Lược sử các Giáo Hoàng- Bài 4

Christopher Lascelles

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG 4

Tự Do và Củng Cố

Thế giới đã trở thành Cơ-đốc giáo và ‘bóng tối vô hình tuyệt vời đó’, đối với một triết gia ở thế kỷ thứ tư, dường như đã xóa bỏ ‘mọi điều đẹp đẽ’, không phải thông qua sự cải đạo của đám đông hay sự thay đổi chung của quan điểm, hoặc thông qua bất kỳ áp lực nào từ bên dưới . . mà bằng một hành động của quyền lực.”

Yeats, Một Tầm Nhìn

Tranh chấp đầu tiên lọt vào tai Constantine là của những người theo giáo phái Donatism, nhóm Cơ đốc ly giáo và khắt khe đến từ Bắc Phi. Họ đã bác bỏ việc phong thánh cho Giám mục Carthage vào năm 311 vì một trong những giám mục dự lễ phong thánh  dường như đã giao nộp các bản sao Kinh thánh cho chính quyền La Mã trong cuộc đàn áp thời Diocletian. Ông ta đã trở thành một kẻ phản bội. Những người theo giáo phái Donatism cho rằng các bí tích như lễ rửa tội và hôn phối do những traditor này ban cho là không hợp lệ, vì những người này là những kẻ hèn nhát đã từ chối đức tin của mình. Những tác động đối với linh hồn của những tín hữu mà họ phục vụ sẽ là vĩnh viễn. Đối thủ của họ, trên mặt khác, tuyên bố rằng các bí tích vẫn có giá trị cho dù người ban chúng có tội lỗi đến đâu. Kể từ đó, những người biện hộ cho Cơ đốc giáo đã sử dụng lập luận này để ủng hộ thẩm quyền đạo đức của giáo hoàng bất chấp hành động của hàng loạt giáo hoàng đáng ghê tởm.

Nếu chúng ta đồng ý với giả thuyết rằng Constantine đã chấm dứt cuộc đàn áp những tín đồ  Cơ đốc như một biện pháp mang lại sự thống nhất cho đế chế, thì điều đó chắc chắn khiến ông vô cùng khó chịu khi những tín đồ  Cơ đốc đang cấu xé nhau. Để giải quyết tranh chấp, ông đã triệu tập các phe đối lập tới La Mã, tại đây ông tuyên bố rằng giám mục của thành phố, Miltiades, sẽ đưa ra phán quyết mà tất cả các bên phải tuân theo. Trong khi Constantine tin tưởng một cách rõ ràng rằng ông có thẩm quyền đối với Giám mục La Mã, chúng ta không nên cho rằng ông tin Giám mục La Mã có thẩm quyền đối với các giám mục khác. Rất có thể, với tư cách là người có thẩm quyền hàng đầu của Cơ đốc giáo trong thành phố, Miltiades chỉ đơn giản được trao quyền chủ trì phiên điều trần nhân danh hoàng đế.

Miltiades đúng là ra phán quyết chống lại những người theo Donatism và sau đó nghĩ rằng vấn đề đã kết thúc. Nhưng quyền lực của giáo hoàng rõ ràng là không hề tuyệt đối, vì những người theo Donatism từ chối chấp nhận quyết định và kháng cáo, vượt qua đầu giáo hoàng, trực tiếp đến hoàng đế để xin cứu xét về tính hợp lệ của chính nghĩa của họ. Thay vì ủng hộ phán quyết của Giám mục La Mã, vị hoàng đế có vai trò như là Maximus Pontifex, bao gồm cả quyền tài phán trong các tranh chấp của Giáo hội – đã ra lệnh tổ chức một hội đồng Giáo hội để giải quyết vấn đề. Và thế là cuộc họp đại diện đầu tiên của các giám mục Cơ đốc giáo ở Đế chế Tây La Mã, được tổ chức tại Arelate (Arles ngày nay) ở miền nam Gaul vào năm 314, không phải do Giám mục La Mã triệu tập mà bởi một hoàng đế chưa được rửa tội. Trên thực tế, Giám mục La Mã thậm chí còn không có mặt. Thật không may cho những người theo Donatism, hội đồng đã quyết định chống lại họ: trong khi các giáo sĩ traditor sẽ bị phế truất, các hành động của họ vẫn có hiệu lực. Tệ hơn nữa, Constantine đã kịp thời ra lệnh tịch thu các nhà thờ theo phái Donatism và trục xuất những người đứng đầu. Đây là lần đầu tiên quyền lực nhà nước đàn áp được sử dụng nhân danh Giáo hội, điềm báo những sự kiện sắp xảy ra.

Những bất đồng giữa Constantine và người đồng cấp phía đông của ông, Licinius, cuối cùng đã dẫn đến tình trạng bế tắc kéo dài 10 năm. Licinius là một người ngoại giáo, có vẻ như ông đã ký Sắc lệnh Milan do nhu cầu chính trị hoặc áp lực từ Constantine hơn là do bất kỳ niềm tin nào vào triết lý cơ bản của nó. Bằng chứng về điều này xuất hiện vài năm sau đó khi ông lại bắt đầu đàn áp các tín đồ Cơ đốc giáo ở phương Đông. Constantine cuối cùng đã gặp Licinius trong trận chiến năm 324 và xử tử ông ta trong vòng một năm. Constantine bây giờ là người cai trị duy nhất của thế giới La Mã, và ông sẽ giữ nguyên vị trí đó trong 13 năm.

Đế chế có thể đã được thống nhất về mặt chính trị dưới sự chỉ đạo của một hoàng đế, nhưng một cuộc chiến thần học giờ đây đã nổ ra đe dọa chia rẽ đế quốc về mặt tinh thần. Đối mặt với cuộc ly giáo Donatist ở Bắc Phi khi ông trở thành Augustus của phương Tây vào năm 312 (Bắc Phi là một phần của Đế chế phương Tây), Constantine đã sớm nhận ra rằng Giáo hội ở phương Đông cũng bị chia rẽ nghiêm trọng. Tuy nhiên, quy mô của cuộc ly giáo này đã vượt quá bất cứ điều gì mà ông đã giải quyết trước đây. Trên thực tế, Giáo hội sẽ không phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng quy mô như vậy nữa cho đến phong trào Cải cách vào thế kỷ 16.

Một linh mục tên là Arius từ Alexandria ở Ai Cập đã châm ngòi lại cuộc tranh luận cũ kỹ về thần tính của Christ. Ông ta tuyên bố rằng Jesus không thiêng liêng, nhưng đã được tạo ra bởi Đức Chúa Cha. Trong khi là tạo vật tốt nhất của Chúa, ông ấy từng có một khởi đầu và do đó không phải là vĩnh hằng, như Chúa Cha. ‘Có một thời điểm khi ông (Christ) không phải như mình  đã nhìn nhận.’ Arius đã phát biểu rằng Christ không hoàn toàn là con người cũng không hoàn toàn là thần thánh. Ông dạy rằng Đức Chúa Trời đã tạo dựng thế giới qua Christ, và  Christ đã nhập vào thân thể con người để cứu nhân loại khỏi tội lỗi. Để ủng hộ quan điểm của mình, Arius đã viện dẫn nhiều câu khác nhau trong Kinh thánh. Jesus đã tuyên bố: ‘Cha cao trọng hơn ta’; ‘Ta không thể tự mình làm việc gì’; ‘Vì ta từ trời xuống, không phải để làm theo ý mình, mà làm theo ý Đấng đã sai ta’; ‘Tại sao các ngươi lại gọi ta là tốt? Không ai tốt lành ngoại trừ một mình Chúa Trời.’ Ông cũng tuyên bố không biết giờ phán xét, khiến Arius đặt câu hỏi làm thế nào mà Đấng toàn giác lại không thể biết điều gì đó. Cuối cùng, ông đặt câu hỏi làm sao một đấng toàn năng lại có thể chịu đựng không chỉ cái chết của một con người mà còn cả cái chết khốn khổ và đau đớn của một tội phạm.

Ý tưởng của ông cực kỳ phổ biến và ông nhanh chóng thu hút được một lượng lớn người theo vì nhiều tín đồ  Cơ đốc tin rằng sự phân biệt giữa Chúa Trời và Jesus là hợp lý. Đối với nhiều người trong số họ, việc Jesus là một tạo vật riêng biệt đóng vai trò trung gian giữa Đức Chúa Trời và loài người là điều hợp lý. Nhưng những tín đồ Cơ đốc phái Paul (Phao-lồ) kịch liệt không đồng ý với ông. Nếu Đấng Christ không có thần tính thì không thể có sự cứu rỗi, vì một sinh vật đơn thuần không thể cứu chuộc các sinh vật khác, và dù thế nào đi nữa, việc tôn thờ một tạo vật sẽ bị coi là thờ hình tượng. Họ phản đối những tuyên bố của Arius và những người theo ông, những người được gọi là tín đồ Arian bằng những câu phúc âm khác ủng hộ quan điểm của mình. Chẳng phải Jesus cũng đã nói: ‘Ta và Chúa Cha là một’;  ‘Ai thấy Ta là thấy Chúa Cha’: và ‘Ta ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Ta.’? Ngoài ra, Paul đã tuyên bố trong các bức thư của mình rằng trong Chúa Kitô (Christ) ‘toàn bộ Thần tính ngự trị trong thân xác’, và Thomas đã tuyên bố rằng Jesus là ‘Chúa của tôi và là Chúa Trời của tôi.’ Họ tuyên bố tất cả đều rất đơn giản; Chúa đã xuống trần gian dưới hình dạng con người, gánh lấy tội lỗi của chúng ta trên vai, chịu đau khổ và chết để chúng ta được sự sống đời đời. Đề xuất khác với  điều này là công việc của ma quỷ.

Những cuộc tranh luận này kéo dài cho đến giữa thế kỷ thứ năm, gây khó chịu cho những con chiên bình thường, ít học, những người dựa vào các nhà lãnh đạo Giáo hội để có được thẩm quyền kinh thánh, vì hầu hết mọi người tin rằng sự cứu rỗi của họ phụ thuộc vào niềm tin đúng đắn. Tất cả đều vô cùng khó hiểu, đặc biệt là khi những tuyên bố dường như mâu thuẫn xuất hiện trong cùng một chương của cùng một phúc âm, ví dụ: ‘Ta và Cha là một’ và ‘Cha vĩ đại hơn ta.’ Làm sao người ta biết được điều gì để tin ngoài những điều mà các nhà lãnh đạo Giáo hội địa phương đã dạy họ?

Khi một nhóm giám mục phẫn nộ lên án Arius và trục xuất ông khỏi Alexandria, ông trốn sang Palestine, nhưng ý tưởng của ông rất phổ biến và sự vắng mặt của ông không ngăn cản họ truyền bá tín điều của ông. Chẳng bao lâu sau, toàn bộ Cơ đốc giáo Đông phương đã biến thành một chiến trường thần học, nơi không có gì lạ khi những kẻ theo các giáo phái đối lập đánh nhau trên đường phố, sự thù hằn lẫn nhau giữa họ là như thế.

Hoàng đế Constantine lo lắng rằng sự chia rẽ trong Giáo hội sẽ làm suy yếu sự hậu thuẫn cho ông và gây nguy hiểm cho sự thống nhất của đế chế. Nếu bây giờ chỉ có một quốc gia và một hoàng đế, thì việc chỉ có một Giáo hội là đúng đắn, mà vai trò của họ tất nhiên là cầu nguyện cho quốc gia và hoàng đế. Nhưng làm sao Chúa Trời có thể nghe được tiếng cầu nguyện của con người giữa các cuộc cãi vã như vậy? Quan trọng không kém, làm sao những người ngoại giáo có thể coi trọng đạo Cơ đốc nếu những tín đồ  Cơ đốc không thể thống nhất về giáo lý cơ bản? Rõ ràng cần phải làm gì đó để giải quyết vấn đề.

Công đồng Nicaea (325)

Một lần nữa, với tư cách là Pontifex Maximus, Constantine lại phải can thiệp. Do đó, ông đã viết thư cho cả hai bên, kêu gọi họ giải quyết những khác biệt của mình. Khi việc này thất bại, ông đã nhờ cố vấn đáng tin cậy của mình, Hosius, Giám mục của Cordova (ngày nay ở Tây Ban Nha) cố gắng hòa giải họ, nhưng Hosius cũng không thành công. Constantine chết lặng. Những Cơ Đốc nhân này có thể bướng bỉnh đến mức nào?

Với việc các bên từ chối thỏa hiệp, Constantine đã triệu tập các giám mục của đế chế đến Nicaea – không xa nơi cung điện mùa hè của ông  tại Nicomedia ở đó cuối cùng ông  ấy sẽ giám sát việc xây dựng thủ đô mới của mình ở Byzantium (sau này đổi tên Constantinople) – để cuộc tranh luận có thể được giải quyết một lần và mãi mãi. Điều trớ trêu vẫn chưa kết thúc trong Giáo Hội: không chỉ Đấng Christ đã bị xử tội chết theo lệnh của nhà nước La Mã, mà chỉ 20 năm trước đó Giáo hội đã trở thành nạn nhân của những vụ bức hại  do nhà nước tiến hành. Giờ đây, một vị hoàng đế chưa được rửa tội, người mới đây đã ra lệnh xử tử vị đồng hoàng đế của mình (và người sau này sẽ xử tử chính con trai ông ta) lại đang kêu gọi một hội đồng Giáo hội. Các giám mục, nhiều người trong số họ bị tàn tật vì bị tra tấn theo lệnh của các hoàng đế trước đó, không thể chấp nhận được sự thật rằng họ được hoàng đế mời.

Công đồng Nicaea, năm 325, là công đồng ‘đại kết’ đầu tiên (toàn Giáo hội) trong lịch sử và là một trong những sự kiện quan trọng nhất của thế kỷ thứ tư. Trong bài phát biểu khai mạc, Constantine nhận xét rằng “xung đột trong Giáo hội của Chúa Trời là xấu xa và nguy hiểm hơn bất kỳ loại chiến tranh hay xung đột nào” và khuyến khích họ “bắt đầu từ thời điểm này hãy loại bỏ những nguyên nhân của sự chia rẽ đã tồn tại giữa các ông”. , và loại bỏ những phức tạp của cuộc tranh cãi bằng cách tuân theo các nguyên tắc hòa bình.’ Họ đều là người lớn nên chắc chắn họ có thể đồng ý? Có lẽ ông ta không quan tâm tới quyết định của họ, miễn là công đồng đạt được sự thống nhất.

Cuộc tranh cãi về giáo thuyết Arian đã được thảo luận trong hai tuần, sau đó chính Arius được mời phát biểu trước hội đồng. Nhưng đó là một kết luận đã biết trước: khi ông nói, một số giám mục có mặt đã bịt tai lại và nhắm mắt phản đối. Cuối cùng khi họ được yêu cầu bỏ phiếu, tất cả trừ hai người đều bác bỏ quan điểm của ông. Arius bị coi là dị giáo và bị trục xuất khỏi đế quốc cùng với hai giám mục bỏ phiếu trắng, sách của ông bị đốt và những người theo ông bị lên án là kẻ thù của Cơ đốc giáo. Tệ hơn nữa đối với người Arian, hoàng đế phê chuẩn các sắc lệnh của công đồng và thi hành chúng trên khắp đế quốc: bất cứ ai không tuân theo chúng sẽ bị trừng phạt như thể họ đã phạm tội chống lại nhà nước. Đây là sự khởi đầu nối tiếp của một cuộc đàn áp dân sự kéo dài đối với những người rời bỏ đức tin Cơ đốc.

Công đồng đã ban hành 20 giáo luật, bao gồm cả thỏa thuận cuối cùng về ngày lễ Phục sinh, một vấn đề đã gây khó chịu cho Giáo hội kể từ cuối thế kỷ thứ hai. Nhưng nổi tiếng nhất là việc áp dụng Kinh Tin Kính Nicaea, lời tuyên xưng đức tin, hay danh sách các niềm tin chính thức – lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội thừa nhận thần tính của Christ  là quan điểm được Giáo hội chấp nhận. Với một vài thay đổi nhỏ được thực hiện vào cuối thế kỷ đó, nó đã tồn tại hơn 1.600 năm và được đa số Kitô hữu ngày nay ở cả Đông và Tây chấp nhận. Kinh Tin Kính nói rằng Jesus không phụ thuộc vào Chúa Cha, nhưng “đồng bản thể” (cùng một hữu thể) và đã tồn tại với Ngài ngay từ đầu.

Kinh Tin Kính Nicaea (325)

Chúng tôi tin kính một Chúa Trời là Cha toàn năng,

Đấng tạo ra mọi thứ cả hữu hình lẫn vô hình. Và trong một Chúa Jesus Kitô, Con Thiên Chúa, Con Một từ Chúa Cha, tức là từ bản thể của Chúa Cha, Thiên Chúa từ Thiên Chúa, ánh sáng từ ánh sáng, Thiên Chúa thật từ Thiên Chúa thật, được sinh ra không phải được tạo thành, đồng bản thể với Chúa Cha, nhờ Ngài mà có muôn vật trên trời cũng như dưới đất; vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, Người đã xuống thế nhập thể, làm người, chịu đau khổ và sống lại vào ngày thứ ba Ngài lên trời, sẽ đến phán xét kẻ sống và kẻ chết. Chúng tôi cũng  tin vào Chúa Thánh Thần.

Khi bạn đọc kinh này, bạn sẽ thấy ngay là Kinh Tin Kính Nicea được viết đặc biệt nhằm chống lại niềm tin của người Arian. Những từ ‘Thiên Chúa từ Thiên Chúa’ và ‘được sinh ra chứ không phải được tạo thành’ cho thấy rõ rằng Jesus vừa là thần thánh vừa giống hệt Chúa Cha, chứ không phải là một loài thọ tạo. Công đồng đã kết thúc việc giải phẫu bởi bất kỳ ai dám tiếp tục tuyên bố rằng ‘đã từng có khi ông ấy không phải là thần thánh.” Nói cách khác, khốn thay cho bất cứ ai nói rằng Jesus đã được tạo dựng.

Giám mục La Mã ở đâu trong thời điểm quan trọng này của lịch sử Giáo hội? Người ta có thể nghĩ rằng người đại diện của Christ trên Trái đất sẽ có mặt tại cuộc họp lớn nhất của các giám mục Cơ đốc giáo trong lịch sử Giáo hội, nhưng thực tế không phải vậy. Thay vào đó, Giáo hoàng Sylvester (314-35) đã cử hai linh mục đến đại diện cho ông, viện lý do tuổi tác để bào chữa cho sự vắng mặt của mình. Mặc dù những người này đã ký các sắc lệnh của công đồng nhưng họ không được yêu cầu chủ trì bất kỳ cuộc tranh luận nào, đó là điều quan trọng vì nó gợi ý rằng các giám mục tham dự tin rằng Giám mục La Mã không có thẩm quyền nào lớn hơn họ.

Constantinople – La Mã Mới –

Giờ đây, cuộc ly giáo trong Cơ đốc giáo dường như đã được giải quyết, Constantine tập trung vào việc xây dựng thủ đô mới của mình từ đó việc quản lý (và đánh thuế) đế chế sẽ dễ dàng hơn (và an toàn hơn) nhiều. Thị trấn Hy Lạp cổ đại Byzantium – cái tên mà các học giả sau này đặt cho Đế chế Đông La Mã – dường như là địa điểm lý tưởng vì nhiều lý do. Thị trấn nằm giữa châu Âu và châu Á, khiến nó trở thành một trung tâm liên lạc tuyệt vời hưởng lợi từ việc trở thành trung tâm của nhiều tuyến đường thương mại khác nhau. Vị trí của nó ở khu vực phía đông  giàu có hơn và nơi tập trung thương mại hưng thịnh hơn của đế chế sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu các khoản thuế rất cần thiết để tài trợ cho việc bảo vệ biên giới của đế chế. Điều quan trọng là tất cả các thành phố lớn của đế quốc ngoại trừ La Mã đều ở phía Đông. Sự tồn tại của một bến cảng tự nhiên có nghĩa là thành phố có thể được tiếp tế dễ dàng bằng tàu biển trong khi được bao quanh bởi biển trên ba mặt giúp việc phòng thủ trở nên dễ dàng. So với La Mã, nó cũng gần hơn nhiều đối với hai biên giới dễ bị tổn thương nhất của đế chế, được phân định bởi sông Danube ở phía Bắc, nơi bị các bộ lạc người Đức đe dọa và sông Euphrates ở phía Đông, bị người Ba Tư đe dọa.

Constantine bắt đầu một chương trình xây dựng khổng lồ và tốn kém, và vào năm 328 đã chuyển thủ đô của đế chế từ La Mã đến ‘La Mã thứ hai’ này sau này được gọi là ‘Tân La Mã’. Vào tháng 5 năm 330, thành phố này được đổi tên thành ‘Constantinople’ – thành phố của Constantine để vinh danh hoàng đế, được dâng tặng cho Đức Trinh Nữ Maria. Kể từ thời điểm đó, trọng tâm của Đế chế La Mã chuyển về Constantinople, và Đế chế Byzantine ra đời.

Sự thay đổi quyền lực này thoạt đầu có vẻ là một thảm họa đối với người La Mã vì nó thể hiện sự mất uy tín, tài năng và thu nhập. Mặc dù La Mã không phải là thủ đô chính thức của đế chế kể từ khi bị Diocletian chia cắt vào năm 286, nhưng nó vẫn đóng vai trò là thủ đô không chính thức nhờ di sản của nó và thực tế là Viện Nguyên lão vẫn ở đó. Ngay cả vinh dự này bây giờ cũng phải bị thu hồi. Tệ hơn nữa, nó khiến thành phố dễ bị tấn công hơn.

Tuy nhiên, động thái này hóa ra không hẳn là một thảm họa như đã mong đợi: Trong khi Thượng phụ Constantinople, vì ở gần hoàng đế, đã trở thành cấp dưới của ông ta, việc di chuyển triều đình về phía đông đã cho phép Giám mục La Mã trở thành quyền lực chính trong thành phố và bành trướng quyền uy của mình ở phương Tây. Không lâu sau, ông bắt đầu áp dụng phong cách đế quốc trong cách giao tiếp với các nhà thờ phương Tây khác.

Constantine có phải là tín đồ Cơ đốc không?

Có hai quan điểm về việc liệu hoàng đế Constantine I, người đầu tiên dung túng và tích cực thúc đẩy Cơ đốc giáo, có phải thực sự là một tín đồ đạo Cơ đốc hay chỉ đơn giản là một bậc thầy về chính sách thực dụng, một nhà lãnh đạo chính trị khôn ngoan, người nhìn thấy gió thổi hướng nào phất cờ hướng nấy.

Những người cho rằng Constantine đã thực sự cải đạo sang Cơ đốc giáo chỉ ra rằng ông ủng hộ hoàn toàn những tín đồ  Cơ đốc. Họ cũng chỉ ra chương trình xây dựng nhà thờ của ông (bao gồm Vương cung thánh đường Thánh Peter); việc trả lại cho nhà thờ tài sản bị tịch thu; việc cấp đất hào phóng cho nhà thờ; công trình xây thủ đô mới của ông theo đường hướng Cơ đốc giáo; việc ông từ chối tham gia đám rước ngoại giáo ở La Mã năm 326 sau khi đánh bại Licinius; việc ông quy định  Chúa nhật là một ngày lễ Cơ đốc giáo, và vân vân. Constantine cũng chọn đường lối khoan dung và sau đó tích cực xiển dương một tôn giáo hòa bình khi sự an toàn của đế chế phụ thuộc vào việc sở hữu một đội quân mạnh mẽ. Hẳn là điều kỳ lạ khi đề cao tôn giáo này khi mà người sáng lập ra nó được coi là đã chết một cái chết nhục nhã của một tên tội phạm, nếu ông ta không tin vào đức tin đó.

Những người cho rằng việc Constantine khoan dung với Cơ đốc giáo hoàn toàn là một động thái chính trị chỉ ra rằng nhiều lợi ích có thể sẽ tích lũy được từ đường lối hành động này. Những điều này bao gồm việc củng cố cơ sở quyền lực của ông thông qua việc giành được sự ủng hộ của những tín đồ  Cơ đốc; khôi phục sự thống nhất rất cần thiết cho đế chế bị bao vây bằng cách chấm dứt đàn áp một thiểu số ngày càng tăng; giành được sự ủng hộ ở các thành phố quan trọng khác, nơi Cơ đốc giáo có ảnh hưởng đáng kể; và khuyến khích Cơ-đốc nhân phục vụ trong quân đội bằng cách chứng tỏ mình đang chiến đấu trong trận chiến của Đấng Christ. Nói chung, đó sẽ là một quyết định rất sắc sảo cho dù ông ấy không phải là một tín đồ.

Việc Constantine tuyên bố đã thắng Trận Cầu Milvian và các trận chiến tiếp theo với sự giúp đỡ của vị thần Cơ đốc giáo không nhất thiết có nghĩa là ông đã từ bỏ niềm tin vào tất cả các vị thần khác. Cho rằng La Mã là một xã hội đa thần, rất có thể ban đầu ông coi vị thần Cơ đốc giáo chỉ là một vị thần khác đã mang lại chiến thắng cho ông trong chiến tranh. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là,  khi Viện Nguyên lão dành tặng một khải hoàn môn ở La Mã cho Constantine vào năm 315, dòng chữ chỉ đơn giản ghi rằng ông đã giành được chiến thắng ‘với sự động viên của thần thánh’. Người La Mã được quyền quyết định xem đó có phải là vị thần của Cơ đốc giáo hay, thần Sol Invictus , Mặt trời Bất bại, vốn đã được cha của Constantine tôn thờ hay bất kỳ vị thần nào khác trong số hệ thần La Mã phổ biến vào thời điểm đó. La Mã vẫn còn rất ngoại giáo nên việc thừa nhận một cách công khai vị thần của Cơ đốc giáo ở giai đoạn đó có thể là một bước đi quá xa.

Thật hợp lý khi bằng cách này hay cách khác Constantine, hoặc các thành viên trong gia đình ông, cho rằng thắng lợi của ông tại Cầu Milvian là nhờ vị thần Cơ đốc giáo. Mẹ của ông, Helena, được biết đến là một tín đồ  Cơ đốc, và theo truyền thống, vợ ông, Prisca, và con gái, Valeria, cũng theo đạo Cơ đốc. Rất có thể ông ta là một người theo đa thần giáo khi tuyên bố sắc lệnh Milan, nhưng vào một thời điểm nào đó trong thời gian trị vì của mình, ông ấy đã trở thành một Cơ đốc nhân, sau đó sự tận tâm của ông đối với đức tin ngày càng tăng và ông đã thúc đẩy và ủng hộ Cơ đốc giáo nơi đâu có thể. Ông rõ ràng là tàn nhẫn khi cần thiết; ông ta đã xử tử đồng hoàng đế Licinius với mình, và không tỏ ra vô tư hay tha thứ ngay cả với các thành viên trong gia đình mình (năm 326, ông ta xử tử con trai cả của mình, Crispus, và người vợ thứ hai và mẹ kế của Crispus, Fausta, mặc dù lý do chính xác vẫn chưa rõ ràng, (một số sử gia cho rằng họ ngoại tình). Cuối cùng, hoàng đế đã được rửa tội dù đang hấp hối vào năm 337.

Bất kể niềm tin thực sự của mình là gì, Constantine đã đóng một vai trò quan trọng trong việc công nhận và phát triển Cơ đốc giáo, và có một vai trò lớn hơn nhiều so với bất kỳ Giám mục nào của La Mã cho đến nay. Ông trao cho Cơ đốc giáo các quyền hợp pháp và tập hợp những tín đồ  Cơ đốc bất hòa lại với nhau trong công đồng đại kết đầu tiên, sau đó tán thành các quyết định của hội đồng. Đối với tất cả những gì ông đã làm cho Cơ đốc giáo, ông được tôn kính như một vị thánh trong Chính thống giáo và các truyền thống Cơ đốc khác.

Bình luận về bài viết này