền nhiệm, không mời cháu trai của mình đến Rome, cũng như không ban tặng bất kỳ danh hiệu nào cho anh ta.

Tôn trọng các ý kiến ​​​​khác nhau và mong muốn dung hòa khoa học với đức tin, Benedict XIV yêu cầu những người chịu trách nhiệm quản lý Danh mục Sách Cấm hành động kiềm chế; với sự hỗ trợ của ông, danh mục cuối cùng đã bãi bỏ lệnh cấm vô nghĩa đối với ‘tất cả các cuốn sách dạy về chuyển động của Trái đất và sự bất động của Mặt trời’. Cùng với việc giảm thuế, khuyến khích thương mại tự do và nỗ lực giảm tham nhũng trong chính quyền của Giáo hoàng, ông đã thành lập một số học viện với mục đích đào tạo các linh mục. Vào thời điểm ông qua đời vào năm 1758, ông đã được các nhà cai trị Thiên chúa giáo , không Thiên chúa giáo  và thậm chí cả những người không theo đạo Thiên chúa ngưỡng mộ. Một thành tích xứng đáng cho giáo hoàng. Thật không may, Rome sẽ phải đợi thêm 200 năm nữa trước khi thành phố nhìn thấy một vị giáo hoàng có phẩm chất tương đương.

Chân dung Giáo hoàng Benedict XIV (1746) của Pierre Hubert Subleyras

Vấn đề Dòng Tên

Trong khi Benedict XIV cứu vãn được một ít uy tín cho Giáo hội, thì các triều đại giáo hoàng của hai người kế vị ông cho thấy Giáo hội đã sa sút đến mức nào. Cả hai đều bị chi phối bởi vấn đề Dòng Tên. Tính độc lập tương đối của dòng tu này – được chính thức công nhận vào năm 1540 bởi Paul III, và một phần không thể thiếu của cuộc Phản Cải cách đã bị các vị vua châu Âu nghi ngờ, những người vốn đòi hỏi sự trung thành của tất cả thần dân của mình, và ngày càng cố gắng đặt quyền lực của Giáo hội vào tay nhà nước. Việc các tu sĩ Dòng Tên, giống như các Hiệp sĩ dòng Đền trước họ, được cho là đã tích lũy được khối tài sản đáng kể, đã đưa họ vào tầm ngắm của các quốc gia hiếu chiến để tài trợ các chiến dịch quân sự. Không lâu sau, giáo hoàng bị áp lực phải giải tán dòng tu và trước khi những người cai trị tìm ra cớ để trục xuất họ và tịch thu tài sản của họ.

Clement XIII (1758-69) đã cố gắng hỗ trợ các tu sĩ Dòng Tên khi dòng tu được đưa ra khỏi Bồ Đào Nha và bị đặt ra ngoài vòng pháp luật ở Pháp, và tài sản của nó bị nhà nước tịch thu, nhưng người kế nhiệm ông, Clement XIV (1769-74), không chịu nổi áp lực từ Bourbons, ban hành sắc lệnh bãi bỏ dòng tu vào năm 1773. Chỉ bốn năm trước, Clement XIII đã khen ngợi dòng tu cho công việc của họ, nhưng người kế nhiệm ông quá yếu để cứu được một dòng tu cung cấp đội tiên phong bảo vệ tính chính thống Thiên chúa giáo. Lòng trung thành của họ với giáo hoàng không giúp họ chống lại được các chính quyền cho rằng họ gây rối và khao khát sự giàu có của họ. Những điểm tương đồng với sự đàn áp của Hiệp sĩ dòng Đền là rõ ràng một cách đau đớn.Tuy nhiên, những người Tin lành và những nhà tư tưởng khai sáng đã nhìn thấy sự đàn áp như một chiến thắng vĩ đại cho lẽ thường.

Trước sự sỉ nhục lớn lao dành  cho mình, Clement XIII đành phải để vị chỉ huy của dòng tu, Tướng Ricci, và khoảng mười ba tu sĩ Dòng Tên hàng đầu khác bị giam trong Lâu đài Sant’Angelo, để họ chết ở đó. Tuy nhiên, Dòng Tên không bị tiêu diệt hoàn toàn: họ được chào đón ở nước Phổ theo đạo Tin lành và Chính thống giáo ở Nga nhờ chất lượng giáo dục mà họ cung cấp, và trong vòng nửa thế kỷ, dòng tu này đã được tái lập bởi Giáo hoàng Pius VII. Bây giờ nó là dòng tu lớn nhất trong Giáo hội Thiên chúa giáo .

Bản thân Clement XIII cũng mắc bệnh ngoài da trong những năm cuối đời, ông dùng ngày càng nhiều thủy ngân trong thuốc theo lời khuyên của bác sĩ. Cuối cùng, khi ông ngã gục và chết vì ngộ độc thủy ngân, tất nhiên cái chết của ông được đổ lỗi cho các tu sĩ Dòng Tên.

CHƯƠNG 19

Cuộc cách mạng

“Những quan điểm sai lầm và đáng nghi ngờ, được dựa vào như những châm ngôn không thể nghi ngờ, khiến những người phát triển thành tựu trên chúng không biết gì về sự thật.”

John Locke, Một tiểu luận về sự hiểu biết của con người

Trong khi những người tiền nhiệm trực tiếp của ông đang phải chèo chống lại một dòng chảy mạnh mẽ của sự thay đổi trí tuệ nhanh chóng, thì Pius VI (1775-99) lại thấy mình bị cuốn vào vòng xoáy của những hậu quả chính trị của nó: cuộc cách mạng ở Mỹ và Pháp, việc hành quyết nhà vua Pháp, và việc chính ông ta bị người Pháp bắt và lưu đày.

Năm 1781, Hoàng đế Joseph II của Áo đã ban hành một đạo luật khoan dung nâng vị thế những người theo đạo Luther, giáo phái Calvin và Cơ đốc Chính thống lên gần như bình đẳng với những người Thiên chúa giáo. Từ nay trở đi họ có thể nộp đơn xin vào chức vụ công, mua đất và thờ cúng riêng. Năm sau, ông mở rộng sự khoan dung đối với người Do Thái trong đế chế của mình và dỡ bỏ nhiều hạn chế đối với báo chí. Joseph nhấn mạnh rằng tất cả các giáo lệnh và bản chỉ dụ của Giáo hoàng đều phải nhận được sự đồng ý chính thức của ông trước khi được phổ biến trong các vùng lãnh thổ của ông; rằng các linh mục phải được đào tạo trong các chủng viện do nhà nước quản lý để đảm bảo họ có được một nền giáo dục ‘toàn diện’; và hôn nhân được thực hiện hoàn toàn là một hợp đồng dân sự. Nói tóm lại, ‘cách Giáo hội hành động và quản trị chính mình trong thế giới này [bây giờ] là việc của nhà nước.’ Pius VI kinh hoàng.

Giống như một số người cùng thời với ông như Catherine Đại đế và Frederick II của Phổ, Joseph II đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng khai sáng. Nhưng những cải cách này vượt xa bất cứ điều gì được ban hành trước đây ở châu Âu, và có thể dự đoán trước sẽ gặp phải sự phản kháng từ hệ thống cấp bậc Thiên chúa giáo vốn sợ quyền tự do báo chí và coi sự khoan dung tôn giáo là khinh thường sự thật. Pius VI coi hành động này là ‘một sự ghê tởm không thể diễn tả được’, tin rằng việc dung túng các quan điểm tôn giáo bất đồng trước tiên sẽ dẫn đến sự sụp đổ quyền lực và sau đó là hỗn loạn. Có lẽ nếu Giáo hoàng đến thăm Joseph II, ông có thể thuyết phục được ông ta về lỗi lầm trong đường lối của mình và chấm dứt xu hướng ngày càng tăng và đáng lo ngại này đối với các quốc gia trong việc dung túng các tôn giáo ngoài Thiên chúa giáo từ trong trứng nước một lần và mãi mãi?

Thuận tiện quên rằng chính sắc lệnh khoan dung do Hoàng đế Constantine I ban hành đã hợp pháp hóa Cơ đốc giáo ngay từ đầu, Pius VI đã tới Áo vào mùa xuân năm 1782 trong nỗ lực thuyết phục Joseph II thu hồi đạo luật này. Nhưng mặc dù ông được người Áo đón tiếp nồng nhiệt nhưng đây là lần đầu tiên một giáo hoàng đến thăm khu vực đó hoặc thực sự đã đặt chân ra khỏi Ý trong ba thế kỷ qua – ông đã thất bại trong mục tiêu của mình. Sự khoan dung vẫn được duy trì và Joseph II tiếp tục giải tán hàng trăm tu viện trong những năm tiếp theo,

Trong khi đó, Chiến tranh giành độc lập của Mỹ đang gào thét ở Tân Thế giới (1776-83) và khiến Pius  VI phải lo ngại ở mức độ không nhỏ. Cuộc cách mạng sẽ luôn gây sốc đối với một Giáo hội được điều hành theo những điều kiện tuyệt đối, nhưng Pius  VI bất lực trong việc ảnh hưởng đến các sự kiện ở nơi mà về cơ bản là vùng đất Tin lành chỉ có một hai phần trăm người Mỹ theo đạo Thiên chúa vào thời điểm đó, nhiều người trong số di cư ban đầu vượt Đại Tây Dương tìm kiếm một cuộc sống mới để trốn khỏi cuộc đàn áp của Thiên chúa giáo và phải đến cuối những năm 1800, người Thiên chúa giáo mới bắt đầu đến Mỹ với số lượng lớn.

Trong vòng sáu năm kể từ khi kết thúc Chiến tranh giành độc lập của Hoa Kỳ, Pius VI đã phải đối mặt với nguy cơ cách mạng trước mắt đáng kể hơn ở một quốc gia chủ yếu là người Thiên chúa giáo, một cường quốc lớn ở châu Âu và một nước láng giềng thân thiết: Pháp. Sau nhiều cuộc chiến tranh ở châu Mỹ và các nơi khác, Pháp đã bị phá sản và buộc phải tăng thuế, nhưng chính phủ đã nhắm vào người nghèo trong khi miễn trừ phần lớn tầng lớp quý tộc và giáo sĩ. Một loạt mùa màng thất bát là tất cả những gì đã đẩy đất nước vào cuộc cách mạng vào tháng 10 năm 1789.

Mô tả các linh mục là kẻ lười biếng và tham nhũng chẳng là gì cả, chẳng hơn gì bọn quý tộc đã thúc đẩy đất nước đi xuống, người Pháp truyền bá kích động hận thù Giáo hội, chắc chắn biết rằng nhiều giáo sĩ cấp cao đã xuất thân từ các gia đình quý tộc. Giàu có về tài sản và đất đai, và cồng kềnh với các linh mục kém hiệu quả, Giáo hội dường như rõ ràng là một nguồn tiền để trả nợ quốc gia. Vào tháng 11 năm 1789, những người cách mạng đã quốc hữu hóa tất cả tài sản của Giáo hội và tiến hành đóng cửa tất cả các tu viện ở Pháp. Bị cuốn vào làn sóng thủy triều, lòng nhiệt thành dân tộc, vào tháng 6 và tháng 7 năm 1790, Chính phủ – Quốc hội của nước Pháp mới – thông qua Hiến pháp dân sự về Tăng lữ, đặt các giáo hội Pháp một cách hiệu quả dưới quản lý của Nhà nước. Số giáo phận sẽ bị cắt giảm để phù hợp với 83 khu vực hành chính mới được xác định của đất nước, giống như Giáo hội sơ khai đã được tái tổ chức để phù hợp với Đế chế La Mã. Quyền lực của Giáo hội giờ đây sẽ bị giới hạn trong các vấn đề tâm linh, giáo sĩ sẽ trở thành công chức nhà nước, và các linh mục sẽ được đổi tên thành ‘linh mục công dân’ do đồng bào của họ cả người Thiên chúa giáo và người không Thiên chúa giáo bầu ra – thay vì do hệ thống Giáo hội chỉ định như trước đây. Pius VI ngay lập tức kêu gọi một hội đồng hồng y xem xét lại Hiến pháp này – rốt cuộc, ngay cả những người không theo Thiên chúa giáo cũng cho rằng thật kỳ lạ khi những người Tin lành và Do Thái có ảnh hưởng đến việc bầu cử các giám mục Thiên chúa giáo – nhưng Quốc hội Pháp đã ngăn cản họ bằng chỉ thị rằng tất cả các linh mục đều có quyền tuyên thệ công dân tuân thủ Hiến pháp hoặc từ bỏ vị trí của họ. Do đó, các linh mục buộc phải tuyên bố trung thành với nền cộng hòa mới hoặc với Tòa thánh La Mã.

Vào tháng 3 năm 1791, Pius VI chính thức bác bỏ Hiến pháp, phủ nhận thẩm quyền của Quốc hội trong việc lập pháp về các vấn đề giáo hội. Một tháng sau, ông nhắc lại lời lên án của mình với các giám mục, giáo sĩ và giáo dân Pháp và ra lệnh cho các giáo sĩ Pháp không được tuyên thệ vì bị đe dọa đình chỉ chức vụ. Nhiều linh mục đã lưỡng lự, nhiều người tuyên thệ và hàng ngàn người bỏ trốn khỏi đất nước. Rất nhanh chóng, bất kỳ hình thức Thiên chúa giáo nào cũng trở nên đáng nghi ngờ trong mắt những người cách mạng, vốn ‘đánh đồng sự chính thống của Thiên chúa giáo với sự cứng nhắc được củng cố bởi sự ngu ngốc’.  Các linh mục ở lại Pháp mà không tuyên thệ đều bị coi là kẻ thù của nhân dân và phải gánh chịu hậu quả nặng nề.

Vào ngày 23 tháng 4 năm 1791, Pius VI đã ban hành một thông điệp riêng – giờ không có gì có thể ngăn cản ông –  lên án Tuyên ngôn Nhân quyền, một trong những biểu hiện nhân quyền vĩ đại nhất trong lịch sử. Tuyên bố, được Quốc hội Pháp thông qua vào tháng 8 năm 1789, bảo vệ các quyền cá nhân bao gồm các quyền tự do và tài sản, tự do ngôn luận và báo chí, và tự do tôn giáo, đồng thời đặt những người theo đạo Thiên chúa và những người không theo đạo Thiên chúa vào vị thế bình đẳng. Điều rất đáng lo ngại, Pius VI viết, là những ‘quyền tự do quái đản’ này lại mang lại lợi ích cho ‘những người xa lạ với Giáo hội, chẳng hạn những người ngoại đạo và người Do Thái.’ Ông tuyên bố, quyền tự do tư tưởng là ‘trái với mệnh lệnh của đấng sáng tạo’.

Giống như những tuyên bố trước đây nhằm mục đích truyền bá quyền tự do hoặc làm giảm sự đổ máu – Magna Carta, Hòa ước Augsburg, Hòa ước Westphalia – việc lên án của giáo hoàng dường như rõ ràng là sự lựa chọn duy nhất cho một người lo sợ hậu quả những quyền này sẽ tác động đến quyền hành của chính mình. Điều ông không lường trước được là việc lên án của mình  sẽ khiến ông ta trở thành kẻ thù không thể hòa giải của nền Cộng hòa, mà Chính quyền cách mạng của nó từ giờ trở đi  tìm cách phá bỏ sự thống trị chính trị và quyền lực thế tục của ông. Hơn nữa, bất kỳ khả năng hòa giải nào cũng sẽ bị mất khi chính vua Louis XVI và vợ ông là Marie-Antoinette đều bị xử tử vào tháng 1 năm 1793 vì là kẻ thù của Cách mạng.

Năm 1796, quân đội cách mạng Pháp dưới sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte trẻ tuổi đã xâm lược Ý trong một chiến dịch nghi binh trong cuộc chiến chống lại người Áo. Các nhà lãnh đạo mới của Pháp đã lên kế hoạch phế truất Giáo hoàng trong một thời gian, và lấy cớ một tướng Pháp bị sát hại, đã ra lệnh cho quân đội Pháp xâm chiếm La Mã và tuyên bố đây là một Cộng hòa, và họ đã làm được việc đó vào tháng 2 năm 1798. Hành động đầu tiên là dỡ bỏ khu Do Thái ổ chuột, đưa cho Pius VI một tối hậu thư: ông ta phải từ bỏ chủ quyền thế tuc của mình và rút lại các sắc lệnh chống lại Cách mạng nếu không sẽ bị phế truất. Ông từ chối, lập tức bị phế truất một cách hợp pháp và bị trục xuất khỏi La Mã. Khi xung đột tái diễn với người Áo trên bán đảo khiến vị thế của Pháp ở đó trở nên khó khăn, Pius VI bị đưa qua dãy Alps đến thị trấn Valence của Pháp. Ở đó, vào tháng 8 năm 1799, ở tuổi 81, người đàn ông đã cai trị Giáo hội trong một phần tư thế kỷ qua đời. Ý và phần còn lại của châu Âu đã phẫn nộ. Người đứng đầu Giáo hội Thiên chúa không chỉ bị người Pháp bắt cóc mà còn chết trong sự giam giữ của họ.

Để chuẩn bị cho mọi tình huống có thể xảy ra, Pius VI đã để lại chỉ thị cho phép các hồng y tổ chức mật nghị tại một địa điểm mà họ chọn, thay vì theo truyền thống quy định tại nơi qua đời của giáo hoàng. Với sự hỗn loạn của La Mã, Venice đã được đề xuất làm địa điểm bởi những người cai trị lúc bấy giờ là người Áo. Ở đó, sau mật nghị kéo dài sáu tháng trong đó các cường quốc châu Âu phủ quyết mọi ứng cử viên khác, Pius VII (1800-23) – một trong những hồng y trẻ nhất – đã được bổ nhiệm hợp pháp trong cuộc bầu cử giáo hoàng vừa diễn ra bên ngoài La Mã. Vương miện của giáo hoàng phải được làm bằng giấy bồi vì nguyên bản đã bị người Pháp chiếm giữ. Cuối năm đó, ông quay trở lại La Mã – bây giờ không còn là nước cộng hòa nữa. Đã hai năm rưỡi kể từ khi người tiền nhiệm ra đi.

Tháng 11 năm 1799, Napoléon nắm quyền ở Pháp. Cuộc đảo chính đã thay thế chính quyền cách mạng Đốc chính bằng một chính quyền mới – Tổng tài – trao quyền lực vào tay ông với tư cách là Tổng tài thứ nhất. Là một bậc thầy về chính trị thực tế, ông hiểu rằng những người cách mạng đã quá nhiệt tình trong việc cố gắng tiêu diệt Giáo hội ở Pháp khi rất nhiều người Pháp vẫn là người theo đạo Thiên chúa. Giống như Constantine 1 và Joseph II trước ông, ông nhận ra rằng việc cho phép những người Cơ đốc thực hành đức tin của họ sẽ chỉ củng cố nhà nước. Nó cũng sẽ làm giảm nguy cơ nổi loạn ở các nước cộng hòa mới áp đảo của Ý, làm tăng sự nổi tiếng của ông và làm suy yếu sự ủng hộ dành cho các đối thủ chủ yếu là người theo chủ nghĩa bảo hoàng và Thiên chúa giáo của ông. Do đó, ông đã lên kế hoạch thiết lập mối quan hệ mới với Giáo hội, tất nhiên phải hiểu biết rằng các giáo sĩ sẽ tuân phục nhà nước.

Đến năm 1801, Napoléon và Pius VII đã đồng ý về một hiệp ước chính thức tái lập Giáo hội Thiên chúa giáo ở Pháp. Trong khi thỏa thuận công nhận Thiên chúa giáo là tôn giáo của đa số người dân Pháp, Giáo hội không thể đàm phán bất kỳ nhượng bộ đáng kể nào khác. Tài sản của Giáo hội đã bị tịch thu sẽ không được trả lại, và Tổng tài thứ nhất (trong trường hợp này là chính Napoléon) sau đó sẽ đề cử các giám mục, những người sẽ phải cam kết trung thành với nhà nước trước khi được giáo hoàng thánh hiến.

Năm 1804, Napoléon mời Pius VII xức dầu cho ông ở Paris thụ phong hoàng đế nước Pháp. Việc được giáo hoàng tham dự rõ ràng mang lại lợi ích cho Napoléon, nhưng đối với Pius VII thì những lợi ích lại kém rõ ràng hơn. Việc chấp nhận lời mời chắc chắn sẽ xúc phạm người Áo, những người vẫn đang đấu tranh cách mạng trên cả cơ sở dân tộc và tôn giáo, đồng thời cũng đã đứng ra  bảo vệ mật nghị bầu ra ông. Mặt khác, người Pháp đã xâm lược Lãnh thổ Giáo hoàng và giết chết một giáo hoàng. Tấn phong thay vì lên án những hành động như vậy có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến uy tín của Giáo hoàng. Tuy nhiên, việc đáp ứng yêu cầu của Napoléon có thể cho phép Pius VII đàm phán để có thêm quyền tự trị cho Giáo hội ở Pháp, hoặc thậm chí nâng Thiên chúa giáo lên thành quốc giáo. Hơn nữa, việc tham gia vào một buổi lễ công khai như vậy sẽ chứng tỏ tầm quan trọng của Thiên chúa giáo đối với người dân Pháp đồng thời nhận được thiện chí của hoàng đế. Cuối cùng, Pius đã thực hiện cuộc hành trình đến Paris, nhưng không thương lượng được bất kỳ lợi ích nào cho Giáo hội..Quyết tâm chứng minh rằng mình không lệ thuộc vào ai, chính tay Napoléon đã đội vương miện lên đầu mình, sau đó đội lên đầu vợ ông, Josephine.

Năm sau, Cộng hòa Ý tồn tại trong thời gian ngắn kết thúc khi Napoléon tự xưng là Vua nước Ý, đồng thời tuyên bố anh trai mình, Joseph, Vua của Naples. Điều khiến Giáo hoàng lo ngại là Bộ luật Dân sự Pháp – cho phép ly hôn và đảm bảo quyền tự do tôn giáo – sau đó đã được đưa vào bán đảo. Ngay sau khi ký hiệp ước với người Pháp vào năm 1801, Pius VII đã ký một thỏa thuận tương tự với Cộng hòa Ý hiện không còn tồn tại, trong đó Thiên chúa giáo đã được công nhận là tôn giáo của nhà nước. Bây giờ ngay cả điều này đã được gỡ bỏ. Tuy điều này quả là bực mình, nhưng nỗi lo sợ chính của La Mã là việc Napoléon mở rộng quyền lực chính trị của mình trên bán đảo Ý có thể đẩy nhanh sự kết thúc của chính mình.

*

Nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của Pius VII đã thành hiện thực khi quân đội Pháp chiếm cảng Ancona của Adriatic, và sau đó yêu cầu các Nhà nước Giáo hoàng phong tỏa các cảng của chính họ để chống lại kẻ thù của Pháp. Pius phàn nàn một cách cay đắng, đe dọa cắt đứt quan hệ, sau đó đã xảy ra một cuộc trao đổi thư từ nặng lời: ‘Toàn bộ nước Ý phải tuân theo luật pháp của tôi’, Napoléon nói trong một bức thư gửi Pius VII vào tháng 2 năm 1806. ‘Tôi sẽ không can thiệp vào sự độc lập của Tòa thánh … nhưng với điều kiện là Đức Thánh Cha sẽ dành cho tôi trong lĩnh vực thế tục sự tôn trọng giống như tôi dành cho Ngài về mặt tâm linh.’ Để có biện pháp tốt, ông nói thêm, ‘Đức ngài có chủ quyền ở La Mã nhưng tôi là hoàng đế. Kẻ thù của tôi chắc chắn là của ngài” Pius trả lời rằng việc phong tỏa các cảng của ông chống lại kẻ thù của Pháp sẽ là một hành động chiến tranh vô lương tâm đối với Người Đại diện của Hòa bình. ‘Ngài vô cùng vĩ đại,’ giáo hoàng nói, ‘nhưng ngài đã được bầu, đăng quang và công nhận là hoàng đế của Pháp chứ không phải của La Mã.’

Một lần nữa, Napoléon vô cùng tức giận khi bị thách thức theo cách như vậy. Nếu giáo hoàng không cẩn thận, ông nói với đại sứ của mình ở La Mã rằng ông sẽ hạ y xuống.như tình trạng của những người tiền nhiệm trước Charlemagne. Do nhu cầu quân đội của ông ta phải có mặt tại những nơi khác ở châu Âu và vụ bê bối xảy ra sau cuộc chiếm đóng quân sự ở La Mã đã ngăn cản Napoléon xâm lược Cộng hòa La Mã. Nhưng ý tưởng đó chưa bao giờ rời xa tâm trí ông.

Sau khi đánh bại người Phổ (1806) và người Nga (1807) và giải thể Đế chế La Mã Thần thánh (1806) sau khoảng mười thế kỷ tồn tại, suy nghĩ của ông quay trở lại La Mã. Quyết tâm khẳng định quyền lực của mình trước một vị giáo hoàng thách thức, ông đã ra lệnh chiếm đóng thành phố. Pius VII đáp trả việc Pháp chiếm đóng La Mã vào tháng 2 năm 1808 bằng cách nhốt mình trong Cung điện Quirinal, và từ chối rời đi trong khi quân đội nước ngoài chiếm giữ thủ đô của mình. Ông ta vẫn ở đó, bất chấp nhiều kế hoạch nhằm loại bỏ mình. Vào tháng 5 năm 1809, Napoléon cuối cùng đã ban hành một sắc lệnh đế quốc sáp nhập những vùng lãnh thổ vẫn nằm dưới sự kiểm soát của các Nhà nước Giáo hoàng vào Đế quốc Pháp. Giáo hoàng được phép tiếp tục làm Giám mục La Mã với mức lương hàng năm là hai triệu franc, như vậy sau một nghìn năm, quyền lực thế tục của giáo hoàng đã chấm dứt. Người Pháp hiện đã nắm quyền kiểm soát toàn bộ bán đảo Ý, khiến người Ý và cả Giáo hoàng thực sự thất vọng.

Pius VII đã đáp trả việc chiếm giữ các Lãnh thổ của Giáo hoàng bằng cách ban hành một bản án rút phép thông công chính thức đối với tất cả những ai đã tham gia vào hoạt động này, kể cả những người đã ra lệnh. Napoléon không được nêu tên, nhưng hàm ý rất rõ ràng. Viết cho vị vua mới được bổ nhiệm của Naples, ông ta gọi Pius VII là kẻ điên cuồng, kẻ phải bị trừng phạt: ‘Philip the Fair đã bắt giữ Boniface VIII, và Charles V giữ Clement VII trong tù; trong khi họ đã làm ít hơn nhiều để xứng đáng bị trừng phạt vì điều đó.  Mùa hè năm đó quân Pháp tràn vào Điện Quirinal và bắt giữ Pius VII như họ đã bắt giữ người tiền nhiệm của ông.

Napoléon quả quyết là mình vô cùng tức giận khi nghe tin giáo hoàng đã bị bắt. Ông chưa bao giờ có ý định bắt giữ ông, ông nói, ông chỉ muốn xả hơi thôi. Đó là một phản ứng thiếu trung thực, vì giáo hoàng đã không được thả ra. Ngược lại, Pius VII cuối cùng đã bị giam cầm ba năm trong thị trấn cảng Savona,  không xa Genoa ở phía tây bắc nước Ý. Việc giữ ông ta ở đó để tránh rắc rối là điều thích hợp – và bên ngoài nước Pháp – trong khi ông tiếp tục chiến đấu vì quyền bá chủ châu Âu. Trong khi đó, La Mã được tuyên bố là thành phố thứ hai của đế chế. Tòa án dị giáo đã đóng cửa, các tác phẩm nghệ thuật bị tịch thu và Bộ Luật Dân sự  Pháp được đưa ban bố. Ở Pháp việc giải tán quyền lực thế tục của Giáo hoàng được thể hiện như một cuộc cải cách đã trễ hạn từ lâu, nhưng ở Châu Âu theo Thiên chúa giáo, điều đó chỉ khiến quân đội Đồng minh phải chiến đấu quyết liệt hơn.

Bất chấp áp lực từ Pháp, Pius VII vẫn ẩn náu ở Savona và từ chối tấn phong các giám mục do Napoléon đề cử. Điều này không chỉ khiến Napoléon tức giận mà còn đe dọa Giáo hội rạn nứt. Muốn tránh điều này, Napoléon quyết định đích thân đối đầu với giáo hoàng. Tháng 6 năm 1812, dưới màn đêm bao phủ, Pius VII ăn mặc như một linh mục đơn giản và di chuyển bằng xe ngựa đến Cung điện Fontainebleau – dinh thự mùa hè trước đây của vua Pháp ở ngoại ô Paris để chờ Napoléon từ Nga trở về. Cuối cùng hai người gặp nhau vào tháng 1 năm 1813 và Napoléon thuyết phục Giáo hoàng ký một dự thảo hiệp định mới giữa Pháp và Giáo hội Công giáo, nhượng lại quyền phủ quyết việc bổ nhiệm các giám mục và các vấn đề khác cho nhà nước Pháp. Pius VII đã ký thỏa thuận vì nghĩ rằng đó chỉ là một đề xuất để thảo luận trong tương lai, nhưng Napoléon đã nhanh chóng công bố nó. Hai tháng sau, sau khi được phép tham khảo ý kiến ​​của các hồng y, Pius VII đã rút lại sự đồng ý của mình, nói rằng sự yếu đuối của con người đã thúc đẩy ngài ký kết. Các ủy viên hội đồng của Napoléon khuyên hoàng đế nên đoạn tuyệt với tòa thánh La Mã và tuyên bố mình là Người đứng đầu Giáo hội như Henry VIII đã làm trước đây, nhưng ông từ chối, cho rằng làm như vậy ‘sẽ là phá vỡ cửa sổ của chính chúng ta’.

Mặc dù đã buộc Pius VII phải đồng ý với bản dự thảo hiệp định, nhưng thất bại của Napoléon ở Nga đã khiến địa vị của ông bị suy yếu nghiêm trọng. Để tránh việc giáo hoàng được giải cứu bởi các đồng minh đang tiến vào – điều ắt sẽ mang lại cho họ một thắng lợi to lớn trong quan hệ công chúng – Napoléon đã ra lệnh đưa Pius VII trở về Savona, nơi ông ta được thả ra hai tháng sau đó.

Đám rước của ông kéo dài và hân hoan, và sau 5 năm vắng bóng, sự chào đón ông ở La Mã vào tháng 5 năm 1814 giống như sự chào đón của một vị vua trở về: cỗ xe của ông được kéo vào thành phố không phải bằng ngựa mà bởi 30 người đàn ông từ những gia đình La Mã danh giá nhất.

Bình luận về bài viết này