Săn lùng Eichmann, truy nã tên quốc xã khét tiếng nhất thế giới (Bài 9)

Neal Bascomb

Trần Quang Nghĩa dịch.

9

VÀO NGÀY 19 THÁNG 9 NĂM  1957, tại một nhà nghỉ trên đường cao tốc giữa Frankfurt và Cologne, Fritz Bauer ngồi nói chuyện với Felix Shinar, người đứng đầu Phái đoàn Israel và chịu trách nhiệm giám sát hiệp ước bồi thường chiến tranh với Tây Đức. Việc này nhằm bồi thường cho những tội ác mà Đệ tam Đế chế đã gây ra cho người Do Thái. Vì hai nước vẫn chưa chính thức hóa quan hệ ngoại giao nên vai trò của Shinar gần như là chức đại sứ giữa hai nước.

Bauer đi thẳng vào vấn đề vì ông không muốn mạo hiểm để bất kỳ ai nhìn thấy họ ở cùng nhau vào thời điểm đó.

“Eichmann đã được tìm thấy”

“Adolf Eichmann?” Shinar hỏi, vừa sốc vừa vui mừng trước tin này. Ông ta đã bắt liên lạc với một giáo sĩ Do Thái ở Frankfurt, người đã nói với ông rằng Chánh Chưởng lý muốn gặp về một vấn đề quan trọng, nhưng ông không được cho biết đó là gì.

“Ừ. Hắn ở Argentina.”

“Anh định làm gì?”

Đó là câu hỏi mà Bauer mong đợi và là câu hỏi mà ông đã cân nhắc kể từ khi nhận được tin từ Lothar Hermann mà ông chắc chắn hơn bao giờ hết là mình đã tìm thấy Eichmann và giờ đã có địa chỉ của y. Bauer biết rõ sự phản đối mà ông phải đối mặt trong việc truy lùng tội phạm chiến tranh ở Tây Đức. Trong nhiều năm, ông đã nhận được nhiều lời đe dọa đến tính mạng và các hồ sơ liên quan đến những cuộc điều tra này đã biến mất khỏi văn phòng của ông một cách bí ẩn. Bên cạnh những cuộc tấn công cá nhân này, còn có sự phản kháng ở các cấp chính phủ cao nhất chống lại việc đào bới quá sâu vào quá khứ. Mặc dù Thủ tướng Konrad Adenauer không có tai tiếng gì dính líu với Chủ nghĩa Quốc xã và đã nhìn nhận những hành động tàn bạo mà người Đức đã gây ra bằng  thỏa thuận bồi thường cho Israel, mối quan tâm hàng đầu của ông là tạo ra một nền dân chủ khả thi và ông thường bỏ qua lý lịch thời chiến của những người trong chính phủ của mình nếu ông nghĩ rằng họ có thể hỗ trợ ông.

Nhiều người trong số những cá nhân này còn lâu mới miễn nhiễm với tội ác. Nổi bật nhất, Ngoại trưởng Hans Globke đã từng chấp bút  giải thích Luật Nuremberg tước bỏ quyền công dân của người Do Thái ở Đức. Bauer căm  ghét việc Globke nắm giữ một trong những những vị trí quyền lực và có ảnh hưởng ở Bonn. Nếu nắm cổ Eichmann và hạ gục Globke, đây sẽ là một lợi ích bổ sung. Nhưng Globke và những người giống như ông ta có động cơ mạnh mẽ để không xét lại lịch sử đen tối của họ, khiến nỗ lực của Bauer để có được Eichmann gần như không thể thông qua các kênh chính thức của chính phủ.

Trước khi thực hiện bất kỳ động thái nào, Bauer đã tham khảo ý kiến ​​của Georg-August Zinn về cách tiến hành tốt nhất. Zinn là thành viên cấp cao của Đảng Dân chủ Xã hội và là thủ tướng của bang Hesse. Họ không có nhiều lựa chọn. Cả hai đều không có đủ nguồn lực hoặc quyền tiến hành cuộc điều tra quốc tế của riêng mình. Cảnh sát Liên bang Đức đã phản hồi tiêu cực trước yêu cầu của Bauer về việc lôi kéo Interpol vào cuộc truy lùng Eichmann, giải thích rằng những tội ác “chính trị” của Đức Quốc xã nằm ngoài nhiệm vụ của Interpol. Bauer và Zinn lo sợ rằng nếu họ đến gặp chính phủ Adenauer, sẽ không có chuyện gì xảy ra hoặc tệ hơn là ai đó sẽ đưa tin cho Eichmann và y sẽ biến mất vĩnh viễn. Bằng cách cung cấp thông tin tình báo cho nước ngoài, Bauer nhận thức được rằng mình phạm tội phản quốc, nhưng ông cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác nếu muốn Eichmann bị đưa ra công lý. Đó là lý do tại sao ông đã xúc tiến cuộc gặp với Shinar.

“Tôi sẽ hoàn toàn thẳng thắn với anh,” Bauer nói. “Tôi không thể dựa vào Bộ Ngoại giao Đức. Tôi không thể dựa vào các đại sứ quán Đức ở Nam Mỹ. Tôi thậm chí không thể dựa vào nhân viên của mình. Tôi không còn cách nào khác ngoài việc tìm đến anh. Không ai có thể quan tâm đến việc bắt giữ Eichmann hơn anh. Rõ ràng là tôi muốn duy trì liên lạc với anh về  vấn đề này, nhưng chỉ nếu được cung cấp bí mật nghiêm ngặt nhất.”

“Cảm ơn vì  niềm tin tuyệt vời của anh đặt vào chúng tôi ,” Shinar nói, cảm xúc dâng trào  trong giọng nói và khuôn mặt của ông ấy. “Israel sẽ không bao giờ quên những gì các bạn đã đóng góp”.

Shinar hứa sẽ chuyển thông tin đến đúng người và họ sẽ sớm liên lạc với Bauer. Sau đó cả hai rời khỏi nhà nghỉ riêng lẻ.

____

Cách không xa làn nước trong xanh của Địa Trung Hải, ở ngôi làng Sarona của các Hiệp sĩ dòng Đền trước đây của Đức, có một ngôi nhà bằng đá cũ với mái ngói đỏ. Nó trông giống như bất kỳ ngôi nhà nào khác trong khu phố lịch sử của Tel Aviv, và những người đi qua nó hàng ngày không bao giờ để ý đến nó lần thứ hai. Họ cũng không để ý gì đặc biệt đến người đàn ông nhỏ bé đến và đi suốt cả ngày. Cao khoảng 5,2 bộ, đầu hói, đôi tai vểnh và đôi mắt nhỏ màu xanh xám, lúc thì ông mặc bộ đồ gọn gàng, rẻ tiền của nhân viên giao dịch ngân hàng, lúc khác thì mặc quần áo dạo phố, áo sơ mi mở đến tận ngực. Ông ta bước đi sôi nổi và lưng thẳng, dường như luôn có nơi để đi, nhưng điều này không có gì lạ. Israel là một quốc gia trẻ có nhiều dân cư với ý thức mạnh mẽ về mục đích. Nếu bất cứ ai tình cờ nghe được ông ta nói, điều này chỉ xảy ra nếu ông ta muốn được cho nghe hoặc nếu chủ đề của ông không có gì bí mật, thì người đó sẽ nghe thấy tiếng Do Thái nói với giọng Đông Âu trong những cụm từ ngắn, sắc nét, giống như súng Kalashnikov. Người đàn ông đó là Isser Harel, giám đốc Mossad, cơ quan mật vụ của Israel, và ngôi nhà đá cũ là trụ sở của tổ chức.

Vào một ngày cuối tháng 9, Harel bước vào tòa nhà và đi ngang qua vài chục nhân viên nam nữ đang làm việc trong phòng. Chào lại  hai cô thư ký, đã nồng nhiệt chào đón mình,  ông bước vào văn phòng của mình. Căn phòng được trang bị một chiếc bàn làm việc đơn giản và một chiếc điện thoại, một chiếc bàn dài dành cho các cuộc họp, một chiếc trường kỷ đơn giản và một chiếc két sắt nhỏ. Harel vừa trở về sau cuộc gặp gỡ được sắp xếp vội vàng tại một quán cà phê gần đó ở Ramat Gan với Ngoại trưởng Israel Walter Eytan. Eytan có tin khẩn từ Đức mà ông không muốn chia sẻ qua điện thoại: “Adolf Eichmann còn sống và địa chỉ của hắn ta ở Argentina đã được biết”.

Harel yêu cầu thư ký của mình lấy bất cứ hồ sơ nào họ có về Eichmann ngay khi có thể. Ông ấy biết rằng Eichmann đã chơi một vai trò chủ đạo trong hệ thống tàn sát người Do Thái trong thời Thế chiến II và trong nhiều năm qua đã có rất nhiều tin đồn về nơi ở của y, nhưng chỉ có vậy thôi. Truy đuổi tội phạm chiến tranh không phải là một trong số rất nhiều nhiệm vụ làm Harel bận bịu trong ngày làm việc mười – tám- tiếng của mình. Ông chỉ có một thành viên trong đội ngũ nhân viên có nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo về các cựu phát xít và về cơ bản, đây là một vị trí lưu trữ, làm hồ sơ và tham khảo chéo thông tin được gửi từ nhiều nguồn khác nhau trên thế giới.

Việc Mossad thiếu hoạt động trong lĩnh vực này phản ánh sự thiếu quan tâm của xã hội Israel trong việc đối đầu với tội ác chống lại người Do Thái. Những người sống sót sau thảm họa Holocaust, khoảng một phần tư dân số, hiếm khi nói về trải nghiệm của họ, vừa vì nó quá đau đớn vừa vì họ muốn đoạn tuyệt quá khứ. Giờ họ có một đất nước để gầy dựng. Mặc dù Israel đã thông qua đạo luật vào năm 1950 cho phép truy tố Đức Quốc xã và những người cộng tác với họ, nhưng các quan chức chính phủ hàng đầu không gây áp lực gì, không bắt giữ bất cứ ai theo luật này. Trên thực tế, phiên tòa lớn duy nhất ở Israel liên quan đến tội ác chiến tranh là phiên tòa xét xử Rezso Kasztner, một người Israel bị cáo buộc cộng tác với Eichmann ở Hungary. Tòa án tối cao cuối cùng đã ra phán quyết rằng Kasztner thực sự đã cứu mạng người Do Thái thay vì hỗ trợ việc tiêu diệt họ – nhưng phải đến sau khi ông bị ám sát vào tháng 3 năm 1957. Trong quá trình tố tụng, người ta ít đề cập đến việc Eichmann và những người cùng phe với y phải là những người bị đem ra xét xử .

Nhưng sự háo hức của vị ngoại trưởng thường ít nói đã khiến Harel cảm động. Ông biết mình đang giải quyết một tin báo không có căn cứ trong một lĩnh vực không liên quan đến việc đảm bảo an ninh cho Israel, nhưng ít nhất ông cũng muốn xem qua hồ sơ. Bản chất của ông là cần phải biết, đó là lý do chính khiến ông trở thành ông trùm gián điệp của Israel.

Harel là con trai út của một gia đình Do Thái Chính thống đến từ Vitebsk, miền trung nước Nga, nơi công việc kinh doanh thịnh vượng của gia đình họ bị tịch thu sau Cách mạng Nga năm 1917. Bị bỏ rơi, gia đình chuyển đến Latvia, nơi chàng trai trẻ Isser sống sót trong môi trường mới khắc nghiệt nhờ vào sức mạnh của nắm đấm, sự bình tĩnh như nhân sư và một thói quen đọc sách đa dạng – mọi thứ từ tác phẩm kinh điển của Nga đến truyện trinh thám cho đến văn học theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái. Năm mười sáu tuổi, từ chối yêu cầu học hết trung học của cha mẹ, Isser rời nhà để gia nhập một trang trại tập thể do những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái điều hành ở ngoại ô Riga. Anh chấp nhận lối sống và tham vọng của những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, và một năm sau, vào năm 1929, khi người Hồi giáo tàn sát 67 người Do Thái ở Palestine, anh quyết định di cư. Anh lấy được danh tính giả mạo và ra đi với một khẩu súng nhỏ và một túi đầy đạn. Anh xuống tàu thủy ở Jaffa, thành phố cảng cổ kính ở cuối phía nam của Tel Aviv.

Khi các quan chức Anh lục soát hành khách để tìm vũ khí, Harel dễ dàng vượt qua cuộc kiểm tra, khẩu súng lục ổ quay và đạn dược của anh được giấu trong một ổ bánh mì rỗng.

Harel gia nhập một kibbutz ở Herzliya, phía bắc Tel Aviv, nơi anh trồng cây cam vào ban ngày và ngủ trong lều vào ban đêm. Mặc dù bị trêu chọc là “Isser Nhí” nhưng anh ấy vẫn được tôn trọng vì sự nghiêm túc và thái độ làm việc cao độ của mình. Anh kết hôn, rời kibbutz sau 5 năm để bắt đầu công việc kinh doanh đóng gói cam của riêng mình và làm ăn phát đạt cho đến Thế chiến thứ hai. Năm 1942, anh gia nhập Haganah, lo sợ rằng Hitler có thể tấn công Palestine.

Một trong những công việc đầu tiên của anh là tìm hiểu xem một người Đức sống trong biệt thự biệt lập có phải là gián điệp của Đức Quốc xã hay không. Harel bò khắp khu đất vào ban đêm, đột nhập vào bên trong và đi qua từng phòng trong nhà cho đến khi phát hiện ra hoạt động làm giả dưới tầng hầm. Anh chàng đó chỉ là một tên tội phạm. Sau một thời gian hoạt động bí mật trong đạo quân phụ trợ của Anh, anh bị đuổi vì  đánh một đại úy đã có hành vi xúc phạm người Do Thái, Harel được cơ quan tình báo Haganah, Shai, tuyển dụng.

Hoạt động trong một căn hộ bốn phòng được nhận dạng bằng biển hiệu là Dịch vụ Tư vấn Cựu chiến binh và nằm phía trên một cửa hàng hoa chỉ cách trung tâm hành chính cảnh sát một đoạn ngắn, các đặc vụ Shai đã theo dõi và ngăn cản nỗ lực của người Anh nhằm đánh bại cuộc kháng chiến của người Haganah chống lại quân Anh chiếm đóng. Họ điều hành một mạng lưới cung cấp thông tin và gián điệp, đánh cắp hồ sơ, nghe lén điện thoại, giải mã tin nhắn và xây dựng kho vũ khí. Mặc dù không được giáo dục, có văn hóa hay thông suốt như nhiều đặc vụ Shai, Harel nhanh chóng học nghề và được giao nhiệm vụ săn lùng những người bất đồng chính kiến ​​Do Thái cực đoan, các nhóm như Irgun và Stern Gang. Lúc đầu, anh phải vật lộn với tình trạng tràn ngập thông tin tình báo, phần lớn trong số đó là vô nghĩa, và các cấp trên của anh lo lắng rằng anh có thể không đảm đương được công việc. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, anh ta đã học được cách đọc, diễn giải và ghi nhớ những chi tiết quan trọng nhất của một hồ sơ hoạt động, và anh ta nổi tiếng là một con chó săn. Năm 1947, Harel được thăng chức điều hành các hoạt động của Shai ở Tel Aviv, nơi anh phát triển một mạng lưới rộng khắp gồm những người cung cấp thông tin Ả Rập. Vào đêm trước ngày 14 tháng 5 năm 1948, khi người Anh chuẩn bị sẵn sàng sơ tán khỏi Palestine và David Ben-Gurion chuẩn bị công bố việc thành lập một nhà nước Do Thái độc lập, Harel một mình với đám nhân viên tình báo Shai dự đoán rằng Quân đoàn Ả Rập sẽ tấn công vào thời điểm việc thành lập Israel được tuyên bố. Đó không phải là sự nghi ngờ đơn thuần. Anh đã đích thân mang một tin mật tới tay Ben-Gurion từ một người cung cấp thông tin vừa mới trở về từ Jordan: “Abdullah sẽ tham chiến-đó là điều chắc chắn. Các xe tăng đang sẵn sàng để đi. Quân đoàn Ả Rập sẽ tấn công vào ngày mai.” Ben-Gurion đã gửi một số đơn vị quân đội  thiết lập lực lượng phòng thủ, ngăn chặn cuộc tấn công bất ngờ. Harel đã thu hút sự chú ý của nhà lãnh đạo Israel.

Hai tháng sau, khi Israel vẫn đang trong giai đoạn chiến tranh, Harel cùng với bốn người đứng đầu bộ phận khác tại trụ sở Shai trên phố Ben Yehuda để tổ chức lại các hoạt động tình báo và gián điệp của Israel. Anh được chọn để điều hành Shin Bet, cơ quan an ninh nội bộ, một trong ba bộ phận mới. Với vai trò này, anh đã giành được sự chú ý nhiều hơn của Ben-Gurion bằng cách giải tán vĩnh viễn các nhóm cực đoan Do Thái bạo lực. Tuy nhiên, công việc quan trọng nhất của Harel là phản gián, và anh nhanh chóng trở thành chuyên gia trong lĩnh vực loại bỏ tận gốc các gián điệp Ả Rập và Nga. Năm 1952, kỹ năng này tỏ ra cần thiết khi anh tiếp quản Mossad. Các Viện Điều phối chỉ mới được thành lập mười hai tháng trước để giải quyết sự hỗn loạn gây ra bởi các bộ phận khác biệt, thường xuyên cạnh tranh nhau của các  dịch vụ bí mật với nhiệm vụ gián điệp ở nước ngoài. Người lãnh đạo đầu tiên của Mossad đã chứng tỏ không có khả năng quản lý các tổ chức, một điểm mà Harel bốn mươi tuổi đã nói thẳng với ông ta: “Anh nên từ chức.” Ngày đầu tiên nhận công việc, Harel đã họp đội ngũ mười hai người đang hoang mang, đang hoạt động trong ba căn phòng nhỏ và nói, “Quá khứ đã qua. Sẽ không còn sai sót nữa. Chúng ta sẽ cùng nhau tiến về phía trước. Chúng ta không trao đổi với ai ngoại trừ chính mình.” Tay thợ săn gián điệp, người đã khai thác các phương pháp cẩu thả và phóng túng của các mục tiêu của mình, giờ đây cũng là bậc thầy của các điệp viên, và ông đã mang đến một cách tiếp cận kỷ luật, không ngừng nghỉ cho cả hai vai trò.

Isser Harel, trùm cơ quan Mossad

Trong vài năm tiếp theo, Harel chiến đấu với các điệp viên nước ngoài và những kẻ phá hoại Ả Rập trong vai trò là người đứng đầu Shin Bet, đồng thời phát triển Mossad bằng cách đưa về một số đặc vụ giỏi nhất từ ​​cơ quan an ninh nội bộ. Ông cử gián điệp Israel thâm nhập các quốc gia khác trên khắp thế giới và thiết lập mối quan hệ quan trọng với CIA. Trong Chiến tranh Suez với Ai Cập năm 1956, ông đã sử dụng thông tin tình báo thu thập được để hỗ trợ lực lượng Israel trong các cuộc tấn công của họ, đồng thời ông cũng thiết kế một chiến dịch thông tin sai lệch để người Ai Cập không dám tấn công các thành phố không có khả năng phòng thủ của Israel. Ông đã điều hành một cuộc nhập cư bất hợp pháp ồ ạt của người Do Thái ở Maroc về Israel trong cùng thời kỳ và đã ghi điểm ngoạn mục bằng cách lấy được bản sao bài phát biểu bí mật của Nikita Khrushchev, đọc tại Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô, chỉ trích chính quyền và chế độ tàn bạo của Stalin rồi truyền cho báo chí Mỹ công bố và báo hiệu khuynh hướng mềm mỏng trong chính sách của Liên Xô. Mặc dù Mossad vẫn còn là một cơ quan nhỏ, non trẻ nhưng nó đã nổi tiếng là một lực lượng tình báo hiệu quả và đáng gờm. Với những thành công ở Shin Bet và Mossad, Harel nhanh chóng được biết đến với cái tên Memuneh, “người phụ trách” tình báo Israel, chỉ chịu trách nhiệm trước thủ tướng.

Harel bị ám ảnh bởi những gì Đức Quốc xã đã làm với người Do Thái. Nhà nước Israel tồn tại một phần là để đảm bảo Holocaust không bao giờ lặp lại. Nhưng Harel không đi sâu vào lịch sử cuộc diệt chủng, cảm nhận rằng nó vô cùng tà ác đến mức vượt quá khả năng hiểu biết của mình. Bây giờ ông ngồi im lặng bên bàn làm việc và mở hồ sơ Eichmann. Ông đọc bản ghi chép từ các phiên tòa ở Nuremberg, các hồ sơ SS được thu thập, lời khai từ các nhân viên của Eichmann và nhiều báo cáo về nơi ở của Eichmann. Thật kỳ lạ, một báo cáo nói rằng Eichmann sinh ra ở cùng ngôi làng nơi Harel hiện đặt văn phòng của ông. Một số thông tin đến từ Yad Vashem, một số từ Simon Wiesenthal, một số từ Arthur Pier và đội Haganah của ông -Tuviah Friedman và Manus Diamant. Các bức ảnh thu được từ tình nhân của Eichmann cũng có mặt trong hồ sơ. Nhiều mách nước liên quan đến vị trí của y đã đến từ những lá thư gửi tới đại sứ quán Israel, từ những người nghĩ rằng mình đã nhìn thấy y

Khi bình minh bừng sáng ngày hôm sau, Harel đã lật qua trang cuối cùng của tập hồ sơ dày cộm. Ông vô cùng bất an trước bức chân dung Adolf Eichmann. Đây là một gã đàn ông, Harel phỏng đoán, đã lắp ráp bộ máy giết hàng triệu người, đã chia cắt con cái với cha mẹ, đã thúc ép người già yếu phải vượt đường dài, đã càn quét toàn bộ làng mạc và đẩy tất cả vào phòng hơi ngạt. Trong suốt thời gian đó, y ta đã vỗ ngực tự hào vì đã trung thành với lời thề SS, một người lính và một người theo chủ nghĩa lý tưởng. Harel thấy rõ rằng Eichmann đã giết người mà không chút hối hận và là một chuyên gia về cảnh sát và các phương pháp tình báo. Về điều này ông không nghi ngờ gì. Nếu Eichmann vẫn còn sống, y đã hết lần này đến lần khác trốn tránh những kẻ truy đuổi mình và xóa bỏ mọi dấu vết về sự tồn tại của mình trong hơn chục năm qua. Thông tin mới này từ Đức, dù có vẻ chắc chắn, nhưng có thể lại là một thông tin sai lệch khác.

Tuy nhiên, dựa trên những gì ông đã biết về Eichmann, Harel bắt đầu tìm hiểu xem liệu điều đó có đúng như vậy hay không.

____

Trước  tiên, Isser Harel muốn tìm hiểu những gì Fritz Bauer biết, cách ông đến để nhận thông tin và liệu ông có phải là người đáng tin cậy để làm việc cùng hay không. Bất kỳ kế hoạch nào họ sẽ làm nếu phát hiện được tội phạm chiến tranh đều sẽ là quá sớm, nhưng Harel biết chắc một điều: họ phải cần nhiều hơn là một yêu cầu dẫn độ đến các cơ quan có thẩm quyền ở Argentina để bắt giữ được Eichmann.

Sau khi biết được những gì có thể từ Felix Shinar, Harel đã cử một trong những đặc vụ Mossad của mình, Shaul Darom, đến tiếp xúc với Bauer. Vào ngày 6 tháng 11, Darom tới Frankfurt và gặp vị tổng chưởng lý tại nhà riêng. Hài lòng trước phản ứng nhanh chóng của Israel, Bauer giải thích rằng nguồn tin của ông là một người mang nửa dòng máu Do Thái sống ở Argentina, người đã trình bày những sự thật về Eichmann khớp với những chi tiết đã biết về cuộc đời y, đặc biệt là về gia đình y. Nguồn tin cũng cung cấp địa chỉ nơi gia đình đang sống cùng một người đàn ông cùng tuổi Eichmann. Trước tin đồn rằng Vera Eichmann đã tái hôn, Darom đặt câu hỏi liệu người này có thể là người chồng thứ hai của cô hay không, khả năng mà Bauer từng thừa nhận nhưng không đếm xỉa đến. Ông đã điều tra riêng về vị trí của Vera, cử một cảnh sát điều tra đến phỏng vấn mẹ cô ở một thị trấn gần Heidelberg, Đức. Mẹ cô nói rằng bà đã không nhận được tin tức gì từ Vera kể từ năm 1953 và con gái bà đã kết hôn với một người đàn ông lạ mặt và chuyển đến Mỹ sống. Bauer nghi ngờ người mẹ nói dối. Ông ấy đã cung cấp cho Darom toàn bộ hồ sơ Eichmann, bao gồm một bức ảnh mờ từ hồ sơ. Điều duy nhất Bauer giấu kín là danh tính nguồn tin của mình, vì muốn bảo vệ Lothar Hermann. Mọi nỗ lực của Darom nhằm thuyết phục Bauer tiết lộ thông tin này đều vô ích. Darom đã gửi cho Harel một báo cáo tích cực về Bauer, nói rằng nếu mình phải vẽ chân dung của luật sư người Đức này, anh sẽ vẽ một nhân vật một tay cầm sách và tay kia cầm kiếm. Anh cũng giải thích rằng Bauer sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần thiết để bắt được Eichmann, cho dù phải gặp nguy cơ mất chức và cái mách nước của ông ta dường như đủ vững chắc để tiến hành theo dõi.

Ngay sau đó, vào tháng 1 năm 1958, Harel cử một đặc vụ khác, Yoel Goren, đến Buenos Aires để điều tra xem ai sống ở số 4261 phố Chacabuco. Goren đã sống vài năm ở Nam Mỹ và nói thông thạo tiếng Tây Ban Nha. Harel cảnh báo anh ta phải thận trọng, sợ rằng một sai sót nhỏ nhất có thể làm lộ ra sự hiện diện của anh ta và khiến Eichmann phải bỏ chạy mất dạng.

Trong tuần tiếp theo, Goren nhiều lần đến Olivos bằng tàu hỏa từ trung tâm thành phố. Phần của khu lân cận đó ở gần Río de la Plata nhất đặc trưng bởi nhiều biệt thự lớn, nơi ẩn náu mùa hè của giới thượng lưu. Càng bước đi xa dòng sông hơn, anh càng bắt gặp những ngôi nhà nhỏ hơn và xiêu vẹo hơn. Từ giọng nói nghe thấy trên đường phố, anh biết có nhiều cư dân là người Đức, và thậm chí anh còn nhìn thấy chữ Vạn sơn trên các mặt bên của một số các tòa nhà. Đường Chacabuco nằm ở xa nhất rìa quận, nơi cư trú của công nhân cổ cồn xanh đi ra thành phố làm việc rồi quay về bằng xe buýt. Đó là một con đường không có người qua lại, không trải nhựa, và những người lạ mặt được để mắt tới với không ít nghi ngờ. Điều này khiến việc giám sát trở thành một thách thức, nhưng những gì Goren nhìn thấy ở 4261 Chacabuco đã thuyết phục anh rằng có rất ít khả năng Adolf Eichmann sống ở đó. Một người phụ nữ tầm thường chăm sóc một khu vườn có kích thước bằng một con tem bưu chính, và bản thân ngôi nhà phù hợp với một người lao động phổ thông độc thân hơn là gia đình của một người đàn ông từng giữ một vị trí nổi bật trong Đệ tam Đế chế.

Theo những gì cộng đồng tình báo biết, Adolf Eichmann đã đích thân đánh cắp tài sản của những gia đình Do Thái nổi tiếng nhất châu Âu, chưa kể đến tài sản có hạn của hàng ngàn người khác. Không đời nào một tay lịch lãm có khẩu vị thượng lưu này lại bị rơi tõm xuống những khu nhà chật chội như vầy, cho dù khi đang ẩn náu. Lén lút, Goren chụp ảnh ngôi nhà trước khi quay trở lại Tel Aviv để báo cáo với Harel rằng “ngôi nhà nhỏ khốn khổ” trên phố Chacabuco không thể che chở cho Adolf Eichmann, và anh cũng chưa từng thấy ai giống như ông mô tả đã ra vào ngôi nhà trong thời gian anh giám sát. Goren đưa ra tuyên bố này chỉ hai tuần sau khi được giao nhiệm vụ.

Khi Shaul Darom nói chuyện tiếp theo với Fritz Bauer, Bauer đã chỉnh lại ấn tượng của mình về người Israel. Một cuộc điều tra ngắn ngủi như vậy không thể hy vọng phát hiện ra một gã tội phạm đã trốn tránh bị bắt hơn mười hai năm. Darom thông báo với tổng chưởng lý rằng Harel không thể tiếp tục trừ khi ông ta được cho biết danh tính nguồn tin của Bauer. Họ cần phải tin tưởng lẫn nhau trong vấn đề này cũng như mọi vấn đề khác. Bauer hài lòng và họ đồng ý rằng Bauer sẽ viết thư giới thiệu cho “người đại diện” của mình gặp Lothar Hermann. Harel không muốn có bất kỳ dấu vết nào của cuộc điều tra dẫn trở lại người Israel, mặc dù sau báo cáo của Goren, ông đã trở nên nghi ngờ rằng Eichmann cư trú tại địa chỉ Chacabuco.

Harel đã mượn người đứng đầu cơ quan điều tra tội phạm của cảnh sát Tel Aviv, Ephraim Hofstetter, làm đại diện cho Bauer. Harel muốn ông ta xác định chính xác Hermann biết về Eichmann như thế nào, liệu ông ấy có đáng tin cậy không và liệu ông ấy  có che giấu điều gì không.

Hơn nữa, Hofstetter nên tìm ra danh tính của cá nhân sống ở 4261 Chacabuco. Người đứng đầu Mossad có niềm tin mãnh liệt ở Hofstetter, một chuyên gia tỉnh táo với hai mươi năm kinh nghiệm điều tra của cảnh sát. Sinh ra là người Ba Lan, Hofstetter đã mất cha mẹ và em gái trong Holocaust, và ông biết đến Eichmann sau phiên tòa Kasztner. Điều tra viên nói tiếng Đức trôi chảy và có thể dễ dàng trở thành sứ giả của Bauer.

Vào cuối tháng 2, Hofstetter đến Buenos Aires với một lớp quần áo mùa đông dày, rồi phát hiện ra rằng mình đã đến vào giữa mùa hè. Ông được chào đón tại trạm đến nhà ga sân bay dài chỉ cao một tầng bởi tiếng cười của một người đàn ông với nước da nhợt nhạt và cái đầu hói màu hồng: Ephraim Ilani, một đặc vụ Mossad chuyên về các hoạt động của người Ả Rập và đã xin nghỉ phép để nghiên cứu lịch sử các khu định cư của người Do Thái ở Argentina. Ilani đã giúp đỡ Goren một thời gian ngắn trong cuộc điều tra trước đó của anh ấy. Harel đã ra lệnh cho Ilani hợp tác chặt chẽ hơn nhiều với Hofstetter, người chỉ nói được vài từ tiếng Tây Ban Nha.

Thông thạo phương ngữ địa phương của tiếng Tây Ban Nha (cũng như chín ngôn ngữ khác), Ilani biết rõ đất nước này và có mạng lưới bạn bè cũng như địa chỉ liên lạc rộng khắp ở Buenos Aires nhờ tính vui vẻ dễ gần và bản tính thích giao du của anh ấy.

Cả hai đến Coronel Suárez bằng chuyến tàu đêm. Lúc 9h30 sáng, họ bước lên sân ga của một nhà ga đổ nát. Ngoại trừ một con đường duy nhất có hai bên là những ngôi nhà gỗ, thị trấn hẻo lánh này chẳng khác gì một điểm dừng chân trước những đồng cỏ vô tận. Thật khó tưởng tượng một nơi nào mơ hồ hơn để tìm ra manh mối nơi ở của Adolf Eichmann.

Ilani hỏi người xung quanh nhà của Lothar Hermann. Cư dân  và người làm việc tại địa phương nghi ngờ hai người đàn ông lạ mặt, tự hỏi những người nước ngoài này có thể muốn gì ở người hàng xóm của mình. Họ không sẵn sàng giúp đỡ. Tại ga xe lửa, một tài xế taxi đề nghị giúp đỡ, nhưng với điều kiện họ phải thuê anh ta đưa họ đến nhà Hermann. Rồi họ sớm phát hiện ra, họ lẽ ra chỉ cần đi bộ một đoạn ngắn băng qua đường ray là tới nơi. Hofstetter một mình tiến đến cửa, Ilani ở lại phòng trường hợp có rắc rối. Theo những gì họ biết, đây có thể là một cái bẫy.

Khi cánh cửa mở ra, Hofstetter tự giới thiệu. “Tên tôi là Karl Huppert. Tôi đã gửi cho ông một bức điện từ Buenos Aires để báo cho ông biết tôi sẽ đến.”

Hermann ra hiệu cho Hofstetter vào phòng khách của mình. Hofstetter không thể xác định chính xác điều gì đã xảy ra với Hermann hay căn phòng, nhưng có điều gì đó không ổn. Ngoài một cái bàn, một cái tủ và vài cái ghế, căn phòng trống rỗng. Chỉ khi đưa ra lá thư giới thiệu của Bauer mà Hermann không nhận lấy, Hofstetter mới nhận ra rằng người đàn ông này bị mù. Isser Harel đã cử anh ta đi điều tra việc một người đàn ông mù tìm thấy Adolf Eichmann.

Hofstetter nhanh chóng mất đi sự hoài nghi khi bà Hermann xuất hiện  khi được gọi để đọc bức thư. Hai người giải thích chi tiết về việc lần đầu tiên họ nghi ngờ Nick Eichmann như thế nào và con gái họ đã lần ra địa chỉ của anh ta như thế nào.

Hofstetter nhận thấy Hermann đầy sự lố bịch, đặc biệt liên quan đến những nhận xét vô căn cứ của ông ta rằng Eichmann đã phẫu thuật thẩm mỹ và rằng mình có sẵn nhiều phương tiện, nhưng động cơ của mình rất rõ ràng.

 “Đừng nghĩ rằng tôi bắt tay vào vụ Eichmann này vì mong muốn phục vụ nước Đức,” Hermann nói. “Mục đích duy nhất của tôi là sòng phẳng với bọn tội phạm Đức Quốc xã, những kẻ đã khiến tôi và gia đình tôi vô cùng đau khổ.”

Cửa trước mở ra và Sylvia Hermann bước vào nhà, chào bố mẹ cô. Cô dừng lại để gặp Hofstetter và cha cô giới thiệu “Ông Huppert.” Không hề dè dặt, Sylvia kể cho ông nghe về chuyến thăm nhà Eichmann của mình. “Có điều gì đặc biệt trong cách nói chuyện của y không?” Hofstetter hỏi cô.

“Giọng nói của y rất khó chịu và chói tai, đúng như Tiến sĩ Bauer đã mô tả trong một lá thư của ông ấy.”

Hofstetter đặt câu hỏi liệu những bức thư này có thể đã ảnh hưởng đến suy nghĩ của cô hay không.

“Không,” cô nói thẳng thừng. “Tôi chắc chắn một trăm phần trăm đó là một ấn tượng không thiên vị.”

“Những gì cô nói là thật thuyết phục,” Hofstetter nói, bị ấn tượng bởi lòng dũng cảm và tính  thẳng thắn của cô gái. Mọi điều cô nói đều khớp với thông tin ông được cung cấp trước khi rời Tel Aviv. “Nhưng đó không phải là nhận dạng có tính kết luận. Vera Eichmann có thể đã kết hôn lần nữa – chúng tôi đã nghe nhiều tin đồn như vậy – và các con của bà ấy có thể vẫn tiếp tục sử dụng tên của cha chúng.” Ông giải thích rằng mình cần biết bí danh của người đàn ông sống cùng Vera và các con trai bà, cũng như nơi y làm việc. Ông ta cũng muốn có được bất kỳ bức ảnh nào của y hoặc gia đình y, bất kỳ tài liệu nào có tên của y, và trong trường hợp tốt nhất là một bộ dấu vân tay của y ta.

“Tôi chắc chắn tôi sẽ có thể đưa cho ông bằng chứng,” Lothar Hermann trả lời. “Tôi có nhiều bạn bè ở Olivos, cũng như có mối quan hệ với chính quyền địa phương. Sẽ không khó để tôi có được những thứ này. Tuy nhiên, rõ ràng là tôi sẽ phải lần nữa tới Buenos Aires, con gái tôi nữa… Việc này sẽ tốn kém chi phí và chúng tôi đơn giản là không đủ khả năng.”

Hofstetter hứa rằng người của ông sẽ trang trải mọi chi phí. Để giữ bí mật, ông chỉ thị rằng tất cả thư từ của họ phải được gửi cho ông đến một địa chỉ ở Bronx, New York, do A. S. Richter đứng tên. Ông ta xé đôi đồng đô la Argentina và đưa một nửa cho Hermann. Bất cứ ai có nửa kia đều có thể tin cậy được.

Sau hai giờ lên kế hoạch và thảo luận, Hofstetter cảm ơn gia đình và rời đi. Ông ấy sẽ báo cáo lại cho Harel rằng nhà Hermann là những người đáng tin cậy nhưng cần thêm thông tin và dường như họ có khả năng thu thập được nó. Khi Hofstetter bước trở lại thị trấn, chiếc taxi lúc nãy chở ông đến ngôi nhà đã trờ tới dừng lại bên cạnh ông. Ilani thò đầu ra ngoài cửa sổ sau và hỏi đùa: “Tôi có thể cho ngài quá giang được không, thưa ngài?”

Bình luận về bài viết này