Truy sát Bin Laden: Cuộc săn lùng 10 năm từ ngày 11/9 đến Abbottabad (Bài 7)

Peter l. Bergen

Trần Quang Nghĩa dịch

6 KHÉP VÒNG VÂY QUANH KẺ ĐƯA TIN

CON ĐƯỜNG DÀI ĐẾN NGƯỜI đưa tin của bin Laden bắt đầu với Mohammed al-Qahtani, người mà al-Qaeda đang chăm chút để trở thành tên không tặc thứ 20 trong những tháng trước vụ tấn công 11/9. Qahtani là một người lang bạt có trình độ học vấn thấp đến từ Kharj, một vùng nông thôn hẻo lánh ở vùng trung tâm bảo thủ sâu sắc của Ả Rập Saudi, nơi nền giáo dục bao gồm phần lớn là nghiên cứu về kinh Koran, nên ngay khi trưởng thành hắn  đã tin rằng mặt trời quay quanh Trái đất. Vào cuối những năm 1990, Qahtani bỏ học đại học nông nghiệp và chuyển đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, nơi hắn làm một loạt công việc tầm thường trong vài năm. Trở về nhà, hắn lái xe cấp cứu một thời gian rồi xin làm công nhân cho một công ty điện lực.

Năm 2000, anh chàng Saudi 25 tuổi đã trải qua một cuộc thức tỉnh tôn giáo mãnh liệt, khiến hắn tìm thấy một mục đích mới trong cuộc sống. Hắn bỏ việc làm bế tắc ở công ty điện lực và bỏ đi đến Afghanistan để theo đuổi một cuộc sống hào nhoáng hơn khi chiến đấu bên cạnh Taliban chống lại kẻ thù Liên minh phương Bắc – lực lượng cuối cùng đứng giữa Taliban và chiến thắng toàn diện của họ ở Afghanistan.

Ở Afghanistan vào đầu năm 2001, Qahtani huấn luyện cách sử dụng vũ khí thông thường tại một trại của al-Qaeda và nhanh chóng gặp bin Laden, kẻ lúc đó đang nghiên cứu sâu về kế hoạch tấn công Washington và New York. Bin Laden nói với chàng trai trẻ người Ả Rập Saudi rằng nếu muốn phục vụ đạo Hồi, anh ta nên tham khảo ý kiến ​​của Khalid Sheikh Mohammed (KSM), người chỉ huy điều hành vụ tấn công sắp tới vào nước Mỹ. Vào cuối tháng 6 năm 2001, Qahtani một lần nữa gặp mặt bin Laden và nói với ông ta rằng mình đã “sẵn sàng cho một nhiệm vụ ở Hoa Kỳ.” KSM sau đó hướng dẫn Qahtani trở lại Ả Rập Saudi để có được một hộ chiếu mới, “sạch” không có bất kỳ con dấu nhập cảnh nào vào Afghanistan và Pakistan dễ gây ngờ vực, và cả xin visa vào Hoa Kỳ,  mà, với tư cách một công dân Ả Rập Saudi, Qahtani có thể không gặp khó khăn như người dân các nước Ả Rập khác nghèo hơn, chẳng hạn như Yemen, thường gặp phải. KSM đã đưa cho Qahtani khoảng 5.000 USD, và Qahtani bay tới Ả Rập Saudi,  tại đó hắn lấy hộ chiếu mới  và xin thị thực đến Hoa Kỳ và từ đó đi tiếp đến Orlando, Florida, và cuối cùng đến nơi vào ngày 4 tháng 8 năm 2001.

Mohammed Atta, kẻ cầm đầu vụ tấn công 11/9, đang đợi hắn tại bãi đậu xe ở sân bay Orlando. Atta đã lên kế hoạch lôi kéo Qahtani vào âm mưu 11/9 với tư cách là một trong những tên không tặc “cơ bắp”, những tên sẽ giúp kiềm chế hành khách và phi hành đoàn. Nhưng một quan chức nhập cư nhạy bén của Mỹ nghi ngờ việc Qahtani không nói được tiếng Anh và đi bằng vé một chiều. Thông qua một thông dịch viên, quan chức nhập cư đã hỏi Qahtani chi tiết về thời gian hắn dừng chân ở Hoa Kỳ, nghe hỏi thế, kẻ được al-Qaeda tuyển mộ bỗng trở nên tránh né và tỏ ra tức tối. Sau khi được thông báo rằng mình bị từ chối nhập cảnh vào Hoa Kỳ, Qahtani đe dọa: “Tôi sẽ quay lại”.

Qahtani quay trở lại Afghanistan và, sau vụ 11/9, bị cuốn vào cuộc rút lui vội vã của al-Qaeda về Tora Bora vào cuối mùa thu năm 2001. Ngay sau khi bin Laden biến mất khỏi Tora Bora, Qahtani và một nhóm vệ sĩ của thủ lĩnh al-Qaeda rút lui qua biên giới sang Pakistan, tại đó họ bị bắt vào ngày 15 tháng 12 và bị giao nộp cho Mỹ.

Qahtani được gửi đến nhà tù Guantánamo, nơi lúc đầu hắn nói với những người bắt giữ mình rằng hắn đã đến Afghanistan vì yêu thích nuôi chim ưng, một câu chuyện ngụy tạo không hiếm gặp của al-Qaeda. Nhưng đến tháng 7 năm 2002, các nhân viên điều tra đã đối chiếu dấu vân tay của Qahtani với dấu vân tay của một thanh niên Ả Rập Saudi tức tối đã bị trục xuất khỏi Orlando một năm trước đó. Điều này đã kích hoạt một chế độ thẩm vấn chuyên sâu hơn nhiều đối với Qahtani, và hắn ngày càng trở nên bất hợp tác, có thời điểm húc đầu vào một nhân viên thẩm vấn.

Từ ngày 23 tháng 11 năm 2002 đến ngày 11 tháng 1 năm 2003, Qahtani bị thẩm vấn trong 48 ngày, ít nhiều liên tục, bị đánh thức khỏi giường lúc 4 giờ sáng để tham gia các phiên thẩm vấn kéo dài đến tận nửa đêm. Nếu ngủ gật, hắn sẽ bị dội nước lạnh hoặc bị buộc phải nghe một bản nhạc đặc biệt khó chịu của Christina Aguilera. Hắn bị buộc phải giả làm chó, thường xuyên phải tiếp xúc với nhiệt độ thấp, phải đứng trần truồng, và bất cứ khi nào hắn lộ vẻ yếu xìu, hắn đều bị ép dùng thuốc và  thụt hậu môn để cuộc thẩm vấn có thể tiếp tục.

Cách đối xử ngược đãi này đã tạo ra những biến chuyển rõ rệt trong hành vi của Qahtani. Một quan chức FBI sau đó lưu ý rằng hắn bắt đầu “biểu hiệu các hành vi phù hợp với chấn thương tâm lý cực độ (nói chuyện với những người không tồn tại, báo cáo đã nghe thấy tiếng nói, chui mình dưới khăn trải giường phủ lên trên trong phòng giam hàng giờ liền).” Và cách đối xử đối với Qahtani chẳng khác tra tấn, theo Susan Crawford, cựu thẩm phán liên bang, người được chính quyền Bush bổ nhiệm giám sát ủy ban quân sự Guantánamo. Crawford xác định rằng những tác động tích lũy đối với Qahtani của tình trạng bị cô lập kéo dài, thiếu ngủ, khỏa thân và tiếp xúc với cái lạnh triền miên là đủ đáp ứng với định nghĩa pháp lý về tra tấn. Kết quả là Crawford ra phán quyết rằng Qahtani không bao giờ có thể bị truy tố vì bất cứ điều gì.

Từ các bản báo cáo bí mật về các cuộc thẩm vấn tại Guantánamo của Qahtani được WikiLeaks công bố, có vẻ như tại một thời điểm nào đó, hắn đã nói với những thẩm vấn viên rằng KSM đã giới thiệu hắn với một người đàn ông tên là Abu Ahmed al- Kuwaiti, và người này đã hướng dẫn hắn cách liên lạc bí mật an toàn với các thành viên al-Qaeda khi hắn đến Hoa Kỳ. Vào tháng 7 năm 2001, người Kuwait đã đưa hắn đến một quán cà phê Internet ở thành phố Karachi náo nhiệt của Pakistan và dạy hắn cách liên lạc bí mật, ắt hẳn là hướng dẫn hắn  phương pháp “hộp thư chết” qua liên lạc email an toàn  lúc đó đang thịnh hành ở al-Qaeda, theo đó hai thành viên của nhóm sẽ mở một tài khoản email chung được bảo mật và viết các bản nháp email cho nhau mà không hề thực sự gửi qua Internet, nhưng cả hai vẫn có thể truy cập ở dạng bản nháp.

Việc Qahtani khai nhận rằng người Kuwait đã đào tạo hắn về hoạt động an ninh dường như là lần đầu tiên các quan chức Mỹ nhận ra rằng người Kuwait là một tay chơi trong al-Qaeda và là người tin cẩn của KSM. Không rõ liệu Qahtani tiết lộ thông tin đó vì hắn bị thẩm vấn cưỡng bức hay không, bởi vì những người thẩm vấn đã nói với hắn rằng KSM, đã bị bắt ở Pakistan vào ngày 1 tháng 3 năm 2003, đang bị người Mỹ giam giữ và vì vậy Qahtani nghĩ rằng mình được phép tiết lộ thông tin liên quan đến khâu kết nối  tin cẩn của KSM hoặc vì lý do nào khác. Dù thế nào đi nữa, Qahtani đã xác định được danh tính người Kuwait trong quá trình thẩm vấn, trong đó hắn bị bộ phận bắt giữ lạm dụng, mặc dù rất có thể hắn đã xác định việc nhận diện  này trước khi bị thẩm vấn cưỡng bức.

Các nhân viên thẩm vấn Mỹ giờ đây đã biết rằng người Kuwait đã giúp huấn luyện những tên không tặc tiềm năng cho nhiệm vụ 11/9, nhưng vẫn chưa có cảm nhận nào về việc hắn có thể là người đưa tin chủ chốt của bin Laden. Hay Abu Ahmed al-Kuwaiti chỉ là một trong hàng trăm tên và bí danh của các thành viên al-Qaeda và cộng sự mà các nhà thẩm vấn đã biết được vào năm 2002 và 2003 từ những tên bị giam giữ tại Guantánamo, từ những tên bị giam giữ trong các nhà tù bí mật của CIA ở Đông Âu và từ các tài liệu thu được ở Afghanistan sau sự sụp đổ của Taliban.

Khi KSM mới bị bắt, CIA tưởng rằng việc bắt giữ y có thể sớm dẫn đến việc bắt được bin Laden. Michael Scheuer, người từng lãnh đạo đơn vị chuyên trách về bin Laden tại CIA khi cơ quan này được thành lập vào tháng 12 năm 1995, thì ít lạc quan hơn hầu hết người khác. . Ông biết rằng bin Laden có ý thức về an toàn tốt hơn nhiều so với KSM và một số thủ lĩnh al-Qaeda khác đã bị bắt trong những năm ngay sau vụ 11/9. Scheuer nói: “Những kẻ đó là những kẻ hung hãn, họ là thế hệ đầu tiên, họ không nghĩ rằng có một viên đạn nào dành cho họ”. Trên thực tế, những bức thư và hình ảnh được tìm thấy trong vụ KSM không cung cấp bất kỳ manh mối thực sự nào về nơi ở của bin Laden.

Ban đầu KSM do người Pakistan giam giữ và y đã cung cấp cho họ một số thông tin hữu ích mà CIA dường như đã bỏ qua, hoặc có lẽ đã không được báo cáo. Một ngày sau khi bị bắt, y nói với những người thẩm vấn rằng bin Laden có thể đang ở tỉnh Kunar ở Afghanistan. Y cũng nói với họ rằng lá thư cuối cùng y nhận được từ bin Laden được gửi qua một người đưa tin, và ông trùm của y đã được Ahmed al-Kuwaiti và một người tên là Amin ul-Haq giúp đỡ trốn khỏi Tora Bora. Tất cả thông tin này là chính xác. Không rõ thông tin được moi ra  từ ​​KSM như thế nào, nhưng các thẩm vấn viên Pakistan được biết là cũng sử dụng các phương pháp hỏi cung nghiệt ngã nếu cần.

KSM sau đó đã được chuyển giao cho người Mỹ giam giữ. Cho dù bị trấn nước 183 lần và có lúc bị bắt đứng yên tại chỗ suốt bảy ngày rưỡi trong khi mặc tã và bị xiềng xích tại một nhà tù bí mật của CIA ở miền bắc Ba Lan, KSM vẫn không thừa nhận vai trò quan trọng của Kuwait trong al-Qaeda, thay vào đó chỉ khai với thẩm vấn viên vào cuối năm 2003 là người Kuwait giờ đây đã “nghỉ hưu”. Nhưng hy vọng KSM có thể cung cấp Bia Đá Rosetta [bia đá nổi tiếng trong giới khảo cổ có khắc hai ngôn ngữ song hành là chữ tượng hình Ai Cập và chữ Hy Lạp, nhờ đó nhà khảo cổ Champollion mới có thể đối chiếu và tìm ra được cách đọc chữ tượng hình Ai Cập: ND] cho al-Qaeda dâng cao đến nỗi nhà phân tích cao cấp Frederica của CIA đã bay từ trụ sở chính của Cơ quan ở Virginia đến Ba Lan để mục kích KSM bị trấn nước.

Việc KSM khẳng định rằng người Kuwait đã nghỉ hưu là điều lạ lùng vì không có quá nhiều thành viên của al-Qaeda được biết là đã nghỉ hưu. Thật ra, thông tin mà KSM đã cung cấp cho các thẩm vấn viên ở Mỹ vài tháng trước đó đã dẫn đến việc bắt giữ ở Thái Lan một gã có tên là Hambali, thủ lĩnh của nhóm Jemaah Islamiya, một chi nhánh độc hại ở Đông Nam Á của al-Qaeda. Khi các quan chức CIA thẩm vấn Hambali, hắn nói rằng lúc trốn khỏi Afghanistan sau khi Taliban sụp đổ, hắn đã trú ngụ trong một ngôi nhà an toàn của al-Qaeda ở Karachi, nơi được quản lý bởi … người Kuwait.

Và ngay sau khi KSM khai rằng người Kuwait đã nghỉ hưu, một tên đưa tin của al-Qaeda có tên Hassan Ghul nói với người thẩm vấn của CIA một câu chuyện khác. Ghul, một gã Pakistan bị bắt vào giữa tháng 1 năm 2004 tại miền bắc Iraq mang theo một bức thư gửi bin Laden từ thủ lĩnh của al-Qaeda ở Iraq nài nỉ xin được phép tiến hành cuộc chiến quy mô chống lại người Shia ở Iraq. Rõ ràng là Ghul đã có quyền tiếp cận vào vòng trong của al-Qaeda ở Pakistan và thế là hắn đã được đưa đến một nhà tù bí mật ở Đông Âu. Tại đó hắn phải chịu nhiều kỹ thuật thẩm vấn cưỡng bức, bao gồm tát vào mặt, đập đầu vào tường, buộc phải duy trì tư thế căng thẳng và không được ngủ. Những người thẩm vấn Ghul cũng yêu cầu được phép sử dụng hình phạt trần truồng, giội nước và bắt nhịn ăn, nhưng không rõ liệu những kỹ thuật này có thực sự được sử dụng với Ghul hay không. Tại một thời điểm nào đó, Ghul nói với những người thẩm vấn rằng người Kuwait là kẻ đưa tin của bin Laden và thường xuyên tháp tùng ông trùm al-Qaeda. Hắn cũng cho biết người Kuwait cũng được KSM và Abu Faraj al-Libi, người kế nhiệm KSM với tư cách là chỉ huy hoạt động của al-Qaeda, tin cẩn.

Libi đã chủ mưu hai vụ ám sát nghiêm trọng nhưng cuối cùng không thành công nhằm vào tổng thống Pakistan Pervez Musharraf vào tháng 12 năm 2003, và vì vậy y trở thành đối tượng được các cơ quan an ninh Pakistan đặc biệt quan tâm. Libi khá dễ nhận biết vì một căn bệnh về da khiến khuôn mặt y bị biến dạng với những mảng trắng lốm đốm tại những vùng thiếu sắc tố melanin. Kết quả là Libi giữ vị trí số ba trong al-Qaeda chỉ vài năm trước khi bị bắt ở Pakistan vào ngày 2 tháng 5 năm 2005, tại thành phố Mardan, cách Abbottabad một trăm dặm, nơi chính bin Laden sẽ sớm đến sống trong sáu năm tới.

Một tháng sau khi bị bắt, Libi được giao cho CIA. Các kỹ thuật thẩm vấn cưỡng chế (mặc dù không phải trấn nước) đã được sử dụng đối với y, và y khai với các thẩm vấn viên Mỹ rằng sau khi KSM bị bắt, chính y, Libi, đã nhận được thông báo từ bin Laden thông qua người đưa tin rằng y đã được thăng chức lên vị trí số ba của KSM trong al Qaeda. Vào thời điểm được thăng chức, Libi đang sống ở Abbottabad, một dấu hiệu ban đầu cho thấy thành phố này là căn cứ của al-Qaeda. Phải bảy năm nữa CIA mới tập trung vào Abbottabad như một nơi ẩn náu khả dĩ của thủ lĩnh al-Qaeda. Libi cũng nói với những người thẩm vấn rằng người Kuwait không phải là một nhân vật quan trọng trong al-Qaeda và trên thực tế, chính “Maulawi Abd al-Khaliq Jan” mới là người đưa tin đã thông báo cho y về việc được bin Laden thăng chức. Các quan chức chống khủng bố sau đó kết luận rằng Maulawi Abd al-Khaliq Jan là một cái tên bịa đặt.

Có phải nhờ tiến hành thẩm vấn cưỡng bức mới truy ra bin Laden? Những kỹ thuật như vậy đã được sử dụng với Qahtani, tên không tặc thứ 20, và Ghul, người đưa tin Pakistan của al-Qaeda bị bắt ở Iraq. Ở một thời điểm nào đó, mặc dù không rõ ở giai đoạn nào trong các cuộc thẩm vấn của họ, nhưng chúng đã cung cấp cho người thẩm vấn thông tin khiến CIA tập trung vào người Kuwait như một lộ trình khả thi để tìm ra bin Laden. Sự kiện này dường như,  đối với những người chủ trương kỹ thuật thẩm vấn này,   chứng minh được rằng chúng có hiệu quả. Tuy nhiên, những người chỉ trích kỹ thuật này có thể chỉ ra rằng các phương pháp khắc nghiệt cũng đã được CIA sử dụng để khiến KSM và Libi phải mở miệng, nhưng cả hai người đó đều cung cấp thông tin sai lệch cho người thẩm vấn về người Kuwait. Vì chúng ta không thể quay ngược lịch sử nên chúng ta sẽ không bao giờ biết được nếu chỉ sử dụng các kỹ thuật thẩm vấn thông thường, liệu có thể rút ra được điều gì từ bốn tù nhân này hay không. Vào tháng 12 năm 2012, Ủy ban Tình báo Thượng viện đã bỏ phiếu phê chuẩn kết quả cuộc điều tra kéo dài ba năm về chương trình thẩm vấn của CIA. Một trong những phát hiện quan trọng của cuộc điều tra đó là các kỹ thuật thẩm vấn cưỡng chế không đóng vai trò gì trong việc cung cấp manh mối dẫn đến bin Laden. Và như chúng ta sẽ thấy, cũng có các bước khác trên con đường tìm kiếm bin Laden mà không mấy  liên quan đến thông tin thu được từ những thành viên al-Qaeda bị giam giữ.

Robert Richer, một sĩ quan hoạt động bí mật kỳ cựu, người điều hành Phân khu Cận Đông của CIA sau ngày 11/9, nói rằng, bất chấp những tuyên bố thường xuyên của các quan chức chính quyền Bush, thông tin từ những tên bị giam giữ không đặc biệt hữu ích trong việc ngăn chặn các cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra: “Nếu bạn định hỏi tôi những chiến dịch khủng bố nào thực sự đã bị đánh bại dựa trên thông tin do những người bị giam giữ cung cấp, tôi sẽ rất khó để đưa ra cho bạn một câu trả lời. Tôi chỉ có thể nói rằng chúng tôi có một số tên; chúng tôi có thể theo dõi một số người.” Việc thẩm vấn những người bị giam giữ hữu ích là ở chỗ, Richer nói, nó ráp vào điều mà ông ta so sánh với bảng ráp chữ Scrabble gần như trống trơn vốn là cấu trúc của al-Qaeda mà CIA biết đến ngay sau vụ 11/9. [Scrabble là trò chơi ráp chữ phổ biến của Mỹ, trong đó mỗi người chơi phải khéo léo ráp những thẻ vuông các chữ cái mình có được vào một bảng vuông gồm những ô trống có hệ số khác nhau từ 1 đến 3, để tạo thành một từ có nghĩa. Mối thẻ có một số điểm khác nhau, ví dụ thẻ chữ cái A có giá trị 1 điểm, thẻ chữ cái Z có giá trị 10 điểm. Nếu thẻ lọt vào ô hệ số 2 hay 3 thì số điểm của thẻ được nhân 2 hay 3. Điểm của người chơi trong mỗi lượt là tổng số các điểm của thẻ kế cả hệ số đã tạo nên từ ấy: ND]. Kết hợp với những thông tin khác mà CIA thu được từ các tài liệu và việc nghe lén điện thoại, các cuộc thẩm vấn những kẻ bị giam giữ có thể đưa điều cuối cùng đó vào ô làm chúng tôi có được điểm gấp ba.”

Robert Dannenberg, người điều hành các hoạt động chống khủng bố của CIA từ năm 2003 đến 2004, đồng ý với đánh giá này: “Những tên đó đã cung cấp rất nhiều thông tin vô giá về al-Qaeda. Tôi sẽ không nói nhiều về những âm mưu cụ thể – bạn biết đấy, Abu sắp sửa đánh bom và cho nổ tung một nhà ga xe lửa ở New York, không – nhưng những tay chơi là ai và mối quan hệ của chúng là gì, phương thức hoạt động của chúng ra sao . .. Nó cung cấp cho chúng tôi một bản đồ về al-Qaeda mà lẽ ra chúng tôi phải mất nhiều năm mới tập hợp được nếu không có chương trình này. Và đó là một giá trị đang tiếp diễn. Chúng tôi liên tục cho chạy những bức ảnh qua mắt những tên này và chúng nói, ‘Như thế này-thế này..’ “

Cả KSM và Libi đều không cung cấp bất kỳ thông tin nào có thể giúp ích cho việc truy lùng trùm khủng bố bin Laden. Các quan chức dần dần nhận ra rằng đối với các thành viên cấp cao của al-Qaeda mà họ đang giam giữ, bất kỳ kiến ​​thức nào chúng sở hữu có thể dẫn đến bin Laden đều là “những viên ngọc trên vương miện” sẽ được những người bị giam giữ bảo vệ bằng mọi giá.

Vì cả KSM và Libi đều hạ thấp tầm quan trọng của người Kuwait đối với al-Qaeda nên y bắt đầu trở thành đối tượng thực sự được CIA quan tâm. Nhưng người Kuwait thì không dễ tìm thấy, nhất là vì y có vô số bí danh, bao gồm “Mohamed Khan” (một cái tên ở Pakistan gần như tương đương với John Smith ở Mỹ), “Arshad Khan” và “Sheik Abu Ahmed,” trong khi Tên thật của y, Ibrahim Saeed Ahmed, hầu như không ai biết đến ngoài gia đình trực hệ của y.

Thêm vào sự nhầm lẫn, người Kuwait này xuất thân từ một gia đình đông anh em, ít nhất một người trong số họ đã chết ở Afghanistan sau vụ 11/9. Năm 2006, những người thẩm vấn đã được một tù nhân Mauritania,  đã gia nhập al-Qaeda trong khoảng năm đầu tiên của tổ chức này, khai rằng người Kuwait đã chết trong vòng tay của một tân binh al-Qaeda khác trong Trận Tora Bora. Điều này gợi ý cho CIA rằng người Kuwait cũng có thể là thành viên của al-Qaeda. Nhưng bây giờ y đã chết rồi sao?

Nhiều năm trôi qua sau ngày 11/9, Tổng thống Bush đã từ bỏ khẩu khí  “sống hay chết” lúc ban đầu về việc tìm ra bin Laden và hiếm khi nhắc đến y trước công chúng. Nếu ông làm vậy thì có nghĩa là, như ông đã làm vào tháng 3 năm 2002,  bin Laden đã bị “bị gạt ra ngoài lề”. Rốt cuộc, không cần thiết phải thêm vào hồ sơ ​​của thủ lĩnh al-Qaeda vốn đã là huyền thoại bằng cách nhắc nhở thế giới rằng y vẫn tiếp tục trốn tránh sự đuổi bắt của Mỹ.

Tuy nhiên, trong chốn riêng tư, Bush không bao giờ bỏ qua chủ đề này. Michael Hayden, giám đốc CIA trong hầu hết nhiệm kỳ thứ hai của Bush, nhớ lại: “Khi tôi bước vào Phòng Bầu dục vào khoảng 8 giờ sáng thứ Năm, Tổng thống sẽ nhìn lên, ‘Này, Mike, chúng ta đến đâu rồi?’ Và trong tâm trí của bất kỳ ai có mặt  trong Phòng Bầu dục khi đó đều biết chắc ông ấy đang hỏi về điều gì. Ông ấy đang hỏi về tình hình truy đuổi Osama bin Laden.” Một trong các quan chức dẫn đầu cuộc săn lùng bin Laden nhớ lại một cách lạnh lùng, “Các câu hỏi của tổng thống đã được chuyển lại cho chúng tôi.”

Hayden có vẻ niềm nở và ánh mắt lấp lánh của một ông chú được yêu mến, nhưng sự cuốn hút dễ gần của ông che giấu nét cứng cỏi của một người lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động ở Pittsburgh và vươn lên trở thành tướng không quân bốn sao. Trước khi đứng đầu CIA, Hayden đã có nhiều năm lãnh đạo Cơ quan An ninh Quốc gia cực kỳ bí mật (NSA), cơ quan thu thập hàng terabyte dữ liệu từ các cuộc gọi điện thoại và email trên khắp thế giới. NSA trong nhiệm kỳ của Hayden cũng gây nhiều tranh cãi, bởi lẽ dù chưa nhận được lệnh từ thẩm phán trước, đã nghe lén các cuộc trò chuyện qua điện thoại diễn ra ở Hoa Kỳ của những người bị nghi ngờ có quan hệ với al-Qaeda.

Hayden thỉnh thoảng nhớ lại rằng vào năm 2007, các quan chức chống khủng bố của CIA bắt đầu thông báo cho ông về một cách tiếp cận mới: truy đuổi bin Laden thông qua mạng lưới đưa tin của y. “Bây giờ, hãy nhớ rằng, nếu bạn đang làm điều này, bạn không đang truy đuổi bin Laden,” .Hayden nói. “Đây cùng lắm là một vụ cướp ngân hàng. Bạn đang dồn sức lực vào việc xác định và giải mã mạng lưới đưa tin với niềm tin rằng nó sẽ dẫn bạn đến chỗ bin Laden.” Đến lượt Hayden tóm tắt cho Bush, giải thích rằng CIA vẫn chưa tìm được người đưa tin chủ chốt của bin Laden nhưng đã nhắm đến người Kuwaiti như một ứng cử viên khả thi. “Vẫn chưa có khoảnh khắc hồi hộp nào về Abu Ahmed al-Kuwaiti,” một trong những quan chức săn lùng bin Laden nhớ lại, nhưng thực tế là không có tù nhân al-Qaeda nào nhìn thấy người Kuwait trong một thời gian khiến y làm người ta phải tò mò.

Nhóm ở CIA có nhiệm vụ hàng ngày là tìm ra bin Laden không bao giờ nhiều hơn hai chục đàn ông và phụ nữ; Tất cả bọn họ có thể ngồi  vừa vặn thoải mái trong một phòng hội nghị cỡ trung bình. Các thành viên của nhóm đến rồi đi trong suốt thập niên truy lùng, nhưng nhiều người vẫn theo dõi “tài khoản” bin Laden trong suốt những năm dài khó khăn khi không có bất kỳ manh mối hứa hẹn nào. John (tên giả), một nhà phân tích với vóc dáng cao gầy của một cầu thủ bóng rổ cuồng nhiệt thời trung học và đại học, được các quan chức cấp cao của Cơ quan đánh giá cao. John gia nhập Trung tâm Chống Khủng bố vào năm 2003 và ở lại đó – mặc dù anh có thể được thăng chức nếu đi nơi khác – bởi vì anh ấy đang tập trung vào việc tìm kiếm bin Laden. Anh đã thúc đẩy nhiều cuộc tấn công bằng máy bay không người lái hơn ở các khu vực bộ tộc ở Pakistan vào năm 2007, khi anh nhận thấy có nhiều người phương Tây đến đó để được huấn luyện khủng bố. Chuck (tên giả) là một nhà phân tích cẩn thận, đã theo dõi tài khoản al-Qaeda kể từ khi nhóm khủng bố này đánh bom hai đại sứ quán Mỹ ở Châu Phi vào năm 1998, giết chết hơn 200 người. Nhiều năm trôi qua trong cuộc truy lùng bin Laden, tóc của Chuck dần chuyển sang màu xám tro.

Lơ lửng trên đầu các thành viên kỳ cựu của đội là cái nhận thức rằng một số người trong họ có thể đã làm được nhiều hơn để ngăn chặn vụ tấn công 11/9. Chắc chắn nhận thức chung của công chúng là đã có một sự thất bại nào đó về mặt tình báo trong CIA. Trên thực tế, cộng đồng tình báo đã thực hiện công việc kỹ lưỡng là cảnh báo chính quyền Bush về khả năng xảy ra một cuộc tấn công chống Mỹ quy mô lớn nào đó trong mùa xuân và mùa hè năm 2001, như được chứng minh qua tiêu đề và ngày tháng của các báo cáo mà Cơ quan đã  đưa ra cho các nhà hoạch định chính sách: “Bin Ladin Lên Nhiều Kế hoạch Hành động ,” ngày 20 tháng 4; “Hồ sơ Công khai của Bin Laden Có thể Báo trước Cuộc Tấn công,” ngày 3 tháng 5; “Các Kế hoạch của Mạng lưới Bin Ladin Đang Tiến triển,” ngày 26 tháng 5; “Các Cuộc Tấn công của Bin Ladin Có Thể Sắp Xảy ra,” ngày 23 tháng 6; “Các Mối Đe dọa của Bin Ladin là Có thật,” ngày 30 tháng 6; “Việc lập kế hoạch cho các cuộc tấn công của Bin Ladin vẫn tiếp tục, bất chấp sự chậm trễ,” ngày 2 tháng 7; “Kế hoạch của Bin Ladin bị Trì hoãn Nhưng Không bị Loại Bỏ” ngày 13 tháng 7 và “Mối Đe dọa Tấn công al-Qaeda Sắp Xảy Ra Tiếp tục Vô hạn định” vào ngày 3 tháng 8. Tất nhiên, CIA không dự đoán được thời gian và địa điểm của cuộc tấn công sắp xảy ra của al-Qaeda, nhưng loại thông tin cảnh báo chính xác đó thường xảy ra trong phim ảnh hơn ngoài đời thực. Nếu có lỗi thì đó là do các quan chức an ninh quốc gia chủ chốt trong chính quyền Bush đã không đủ nghiêm túc nhìn nhận những cảnh báo của CIA.

Nhưng nếu không có thất bại tình báo ở CIA thì đã có thất bại lớn ở khâu quản trị hành chính quan liêu, mặc dù điều đó chỉ trở nên rõ ràng trong những năm sau vụ 11/9. Các thành viên của Cơ quan đã không theo dõi hai nghi can khủng bố al-Qaeda nằm trong danh sách là Nawaf al-Hazmi và Khalid al-Mihdhar, những người mà CIA đã theo dấu kể từ khi họ tham dự một hội nghị thượng đỉnh về khủng bố họp tại Malaysia vào ngày 5 tháng 1 năm 2000 [Trong buổi họp này vụ đánh bom tàu USS Cole vào 8/2000 và tấn công 11/9 được lên kế hoạch,  nhưng cả CIA lẫn chính quyền Malaysia đều không hay biết: ND]. Việc Bộ Ngoại giao không đưa hai nghi phạm al-Qaeda vào danh sách theo dõi có nghĩa là họ có thể vào Hoa Kỳ dưới tên thật một cách dễ dàng. Mười ngày sau hội nghị thượng đỉnh về khủng bố ở Malaysia, vào ngày 15 tháng 1 năm 2000, Hazmi và Mihdhar bay tới Los Angeles. Cơ quan CIA cũng không thông báo cho FBI về danh tính của những nghi can khủng bố, để FBI có thể tìm kiếm chúng khi chúng vào được Hoa Kỳ. Một cuộc điều tra của tổng thanh tra CIA- được công bố dưới hình thức tài liệu không được phân loại vào năm 2007 – phát hiện ra rằng đây không phải là sự giám sát sơ sót của một hai nhân viên Cơ quan mà của một số lượng lớn các quan chức và phân tích viên của CIA. “Khoảng 50 đến 60” nhân viên Cơ quan đã đọc các bức điện về hai nghi phạm al-Qaeda mà không thực hiện bất kỳ hành động nào. Một số sĩ quan biết rằng một trong hai nghi can al-Qaeda đã có thị thực đến Hoa Kỳ, và đến tháng 3 năm 2001, một số người biết rằng nghi phạm còn lại đã bay tới Los Angeles.

Những kẻ sắp trở thành không tặc sẽ không khó phát hiện ở California nếu tên của chúng được bộ phận thực thi pháp luật biết đến. Dưới tên thật, họ thuê một căn hộ, lấy bằng lái xe, mở tài khoản ngân hàng, mua ô tô và học bay tại một trường học địa phương. Mihdhar thậm chí còn ghi tên mình vào danh bạ điện thoại địa phương. Chỉ đến ngày 24 tháng 8 năm 2001, do có các câu hỏi mà một sĩ quan CIA làm nhiệm vụ tại FBI đưa ra, hai nghi phạm al-Qaeda mới bị đưa vào danh sách theo dõi và tên của họ mới được thông báo cho Cục FBI. Thậm chí sau đó Cục chỉ gửi một thông báo “thường lệ” yêu cầu điều tra Mihdhar. Một tháng sau Hazmi và Mihdhar là hai trong số những tên không tặc “cơ bắp” trên chuyến bay 77 của American Airlines lao vào Lầu Năm Góc khiến 189 người thiệt mạng.

Báo cáo của tổng thanh tra CIA kết luận rằng “việc thông báo cho FBI và việc theo dõi đến cùng của CIA và FBI có thể dẫn đến việc giám sát hiệu quả Mihdhar và Hazmi. Về phần mình, việc giám sát sẽ có tiềm năng mang lại thông tin về huấn luyện bay, hoạt động tài chính, và các mối liên kết tới những tên đồng phạm trong vụ tấn công 11/9.” Tên của các sĩ quan CIA đã phạm sai lầm với bọn không tặc al-Qaeda vẫn được giữ bí mật và không có biện pháp kỷ luật nào được áp dụng đối với họ; tuy nhiên, hầu hết đều làm việc tại Trung tâm Chống Khủng bố, và nhiều người tiếp tục truy lùng bin Laden sau vụ 11/9. Biết rằng lẽ ra mình có thể làm nhiều hơn để ngăn chặn sự tổn thất của gần ba nghìn sinh mạng đã thúc đẩy họ nỗ lực hơn nữa để tìm ra kẻ chịu trách nhiệm.

Bình luận về bài viết này