
Chân dung Nguyễn Văn Tố và bài viết của ông trên tập san Bulletin de la Société de l’enseignement mutuel au Tonkin, tome XVII, 1937 (tr. 25-67).
Trần Thanh Ái
2.3. Về các công trình biên soạn lịch sử
Theo liệt kê của Nguyễn Văn Tố, các công trình sử học của Trương Vĩnh Ký gồm có bộ Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine [Giáo trình Lịch sử nước An Nam dùng trong trường học ở Nam kỳ lục tỉnh] (năm 1875 & 1877), Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs [Những ký ức lịch sử về Saigon và các vùng lân cận] (1885, 30 tr.), Ước-lược truyện-tích nước Annam (1887, 31 tr.), “Oraison funèbre cochinchinoise prononcée par le général Nguyễn-Phước dans un repas anniversaire fait en l’honneur des soldats tués dans une expédition qu’il dirigeait en personne” [Điếu văn do tướng Nguyễn Phước đọc trong lễ giỗ những binh sĩ hy sinh trong một chiến dịch do chính ông chỉ huy] (1865). Ngoài ra, Nguyễn Văn Tố cũng thấy cần thêm vào các tài liệu sau đây, dù không liên quan trực tiếp đến lịch sử: “Notice sur le royaume de Khmer ou de Kambodje”, Dư đồ thuyết lược – Précis de Géographie (1887, 115 tr.), Petit Cours de Géographie de la Basse-Cochinchine [Tiểu giáo trình địa lý Nam kỳ lục tỉnh] (1875, 50 tr.)(1). Tuy nhiên, ông đã dành nhiều trang trong bài viết của mình để nhận xét về bộ Cours d’histoire annamite.
Bộ sách lịch sử này gồm 2 quyển, quyển 1 (1875) dày 184 trang, quyển 2 (1877) dày 274 trang. Tuy tên gọi là Giáo trình, nhưng nó có một giá trị đặc biệt, xứng đáng là một bộ thông sử: nó vượt lên trên khuôn khổ mọi sách giáo khoa bậc phổ thông do đã giới thiệu trọn vẹn lịch sử của dân tộc qua suốt chiều dài của lịch sử Việt Nam(2). Nhưng đặc biệt nhất, nó được biên soạn theo phương pháp hoàn toàn mới so với những bộ sử trước đó. Nhận xét về bộ sử này, viện sĩ Viện Hàn Lâm Pháp, ông E. Renan với tư cách là chủ tịch Hội Á châu, đã viết trong báo cáo hoạt động thường niên năm 1880 như sau:
“Ông Trương Vĩnh Ký đã cho chúng ta thấy rất rõ ràng người An Nam nghĩ gì về lịch sử của họ. Mọi người rất bất ngờ khi tìm thấy trong quyển sách nhỏ này một tư duy rạch ròi, một tinh thần công tâm không thiên vị, là những thứ không có chút gì là châu Á. Nhiều nước châu Âu không có được một quyển sách giản yếu tốt như sách của Ông Trương Vĩnh Ký”(3) (Renan E. 1880, tr. 73).
Nguyễn Văn Tố đã chỉ ra giá trị to lớn của bộ sách một cách cụ thể hơn: Trương Vĩnh Ký đã biên soạn dựa trên những tài liệu lịch sử có độ tin cậy cao như các biên niên sử, chứ không sử dụng những tài liệu mà Nguyễn Văn Tố gọi là “thông tin giả” (pseudo-informations) đầy rẫy trong các tài liệu Trung Hoa. Chính vì thế mà sách của Trương Vĩnh Ký hoàn toàn xứng đáng trở thành tài liệu tham khảo không thể thiếu được thời bấy giờ, mặc dù chỉ là một giáo trình dùng trong nhà trường:
“Từ khi Pháp chiếm Nam Kỳ, mọi sách lịch sử viết về xứ An Nam đều căn cứ trên Gia Định thông chí và những tài liệu kém giá trị hơn. Đã đến lúc trí tuệ uyên bác của vị học giả Nam Kỳ này thay thế các sách cũ ấy, một mặt nó loại bỏ tất cả mớ tạp nham giả thông tin mượn từ các văn bản Trung Hoa, mặt khác nó dành một vị trí xứng đáng cho những cứ liệu thật chính xác và thật phong phú do các biên niên sử An Nam cung cấp. Nhiệm vụ thật khó khăn, bởi người ta không thể cùng một lúc vừa là nhà Hán học, vừa là nhà văn khắc học và nhà luật học cùng trình độ. Petrus Ký đã thực hiện nhiệm vụ này một cách dũng cảm và có thể nói tổng quát rằng ông đã kết thúc trong vinh quang. Cuốn Cours d’histoire annamite của ông trước hết có ưu điểm lớn là được cấu trúc và viết rất tốt. Chắc hẳn là văn phong không được mượt mà đáng yêu như các tác giả Pháp, nhưng nó lại có sự chững chạc và một bộ khung vững chắc hơn. (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 48)
Công trình này như một luồng gió mới đem lại tinh thần khách quan khoa học trong việc biên soạn lịch sử, vì nó dựa chủ yếu trên chứng cứ các loại, chứ không xem nặng những giai thoại được truyền miệng từ đời này sang đời khác, hay những truyện kể nhằm mục đích nêu gương cho đời sau:
“Một nét đặc biệt của cuốn lịch sử An Nam này là phần giai thoại gồm những chuyện lạ hay chuyện giáo huấn bị thu hẹp lại, gần như là bị hy sinh có chủ ý; bù lại, có những chương dài và đặc sắc, hoàn toàn dựa trên các tư liệu văn khắc và pháp lý liên quan đến các cuộc chiến tranh với Trung Hoa và Champa, đến việc biến các nước Champa và Cămpuchia thành các đô thị An Nam, v.v. Toàn bộ bức tranh của Đông Dương, từ các thiết chế của nó đến thực trạng kinh tế xã hội, được vẽ ra bằng một bàn tay bậc thầy và sẽ còn là công trình mẫu mực(4) cho những nhà biên soạn tài liệu khai thác. Petrus Ký đang đứng trên một thực địa từ lâu đã quen thuộc với ông và là nơi mà năng lực cá nhân của ông cho phép ông tận dụng các văn bản và các tư liệu Trung Hoa mà không đánh mất sự độc lập trong phán xét của mình.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 49)
Nguyễn Văn Tố cũng chỉ cho người đọc biết cách làm việc của Trương Vĩnh Ký như thế nào để có được kết quả như thế:
“Nội dung chủ yếu của nghiên cứu của Petrus Ký là phân tích rất chi tiết các ghi chép của các sử quan, những người chứng kiến tận mắt các biến cố. Nguyên bản chữ Hán (Khâm định Việt sử thông giám cương mục(5), Đại Việt sử ký toàn thư, v.v.) gồm nhiều trăm tập đầy dẫy các tên riêng và các chi tiết lạ lẫm. Petrus Ký đã kiên trì lần giở hết tờ này đến tờ khác cái kho tàng dữ liệu lịch sử ấy, rồi bổ sung thêm bằng những thông tin rút từ các nguồn châu Âu.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 50, n.1)
Nguyễn Văn Tố đã dành nhiều lời lẽ tốt đẹp để nói về nhiều trang sử trong giáo trình của Trương Vĩnh Ký, đặc biệt là ông đã ca ngợi cách nhìn nhận của Trương Vĩnh Ký về vai trò của quần chúng bị áp bức, là những người gìn giữ kho tàng của dân tộc và chính họ cũng là những người sẽ phục hưng đất nước. Nguyễn Văn Tố gọi đó là lịch sử của xã hội, của phong tục, của văn chương, của tư tưởng:
“Petrus Ký thuật lại các biến cố của ‘cuộc kháng chiến giành độc lập’ với một sự rõ ràng hai lần đáng ca ngợi về một chủ đề rất đỗi rối rắm, ông cung cấp cho độc giả tất cả các yếu tố của một nghiên cứu có cơ sở và lập luận về ‘cuộc kháng chiến mười năm’ ấy. Thời kỳ suy vong, rồi đến thời kỳ dân tộc thức tỉnh, có thể là thời kỳ đáng quan tâm nhất của lịch sử An Nam thời trung cổ, chắc chắn đó là thời kỳ khó biên soạn nhất. Không thể giới hạn trong các sự kiện quân sự: như bị mất đầu não bởi cách ứng phó của nhà Hồ, dân tộc An Nam đã bị xóa tên khỏi thế giới loài người trong hai mươi năm. Tuy nhiên, chính quần chúng bị áp bức, những người gìn giữ vô thức một kho tàng quý báu, chính những người thợ của công cuộc phục hưng văn học mà ta phải biết để hiểu được nước An Nam đích thực ngày ấy và hôm nay: đó chính là lịch sử của xã hội, của phong tục, của văn chương, của tư tưởng mà nhà nghiên cứu cần phải lĩnh hội và trình bày ra. Petrus Ký đã hoàn thành một cách xuất sắc nhiệm vụ ấy, qua đó ông cho thấy tính chất phổ quát của các thông tin đã tạo nên uy tín cho ông. Cách trình bày của cuốn sách tuy đầy ắp tư liệu nhưng rất sáng sủa, hầu như luôn luôn giản dị, linh hoạt, sôi nổi. Petrus Ký sinh ra là dành cho lịch sử sống động; những tham vọng của khuynh hướng viết lịch sử được mệnh danh là khoa học không thể áp đặt ông; ông dành cho trí tưởng tượng một vai trò và trao quyền cho nó. Ông bị hấp dẫn bởi việc phát họa chân dung nhân vật, bức tranh lịch sử, bởi việc phân tích tâm lý, và điều đó là vì lợi ích của người đọc.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 51)
Như để minh họa cho nhận xét trên, Nguyễn Văn Tố đã cho người đọc thấy bức tranh sống động của đầu thế kỷ XV khi Trung Hoa xâm lấn đất nước ta: Trương Vĩnh Ký viết về cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh mà không hề giấu diếm sự ngưỡng mộ đối với Lê Lợi và lòng tự hào của người dân Đại Việt. Trong bài biên khảo của mình, Nguyễn Văn Tố đã trích dẫn nhiều trang sử oai hùng ấy (Trương Vĩnh Ký 1875, tr. 157-160), như thể là để minh họa cho sự đặc sắc của bộ sử này, và chắc chắn là cũng để thể hiện sự đồng cảm của ông đối với tác giả:
“Tuy nhiên, dù cho người Trung Hoa có làm gì đi chăng nữa để chinh phục tinh thần của nhân dân và đè nén những bất bình ngày càng gay gắt, giờ của các cuộc chiến đấu mới đã điểm. Một trong những người An Nam vốn gắn bó với triều đình cũ, một trong số những người được kính trọng nhất vì các phẩm chất cá nhân của mình, sau khi đã từ chối các thứ ban phát của người Tàu, bèn rút lui vào núi Lam Sơn, chiêu tập về cùng mình những kẻ thù của nền đô hộ Trung Hoa. Người ấy tên là Lê Lợi.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 51)
Hoặc khi Trương Vĩnh Ký nói về giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đầy khó khăn gian khổ khi đương đầu với thế tiến công vũ bão của giặc, hay với các sách lược thiết lập bộ máy cai trị lâu dài trên đất nước ta, cũng như những biện pháp khai thác thuộc địa không khác gì cách mà người Pháp đang thực hiện ở Nam kỳ lục tỉnh:
“Mặc cho những biến cố đó và những mối đe dọa của một cuộc nổi dậy tiềm tàng, người Trung Hoa tưởng là từ nay đã làm chủ được đất nước này, ít ra là cũng trong một thời gian dài, nên họ tiến hành chiến tranh và chính sách thực dân hóa. Trong số những biện pháp nhằm chống lại sự hợp tác cầm chừng của người An Nam, để tiến hành thực dân hóa, họ bắt người bản xứ trồng tiêu. Mặt khác, ngay ở trong triều đình Trung Hoa, họ rất quan tâm đến tất cả những gì liên quan đến phần đất mới này của đế chế. Hai quan văn Hạ Thanh và Hạ Thời được phái sang nghiên cứu phong tục và săn lùng sách vở của xứ này và mang về những vật lạ và thú hiếm (1418)” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 52).
Hay đoạn nói về tinh thần quật khởi của người dân Việt qua việc tham gia vào nhiều cuộc nổi dậy của nhiều thủ lĩnh, thành công cũng có và thất bại cũng nhiều. Nhưng ý chí kiên cường và sự mưu lược của Lê Lợi đã khiến kẻ thù không thể thực hiện ý đồ bình định lãnh thổ bị họ chiếm đóng:
“Tuy nhiên Lê Lợi vẫn tiếp tục công cuộc kháng chiến táo bạo của mình, và mỗi ngày mỗi chiến thắng mới càng động viên quân sĩ và nâng cao uy tín của ông (…). Trước những dấu hiệu đáng lo ngại ấy, tháng sáu (năm 1420) triều đình phái vị đại quan ở Phụng Hóa là Trần Trí(6) sang phối hợp với Lý Bân trong các cuộc chinh phạt. Tuy nhiên người An Nam không ngừng chiến đấu, nhưng không đạt được ưu thế trong một thời gian. Thậm chí một người chiến sĩ khác đã nổi dậy, đó là Lê Ngã, nguyên là nô lệ của một công chúa nhà Trần, tự xưng là cháu bốn đời của Trần Duệ Tông. Ông ta lui về Lạng Sơn, nơi chỉ trong một tháng ông đã chiêu tập được 10.000 người. Ông tự xưng hoàng đế, dập đồng tiền riêng; nhưng sau vài thành công ban đầu, ông phải chịu thua các cuộc truy đuổi ráo riết của Lý Bân. Ông biến mất và tên ông không còn thấy trong các biên niên nữa. Nhưng Lê Lợi thì vẫn còn, và đó không phải là một đối thủ có thể biến mất dễ dàng như Lê Ngã. Binh lính Trung Hoa đã chiến thắng vị hoàng đế [tự xưng] kia hy vọng sẽ khuất phục được người thủ lĩnh này không quá khó khăn và xua quân về căn cứ của ông (Trương Vĩnh Ký 1875, tr. 157-160)” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 52).
Những điểm nhấn mà Nguyễn Văn Tố làm ở đây còn muốn nói lên điều gì khác nữa, nếu không phải là để chúng ta lưu ý đến bài học yêu nước của dân Đại Việt trước quân thù mà Trương Vĩnh Ký muốn gieo vào người học một cách kín đáo? Và cũng không thể không nghĩ đến đó là lời cảnh báo của Trương Vĩnh Ký đối với giới quân sự đang điều hành thuộc địa Nam kỳ lúc bấy giờ!
Và đây là đoạn khá dài mà Nguyễn Văn Tố đã trích từ phần Trương Vĩnh Ký nói về trận chiến diễn ra vào năm 1555 giữa chúa Trịnh đang đóng đô ở Thanh Hóa và nhà Mạc (Trương Vĩnh Ký 1877, tr. 70-71):
“Năm 1551, Trịnh Kiểm cho tấn công Đông kinh, kinh đô của nhà Mạc. Chiến dịch này cho thấy sức mạnh của phe ông, tuy nhiên nó chỉ có kết quả là buộc kẻ thù nằm im cho đến năm 1555. Lê Trung Tông lợi dụng đoạn nghỉ ngơi này để tổ chức một cuộc thi văn học. Nhưng tháng tám năm 1555 Mạc Phước Nguyên phái một đội quân lớn do người chú của ông ta là Mạc Kinh Điển chỉ huy vào tỉnh Thanh Hóa để tiêu diệt quân nhà Lê. Một trăm chiếc thuyền vượt biển tiến vào cửa Thần Phù, trong khi quân bộ tiến lên chiếm các vị trí trên sông Đại Lại. Trịnh Kiểm lo liệu tất cả. Ông thuyết phục dân cư sống ven sông đừng chạy trốn và bình tỉnh tiếp tục công việc của mình một cách lẵng lặng và tươi vui, như thể họ không biết gì cả; rồi ông phái một binh đoàn đến phía nam sông, giữa núi An Định và núi Quân An; còn ông thì đứng ở phía bắc giữa núi Bạch Thạch (núi đá trắng) và núi Kim Sơn (núi vàng), ở đấy ông bố trí 50 thớt voi chiến, trong khi 10 chiếc thuyền chiến lên xuống dòng sông giữa Hữu Chấp và Kim Bôi. Quân địch tiến vào sông; họ để cho chúng ngược sông bình an đến quá núi Kim Sơn. Một không khí yên bình tràn ngập trong các đoàn quân nhà Mạc; nhưng, đột nhiên, khoảng giữa trưa, khi đoàn quân đến gần núi Quân An, một phát thần công vang lên và cùng lúc các pháo đội hiện ra ở hai bờ sông và liên tục rú gầm tuôn ra một trận mưa sắt thép lên kẻ thù đang sửng sốt. Cùng lúc, các thớt voi rầm rập tiến lên, các đội quân trước đó đã ém sẵn ở từng chặng liền hội quân lại và khép chặt đường rút lui của quân địch, trong khi mười chiếc thuyền, đang ở trên cao, lao xuống hết tốc độ, và đè bẹp kẻ thù. Quân địch, gồm 10.000 người, bị tiêu diệt hầu như hoàn toàn. Mười chỉ huy đầu não bị bắt. Tuy nhiên Mạc Kính Điển chạy thoát được, và khốn đốn trở về xứ cùng với một nhúm quân của cái binh đoàn được trao nhiệm vụ tiêu diệt nhà Lê (1555)” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr.53).
Điều thú vị là chính Nguyễn Văn Tố đã nhận ra phát hiện mới mẻ này của Trương Vĩnh Ký, và cung cấp thêm thông tin liên quan đến sự kiện trên, giúp người đọc nhận ra giá trị phát hiện của Trương Vĩnh Ký:
“Trước đây, không ai biết chút gì về trận chiến này; từ nay ta biết nó ra sao, tầm quan trọng của các binh đoàn tham chiến, bản chất của vai trò của nó; trong đoạn ghi chép này, tất cả đều mới mẻ, không thừa một từ, và dường như tuyệt đối không thể nói khác hơn được; cảm giác mà ta có được khi đọc những trang này là cái cảm giác thỏa mãn không chút dè dặt.” (Nguyễn Văn Tố, 1937, tr. 53).
Nếu nhận xét này của Nguyễn Văn Tố là đúng thì rõ ràng Trương Vĩnh Kỹ đã công bố một sự thật lịch sử mà trước đó nó chỉ nằm im đâu đó trong đống tài liệu viết bằng chữ Hán Nôm. Có lẽ Nguyễn Văn Tố cũng đã nhận ra một số chi tiết không chính xác trong bộ sử này, nhưng không vì thế mà ông đánh giá thấp giá trị của nó, bởi vì thực tế cho thấy là không có công trình nào không khiếm khuyết. Thật vậy, theo thời gian, nhiều chứng cứ mới được phát hiện ra, hé lộ nhiều sự thật mới mẻ, và do đó, nhiều công trình cần phải điều chỉnh lại, khiến kiến thức luôn mang tính tạm thời: đó là đặc điểm của kiến thức lịch sử nói riêng, và của cả kiến thức nhân loại nói chung. Khi đánh giá, Nguyễn Văn Tố thể hiện một tinh thần khoa học đúng mực, ông phân biệt được đâu là hạn chế nhất thời của lĩnh vực nghiên cứu, đâu là nhược điểm của cá nhân, để chỉ ra những điểm son trong công trình của Trương Vĩnh Ký:
“Nếu một số đoạn có thể bị phê phán, nếu đôi ba nhận định cần phải được xem lại, thì những hạn chế ấy không hề làm giảm giá trị của quyển Cours [tức Cours d’Histoire annamite] một tác phẩm đồ sộ và cho đến lúc bấy giờ không có đối thủ. Những nghiên cứu mới có thể sẽ làm lung lay công trình của tác giả, nhiều tư liệu sắp tới đây sẽ được tiếp cận có lẽ sẽ thay đổi diện mạo của quyển Cours của ông. Chính Petrus Ký cũng tự ngăn ngừa mình có ảo tưởng là đã viết nên một tác phẩm hoàn chỉnh. Vì ông vừa là nhà bác học vừa là một nghệ sĩ, nên ông có hai cách hành xử. Khi cần giải quyết một vấn đề cụ thể hay đánh tan đám sương mù bất định trên một điểm nào đó, khí chất nghệ sĩ của ông chỉ thể hiện qua sự điều độ quý báu của biện pháp chứng minh. Nhưng ông cũng có sở thích về việc vẽ nên những bức phác họa tổng thể, ở đó cá tính của người thực hiện luôn lộ ra, dù anh ta có tự kìm chế mình đến đâu chăng nữa để chỉ nhắm đến việc thể hiện chính xác sự thật. Sở thích này thường rất hiếm khi cùng tồn tại với thiên tư về tính chuẩn xác khoa học nghiêm ngặt như ta thấy ở ông.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 52)
Bàn về phương pháp luận sử học của Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Tố đã chỉ cho chúng ta biết những nền tảng lý thuyết mà Trương Vĩnh Ký đã nghiên cứu, kiểm nghiệm, chọn lọc và áp dụng vào công việc biên soạn tài liệu lịch sử. Chỉ có sự tinh tế và kiến thức uyên thâm của Nguyễn Văn Tố mới phát hiện ra dụng công của học giả đầu tiên của Nam kỳ lục tỉnh:
“…về những nguyên tắc căn bản của phương pháp lịch sử, Petrus Ký tỏ ra không khoan nhượng. Dù cho vị sử gia tiên nghiệm(7), như cách gọi của ông, có tên là Guizot, Augustin Thierry hay Fustel de Coulanges(8), thì ông cũng không nhượng bộ gì hết, tuyệt đối không gì hết ngoài tài năng văn học của họ, là cái chẳng quan trọng cho lắm trong suy nghĩ của ông. Ý tưởng cho rằng các sự kiện trên thế gian này được giải thích bằng tư tưởng của một Đấng tối cao, hoặc quan niệm về sự chung sống của hai dân tộc, những người chiến thắng và những kẻ chiến bại, thể hiện qua lịch sử An Nam cho đến thế kỷ thứ X, cuối cùng thì những kẻ chiến bại vượt lên những người chiến thắng bằng cách đem lại cho xã hội An Nam những thành tố bền vững của nó, hay là cái luận đề cho rằng chẳng hề bao giờ có chuyện xâm lược của Trung Hoa, tất cả những khẳng định có hệ thống và thiếu căn cứ đó đối với ông chỉ là trò xiếc chẳng hề có chút giá trị khách quan nào.” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 54)
![]() |
![]() |
![]() |
| Cours d’histoire annamite, quyển 1 (1875) | Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs (1885) | Ước-lược truyện-tích nước Annam (1887) |
2.4. Đánh giá chung về sự nghiệp học thuật của Trương Vĩnh Ký
Dưới mắt Nguyễn Văn Tố, Trương Vĩnh Ký là người có tình yêu sâu đậm và bền bỉ đối với văn học nước nhà, và đã dành cả đời mình để sưu tập, gìn giữ và phục hồi những mất mát do thời gian và binh lửa. Chính nhờ ông khởi xướng để rồi sau đó nhiều tác giả khác tiếp tục để chúng ta có thể tiếp cận nền văn học cổ bằng chữ quốc ngữ hiện đại ngày nay:
“Toàn bộ những nghiên cứu mà Petrus Ký đeo đuổi từ thời còn rất trẻ cho đến những ngày cuối cùng của ông đều nhằm vào một đối tượng duy nhất, là nền văn học của nước An Nam xưa, mà một phần rất lớn đã bị hủy hoại, nhưng mỗi một mảnh nhỏ còn lại đều đáng được nâng niu sưu tập. Khi được một bàn tay khéo léo ghép nối lại và diễn giải, những mảnh nhỏ ấy đôi khi hé lộ vài nét biểu cảm của những vẻ đẹp đã bị đánh mất, như trong một ánh chớp thoáng qua. Tất cả những nghiên cứu ấy đều hướng về một mục đích chung, nhưng để đạt đến mục đích đó các nghiên cứu này có lúc đã phải đi bằng những con đường khác nhau. Petrus Ký đã nghiên cứu nền văn học đó trên tất cả phương diện, về ngữ pháp và âm vận cũng như trong những cảm xúc và tư tưởng mà nó diễn đạt. Đôi khi ông nghiên cứu nó như một nhà sử học khéo léo đặt con người và tác phẩm vào đúng bối cảnh nơi họ đã được sinh ra, vì ông hiểu thấu đáu diễn tiến của các sự kiện, đặc điểm của các phong tục và cơ chế hoạt động của các thiết chế, và còn như một người sành sỏi tinh tế đang say sưa thưởng thức vẻ duyên dáng của thơ Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu, của Trần Hi Tăng và Đặng Huỳnh Trung (Đặng Huy Trứ)” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 29).
Nguyễn Văn Tố còn chỉ thẳng ra rằng động lực của tình yêu văn học cổ Việt Nam của Trương Vĩnh Ký chính là lòng yêu nước cháy bỏng trong con người ông, và ông đã cống hiến cả đời mình để tôn vinh đất nước:
“Nếu được phép quay nhìn về quá khứ và rút một bài học từ cuộc đời của ông, thì trước hết đó là bài học về lòng tin ở sức mạnh và ý chí; nó chiến thắng mọi trở ngại miễn là kiên trì và quả cảm; chính nó đã giúp người học sinh trường dòng này trở thành một nhà bác học nhanh chóng đạt đến mục đích mà ông đã tự vạch ra cho mình. Điều đã trợ lực cho ông trong công việc, điều đã tạo nên hiệu quả của các nổ lực của ông cũng như sự nhất quán của cuộc đời ông, đó là lòng yêu nước cháy bỏng của ông, tình yêu của ông đối với Nam Kỳ, “người mẹ yêu quý” của ông như ông vẫn thích gọi, nhưng là tình yêu mà ông không bao giờ tách rời ra khỏi tình yêu đối với các vùng miền khác của An Nam. Ông đã cống hiến cho Nam Kỳ tất cả những gì ông có trong sức mạnh và nghị lực của mình; tham vọng tột cùng của ông là tôn vinh nó trong quá khứ anh hùng của nó, trong tất cả những người đã đem lại vinh quang cho nó bằng thanh gươm hay cây bút” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 65-66).
Nói về các công trình nghiên cứu lịch sử, Nguyễn Văn Tố cho biết ý kiến chung của giáo giới thời bấy giờ liên quan đến nội dung lịch sử trong quyển Manuel des Écoles, đồng thời cũng chỉ ra công sức và tinh thần làm việc của Trương Vĩnh Ký khi dấn thân vào khai phá “mảnh đất hoang” theo phương pháp mới:
“Họ [đội ngũ giáo viên Nam Kỳ] đều đồng thanh nhận xét rằng quyển Manuel des Écoles đã vẽ ra bức tranh bao quát nhất và khách quan nhất tính đến thời điểm ấy về lịch sử An Nam và lịch sử Trung Hoa. Người ta thán phục Petrus Ký đã tập hợp các tư liệu tản mác bằng những nỗ lực của lòng kiên trì và công lao như thế nào, đã ra sức tìm hiểu các giai đoạn khác nhau của lịch sử nước nhà bằng ý chí lớn lao hơn và hiếm hoi hơn. Đương nhiên, chúng ta có thể có ý kiến khác với ông về chi tiết này hay chi tiết khác; có thể phản bác một số phát biểu nào đó của ông, có thể có giải thích khác hơn về một số sự kiện, nhấn mạnh hơn một số nhận định đặc biệt, có thể nhận ra trong mớ khổng lồ các sự kiện một số sai lầm, một số trích dẫn không đúng, một vấn đề nào đó mà tác giả còn chưa chốt lại. Nhưng những điều đó không hề làm giảm giá trị và lợi ích không thể chối cãi của công trình. Cần nói rằng tác giả đã đối mặt với một mảnh đất hoang: ông không chỉ thám thính nó, mà ông đã thật sự khai phá nó” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 45).
Về tính trung thực trong nghiên cứu, cái mà ngày nay người ta gọi là liêm chính khoa học, Nguyễn Văn Tố chỉ rõ cho người đọc thấy phẩm chất tuyệt vời mà Trương Vĩnh Ký đã thể hiện trong hoạt động học thuật của mình, đáng để giới nghiên cứu ngày nay học hỏi:
“Không bao giờ che giấu khó khăn, không bao giờ dùng lời lẽ giả tạo để che lấp sự bất lực hay nghèo nàn của tư duy như nhiều tác giả khác, không bao giờ lờ đi hay giải thích tùy tiện bản văn gây phiền phức. Petrus Ký thà là trưng ra những sự việc có thể đi ngược lại các hệ thống của ông. Những khiếm khuyết trong thông tin của ông, ông thường nói rõ chúng ra, như khi ông biên soạn quyển Cours d’histoire annamite” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 46-47).
Ngay cả trong bài nghiên cứu nói về những bất lợi của việc thực hiện chủ trương cho dân Nam kỳ đủ điều kiện nhập quốc tịch Pháp(9), Trương Vĩnh Ký đã đứng trên góc nhìn của nhà sử học mà phân tích nhiều sự kiện lịch sử trải dài nhiều thế kỷ, để cho thấy là người Trung Hoa đã thất bại trong âm mưu đồng hóa người Việt, và qua đó gián tiếp thông báo cho người Pháp biết rằng mọi nỗ lực biến dân tộc Việt thành công dân Pháp cũng sẽ thất bại:
“Hãy dõi theo dân tộc An Nam trong lịch sử của họ. Trung Hoa, người láng giềng khủng khiếp của An Nam, sau khi sáp nhập lãnh thổ của chúng tôi, họ đã chẳng từng tìm mọi cách có thể để xóa nhòa cuộc chinh phạt của họ, rồi thay đổi quốc tịch chúng tôi đó hay sao? Và họ làm điều đó qua nhiều lượt khác nhau: từ năm 111 trước công nguyên đến năm 30 sau công nguyên, tức 149 năm, dưới thời Tây Hán; từ năm 43 đến năm 186 tức 144 năm dưới thời Đông Hán, từ năm 226 đến năm 540, tức 314 năm dưới dưới thời Ngô, Ngụy, Tấn, Tống, Tề và Lương; từ năm 603 đến năm 939, tức 336 năm, dưới thời Tùy, Đường và Lương; từ năm 1418 đến năm 1428, tức 10 năm, dưới sự đô hộ của triều Minh. Sau nhiều nổ lực, Trung Hoa đã thành công trong việc áp đặt cho chúng tôi chữ viết, văn học, tôn giáo, và luật lệ của họ; nhưng những người An Nam thua trận không bao giờ muốn đứng về phía kẻ xâm lược, cũng không thay đổi tên gọi lãnh thổ của mình. Thời Lê Chiêu Thống, các quan theo ông ta sang Tàu, không chịu cạo đầu và ăn mặc quần áo Tàu; họ chấp nhận sống lưu vong và tù ngục của nhà Thanh thay vì từ bỏ quốc tịch của mình. Như vậy tình cảm dân tộc tồn tại, và ở độ rất cao, trong tim người An Nam, và giả sử như họ có ưng thuận với việc giải thể gia đình, thì chỉ tình cảm ấy thôi vẫn sẽ dõng dạt cất tiếng để bảo họ từ bỏ chuyện nhập quốc tịch Pháp đi (Trương Vĩnh Ký, Thư từ, thủ bút, được lưu giữ ở Thư viện của Viện Viễn Đông Bác Cổ, mã số 8o 384, I).” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 56).
Có lẽ chỉ đoạn này thôi cũng đủ cho thấy rằng sự cộng tác với Pháp của Trương Vĩnh Ký không hề xuất phát từ lợi ích riêng tư để “vinh thân phì gia” như một số người đã lên án ông một cách dễ dãi, mà từ một lòng yêu nước sâu đậm được tôi luyện qua việc thấm nhuần lịch sử của dân tộc. Nhưng cần phải nhớ cho rằng trong bất cứ thời đại nào, không ai có thể áp đặt cách biểu hiện lòng yêu nước chung cho tất cả mọi người: không thể bắt Trương Vĩnh Ký phải yêu nước bằng những cách thức giống với các nho sĩ thời bấy giờ, vì mỗi người có thế mạnh riêng, có lĩnh vực chuyên sâu riêng, có tầm nhìn rộng hẹp khác nhau, và nhất là có tư duy hành động khác nhau. Trương Vĩnh Ký có được cái mà rất nhiều nho sĩ cùng thời không có: đó là tầm nhìn thế giới bao quát mà ông đã đúc kết được khi tiếp cận với nguồn kiến thức khoa học hiện đại phương Tây vô cùng phong phú ngay từ khi còn học ở Pulo Pinang, cũng như lúc đi sứ sang Pháp năm 1863. Chính tầm nhìn ấy đã giúp ông tìm ra chìa khóa mở cánh cửa hiện đại hóa đất nước, đưa dân tộc Việt thoát khỏi vòng mê muội ngàn năm; nó mách bảo ông chọn cách phục vụ dân tộc hiệu quả nhất, lại phù hợp với năng lực trí tuệ của mình, mặc dù ông thừa hiểu những chông gai, thậm chí cả những hy sinh khi đi theo con đường mà ông đã chọn. Chỉ có Nguyễn Văn Tố mới phát hiện ra những khía cạnh tinh tế ấy, hoặc chí ít, phải đợi đến Nguyễn Văn Tố mới có người chia xẻ với cộng đồng những phát hiện ấy, và đã dành những dòng chữ đầy cảm thông về cuộc đời của người đi tiên phong trên nhiều lĩnh vực khoa học:
“Thành quả trí óc đồ sộ này không nhận được sự ái mộ của công chúng. Các nhà bác học lấy đối tượng nghiên cứu là những thế giới xa xôi, những vấn đề đã xưa cũ, là những người mò mẫm nhọc nhằn với một sự chậm chạp đầy thận trọng, luôn ngăn cấm mình đưa ra những giả thuyết liều lĩnh, những ý tưởng cao siêu tuy đẹp đẽ mà lừa phỉnh, họ lặng lẽ dò dẫm đi tới, như những con kiến tầm thường trong thế giới bác học, nhặt hết hạt này đến hạt khác cái món ăn tinh thần rồi chất dồn trong các kho của họ, vậy thì với danh nghĩa gì mà họ dám đòi hỏi ơn huệ của của đám đông? Quả thực là họ thường trở thành một đề tài cợt nhã rẻ tiền cho tiểu thuyết, cho sân khấu. Những vấn đề khiến họ say mê thì lại được coi là trò vui; sự tò mò của họ thì lại khiến người đời cười mỉm; những đắn đo của họ có vẻ kỳ lạ; người ta cho rằng vì thường sống với thế giới của người xưa nên họ đã mất đi sự hiểu biết về thực tế hiện tại” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 57-58).
Nguyễn Văn Tố đã kết thúc bài viết bằng những câu hết sức sâu lắng và cảm động, để đúc kết lại những cống hiến to lớn của Trương Vĩnh Ký cho quê hương xứ sở:
“Điều chúng tôi cố gắng tìm kiếm trong bài biên khảo này, đó chính là hình ảnh và tâm hồn của con người đã cho xuất bản những cuốn sách thật đẹp đẽ về lịch sử, ngôn ngữ và văn học An Nam. Chúng tôi đã gặp lại cả con người ông, với tình yêu lao động và sự tôn thờ khoa học của ông, với thiện cảm mà ông đã dành cho những con người lương thiện, những người mà ông tìm thấy ở họ sự cao cả bẩm sinh của trái tim và đức tính tò mò tột độ của trí tuệ. Cuộc đời cần mẩn của ông quả là một cuộc đời thật đẹp. Ông đã làm vẻ vang cho ngôi làng nơi ông ra đời và cho toàn bộ xứ An Nam, và cũng đã để lại gia tài trước tác đồ sộ của ông cho đất nước” (Nguyễn Văn Tố 1937, tr. 67).
Mặc dù Nguyễn Văn Tố cũng có chỉ ra một số điểm non kém, sai lệch, nhưng có thể nói không ngoa rằng tất cả các ấn phẩm của Trương Vĩnh Ký đều nhận được những lời khen ngợi hết lời của Nguyễn Văn Tố, không như Phạm Quỳnh khi xưa. Có phải Ứng Hòe là một cây bút dễ dãi, ban phát lời khen vô tội vạ không? Xin được phép mượn lời của Vũ Ngọc Phan, tác giả bộ Nhà văn hiện đại để trả lời câu hỏi này: “Phương pháp phê bình của Nguyễn Văn Tố là một phương pháp căn cứ vào sách vở chứ không phải lối phê bình vu vơ […]. Lối phê bình của Nguyễn Văn Tố là một lối phê bình đính chính và bổ chính, tìm cái dở, cái sai nhiều hơn là tìm cái hay” (Vũ Ngọc Phan, 1960, tr. 327-328). Thật vậy, trong tất cả các bài viết của ông đăng trên Tri Tân tạp chí, như trong loạt bài “Tài liệu để đính chính những bài văn cổ” từ số 19 (tháng 10/1941) chúng ta dễ dàng nhận ra sở trường của Nguyễn Văn Tố là góp ý điều chỉnh, bổ sung, sửa sai cho những nghiên cứu khác. Chính vì thế, những lời khen ngợi mà Nguyễn Văn Tố dành cho các nghiên cứu của Trương Vĩnh Ký càng có giá trị đặc biệt hơn.
- Kết luận của bài giới thiệu
Như đã nói bên trên, bài viết của Nguyễn Văn Tố đã nhắc đến gần như tất cả các hoạt động học thuật của Trương Vĩnh Ký, mà trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ có thể điểm qua ba trong số nhiều mảng hoạt động của ông mà thôi: đó là công việc san định các văn bản cổ, sưu tầm phổ biến văn học dân gian và biên soạn tài liệu lịch sử. Những mảng khác như ngôn ngữ, giáo dục, du khảo, nghiên cứu tự nhiên… mà Nguyễn Văn Tố đã có lời nhận xét, cũng rất đáng để giới thiệu, hy vọng rằng chúng tôi sẽ có dịp đề cập đến trong một bài viết khác.
Nói như Nguyễn Văn Trung, “chỉ những người cỡ như cụ Nguyễn Văn Tố mới có khả năng phê bình Trương Vĩnh Ký về Nho học, văn học cổ Việt Nam…” (Nguyễn Văn Trung, 2015). Nhận xét này khiến chúng tôi không khỏi liên tưởng đến câu nói của nhà bác học A. Einstein: “Những người có khối óc vĩ đại luôn phải đối mặt với những chỉ trích kịch liệt từ những kẻ mang đầu óc tầm thường”. Vì thế, chúng tôi nghĩ rằng bất cứ ai muốn tìm hiểu Trương Vĩnh Ký đều cần phải nghiền ngẫm bài viết của Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, dù là để ghi nhận những điều mới mẻ, hay để bổ sung hoặc thậm chí để phản biện lại ý kiến của ông, thì mới có thể hiểu hết giá trị của những đóng góp của Trương Vĩnh Ký vào nền học thuật của nước nhà, qua đó mới thấy được ý nghĩa của những đóng góp của ông trong lịch sử văn hóa của dân tộc.
Tài liệu tham khảo
Bằng Giang, 1994. Sương mù trên tác phẩm Trương Vĩnh Ký. Hà Nội: Nxb Văn học.
Bằng Giang, 1998. Văn học quốc ngữ Nam kỳ. TP. Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
Larousse P. 1866. Grand dictionnaire universel du XIXe siècle, Vol. 1. Paris: Administration du grand Dictionnaire universel.
Nguyễn Văn Tố 1937. Petrus Ky (1837-1898). Trong tạp chí Bulletin de la Société de l’enseignement mutuel au Tonkin, số XVII (1937).
Nguyễn Văn Trung, 2015. Hồ sơ về Lục Châu học. TP Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.
Quốc sử quán, 2007. Khâm định Việt Sử Thông giám cương mục, quyển 1. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Renan E. 1880. Rapport sur les travaux du Conseil de la Société Asiatique pendant l’année 1879-1880, fait à la Séance annuelle de la Société le 30 juin 1880. Trong tạp chí Journal Asiatique, số XVI, 7e série, tháng 7 năm 1880.
Trương Vĩnh Ký 1875. Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine, 1er Volume. Saigon: Imprimerie du Gouvernement.
Trương Vĩnh Ký 1877. Cours d’histoire annamite à l’usage des écoles de la Basse-Cochinchine, 2e Volume. Saigon: Imprimerie du Gouvernement.
Trương Vĩnh Ký 1876-1977. Manuel des Écoles Primaires, 1er Volume. Saigon: Imprimerie du Gouvernement.
Vũ Ngọc Phan, 1960. Nhà văn hiện đại, Quyển 2. Sài Gòn: Nxb Thăng Long.
(1) Chúng tôi nghĩ cũng cần phải kể thêm vào phần này quyển Manuel des Ecoles primaires (1876, 364 trang) vì phần lớn sách này dành cho tóm tắt lịch sử Việt Nam.
(2) Bộ Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim xuất bản lần đầu năm 1920: quyển 1 gồm 270 trang và quyển 2 gồm 375 trang.
(3) Bằng Giang trong Văn học quốc ngữ Nam kỳ (1993, tái bản 1998) đã diễn đạt sai thành “…Theo E. Renan, học sinh của họ cũng không có được một bộ sách giáo khoa sử tốt như vậy” (bản in năm 1998 vẫn giữ nguyên, tr. 46). Tuy nhiên, trong Sương mù… (1994), ông đã trích dịch chính xác hơn.
(4) Nguyên văn: standard work.
(5) Cũng cần nhắc lại là bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục được Quốc Sử Quán triều Nguyễn biên soạn trong khoảng thời gian 1856-1884, nghĩa là hoàn thành sau khi bộ lịch sử của Trương Vĩnh Ký ra mắt.
(6) Theo Khâm định Việt Sử Thông giám cương mục, Phụng Hóa tức Thiên Trường, là nơi mà Trần Trí được cử đến trấn thủ (2007, tr. 751). Trương Vĩnh Ký (1875) viết “le grand mandarin (Phụng-hóa Trần-trí)” như thể Phụng Hóa là tên hiệu của Trần Trí, còn Nguyễn Văn Tố thì viết lại là “le grand mandarin (Phụng-hóa) Trần-Trí” như thể Phụng Hóa là từ Hán Việt tương đương với “grand mandarin” (đại quan). Nguyên Ngọc không đối chiếu với nguyên văn của Trương Vĩnh Ký, nên không phát hiện ra sai sót của cả hai bản văn, và do đó đã dịch theo bản Nguyễn Văn Tố.
(7) Nguyên văn “historien a priori”, nghĩa là sử gia thuộc trường phái sử học tiên nghiệm (histoire a priori). Từ điển Grand dictionnaire universel du XIXe siècle trích nhận xét của Gustave Planche khi nói về sử học tiên nghiệm của Guizot: “lịch sử tiên nghiệm của Guizot thường câm lặng khi phải giải thích lịch sử hậu nghiệm, nghĩa là lịch sử đích thực” (Larousse P. 1866, tr. 531).
(8) Tên của các sử gia nổi tiếng Pháp thế kỷ XIX: Franҫois Guizot (1787-1874), Augustin Thierry (1795-1856), Fustel de Coulanges (1830-1889).
(9) Không hiểu vì lý do gì mà bài nghiên cứu này chưa được đăng báo khi Trương Vĩnh Ký còn sống. Có lẽ Nguyễn Văn Tố là người đầu tiên đọc và đã trích dẫn nó trong bài viết này, khi tìm thấy trong hồ sơ lưu trữ ở Viện Viễn Đông Bác Cổ, chung với bức thư đề tháng 12 năm 1881 mà ông đã viết trả lời cho ông J. Blancsubé, dân biểu Nam Kỳ tại Quốc hội Pháp, tại sao đa số người Việt thời bấy giờ không chịu nhập quốc tịch Pháp.


