
Neal Bascomb
Trần Quang Nghĩa dịch
7
CARLOS FULDNER, 40 tuổi, nói được nhiều thứ tiếng, người điều hành trơn tru của đường dây buôn người qua Argentina, đã dẫn dắt Eichmann bước vào cuộc sống mới. Y bắt đầu bằng việc tìm cho Eichmann một căn hộ ở Florida, một khu phố ở phía bắc trung tâm thành phố, và giới thiệu ma mới với những người khác mà y đã giúp trốn thoát.
Buenos Aires tràn ngập dân tị nạn Đức Quốc xã, Phát xít Ý, Falangist Tây Ban Nha, Rexist Bỉ và các thành viên lưu vong của chính phủ Vichy của Pháp, Đội cận vệ sắt Romania, Ustashi của Croatia và Arrow Cross của Hungary. Tổng số tội phạm chiến tranh cấp cao chỉ khoảng hàng trăm, nhưng hàng ngàn người khác đã từng là thành viên của các nhóm này và ít nhất là đồng lõa với sự tàn bạo của chiến tranh. Họ liên kết với nhau và một số rất thân thiết với Perón, làm việc trực tiếp cho chính phủ của ông hoặc cho các doanh nghiệp được nhà nước bảo trợ.
Eichmann nhận thấy rằng Buenos Aires có một cộng đồng người Đức vững chắc, với các khu dân cư riêng, câu lạc bộ tư nhân, trường học, nhà hàng và thậm chí cả ba tờ báo lớn bằng tiếng mẹ đẻ. Cộng đồng này chủ yếu ủng hộ Hitler trong thời chiến tranh, và nhiều người trong cộng đồng này có chung ác cảm với người Do Thái, 300.000 người trong số họ sống ở Argentina. Sự thất bại của Đế chế Thứ ba được coi là một bi kịch. Như một phóng viên nước ngoài đã viết vào tháng 5 năm 1945, “Trong số tất cả thủ đô của các quốc gia đang có chiến tranh với Đức, Buenos Aires nổi bật bởi có lẽ là nơi duy nhất không có biểu hiện vui mừng nào của công chúng về sự sụp đổ của Berlin.” Cú choáng váng chỉ được xoa dịu bởi cơn lũ vàng đến từ Đức trong những ngày trước và sau sự sụp đổ của Đế chế.
Nhờ sự giới thiệu của Fuldner, Eichmann cảm thấy thoải mái trong thế giới mới. Bản thân thành phố này khiến y nhớ đến châu Âu, phần lớn nhờ vào nhiều người nhập cư đến từ Tây Ban Nha, Ý, Anh và Đức vào đầu thế kỷ này. Giống như Paris hay Rome, Buenos Aires tự hào với những đại lộ thênh thang được che bóng bởi những cây tiêu huyền, những khu vườn xa hoa, những quảng trường trang nhã với trung tâm là đài phun nước chiến thắng bằng đá cẩm thạch, những biệt thự và tòa nhà chung cư hoành tráng được trang trí bằng những thiên thần và hoa. Có 47 nhà hát, đáng chú ý nhất là Colón, được thiết kế theo Paris Opéra. Vô số nhà hàng sang trọng, trường đại học danh tiếng, cửa hàng thời trang, câu lạc bộ độc quyền, nhà xuất bản trí thức và rạp chiếu phim tân nghệ thuật – Buenos Aires có tất cả. Niềm tự hào của người dân về bầu không khí lục địa của thành phố họ lớn đến mức khi họ đến nước láng giềng Chile hoặc Brazil, họ sẽ nói rằng họ đang “du lịch đến Nam Mỹ”.
Buenos Aires cũng là một thành phố thương mại hiện đại, từng là trung tâm của nền nông nghiệp phát triển của Argentina và tài nguyên thiên nhiên cũng như trung tâm công nghiệp của nó. Đường cao tốc và đường sắt lớn tỏa ra mọi hướng, đưa hàng từ nông thôn vào và cảng, một trong những cảng lớn nhất Nam Mỹ, đã xuất những hàng hóa đó ra nước ngoài. Tàu điện ngầm chạy bên dưới đường chân trời trắng xóa những tòa tháp cao chót vót, ô tô và xe buýt đã thay thế phần lớn những chiếc xe ngựa kéo đã từng thống trị đường phố (mặc dù chúng có thể vẫn được tìm thấy ở một số làn đường hẹp để giao sữa hoặc thịt). Nhiều ngân hàng phát triển mạnh ở trung tâm thành phố và thị trường chứng khoán nhộn nhịp giao dịch.
Nhưng Buenos Aires cũng có những khu ổ chuột nghèo ở vùng ngoại ô, nơi hàng trăm nghìn người sống chen chúc trong những căn lều bằng thiếc hoặc bìa cứng, một vòi duy nhất cung cấp nước cho 50 gia đình. Hoàn cảnh của họ càng trở nên tồi tệ hơn bởi một nền kinh tế chuyển phần lớn của cải của đất nước cho vài trăm đại gia và phải chịu cảnh thất nghiệp tràn lan, thâm hụt ngân sách bùng nổ và thị trường chợ đen sôi động.
Eichmann có 485 peso trong túi khi bước vào Buenos Aires. Với số tiền hạn chế và không có giấy tờ xin việc, Eichmann có thể đã rơi vào tình trạng khốn khổ trong khu ổ chuột nếu không có sự giúp đỡ của những người đã đưa y đến đó. Fuldner đảm bảo cho y một công việc trong một cửa hàng kim loại và tạo điều kiện cho cảnh sát Buenos Aires cấp thẻ căn cước Argentina cho y. Vào tháng 10 năm 1950, với những giấy tờ này trong tay, Eichmann giờ đây hoàn toàn là Ricardo Klement, một thường trú nhân và có đủ năng lực làm việc hợp pháp. Sau đó Fuldner đã thuê y làm kỹ sư tại công ty mới CAPRI của anh ta, được chính phủ tài trợ để xây dựng đập và nhà máy thủy điện ở Tucumán. Công ty có hơn ba trăm nhân viên người Đức, trong đó có Herbert Kuhlmann, người đã đi cùng Eichmann trên tàu Giovanna C, và hàng chục cựu thành viên Đức Quốc xã khác, trong số đó có một số quan chức cấp cao của đảng.
____
Vào ngày 30 tháng 6 năm 1952, Eichmann nhấm nháp maté bên ngoài ngôi nhà của mình ở ngôi làng La Cocha hẻo lánh ở tỉnh Tucumán cô quạnh, cách Buenos Aires bảy trăm dặm về phía tây bắc. Được bao quanh bởi những ngọn núi gồ ghề ở nhiều phía và một đồng bằng rộng, bằng phẳng ở phía nam, y sống một mình, không có điện, nước sinh hoạt, thậm chí không có cửa hàng tạp hóa hay bưu điện gần đó. Những cơn gió mùa đông quét xuống từ dãy Andes mang lại chút ít sự nhẹ nhõm cho không khí nóng và khô.

Eichmann đang lẫn trốn ở Tucumán, 1955
Eichmann thắng yên ngựa, mặc chiếc áo khoác poncho và đội chiếc mũ cao bồi bằng da rồi cưỡi ngựa xuống một trong những con sông chảy qua khu vực. Đến mép nước, y kiểm tra độ sâu của sông và cường độ dòng chảy, rồi ghi cả hai vào một cuốn sổ nhỏ. Vào cuối tuần, y sẽ báo cáo số đo của mình cho cấp trên và thu tiền lương của y. Eichmann kiếm được 2.500 peso mỗi tháng với tư cách là kỹ sư địa hình của CAPRI, công ty mà một số người hay đùa là viết tắt của “Compagnie Allemande Pour Recent Immigrant” (tiếng Pháp có nghĩa “Công ty Đức dành cho những người nhập cư gần đây”). Ngay cả trong số người đồng hương, Eichmann vẫn giữ kín và từ chối trả lời bất kỳ câu hỏi nào về quá khứ của mình. Khi người giám sát của y, Heinz Lühr, không hài lòng với công việc cẩu thả và thái độ kiêu căng của y, cố gắng tìm hiểu thêm về Ricardo Klement từ cấp trên, ông bị yêu cầu bỏ qua vấn đề đó và chỉ cần biết rằng Klement đã “trải qua những khó khăn trong quá khứ.”
Sau hai năm bị cô lập, cay đắng ngẫm nghĩ về thất bại của Đức và phải tiếp tục lẩn trốn, Eichmann mong mỏi vợ và ba con trai đến đoàn tụ với mình. Fuldner đã hỗ trợ Eichmann bí mật liên lạc với Vera. Lần đầu tiên y viết thư cho cô từ Argentina vào Giáng sinh năm 1950, nói rằng “chú của các con cô, người mà mọi người đều cho là đã chết, vẫn còn sống và khỏe mạnh – Ricardo Klement,” và kể từ đó y đã gửi tiền và chỉ dẫn cho cô đi du lịch.
Vì vậy vào một ngày năm 1952 khi Eichmann đang ở trên sông, thì gia đình y đang lên con tàu Salta ở Genoa. Y ghét việc vợ mình phải sử dụng tên thời con gái của bà và ba người con trai của y phải khai rằng cha họ đã chết và họ sẽ đến Argentina để đoàn tụ với chú mình, nhưng y không thể chắc chắn rằng cuộc săn lùng mình đã kết thúc. Các biện pháp phòng ngừa vẫn hơn.
Ba tuần sau, Eichmann bắt tàu tới Buenos Aires. Ngay sau khi y đến, đất nước chìm trong tang thương với cái chết vào ngày 26 tháng 7 của Eva Perón, vợ của Juan Perón và là đệ nhất phụ nhân được nhân dân yêu quý. Cờ được treo rũ ở nửa cột buồm. Các nhà máy và văn phòng chính phủ đều đóng cửa. Dưới bầu trời giông bão xám xịt ở thủ đô, người ta treo chân dung của “thủ lĩnh tinh thần” của Argentina tại các giao lộ và trên các bảng quảng cáo, cũng như những đám rước dưới ánh nến chạy dọc các đường phố.
Hai ngày sau khi bà qua đời, các hành khách trên tàu Salta xuống tàu giữa một trận mưa xối xả. Eichmann cử hai người bạn đến cảng để đón gia đình, đề phòng trường hợp họ bị phát hiện rời Genoa. Họ được đưa đến một khách sạn bình thường.
Khi Eichmann xuất hiện ở ngưỡng cửa, vợ y đã khóc vì sung sướng. Dù vui mừng nhưng bà không thể không nhận thấy chồng mình đã già đi đáng kể. Người y khom lưng rõ rệt hơn, khuôn mặt trông uể oải và xám xịt, mái tóc y đã thưa đi.
“Ta là chú Ricardo của các con,” Eichmann nói với các con trai của mình, Klaus hiện đã mười sáu, Horst mười hai và Dieter mười tuổi.
Nghĩ rằng cha mình chết đã nhiều năm, hai đứa con trai nhỏ của y cũng không thắc mắc gì về câu nói người đàn ông trước mặt chính là chú của chúng. Nhưng Klaus biết rằng đây là cha mình. Tuy vậy, anh vẫn không nói gì. Eichmann đưa cho mỗi con 100 peso và các cậu trai chạy đi khám phá. Hai đứa con út mua kem và kẹo, còn Klaus, giống bố, mua bao thuốc lá đầu tiên. Sau đó, gia đình đi ra ngoài ăn tối. Eichmann rất vui khi được ở bên các cậu con trai của mình một lần nữa.
Khi Eichmann và Vera ở một mình, bà mang ra đống mẩu báo mà bà đã thu thập được trong bảy năm qua về những tội ác khủng khiếp mà y đã gây ra. Bà muốn một lời giải thích. Eichmann trở nên tức giận khủng khiếp, khuôn mặt biến thành một chiếc mặt nạ cứng. “Veronika,” y nói cay đắng, “Anh chưa từng giết một người Do Thái nào, cũng như không ra lệnh giết một người Do Thái nào.” Bà không bao giờ hỏi y về quá khứ nữa.
Ngay khi đường sắt bắt đầu hoạt động trở lại sau tang lễ cấp nhà nước của Eva Perón, họ đã bắt chuyến tàu Pullman Express đến Tucumán, sau đó đi xe tải đến ngôi nhà hẻo lánh của Eichmann. Ở đó, y tiết lộ sự thật về danh tính của mình cho các con trai và nói với họ rằng họ không bao giờ được nói cho ai biết “Chú Ricardo” thực sự của họ là ai. Tuy nhiên, y từ chối yêu cầu các con trai của mình sống dưới bất kỳ cái họ nào khác ngoài Eichmann.
Trong những tháng tiếp theo, các cậu bé cưỡi ngựa ở vùng nông thôn và học một trăm từ Tây Ban Nha cần thiết (không hơn, không kém, họ được hướng dẫn). Họ gọi cha mình là Der Alte, “ông già”. Vera nấu các bữa ăn, dọn dẹp ngôi nhà nhỏ, quản lý ngân sách eo hẹp để giúp họ tiết kiệm và đọc Kinh thánh mỗi sáng. Lần đầu tiên kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Eichmann ở chung nhà với gia đình trong hơn vài ngày hoặc vài tuần mỗi lần. Bây giờ anh cảm thấy mình có thể bắt đầu lại cuộc đời.
____
“Bà Eichmann và các con trai bà đã biến mất.”
Wiesenthal cúp máy và ngay lập tức lên đường từ Linz đến Altaussee, nơi người cung cấp thông tin cho ông đã gọi đến, để điều tra. Đó là tháng 7 năm 1952. Với sự hỗ trợ của cảnh sát Áo, ông đến thăm ngôi nhà ở số 8 Fischerdorf và phỏng vấn những người hàng xóm cũng như họ hàng của Vera Eichmann vẫn còn ở trong khu vực.
Hoàn cảnh ra đi của họ đã thuyết phục Wiesenthal rằng họ đã rời đi để đoàn tụ với Eichmann. Trong nhà trống rỗng đồ đạc, giữa sân có một cái hố vừa mới đào, như thể có người đã lấy lên một vật bị chôn vùi, có lẽ là tiền hoặc tài liệu. Chủ nhà cho rằng Vera Eichmann đã chuyển đi mà không báo trước cho y hay hủy hợp đồng thuê. Y không biết cô và ba đứa con trai đã đi đâu. Các nam sinh đã rời trường vào giữa năm, không đưa ra lời giải thích nào cho hiệu trưởng cũng như không yêu cầu bản sao hồ sơ để nộp đơn vào trường khác. Một người dân gần đó cho rằng Vera đã đến Brazil để kết hôn với một chủ trang trại giàu có. Em gái cô khai ra một chi tiết mâu thuẫn rằng Vera đã tái hôn và chuyển đến Đức, nhưng cô khẳng định rằng cô chưa bao giờ gặp chồng của em gái mình. Ngay sau đó, Wiesenthal phát hiện ra một hồ sơ trong lãnh sự quán Đức ở Graz tiết lộ rằng Vera gần đây đã nhận được hộ chiếu Đức dưới tên thời con gái của mình. Các con trai của bà là Horst và Dieter có thể đi du lịch bằng hộ chiếu của bà vì họ còn nhỏ. Klaus đã có được hộ chiếu của riêng mình.
Wiesenthal biết rằng gia đình là cơ hội cuối cùng để truy tìm Eichmann. Bây giờ họ đã biến mất, không cách nào để ông tìm ra nơi của y. Ông đã nghe tin đồn rằng Eichmann đang ở Nam Mỹ, Đức hoặc Trung Đông, nhưng tất cả chỉ có thế thôi, các tin đồn.
Wiesenthal rơi vào trạng thái trầm cảm. Ông hầu như không ăn hoặc uống. Ông bị mất ngủ, thức đêm với người chết – bạn bè, người thân và những người lạ mà ông sẽ không bao giờ biết. Khi vợ hỏi điều gì đang khiến ông lo lắng, ông trả lời: “Đức Quốc xã đã thua cuộc chiến tranh, nhưng chúng tôi đang thua cuộc hậu chiến.” Wiesenthal gặp bác sĩ, người nói với ông rằng công việc của ông đối với bản thân chính là “kéo dài cuộc sống trại tập trung.” Bác sĩ khuyên Wiesenthal nên tìm một sở thích; ít nhất, điều này sẽ làm giảm căng thẳng của mình. Wiesenthal đồng ý suy nghĩ về điều đó nhưng phủ nhận mọi đề nghị rằng ông ta nên ngừng truy đuổi tội phạm chiến tranh. Cuối cùng, ông đã chuyển sang sưu tập tem và thấy rằng mình rất thích công việc này.
Người đồng hương của ông là Tuviah Friedman đã xong việc tìm kiếm tội phạm chiến tranh. Trong vài năm qua, ông đã rùng mình khi nhìn thấy cảnh sát mới trên đường phố Vienna, nhiều người ở độ tuổi cuối hai mươi và đầu ba mươi. Ông tin chắc rằng một số người từng là lính canh trong các trại tập trung, nhưng bộ phận quản lý cảnh sát chối kiểm tra quá khứ của họ. Friedman được khuyên hãy để chuyện đã qua cứ cho qua, một ý kiến mà ông biết cũng phổ biến ở Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) mới thành lập.
Nhiệm vụ của ông tại trung tâm tài liệu ngày càng giảm bớt, vì hầu hết những người sống sót trong trại và những người Do Thái di tản đã tái định cư ở Israel, Châu Âu hoặc Hoa Kỳ. Bạn bè của Friedman thúc giục ông xem xét lại tương lai của mình, nói rằng: “Anh đã chìm đắm trong nỗi buồn và nước mắt của người Do Thái” quá lâu. Cô dâu tương lai của anh, Anna, đã quyết định di cư đến Israel để học ngành y, và Friedman đã hài lòng. Anna là một người sống sót sau thảm họa Holocaust đến từ Hungary và cảm thấy rằng Israel là nơi duy nhất cô cảm thấy thoải mái. Anh không thể phủ nhận điều này với cô.
Friedman đang chuẩn bị lên đường đến Israel thì nghe tin Vera Eichmann và các con trai của bà mất tích. Mặc dù tin chắc rằng ông và Simon Wiesenthal là hai người duy nhất còn quan tâm đến việc tìm kiếm Adolf Eichmann và đồng bọn, ông biết rằng mình cũng phải đến Israel. Ông chuyển hồ sơ về lời chứng thực của những người sống sót và các hồ sơ khác trong hai chiếc hòm khổng lồ đến Yad Vashem, một trung tâm ở Israel mới được thành lập để lưu trữ hồ sơ nạn diệt chủng Holocaust. Sau đó ông rời đi đến Haifa tìm việc làm và cưới Anna.
Trong chuyến thăm trở lại Vienna vào tháng 12 năm 1952, Friedman đã gặp Wiesenthal. “Tadek,” Wiesenthal nói, “hãy nhắc nhở người Israel về Eichmann: Đừng để họ bảo bạn quên điều đó đi. Hãy để chính phủ Israel làm mọi thứ họ muốn – xây nhà, dạy mọi người tiếng Do Thái, phát triển một đội quân hùng mạnh. Tốt thôi. , rất tốt. Nhưng họ cũng phải bắt đầu tìm kiếm Eichmann. Hãy bắt họ làm gì đó.”
Friedman đã giữ lại hồ sơ của mình về Eichmann. Ông đã không gửi nó cho Yad Vashem. Nhưng, ông bảo với bạn, mình cần chuyển sang cuộc sống khác.
Nắm chặt tay Friedman, Wiesenthal nhấn mạnh: “Hãy nghĩ mà xem. Khi Eichmann bị bắt, y sẽ bị xét xử bởi một tòa án Do Thái ở một nhà nước Do Thái. Lịch sử và danh dự của nhân dân chúng ta, Tadek: Cả hai đều đang lâm nguy.”
Cuối năm 1953, sau một năm không có tin tức gì về Eichmann, một sự xoay chuyển kỳ diệu của số phận đã mang lại cho Wiesenthal lời khuyên tốt nhất về nơi ở của kẻ chạy trốn kể từ khi cuộc tìm kiếm của ông bắt đầu. Ông đã sắp xếp một cuộc gặp với một nam tước già người Áo ở Innsbruck để thảo luận về tem. Một nhà quân chủ tận tụy từng chịu đau khổ dưới thời Hitler, Nam tước Mast nói với vị khách của mình rằng ông rất đau khổ khi những tên Đức Quốc xã trước đây đang giành lại các vị trí cao cấp trong chính phủ như thể “không có gì thay đổi”.
Từ ngăn kéo bàn làm việc của mình, nam tước đưa cho Wiesenthal một lá thư của một đại tá Không quân Đức, người chưa bao giờ ưa Hitler và hiện đang sống ở Argentina. “Những con tem đẹp phải không?” Nam tước nhận xét. “Nhưng hãy đọc những gì bên trong.”
Wiesenthal mở lá thư và lặng lẽ đọc nội dung của nó: “Ở đây có một số người mà cả hai chúng ta đều từng biết. Một vài người nữa ở đây . . . mà bạn chưa bao giờ gặp.” Hãy tưởng tượng xem tôi còn gặp ai nữa – và thậm chí phải nói chuyện tới hai lần: con lợn xấu xa Eichmann đã khống chế người Do Thái. Tên ấy sống gần Buenos Aires và làm việc cho một công ty cấp nước.”
“Làm sao mà bạn thích điều đó được?” Nam tước hỏi. “Một số tên tồi tệ nhất đã trốn thoát”
Quá kinh ngạc, Wiesenthal vội vã quay lại khách sạn để ghi lại những gì mình đã đọc cũng như tên và địa chỉ của người gửi. Khi trở về Linz, ông gọi điện cho lãnh sự Israel ở Vienna và tiếp theo bằng cách gửi cho ông ta một gói hàng chứa nội dung bức thư của nam tước, tiểu sử của Eichmann, các bản sao về chữ viết tay, bức ảnh chụp của y và biên niên sử về cuộc tìm kiếm y kéo dài 8 năm. Wiesenthal nhấn mạnh rằng nếu người Israel lần theo dấu vết, họ sẽ tìm thấy Eichmann.
Nhiều tháng trôi qua mà không có tin tức gì từ Israel, Wiesenthal trở nên đau khổ trước viễn cảnh sẽ không có hành động nào được thực hiện, nhưng ông chẳng thể làm được gì nhiều. Ông không có đủ tiền để đến Buenos Aires và cũng không nói được tiếng Tây Ban Nha. Ngoài ra, chính phủ Argentina còn hoan nghênh những cựu thành viên Đức Quốc xã và phần lớn có thái độ thù địch với người Do Thái.
Ngay cả khi tìm thấy Eichmann, ông biết rằng mình sẽ không thể bắt giữ được y và giải y ra khỏi đất nước. Tuy nhiên, ông vẫn hy vọng rằng người Israel sẽ có hành động nào đó.
Vào ngày 30 tháng 3 năm 1954, hy vọng đó cũng bị dập tắt. Lãnh sự Israel, Arie Eshel, đã gặp Wiesenthal và nói với ông rằng người Israel sẽ cần thêm thông tin chi tiết về vị trí của Eichmann trước khi tham gia vào một cuộc điều tra.
Họ không có đủ nguồn lực để kiểm tra mọi tin đồn liên quan đến Eichmann. Họ đã có đủ việc phải lo, việc xây dựng nhà nước và giải quyết các vấn đề căng thẳng đang leo thang với Ai Cập. Israel cần tập trung vào tương lai chứ không phải quá khứ. Eshel đề nghị Wiesenthal liên hệ với Nahum Goldmann, người sáng lập Đại hội Do Thái Thế giới và bên cạnh thủ tướng Israel David Ben-Gurion, nhà lãnh đạo Do Thái có ảnh hưởng nhất trên trường thế giới. Theo Eshel, Goldmann quan tâm đến những gì Wiesenthal đã biết về Eichmann.
Cùng ngày hôm đó, Wiesenthal viết một lá thư cho Goldmann. Ông mở đầu bức thư như thế này: “Tôi đã làm việc với Eichmann nhiều năm rồi, và mặc dù tôi luôn gặp may mắn với vô số người khác, tôi lại luôn gặp xui xẻo trong trường hợp này.” Ông lặp lại những chi tiết mình đã gửi cho người Israel và sau đó cầu xin Goldmann hành động quyết liệt về thông tin này. Ông kết luận, “Tôi chỉ hy vọng rằng người mà bạn giao phụ trách vụ này sẽ may mắn hơn tôi. Trong mọi trường hợp, tôi sẵn sàng hết lòng tham gia vào vụ án một lần nữa nếu nó có lợi cho bạn.”
Sau đó Wiesenthal lại đợi một lần nữa. Ông mong đợi một phản hồi nhanh chóng, nhưng hai tháng trôi qua mà không có lời hồi âm nào. Cuối cùng, ông nhận được một thư từ Abraham Kalmanowitz, một giáo sĩ và học giả Do Thái nổi tiếng ở New York, và Goldmann đã chuyển tài liệu của mình cho giáo sĩ. Kalmanowitz muốn biết liệu Wiesenthal có địa chỉ chính xác của Eichmann hay không, bí danh của y ta và bằng chứng chắc chắn rằng y ta vẫn còn sống hay không. Kalmanowitz viết: “Điều này rất quan trọng vì chúng tôi không có nhân chứng đáng tin cậy nào cho thấy Eichmann đã được nhìn thấy kể từ khi chiến tranh kết thúc”. Wiesenthal thất vọng trả lời rằng có nhiều dấu hiệu cho thấy Eichmann còn sống, bao gồm cả việc y đã trốn thoát khỏi Ober-Dachstetten và những hoạt động đáng ngờ của bà vợ y. Về địa chỉ và bí danh của y, ông không có, nhưng ông gợi ý rằng họ có thể thuê một điều tra viên nói tiếng Tây Ban Nha với giá 500 đô la đến Buenos Aires. Kalmanowitz phản bác rằng nhiều khả năng Eichmann đang ở Damascus, Syria, theo thông tin tình báo gần đây nhất từ các nguồn tin của ông. Hơn nữa, giáo sĩ cho biết, ông “quan tâm nhất đến bằng chứng xác thực về nơi ở của Adolf Eichmann, vì đó là thông tin duy nhất mà Chính phủ của chúng tôi sẽ hành động.”
Wiesenthal không hề hay biết, Giáo sĩ Kalmanowitz đã nhiều lần cố gắng thúc đẩy CIA tham gia vào cuộc điều tra Eichmann, bắt đầu từ mùa thu năm 1953. Giáo sĩ Do Thái đã gửi thư cho tổng thống Hoa Kỳ, Bộ trưởng Ngoại giao và Giám đốc Cơ quan Tình báo Trung ương. . Ông cũng đã tuyển dụng một thượng nghị sĩ bang New Jersey để gây áp lực lên Washington. Tháng 10 năm đó, CIA trả lời: “Chúng tôi không có chủ trương bắt giữ tội phạm chiến tranh.” Hơn nữa, cơ quan này cho biết, ngay cả khi CIA tìm thấy Eichmann, thì cơ quan này cũng chỉ có cách giải quyết là thông báo cho chính phủ Tây Đức, theo luật gần đây, có thẩm quyền đối với tất cả tội phạm chiến tranh. Tuy nhiên, thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer cũng không mấy quan tâm đến việc theo đuổi họ, ông đã đưa ra tuyên bố này hai năm trước: “Đã đến lúc phải từ bỏ mùi hôi của Đức Quốc xã… Nếu chúng ta lại một lần nữa bắt đầu từ đó, không ai biết nó sẽ kết thúc ở đâu.” Kalmanowitz đã chuyển bức thư của Wiesenthal cho CIA, nhưng điều này không thúc đẩy cơ quan này thực hiện bất kỳ hành động nào.
Chán nản vì sự trao đổi của mình với Kalmanowitz, Wiesenthal đã viết một lá thư cuối cùng cho Goldmann, thông báo cho ông ta rằng một báo cáo gần đây của Reuters cho biết Eichmann đã bị những người báo thù Do Thái xử tử trong một khu rừng bên ngoài Linz rõ ràng là sai và Kalmanowitz đã chứng tỏ việc thúc đẩy cuộc điều tra về đầu mối ở Argentina là vô ích Goldmann không trả lời. Ngay sau đó, Wiesenthal đóng cửa văn phòng của mình, đóng gói tài liệu của mình vào những hộp bìa nặng gần 1.200 cân và chuyển chúng đến Yad Vashem. Giống như Friedman, ông cũng lưu giữ hồ sơ riêng về Eichmann, nhưng trong tâm trí, ông đã hoàn tất việc truy đuổi bóng ma này, người mà dường như không ai khác quan tâm. Nỗi thất vọng vì không tìm được tên tội phạm chiến tranh khiến ông thao thức suốt đêm và ám ảnh ông suốt cả ngày. Theo nhiều cách, Eichmann đã trở thành hiện thân của cỗ máy Đức Quốc xã lần đầu tiên bước xộc vào cuộc đời Wiesenthal tháng 7 năm 1941, khi ông bị bắt và xếp hàng dựa vào bức tường cùng với 40 người Do Thái khác ở Lvov. Một nửa nhóm đã bị giết bằng những phát đạn vào cổ trước khi tiếng chuông nhà thờ vang lên, báo hiệu Thánh lễ buổi tối sắp đến, làm gián đoạn cuộc thảm sát.
Với những trận chiến đang hoành hành ở Triều Tiên và sự đối đầu giữa phương Tây và Liên Xô ngày càng leo thang, thế giới không thể bận tâm đến những tội ác trong quá khứ. Những người bạn Mỹ của ông nói với Wiesenthal: “Chúng tôi có những vấn đề khác. Đây dường như là thái độ của mọi người nên cuộc săn lùng Eichmann bị bỏ dở.