Trung tá Bonifacy- Một người Pháp yêu mến Bắc Kỳ

Người dịch: Vũ Đức Trung, CSsR 

Cuộc chinh phục và bình định lâu dài ở Bắc Kỳ đã tạo ra một thế hệ các sĩ quan thuộc địa kiểu mẫu rất hiện đại, giỏi cả các nhiệm vụ dân sự lẫn tác chiến quân sự, những nhà quản lý tài năng, thẩm phán sáng suốt, khéo léo trong đàm phán cũng như kiên định trong hành động, xây dựng đường sá, tạo ra các khu chợ và trạm gác, nơi họ biết cách biến thành các trung tâm của sự tin tưởng và an toàn. Để giao tiếp trực tiếp với các cư dân của mình, họ học ngôn ngữ của người bản địa; để hiểu họ tốt hơn và xét xử họ công bằng, họ tìm hiểu quá khứ và phong tục của họ; và vì vậy mà tự nhiên tất cả họ đều tự nhiên được dẫn dắt đến việc nghiên cứu các khoa học về cấu trúc, truyền thống và mối quan hệ của các nhóm người: lịch sử, dân tộc học, ngôn ngữ học, khảo cổ học. Một vài trong số họ đã là những cộng tác viên quý giá xuất sắc của Trường Viễn Đông Pháp: đó là trường hợp của trung tá Bonifacy, người đã qua đời ngày 3 tháng 4 năm 1931.
 
Auguste Bonifacy sinh ngày 6 tháng 4 năm 1856 tại Valréas (Vaucluse). Ông là người miền Provence tinh tế, vừa năng động vừa khôn ngoan, kết hợp đam mê phiêu lưu với tài năng đưa đến thành công. Nhập ngũ tự nguyện năm 1874, là hạ sĩ quan, sau đó là trung úy bộ binh, ông thoát khỏi cuộc sống đồn trú sau vài năm bằng cách gia nhập hải quân, mở ra cho ông những triển vọng rộng lớn của sự nghiệp thuộc địa (1889). Ông bắt đầu sự nghiệp tại Guiana; nhưng năm 1894, ông được cử đến Đông Dương, nơi ông sẽ quay trở lại sau mỗi kỳ nghỉ ở Pháp. Được phong quân hàm đại úy, ông nhận chỉ huy một đại đội lính bắn tỉa ở tỉnh Tuyên Quang, nơi ông tiếp xúc với nhiều nhóm dân tộc Mán quan trọng; đó là nơi ông bắt đầu những nghiên cứu xuất sắc mà ông sẽ cống hiến cho dân tộc này.

Khác với nhiều người tự học khác, Bonifacy có tư duy mang tính khoa học và có ý thức rất rõ về các điều kiện kỹ thuật để làm việc tốt. Vì vậy, không có gì đáng ngạc nhiên khi Trường Viễn Đông Pháp, vừa mới được thành lập ở Bắc Kỳ, ông đã đến thăm và đề nghị giúp đỡ. Ông Foucher ngay lập tức công nhận đóng góp tình nguyện có giá trị của ông và sắp xếp cho ông làm việc vài tháng ở đó. Trong niên giám của năm 1901, có ghi: “Tướng Chỉ huy trưởng đồng ý cho phép Đại úy Bonifacy, lính thuộc địa, được giảng dạy tiếng An Nam và chữ Hán, làm việc 3 tháng ở Trường. Ông Bonifacy đang hoàn thành nghiên cứu về Mán Quân cốc và dự định mở rộng sang các bộ lạc Mán khác (Cao lan, Quân trang, Bài ban, vv) sống ở Thái Nguyên, Vĩnh Yên, Tuyên Quang và Hưng Hóa.”

Năm sau, ông Foucher đã nhận định về những kết quả thành công của nhiệm vụ này như sau: “Kỳ vọng của chúng tôi đã không bị thất vọng. Từ nhiệm vụ ngắn ngủi nhưng đầy khó khăn của mình, Đại úy Bonifacy đã mang về cho chúng tôi không dưới năm bản tóm tắt chi tiết về năm bộ tộc ở xứ Bắc Kỳ và 86 đồ vật khác nhau, được chọn lọc từ những đồ vật tiêu biểu nhất cho loại hình sinh hoạt của họ (1).” Đồng thời, Tạp chí đã đăng một số trích đoạn thú vị từ các chuyên luận này với tiêu đề: Truyện dân gian của người Mán ở Bắc Kỳ (2).”

Nhiệm vụ ngắn ngủi đó đã để lại trong ký ức của trung tá Bonifacy một dấu ấn sâu sắc. Nhiều năm sau, ông tin rằng không có cách nào tốt hơn để kỷ niệm ngày thành lập lần thứ 25 của Trường Viễn Đông bằng cách kể lại những câu chuyện kỳ thú về chuyến đi điền dã đầu tiên của mình. “Một trong những thời kỳ thú vị nhất trong cuộc đời tôi là giai đoạn mà tôi thoát khỏi những ràng buộc quân ngũ, tôi được giao nhiệm vụ bởi ông Foucher, giám đốc của Trường Viễn Đông. ” Ông tiếp tục kể lại với vẻ hài hước mà tất cả các lời của ông đều có, quá trình điều tra và kết quả của nó. Trước khi ở nhờ chủ nhà, ông hỏi về các phong tục của họ và rất chú ý tuân thủ chúng. Ông không phiền lòng khi phụ nữ đưa tay lên râu của ông hay cho ông nhai trầu vì đó không phải là thiếu tôn trọng mà là thể hiện tình bạn. Ông là bạn của mọi nhà, cố vấn của các bậc cha mẹ, cha đỡ đầu của trẻ sơ sinh. Sao có thể từ chối một vị khách lịch sự và tử tế như vậy? Vì vậy, người dân không giấu ông điều gì. Tất cả thông tin ông yêu cầu đều được cung cấp ngay; tất cả các nghi lễ đều diễn ra trước mặt ông. Ông muốn xem xét sự phức tạp của mái tóc phụ nữ? Con dâu chủ nhà sẽ tháo dỡ cho riêng ông chiếc khăn che tóc, trong khi người cha chồng tôn trọng cấm kỵ gia đình, sẽ rời đi lịch sự. Sự tinh tế của Bonifacy không chỉ đem lại cho ông những người cung cấp thông tin tuyệt vời, mà còn những người ủng hộ và trợ lý vô giá.

Vào thời điểm chuẩn bị truy đuổi Đề Thám, ông gặp ở văn phòng cư trú ở Vĩnh Yên một trung úy của quân phỉ, người đến báo cáo sự đồng lõa của mình. Bất ngờ: đó là một người quen cũ, Mán Kim, người mà ông đã có cuộc phỏng vấn về dân tộc học, khoảng 10 năm trước, ở làng Thung lũng Hoa Thơm. “Anh ấy không quên tôi sau 10 năm, và nhờ anh ấy mà tôi có thể đuổi viên tướng già khỏi căn cứ vững chắc mà ông ta đã xây dựng trên đỉnh Núi Lang, giải tán đội quân của ông ta và đánh bại sức mạnh của họ.” Đó là vì người Mán coi trọng sự tôn trọng dành cho họ. Về một trong những lễ hội lớn của họ, Trung tá Bonifacy kể câu chuyện sau: “Việc tổ chức lễ hội này rất quan trọng đối với người Mán: phải cẩn thận không ngăn cản hoặc làm xáo trộn nó. Trong lúc đang truy quét nhóm Cải cách, tôi không ngần ngại rút quân khỏi một làng ở tuyến đầu để cho phép người dân tổ chức lễ hội của họ. Khi lễ hội kết thúc, Đồng bào biết ơn đã hăng hái tham gia chiến đấu.”

Sự khoan dung này không ngăn cản việc trừng phạt cần thiết: nhưng việc trừng phạt được thực hiện với sự bình tĩnh vững vàng và được chính các tội phạm công nhận là công bằng, không để lại bất kỳ hận thù nào.

Năm 1914, một nhóm người Mán quyết định tiêu diệt người Tày trong khu vực và yêu cầu được phép, tất nhiên là bị từ chối; cũng tất nhiên, người Mán vẫn làm ngơ lệnh cấm và bị đẩy lùi với một số thương vong. Nhưng, Trung tá cho biết thêm, “những người bị thương của họ được chữa trị trong bệnh xá của chúng tôi và một thời gian ngắn sau đó, tôi đi qua các cánh đồng lúa của những kẻ nổi dậy và ở nhà họ; họ cũng cười về sai lầm của mình”.

Lòng tin vô điều kiện của thổ dân vùng cao đi cùng với Trung tá Bonifacy trong suốt sự nghiệp quân sự của ông. Nó đem lại cho ông những dịch vụ thiết yếu trong hai chiến dịch chính của mình: đầu tiên là chống lại những người “cải cách” Trung Quốc năm 1908-1909, thứ hai là chống lại ĐềThám năm 1905-1910. Chiến dịch sau đã khép lại cuộc đời phiêu lưu của viên tướng già, người trước đó đã thoát khỏi tất cả các cuộc truy đuổi.

Năm 1914, giờ nghỉ hưu đã điểm cho Trung tá Bonifacy; nhưng ông vừa rời quân ngũ thì chiến tranh lại gọi ông trở lại. Ông được giao chỉ huy ở Thất Phật Đài, nơi ông tiếp tục song song các nhiệm vụ quân sự và các cuộc điều tra khoa học của mình, khám phá và ngay lập tức báo cáo với Trường Viễn Đông Pháp về một nhóm lăng mộ Trung Quốc cổ, đồ tang lễ được bảo quản nhờ sự chăm sóc của ông đã làm phong phú thêm các bộ sưu tập của Bảo tàng Hà Nội.

Năm 1917, Trung tá Bonifacy cuối cùng được trở lại hoàn toàn cuộc sống dân sự. Ông từng có ý định kết thúc cuộc đời ở quê hương; nhưng một chuyến thăm ngắn cho thấy chỉ có quê hương thứ hai của ông, Bắc Kỳ, mới dành cho ông một cuộc sống hưu trí phù hợp với thói quen và sở thích của mình. Vì vậy, ông quay trở lại định cư ở Hà Nội. Tại đây bắt đầu một thời kỳ hoạt động tuyệt vời đối với ông. Ông trở thành nhà báo, giáo sư, ủy viên hội đồng thành phố. Ông viết cho Avenir du Tonkin và Eveil économique các bài báo về nhiều chủ đề khác nhau. Tại Ủy ban Cổ vật Bắc Kỳ cũng như Hội đồng thành phố Hà Nội, ông tích cực bảo vệ di sản lịch sử và các di tích cổ của đất nước.

Ông giúp đỡ Bộ Tổng tham mưu bằng kinh nghiệm lâu năm của mình, chủ trì Hiệp hội người Provence ở Bắc Kỳ, bảo vệ người lai, ủng hộ chính quyền cho những người dân tộc thiểu số thân yêu của ông. Điều gì mà tâm hồn cởi mở và trái tim hào phóng này không quan tâm? Lịch sử là nghiên cứu ưa thích của ông và thư viện của Trường Viễn Đông là nơi ẩn náu yêu thích của ông; nhưng công việc của ông không cô lập ông khỏi cuộc sống xung quanh. Hầu như không có lễ hội chính thức, nghi lễ kỷ niệm, duyệt binh quân sự, hội nghị nào mà bộ râu trắng của người cha già không mang lại nét quen thuộc và không thể thiếu của mình. Một ngày nọ, người ta không còn nhìn thấy nó nữa: người lao động không mệt mỏi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình. 

Cùng với ông, một nhân vật đẹp đẽ của Đông Dương đã biến mất, xứng đáng để tồn tại. Tác phẩm của ông rất tiếc là rất phân tán. Nếu không kể đến Giáo trình Dân tộc học Đông Dương, được giảng dạy tại Trường Cao đẳng Nông nghiệp (Hà Nội, 1919), cuốn sách nhỏ của ông về Những khởi đầu của Kitô giáo ở An Nam (Hà Nội, s. d. [1930]), cuốn sách ông viết về Chiến tranh Pháp-Trung năm 1884-1885, dưới dạng bình luận về một bộ sưu tập tranh Trung Quốc được Trường Viễn Đông mua lại (2), thì hành lý hậu thế của ông chỉ bao gồm một số bài báo, trong đó một số lượng lớn đã được đăng trên báo chí và các ấn phẩm khác. mong muốn rằng trong số những tờ giấy mà ông đã ném một cách tự do và vô tư vào gió, những tờ mà ông đã ghi lại kinh nghiệm và ký ức của mình: các sĩ quan trẻ sẽ tìm thấy những bài học hữu ích và các nhà sử học sẽ tìm thấy những thông tin quý giá. Trong mọi trường hợp, Trường Viễn Đông sẽ ghi nhớ một cách trung thành ký ức của con người tốt bụng này, người đã là cộng tác viên tích cực và tận tụy của mình trong nhiều năm. 


Nguồn : Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 31, 1931. pp. 343-349.

Bình luận về bài viết này