Lược sử các Giáo Hoàng- Bài 8

Christopher Lascelles

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 7: Gregory Vĩ Đại

“Nguyên nhân cơ bản của rắc rối là trong thế giới hiện đại, kẻ ngu ngốc luôn tự tin trong khi người thông minh lại đầy hoài nghi.”

Bertrand Russell

Tình trạng các tỉnh của Ý vào cuối thế kỷ thứ sáu thật đáng thương. Bán đảo đã bị tàn phá, đầu tiên là bởi người Byzantine và người Ostrogoth đang gây chiến, sau đó là người Lombard và những người ở lại. Bất kỳ du khách nào đến La Mãị tan hoang đều chứng kiến ​​một thành phố đổ nát, đói khát, vô pháp luật và gần như bị bỏ hoang. Giáo hoàng tương lai Gregory viết: ‘Than ôi, tất cả mọi thứ trong các khu vực ở Châu Âu đều  phó mặc cho quyền lực của những kẻ man rợ,’ các thành phố bị phá hủy, các phe phái bị lật đổ, các tỉnh không người ở, không có nông dân sinh sống trên đất trồng.’ Không có viện trợ của đế quốc sắp tới, người La Mã ngày càng tìm kiếm sự bảo vệ và lãnh đạo từ cơ quan có thẩm quyền thực sự duy nhất còn lại: giám mục của họ. Thật vô cùng may mắn cho họ khi có một người xứng đáng với danh hiệu đó – và theo một sử gia về giáo hoàng ‘chắc chắn là vị giáo hoàng vĩ đại nhất thời cuối thời cổ đại và đầu thời trung cổ, và được cho là vị giáo hoàng vĩ đại nhất từ ​​trước đến nay’ – đã được bầu để lãnh đạo Giáo hội vào chính thời điểm đó.

Gregory I (590-604) sinh ra trong một gia đình La Mã giàu có đã có hai giáo hoàng Felix III (483-92) là ông cố của ông và Agapetus II (535-36) là họ hàng xa. Bản thân Gregory từng là Thống đốc của La Mã từ năm 572 đến 574, nhưng chiến tranh liên miên và bệnh dịch khiến ông tin rằng ngày tận thế đang đến. Do đó ông từ bỏ mọi trách nhiệm công dân và đi tu, biến cung điện của gia đình thành tu viện. Chắc hẳn ông ta đã gây ấn tượng với Giáo hoàng Pelagius II (579-90) khi Pelagius cử ông  đến triều đình của hoàng đế ở Constantinople với tư cách là apocrisarius, hay đại diện của giáo hoàng, để nhận được sự ủng hộ của hoàng đế trong nỗ lực kiềm chế những kẻ xâm lược Lombard. Sau một vài năm, ông được triệu hồi về La Mã và trở thành thư ký của giáo hoàng. Chính trong những năm này, La Mã bị ảnh hưởng bởi bệnh dịch, lũ lụt và nạn đói. Khi Pelagius II chết vì bệnh dịch năm 590, kinh nghiệm và tầm vóc của Gregory lớn đến mức ông được nhất trí bầu làm người kế vị.

Thông minh, hiệu quả và tràn đầy năng lượng, Gregory I hành động nhanh chóng. Để giải quyết những vấn đề mà thành phố phải đối mặt và làm được như vậy đã vượt quá sự mong đợi của người dân La Mã. Đầu tiên, ông tổ chức đưa thực phẩm đến La Mã từ các khu nông nghiệp của Giáo hội ở những nơi khác trong đế quốc và phân phát số thực phẩm này cho người nghèo và người túng thiếu, ông được cho là thường xuyên đích thân ăn tối với họ. Thứ hai, ông sắp xếp xuất khẩu gỗ sang Ai Cập để quyên tiền giúp đỡ nạn đói và cung cấp hỗ trợ tài chính cho các nhà thờ khác ở Ý. Gregory cũng thương lượng một hiệp định đình chiến với người Lombard, qua đó La Mã tránh được một cuộc bao vây khác. Trong khi điều này chỉ nâng cao danh tiếng của ông ở La Mã với tư cách là ân nhân của thành phố, thì hoàng đế ở Constantinople lại tỏ ra kém ấn tượng hơn: ông cáo buộc Gregory can thiệp vào các công việc thế tục. Bất chấp đang trong tình hình khủng hoảng, Gregory đã dành thời gian vào năm 597 để cử một phái đoàn truyền giáo đến Anh với mục tiêu cải đạo dân chúng sang Cơ đốc giáo. Không giống như Giáo hoàng Victor I, người tiền nhiệm của ông ở thế kỷ thứ hai, Gregory đã làm rõ rằng các giám mục không bị ràng buộc phải tuân theo tiền lệ của La Mã về phong tục và phụng vụ, mà các nhà thờ riêng lẻ có thể được điều hành bởi phong tục riêng của họ. Vì có ‘nhiều dinh thự’ trong ngôi nhà của Cha Ngài, nên tính đa dạng  nên được khuyến khích chứ không nên phản đối.

Gregory cũng hiểu rằng Giáo hội với tư cách là một tổ chức đang làm giáo dân thất vọng và cần có một cuộc cải cách cơ bản. Ông viết cho anh trai mình ở Constantinople rằng Giáo hội mà ông làm thuyền trưởng là ‘một con tàu mà mọi tấm ván đều mục nát và mọi đường ghép đều rỉ nước.’ Giới tăng lữ đã làm dân chúng thất vọng một cách công khai; họ không chống nổi thói xấu tồi tệ nhất: tính kiêu ngạo. “Các linh mục, đáng lẽ phải nằm khóc trên đất và trong tro,” ông tuyên bố, “lại đi tìm kiếm cho mình những danh hiệu phù phiếm và vinh quang bằng những tước vị mới và trần tục.” Để hướng dẫn họ, ông đã viết một cuốn sách, trình bày chi tiết các nghĩa vụ của giáo sĩ. Ông viết, giáo sĩ nên đề phòng tính ích kỷ và tham vọng cá nhân và phải là gương mẫu cho đời sống Kitô hữu. Đáng buồn thay, rất ít vị giáo hoàng tương lai để tâm đến điều này.

Giám mục toàn cầu

Một trong những ‘danh hiệu phù phiếm’ khiến Gregory nổi giận là ‘Thượng phụ Đại kết’ hay ‘Giám mục Hoàn vũ’. Danh hiệu này trước đây đã từng được ban tặng cho cả các giám mục của La Mã và các thượng phụ của Constantinople bởi các sắc lệnh hoàng gia và hội đồng Giáo hội, nhưng chưa có giáo hoàng hay thượng phụ nào từng cố gắng độc chiếm danh hiệu này riêng cho mình. Cho đến năm 587, Thượng phụ Constantinople mới làm điều này, mặc dù Constantinople thậm chí không phải là tòa thánh tông tòa.

Khi Gregory được bầu, ông đã phản đối kịch liệt đối với thượng phụ và hoàng đế Maurice, gọi danh hiệu này là ‘ngu ngốc, kiêu căng, sâu bọ, trần tục, độc ác, một sự tiếm quyền ma quỷ’ và tuyên bố rằng bất kỳ ai sử dụng nó, kể cả Giám mục của La Mã, đều không hơn gì chính Lucifer. Ông nói với hoàng đế rằng nếu Peter chưa bao giờ tự xưng là Sứ đồ Hoàn vũ thì tại sao thượng phụ lại dám đảm nhận chức danh Giám mục Hoàn vũ? Các nhà lãnh đạo Giáo hội được kêu gọi để phục vụ chứ không phải để chạy theo những chức danh nghe sướng tai. Ông thậm chí còn cảnh báo thượng phụ rằng ông ta sẽ có nguy cơ đánh mất sự cứu rỗi của chính mình nếu không từ bỏ việc sử dụng tước hiệu đó. Ông tuyên bố rằng một tước hiệu thích hợp hơn sẽ là tước hiệu mà ông tự đặt cho mình: ‘Tôi Tớ của Các Tôi Tớ Chúa’. Chẳng phải Jesus  đã dạy rằng những người đầu tiên sẽ là người cuối cùng và những người cuối cùng sẽ là người đầu tiên sao? Có lẽ không có gì ngạc nhiên khi Giám mục Alexandria áp dụng danh hiệu Giám mục Hoàn vũ cho Gregory, Gregory đã phản đối mạnh mẽ. ‘Tôi không coi bất cứ điều gì là danh dự đối với mình’, ông bảo với Giám mục Alexandria, ‘nếu vì thế các giám mục anh em của tôi mất đi danh dự họ xứng đáng … Danh dự của tôi là sức mạnh đoàn kết của những người anh em của tôi.

Người kế nhiệm ông, ngoại trừ Boniface III, rõ ràng có rất ít dè dặt về vấn đề này, vì ông ta đã thỉnh nguyện thành công người kế vị của Maurice, Hoàng đế Phocas, trao cho ông ta tước hiệu Thượng phụ Hoàn vũ  và ra sắc lệnh rằng tông tòa của Tông đồ Peter được chỉ định   đứng đầu tất cả các nhà thờ. Việc Phocas đã ra lệnh giết chết Maurice và toàn bộ gia đình Maurice không mấy quan trọng: một lần nữa, giáo hoàng thuận tiện phớt lờ những vi phạm của hoàng đế. Như một tác giả đã đưa ra nhận xét, ‘Đó là cách của các giáo hoàng gắn bó với bọn  quái vật thắng thế, những kẻ có thể giúp họ đạt được mục tiêu của tham vọng mình.’

*

Phương Đông phải đối mặt với một mối đe dọa nghiêm trọng vào đầu thế kỷ thứ bảy từ người Sassanid Ba Tư, những người đã giành được nhiều chiến thắng đáng chú ý trong một thời gian ngắn: đến năm 614, họ đã chinh phục Syria và Palestine và chiếm đóng Jerusalem. Đối với thế giới Cơ đốc giáo, đây là một thảm họa chỉ ngang với sự sụp đổ của La Mã. Nhưng hoàng đế Heraclius (610-41) đã đánh đuổi họ trở lại và hầu hết các lãnh thổ mà họ chiếm lấy đã được thu hồi vào năm 630.

Chiến tranh làm bận tâm tới 5 triều đại giáo hoàng kế vị  Gregory,nhưng khi hòa bình đến, những tranh cãi về thần học một lần nữa lại nổi lên. Người Ba Tư đã nhanh chóng khai thác sự chia rẽ tôn giáo giữa những người Cơ đốc, phục dựng các giám mục phe Nhất tính về tòa giám mục của họ. Cũng như những người tiền nhiệm của mình, mong muốn chấm dứt mối bất hòa tôn giáo trong đế chế, Hoàng đế Heraclius đã quyết tâm dỗ dành phái Nhất tính. Trong khi khẳng định, trái ngược với lời dạy của thuyết Nhất tính, rằng Christ có hai bản chất thần thánh và con người, ông đã ban hành công thức rằng Chrish chỉ có một ý chí – đây là một ví dụ trong danh sách vô tận các ví dụ về việc nhà nước áp đặt thần học cho Giáo hội. Ông hy vọng rằng học thuyết về ý chí duy nhất này, được gọi là Thuyết Nhất chí, sẽ hàn gắn rạn nứt trong Giáo hội và khiến những thần dân mới được phục hồi của ông ở phương Đông trở nên trung thành hơn.

Trong một khoảnh khắc, dường như Heraclius có thể đạt được điều mà nhiều người tiền nhiệm của ông chưa làm được – kết thúc hàng thế kỷ bất đồng giữa Giáo hội Đông và Tây. Không chỉ người phương Đông ủng hộ học thuyết này mà cả Giám mục La Mã Honorius I (625-38), cũng ban phước lành cho nó. Tuy nhiên, thật không may, ông qua đời vào năm đó và người kế vị ông, Giáo hoàng Severinus (640), đã thẳng thừng lên án học thuyết này, ‘qua đó gửi cho Constantinople một thông điệp rõ ràng rằng giáo hội ở La Mã chưa sẵn sàng đầu hàng trước áp lực từ phương Đông và thỏa hiệp chân lý học thuyết để đạt được động cơ chính trị.’ Hình phạt của ông là bị buộc phải đợi một năm rưỡi trước khi hoàng đế đưa ra xác nhận và rồi ông chỉ trị vì khoảng hai tháng trước khi qua đời. Người kế vị ông là John IV (640-42), cũng ngoan cố không kém. 40 năm sau, tại công đồng Constantinople thứ ba (680-1), Honorius I bị tuyên bố là kẻ dị giáo. Cùng với tội dị giáo của Liberius, điều này sẽ được trích dẫn nhiều thế kỷ sau trong tình huống chống lại khái niệm về tính không thể sai lầm của giáo hoàng.

Sự trỗi dậy của Hồi giáo

Góc cạnh thần học gay gắt của cuộc tranh luận đã phần nào bị giảm sút vào giữa đến cuối những năm 630 khi có tin từ phương Đông rằng Damascus, Antioch và Jerusalem đã thất thủ. Bọn tấn công lần này không phải là người Ba Tư, những người vẫn đang quay cuồng vì thất bại trước Heraclius, mà là các bộ lạc đến từ Ả Rập, chiến đấu dưới ngọn cờ mới của đạo Hồi. Lãnh thổ La Mã đã trải qua các cuộc xâm lược từ các nhóm đột kích Hồi giáo trong một số năm, nhưng sự sụp đổ của các thành phố quan trọng này liên tiếp nhanh chóng như vậy là một cú sốc lớn.

Người Ả Rập trước đây không nhận được nhiều sự chú ý: họ chưa được hiểu rõ và chưa bao giờ là một lực lượng thống nhất. Nhưng bây giờ họ dường như đã chinh phục được thế giới. Trong vòng mười năm, cả Ai Cập và Ba Tư đều sụp đổ và theo thời gian, gần như toàn bộ đế quốc phương Đông sẽ sụp đổ trước đạo Hồi. Họ có thể còn thành công hơn nữa nếu vẫn đoàn kết, nhưng vào năm 656, hai giáo phái lớn của Hồi giáo – Sunni và Shia – rơi vào tình trạng nội chiến đầu tiên của người Hồi giáo, nên các kế hoạch tấn công Constantinople đã bị gác lại.

Việc một đội quân chỉ gồm những cư dân sa mạc có thể thách thức sức mạnh của quân đội La Mã đã khiến dân chúng tin rằng mình sắp chịu nạn diệt vong và suy đoán rằng Chúa đã bỏ rơi đế chế để trừng phạt tội lỗi của nó. Tất nhiên, thực tế là cả Đế chế La Mã và Ba Tư đều đã kiệt sức vì hai thập kỷ chiến tranh, và do phần lớn dân số sống sót bị giết chết bởi bệnh dịch hạch. Thay vì tập trung vào tranh luận thần học, đáng lẽ họ nên ra sức tăng cường phòng thủ.

Một lần nữa, tòa thánh La Mã lại được hưởng lợi từ sự hỗn loạn. Việc Syria và Ai Cập – các thành trì của tín điều Nhất tính và Nhất chí – bị Hồi giáo chính phục đã làm giảm đi đáng kể thách thức đối với tính chính thống của La Mã. Tương tự như vậy, các tông tòa ở Alexandria và Antioch vốn là nguồn gốc của sự bất hòa trong Giáo hội đã không còn trong vị thế có thể thách thức La Mã. Với việc Jerusalem và Carthage cũng bị chiếm, chỉ có Constantinople và La Mã vẫn là những tiếng nói có thẩm quyền trong thế giới Cơ đốc giáo, và trong số này, chỉ có La Mã tuyên bố mình có nền tảng tông đồ và không chậm trễ chỉ ra điều này. Trong khi triều đình ở Constantinople buộc phải tập trung toàn bộ sự chú ý vào an ninh ở biên giới phía Đông của đế quốc, thì giáo hoàng ở La Mã đã có thể áp đặt quyền lực của mình lên thành phố và Giáo hội của mình.

Đối với nhiều công dân của đế quốc phương Đông, cuộc chinh phục đến như một sự giải thoát nhờ một một loạt các quyền tự do tôn giáo do những kẻ chiếm đóng mới ban cho. Được tự do, cuộc thảo luận thần học về ý chí của Đấng Christ đã đạt đến một đỉnh cao mới. Cháu trai của Heraclius, Constans II (641-68) quá mệt mỏi vì điều đó đến nỗi, vào năm 648, ông đã ban hành một sắc lệnh đặc biệt cấm mọi cuộc thảo luận về ý chí của Christ trên khắp đế quốc. Tuy nhiên, Giáo hoàng Martin I (649-53, chết 655) kiên quyết phớt lờ sắc lệnh này và triệu tập một hội đồng lên án thuyết Nhật  chí. Trong khi điều này củng cố danh tiếng của La Mã với tư cách là người bảo vệ học thuyết chính thống, thì Constans II lại nổi giận vì quyền lực mình bị xúc phạm. Ông ta đã bắt Martin, lột áo giám mục, phạt roi và đày đến Crimea, và Martin qua đời tại đó. Khi ông vắng mặt, người dân La Mã đã bổ nhiệm Eugene I làm giáo hoàng mới (654-57), Điều này có nghĩa là từ năm 654 đến 655, La Mã một lần nữa có hai giáo hoàng.

Con trai của Hoàng đế Constans II, Constantine IV (668-85), đã đi đến kết luận rằng khái niệm Thuyết Nhất chí đã không đạt được điều mà Heraclius mong đợi, đó là dung hòa những người theo thuyết Nhất tính ở phương Đông với những người theo đạo Thiên chúa ở phương Tây. Để tránh xa lánh một số tỉnh còn lại của mình ở phương Tây, ông đã triệu tập một hội đồng Giáo hội ở Constantinople với mục đích lên án Thuyết Nhất chí và cuối cùng chấm dứt xung đột Kitô học. Cũng chính hội đồng này đã lên án Giáo hoàng Honorius – trong con người đó ‘kẻ mưu tính  cái ác đã tìm ra một công cụ phù hợp với mục đích riêng của mình’ – vì tội chấp nhận Thuyết Nhất chí.

Điều đáng ngạc nhiên là việc Giám mục La Mã rõ ràng đã bị ma quỷ dẫn đi lạc đường dường như không làm suy yếu ngôi vị giáo hoàng. Ngược lại, ngôi vị giám mục La Mã bây giờ đã hứa hẹn quyền lực lớn đến mức một trong những ứng viên chức vị giáo hoàng vào cuối thế kỷ thứ bảy – một phó tế tên là Paschal – đã tặng 100 cân vàng cho người đại diện của hoàng đế ở Ravenna để mua chức cho y. Rõ ràng số vàng đó là chưa đủ vì một ứng viên khác đã được bầu vào vị trí của y..

*

Và thế là chúng ta bước vào thế kỷ thứ tám. Vào thời điểm này, các vùng đất Byzantine ở Syria, Palestine và Armenia, nơi bắt nguồn của Cơ đốc giáo, đều đã bị tàn phá bởi một loạt các cuộc xâm lược của người Hồi giáo, và họ tiếp tục xông vào Ai Cập và phần còn lại của Bắc Phi. Năm 711, Tây Ban Nha Visigoth – trên danh nghĩa là tài sản của Giám mục La Mã nhưng trên thực tế, một quốc gia cực kì độc lập – đã bị xâm chiếm bởi một lực lượng Ả Rập nhỏ đã chiếm được phần lớn bán đảo Iberia. Đế chế Hồi giáo lúc này đã mở rộng từ dãy Pyrenees ở phía Tây đến dãy Himalaya ở phía Đông.

Trên bán đảo Ý, người Lombard đã hồi phục sau một loạt mối đe dọa bên trong và bên ngoài và một lần nữa đe dọa sự ổn định. Mọi người dường như đang lợi dụng sự suy tàn của Byzantine. Trên thực tế, sự suy giảm này mạnh đến mức vào giữa thế kỷ thứ tám quyền lực của hoàng đế La Mã trên bán đảo bị giới hạn trong một dải lãnh thổ chạy chéo từ Ravenna ở phía đông bắc, đến La Mã ở phía tây nam và một số khu vực ở phía nam. Phần lớn số này sẽ bị mất đi khi thế kỷ qua đi.

Một loạt giáo hoàng Hy Lạp hoặc Syria ban đầu tìm kiếm sự thống nhất với những người anh em phương Đông của họ. Tuy nhiên, mọi vẻ ngoài thống nhất đã sụp đổ dưới thời Hoàng đế Leo III (717-41). Sai lầm đầu tiên của Leo III là tăng thuế. An ninh ở đế chế phương Tây phụ thuộc một phần vào ‘vùng đệm’ Byzantine chống lại quân đội Hồi giáo, vì vậy việc Ý đóng góp vào kho bạc của đế quốc đang cạn kiệt không phải là một kỳ vọng vô lý. Tuy nhiên, với tư cách là chủ đất lớn nhất ở Ý, nhờ di sản hàng thế kỷ, Giáo hội sẽ phải chịu thiệt hại nặng nề nếu doanh thu giảm do thuế tăng. Do đó, Giáo hội không chỉ bác bỏ ý tưởng đánh thuế cao hơn mà còn ủng hộ những chủ đất thách thức không kém khác. Đây được chào đón như một tin tức đáng lo ngại ở Constantinople. Giáo hoàng đã ‘nâng cao tiêu chuẩn nổi loạn ở Ý’. ‘

Leo III đã làm trầm trọng thêm tình hình vốn đã căng thẳng này khi ra sắc lệnh vào năm 730 rằng tất cả các hình ảnh của Christ và các nhân vật thánh khác phải bị dỡ bỏ và phá hủy trên khắp đế quốc, Đông và Tây. Ông tin rằng bằng cách tôn thờ các biểu tượng, trái ngược với chính Christ, những người theo đạo Cơ đốc đã phớt lờ điều răn thứ hai ‘Ngươi không được làm bất kỳ tượng chạm nào cho mình’ – và sự bất mãn của thần thánh đã góp phần khiến đế chế tiếp tục thảm bại dưới tay quân Hồi giáo. Thật không may, ông đã đánh giá thấp chiều sâu của lòng tôn kính mà những hình ảnh tôn giáo  gợi lên, và sắc lệnh đã vấp phải sự phản kháng dữ dội.

Do đó, các Giáo hoàng Gregory II (715-31) và Gregory III (731-41) đã phải đối phó với một vị hoàng đế vô lý, những kẻ thu thuế hung hãn và mối đe dọa từ người Lombard. Cả hai đều phản đối việc phá hủy các ảnh tượng thánh và Gregory II vô cùng tức giận đến mức phủ nhận quyền can thiệp vào Giáo hội của hoàng đế. Ông nói, những hoàng đế sống ngoan đạo trong Đangs “đã vâng lời các giáo hoàng, không làm phật lòng họ”. Là giáo hoàng La Mã đầu tiên sau bảy giáo hoàng Hy Lạp hoặc Syria, ông có thể cảm thấy đủ tự tin vào sự hậu thuẫn của người La Mã để đối đầu với hoàng đế, nhưng điều này cuối cùng lại khiến hoàng đế tức giận đến mức ở Constantinople đã lên kế hoạch phế truất hoặc thậm chí ám sát giáo hoàng, một số phận mà ông đã tránh được. chỉ trong gang tấc

Gregory III đã tăng cường tiền cược bằng cách ra phán quyết rằng bất kỳ ai phá hủy hình ảnh tôn giáo sẽ bị rút phép thông công. Mặc dù không được nêu tên cụ thể nhưng mọi người tại triều đình đều thấy rõ rằng Leo III và thượng phụ phương đông về vấn đề đó không được miễn trừ. Nổi giận trước sự táo tợn của Giáo hoàng, Leo III đã ra lệnh tịch thu tất cả tài sản của giáo hoàng ở miền nam nước Ý nói tiếng Hy Lạp, Sicily và một phần của Bán đảo Balkan, biết rõ rằng điều này sẽ làm giảm đáng kể các khoản đóng góp tài chính cho giáo hoàng, và chuyển giao quyền tài phán đối với những vùng đất này cho thượng phụ Constantinople, một hành động mà ông biết sẽ chọc tức và gây thiệt hại cho tòa thánh La Mã. Với điều này, sự tôn trọng giả tạo giữa hai bên đột ngột chấm dứt.

Khi Ravenna rơi vào tay người Lombard một thời gian ngắn vào năm 733 và trông như La Mã có thể là người tiếp theo, Gregory III nhận ra rằng rất khó có khả năng thành phố sẽ nhận được bất kỳ sự hỗ trợ nào từ Constantinople. Vấn đề đang trở nên tuyệt vọng. Có lẽ ông ta có thể thuyết phục người Frank giúp đỡ chăng?


Bình luận về bài viết này