
Christopher Lascelles
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG 12 : Dị Giáo
“Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-si, là những kẻ giả hình! Các ngươi giống như mồ mả tô trắng, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và mọi thứ ô uế. Cũng như vậy, các ngươi có vẻ là người công chính nhưng bên trong thì toàn là giả hình và gian ác”.
Ma-thi-ơ, 23:27-28
Công đồng Lateran thứ ba có lẽ được biết đến nhiều hơn vì đã đồng ý nguyền rủa tất cả ‘những kẻ dị giáo’, trục xuất họ khỏi Giáo hội hoàn toàn là một hình phạt còn tệ hơn nhiều so với vạ tuyệt thông, mặc dù cấm hiệp thông, nhưng vẫn cho phép trở thành thành viên của Giáo hội. Hội đồng đã nói rất rõ ràng rằng bất cứ ai cố gắng bảo vệ những kẻ dị giáo sẽ phải chịu chung số phận. Theo định nghĩa của Giáo hội, dị giáo có thể kéo theo bất cứ điều gì từ việc không đồng ý với các nguyên lý cơ bản của đức tin Công giáo do La Mã đề xuất, đến việc từ bỏ của cải vật chất và rao giảng mà không được đào tạo thần học chính thức.
Bên cạnh những người có tiếng nói công khai và thẳng thắn như Arnold de Brescia là những người đã sử dụng những vũ khí châm biếm sắc bén hơn chống lại thói tham nhũng trắng trợn của Giáo hội. Ví dụ, ‘Chuyên luận về Garcia ở Toledo’ vào thế kỷ 11 kể lại chuyến viếng thăm được cho là của Tổng giám mục Toledo tới triều đình của Giáo hoàng Urban II. Các giáo sĩ La Mã thể hiện lòng sùng kính lớn lao đối với thánh tích của các Thánh Albinus và Rufinus do tổng giám mục mang đến. Tuy nhiên, Albinus sớm được tiết lộ là bạc và Rufinus là vàng. Theo mạch văn tương tự, ‘Phúc âm theo đồng Mark bạc’ của thế kỷ 12, một tác phẩm nhại theo phong cách của các phúc âm, nói rằng: ‘Vì ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng nên nhận quà, như ta đã nhận,” và “Phúc thay những kẻ giàu có, vì giáo triều La Mã là của họ.”
Nguyên tác trong Phúc âm Mark:
“Vì Ta đã làm gương cho các ngươi, để các ngươi cũng làm như ta đã làm cho các ngươi”
“Phúc thay những kẻ nghèo khó, vì nước Trời là của họ.”
Năm 1184, người kế vị của Alexander, Lucius III (1181-85) lớn tuổi, gặp Frederick I tại Hội đồng Verona. Trong số những vấn đề khác cần thảo luận là sự cần thiết phải nhất trí về một cơ chế thực thi nghị quyết của Công đồng Lateran thứ ba về những kẻ dị giáo. Mặc dù Frederick I có nhiều bất đồng với với giáo hoàng, ông thực chất là một người Thiên chúa giáo trung thành và là một người độc đoán, đồng thời chia sẻ mối quan tâm của giáo hoàng về các mối đe dọa đến quyền lực của họ. Về điểm này, họ hoàn toàn đồng ý: bất kỳ thách thức nào đối với Giáo hội hoặc nhà nước cho dù là dị giáo, nổi loạn chính trị, đồng tính luyến ái hay bất kỳ ‘sự lệch lạc’ nào khác đều phải bị đàn áp bằng vũ lực. Đáng buồn thay, ‘thế kỷ 12 không phải là lần cuối cùng trong lịch sử châu Âu khi các nhân vật chính trị hàng đầu phải đối mặt với những biểu hiện của sự thay đổi xã hội ngoài tầm hiểu biết của họ và gán cho chúng là âm mưu của các tổ chức lật đổ lén lút.
Khi kết thúc hội đồng, Lucius III và Frederick I đã ban hành một tuyên bố chung của giáo hoàng và hoàng gia chống lại tà giáo. Từ giờ trở đi, Giáo hội và các thế lực thế tục sẽ cùng hợp tác để trục xuất những kẻ dị giáo. Frederick I ra lệnh rằng những kẻ dị giáo sẽ bị trục xuất khỏi đế chế, trong khi Lucius ban hành sắc lệnh Ad abolendam diversam haeresium pravitatem (Để xóa bỏ các dị giáo ác tính đa dạng), còn biết dưới tên Ad abolendam, để lên án tất cả các giáo phái dị giáo. Những người này bao gồm phe theo chủ nghĩa Arnold, rao giảng chống lại phép rửa và Bí tích Thánh Thể; Humiliati, rao giảng mà không cần được giáo hoàng cho phép; và phái Waldense, những người xiển dương lối sống nghèo khó như các tông đồ và truyền bá Phúc âm. Thánh Francis xứ Assisi (Phanxicô Assisi), vị thánh nổi tiếng đó, cũng tin rằng ông được kêu gọi để đưa giáo hội trở về cội nguồn, và về nhiều mặt, những gì ông giảng dạy không khác gì các giáo phái dị giáo. Điểm khác biệt duy nhất là Thánh Phanxicô đã thề trung thành với giáo hoàng. Nếu không, rất có thể các tu sĩ dòng Phanxicô đã đi theo con đường bị bức hại như các giáo phái dị giáo khác.
Việc đặt tên cho các nhóm dị giáo là quan trọng, vì ‘bằng cách đặt những cái tên hiện đại cho dị giáo…dị giáo đã biến đổi từ một mối nguy hiểm chung chung nhưng vô định hình thành một mối đe dọa cụ thể và phổ quát, đòi hỏi phải có biện pháp kỷ luật liên tục.’ Bất kỳ sự bất đồng chính kiến nào giờ đây đều có thể được quy cho tà giáo một cách thuận tiện, và trong khi ‘Tòa Dị giáo’ của giáo hoàng chỉ được chính thức đưa ra cho đến năm 1231, hạt giống của nó đã được gieo ở Ad abolendam.
Các tòa án giáo hội sẽ xét xử những kẻ dị giáo trước khi giao họ cho chính quyền thế tục để trừng phạt, điều này có thể dẫn đến tịch thu tài sản, trục xuất hoặc thậm chí hành quyết. Nên những người dị giáo cố gắng trốn tránh những kẻ bắt bớ họ, các giám mục được lệnh truy tìm họ trong giáo đoàn của mình, và những người hàng xóm được khuyến khích tố giác họ với chính quyền. Họ đã quên rằng chính Jesus đã bị chính quyền tôn giáo bắt giữ vì tội dị giáo và giao cho một thế lực thế tục để hành quyết.
Trước thời điểm này, hoạt động dị giáo về cơ bản chỉ giới hạn ở những người bên trong Giáo hội chứ không phải bên ngoài Giáo hội. Dị giáo lớn cuối cùng là phái Arianism, và rất ít kẻ dị giáo đã bị xử tử kể từ cuối thời kỳ Đế chế La Mã.ở phương Tây. Vậy thì, những nhóm tranh chấp quyền lực của Giáo hội này đột nhiên xuất hiện từ đâu?
Trước giữa thế kỷ 12, Giáo hội đơn giản là không có đủ điều kiện để lãnh đạo một chiến dịch chuyên biệt chống lại dị giáo. Điều này do sự thiếu năng lượng nhưng cũng do thiếu các quy tắc và quy định về cách đối phó với những kẻ dị giáo. Tình hình này đã thay đổi vào khoảng năm 1140, khi một tu sĩ dòng Benedict là Gratian tập hợp một danh sách tất cả các văn bản liên quan đến kỷ luật và quy định của Giáo hội mà ông có thể tìm thấy trong bộ biên soạn có hệ thống đầu tiên của giáo luật. Gratian’s Decretum, như tên gọi của bộ sưu tập này, đã giúp loại bỏ những mâu thuẫn, và quan trọng là cung cấp nhiều văn bản tham khảo có hệ thống với các tiêu chuẩn được hệ thống hóa nhờ đó các giáo sĩ có thể xét xử tội dị giáo. Đồng thời, những tiến bộ trong việc phát triển bộ máy quan liêu của Giáo hội đã cho phép tổ chức và lưu giữ hồ sơ tốt hơn. Do đó, các giáo sĩ có thể vừa đọc thuộc lòng luật của Giáo hội vừa thực hiện các hành động cần thiết để đảm bảo rằng chúng được tuân thủ.
Trớ trêu thay, sự tham nhũng của chính Giáo hội và tính thế tục đã đóng vai trò là động lực chính cho sự phát triển của tà giáo, vì nhiều người không còn cảm thấy bị ràng buộc vào một thể chế rõ ràng là quá vụ lợi. Việc các giáo hoàng cải cách đã trao quyền cho giáo dân phê phán các linh mục chẳng giúp ích gì cho Giáo hội. Ở những vùng khác nhau ở Châu Âu, những nhóm nhỏ Cơ đốc nhân đã cho đi tài sản của mình, chấp nhận cuộc sống nghèo khó và rời bỏ nhà cửa để rao giảng phúc âm. Mặc dù những hành động này có thể phù hợp với các điều răn của Tân Ước nhưng chúng tương phản với các lối sống thoải mái, và trong một số trường hợp sang trọng của nhiều giám mục. Không dám so sánh quá bất lợi cho mình, La Mã chỉ nói rõ rằng thẩm quyền rao giảng phúc âm chỉ thuộc về Giáo hội và rằng bất kỳ ai khác làm như vậy là dị giáo.
Tương tự như vậy, một hậu quả không lường trước được của các cuộc thập tự chinh là làn sóng tín ngưỡng tôn giáo phi chính thống do quân thập tự trở về từ phương Đông mang về. Một trong những niềm tin này, không khác gì những niềm tin của Ngộ giáo trong quá khứ, là niềm tin nhị nguyên vào một vị thần ‘tốt’ của thế giới tâm linh và một vị thần ‘ác’ của thế giới vật chất. Các tín đồ của nó – được gọi là Cathar, tự coi mình là Cơ đốc nhân nhưng lại có niềm tin mâu thuẫn với các học thuyết quan trọng của Thiên Chúa giáo. Đối với họ, Chúa Kitô không phải là thần thánh, mà chỉ đơn thuần là một thiên thần được thần tốt gửi đến trái đất với thông điệp cứu rỗi: sự sống vĩnh cửu chỉ có thể đạt được khi con người giải thoát linh hồn khỏi thể xác xấu xa, do đó phục hồi bản thân để hiệp thông. với chúa tốt lành.
Những niềm tin này tìm thấy mảnh đất rất màu mỡ ở vùng Languedoc miền nam nước Pháp và một phần của miền bắc nước Ý trong số cả người nghèo và người giàu. Nhưng còn có một mặt trần tục hơn trong tà giáo của họ: họ từ chối nộp thuế thập phân cho Giáo hội, và sự thành công của họ trong việc cải đạo những người Thiẻn giáo (bao gồm cả giáo sĩ) đã khiến thu nhập của La Mã bị giảm sút. Do đó, chúng là một cái gai đối với Giáo hội cần phải được nhổ bỏ, ngay cả khi quá trình này.đòi hỏi phải đổ một ít máu.
Tiến trình đàn áp dị giáo ban đầu diễn ra chậm chạp vì có nhiều người phản đối các biện pháp chống dị giáo và rất ít thành phố thực thi chúng thường xuyên. Hơn nữa, những người kế vị ngay sau Lucius còn có những mối lo ngại khác: Urban III (1185–87) luôn xung đột với Frederick I, trong khi Gregory VIII (1187) qua đời sau hai tháng tại vị, và thậm chí cả hai đều không thể đặt chân đến La Mã. Triều đại của Clement III (1187-91) bị thống trị bởi các cuộc thập tự chinh, trong khi Celestine III (1191-98), qua đời ở tuổi 92, bận tâm đến việc duy trì sự cân bằng quyền lực. Tuy nhiên, khi một giáo hoàng cuối cùng có thể tập trung vào việc tiêu trừ tà giáo, thì đó sẽ là một quyết tâm vừa tàn nhẫn v đáng sợ.