Ve sầu thoát xác

Viên Như

Tiếp theo phần trước

I. VE SẦU THOÁT XÁC

Đại Việt sử ký toàn thư (TT) viết về thời điểm Hùng Vương bị An Dương Vương lấy ngôi như sau:

Giáp Thìn, năm thứ 1 (257 TCN, Chu Noãn Vương năm thứ 58). Vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc. Trước kia vua nhiều lần đem quân đánh Hùng Vương, nhưng Hùng Vương binh hùng tướng mạnh, vua bị thua mãi. Hùng Vương bảo vua rằng: “Ta có sức thần, nước Thục không sợ ư?” Rồi Hùng Vương bỏ không sửa sang võ bị, chỉ ham ăn uống vui chơi. Quân Thục kéo sát đến nơi, hãy còn say mềm chưa tỉnh, rồi thổ huyết nhảy xuống giếng chết, quân lính quay giáo đầu hàng Thục Vương.

Hùng Vương nhảy xuống giếng chết, giếng là sao Tỉnh mộc hãn  井木犴, sao đầu tiên của nhóm Chu Tước, có nghĩa là Hùng Vương, người chạy về phương nam, vào thời điểm đó đã về với cội nguồn phương nam của mình, cho nên ở đền Hùng mới có đền Giếng.

Ta thấy thời điểm Hùng Vương bị An Dương Vương diệt ngay sau khi Chu Noãn Vương mất năm 258 TCN, theo tôi đây chỉ là kế “ve sầu thoát xác – 金蝉脱殼”, có nghĩa là dòng dõi Hùng Vương giờ đây tồn tại trong một vỏ bọc khác, cái tên Cổ Loa 古螺, còn gọi là Kiển thành 蟜城 hay Tư Long 思 龍, nói lên điều đó. Ốc 螺 hay 蟜 – kén, đều là loài tồn tại nhờ vào cái vỏ bọc, Tư Long 思龍 là nhớ vua, An Dương Vương nhớ vua nào? Nếu An Dương Vương thực sự có thực lực, thì ngày nay người Việt phải xem ông là quốc tổ, chứ sao lại là Hùng Vương? Theo tôi đây chỉ là vở kịch do Hùng Vương dựng lên, có nghĩa là An Dương Vương chỉ là cái vỏ bọc bên ngoài, còn bên trong vẫn là dòng dõi hay con của Hùng vương, như thế có thể Hùng Vương là con của Chu Thận Tịnh Vương, anh em với Chu Noãn Vương, tức là Ẩn Vương như lịch sử đã ghi.

II. VÌ SAO HÙNG VƯƠNG PHẢI THAY HỌ, ĐỔI TÊN?

Theo tôi, với cách đặt tên “Cổ Loa” cho thấy Hùng Vương đã chấp nhận thực tế, có nghĩa là triều đại Chu của dòng họ ông giờ đây đã là quá khứ, chữ “Cổ古” nói lên điều đó. Nhận thức này từ đó ảnh hưởng lên những người nhà Chu đã trở về nam cùng ông trước đây, chính vì vậy, ngày nay, ở miền bắc vẫn còn rất nhiều địa danh bắt đầu với chữ “Cổ” như: Cổ Bàng (古榜), Cổ Lão (古老), Cổ Lễ (古禮), Cổ Dũng (古勇), Cổ Long (古龍), Cổ Phí , (古費), Cổ Đằng (古藤), Cổ Hoằng (古宏), Cổ Lôi (古雷), Cổ Bình (古平), Cổ Đặng (古鄧), Cổ Xã (古社), Cổ Nông (古農) v.v… tất cả đều chỉ có một mục đích là gợi nhớ một nơi chốn nào đó mà họ từng sống ngày xưa ở phương bắc.

Sau cái chết của Chu Noãn Vương, quốc thống và huyết thống của Hùng Vương, xem như đã hoàn toàn biến mất ở phương bắc, và điều này hoàn toàn chính xác trên thực tế, chẳng còn hy vọng gì nữa; đồng thời vào thời điểm đó Hùng Vương cũng gần đất xa trời, nên cần phải có những kế sách thích hợp với tình hình mới cho con và dân tộc, những người tùy tùng của ông. Việt sử lược viết về giai đoạn này như sau: “Cuối đời nhà Chu, Hùng Vương bị con vua Thục là Phán đánh đuổi rồi lên thay. Phán đắp thành ở Việt Thường, lấy hiệu là An Dương Vương, rồi không cùng với họ Chu thông hiếu nữa. Ở đoạn sau, Việt sử lược viết: “Võ Hoàng biết vậy bèn sai con là Thủy xin sang làm con tin để thông hiếu.”Với cách dùng từ “thông hiếu” này cho biết Thục Phán có quan hệ mang tính gia đình với nhà Chu;  thêm vào đó, cái tên “Việt Thường” xác định An Dương Vương là người nhà Chu, vì tên này được Chu Thành Vương đặt ra để gọi những người Việt ở Giao Chỉ, như TT đã gợi ý ngay từ đầu, như vậy Thục Phán là hậu duệ của Hùng Vương vậy. Đây chính là thực hiện chính sách quẻ Khôn bên ngoài, nhưng lại thi hành quẻ Tụy bên trong, tức là thực hành triệt để nội dung của quẻ 15. Địa sơn khiêm, nơi đã sinh ra người Việt, dân tộc Kinh.

Giải nghĩa đại ý quẻ 15. Địa sơn Khiêm: Thoái dã. Cáo thoái. Khiêm tốn, nhún nhường, khiêm từ, cáo thoái, từ giã, lui vào trong, giữ gìn, nhốt vào trong, đóng cửa. Thượng hạ mông lung chi tượng: tượng trên dưới hoang mang.

Không hoang mang sao được khi mà từ nay nòi giống nhà Chu ở phương bắc xem như vô vọng, còn chăng chỉ trông vào một số ít chạy về Giao Chỉ, theo tôi số người chạy về nam trước đó chắc chắn không quá vài ngàn người, chủ yếu là một số ít tôn thất và giới tinh hoa, chỉ với một số ít con người ấy, nhất thời không thể nghĩ đến việc lớn được, vì vậy việc quan trọng nhất lúc đó là phải bảo tồn, duy trì và phát triển nòi giống, do đó cần phải thay họ, đổi tên; đồng thời giao phụ nữ làm quân trưởng, như trong sử ghi: 女父道之稱. Nữ phụ đạo chi xưng, đàn ông chỉ đứng sau chỉ đạo. Điều này được phản ảnh qua việc đặt tên Thục Phán 蜀泮 – An Dương Vương 安陽王, Âu Lạc 甌雒. Ba Thục nằm ở hướng tây nam, nơi xuất tích “Rồng Tiên” của người Việt, chữ an 安, dị thể 𡚴 trên 山 dưới 女, thể hiện đây là cô gái miền núi, Âu 甌 là cái bồn 盆, vì Ba Thục là vùng Bồn địa 盆地, cả hai thể hiện tính âm, Lạc 雒là Việt. Đây là thực hiện kế sách của quẻ Khôn, chính sách này kéo dài cho tới thời hai bà Trưng, nhờ vào chính sách này mà người Việt mới có cơ đồ như hôm nay.

Giải nghĩa đại ý quẻ 2. Thuần Khôn:  Khôn có đức đầu tiên và lớn, hanh thông, thích đáng, đức chính và bền của con ngựa cái. Người quân tử có việc làm mà thủ xướng thì lầm, để người khác thủ xướng mà mình theo sau thì được. chỉ cốt lợi ích cho vạn vật. đi về phía tây nam thì được bạn, về phía đông bắc thì mất bạn. An lòng giữ đức bên vững, tốt.

Đồng thời phân tán ra nhiều nhóm khác nhau, không tập trung một chỗ, hòa lẫn vào người bản địa, học tiếng của họ, nhằm tránh bị kẻ khác phát hiện ra nguồn gốc của mình qua ngôn ngữ, trong trường hợp như vậy, có thể chỉ chịu thiệt hại ít nhất. Theo tôi, đây chính là lý do vì sao trong từ vựng của tiếng Việt ngày nay có nhiều dấu ấn của các tộc người bản địa, nhưng từ Việt cổ (Hán Việt) vẫn là số lượng cao nhất, vì nó đã trở thành máu thịt của người Việt, cho nên nếu muốn tạo ra một từ mới trong tiếng Việt, không có cách nào khác ngoài việc phải sử dụng từ Việt cổ, ngoại trừ tiếng nước ngoài phiên âm. Đây cũng là lý do vì sao giới nghiên cứu ngữ âm lịch sử chưa giải thích được, và gọi đó là siêu Hán hóa tiền Việt Mường. Minh chứng cho điều này là cái khèn, [khèn – kèn] là phái âm của [gèn – cấn], vì theo dịch học “Thành ngôn hồ cấn”, ta thấy hình ảnh cái khèn trên trống đồng Ngọc Lũ, nhưng ngày nay nó thuộc về dân tộc Hmông.

Kế sách phân tán này được cụ thể qua việc An Dương Vương đóng đô ở Cổ Loa, thay vì Phong Châu, sự phân bố của trống đồng Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, mộ thuyền Việt Khê, cũng như trống Cửu Chân, thạp Long Vượng và bình Nghi Vệ, cho thấy điều ấy. Theo tôi ba trống, Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Cổ Loa, chỉ do một nhóm người có chung kiến thức và kỷ thuật làm, nhưng trống Ngọc Lũ có thể do chính vua Hùng chỉ đạo giới tinh hoa cùng thời làm, còn hai cái kia do con cháu của những người làm trống Ngọc Lũ thực hiện, vì kỷ thuật thì tương đồng, nhưng nội dung kinh dịch trên trống thì xem như bằng không, có thể vào thời điểm đó, vua Hùng và giới tinh hoa chạy về nam đã chết hết.

Mộ thuyền Việt Khê, Hải Phòng, cách rất xa so với Phong Châu và Cổ Loa, nhưng cái chõ trong mộ thuyền tương đồng với hình ảnh cái chõ trên thuyền của trống Ngọc Lũ, Hà Nam, qua đó cho thấy, những người được táng trong mộ thuyền này, có địa vị cao và sống cùng thời với Hùng vương lịch sử. Trong mộ thuyền Việt Khê, còn  có “đao tiền” tương tự như những đồng tiền của các nước thời Xuân Thu.

https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/1001/19918/bao-vat-quoc-gia-viet-nam-mo-thuyen-viet-khe.html

Ngày nay người ta đã tìm thấy dưới lòng đất ở Bắc Ninh và vài nơi khác nhiều đồng tiền cổ thuộc thời nhà Chu, và các nước thời Xuân Thu, được PGS.TS.NGND Hoàng Văn Khoán, giới thiệu trong cuốn “Thức dậy quá khứ”, Nxb: Khoa học xã hội – 2018. Xin trích ra vài hình ảnh về những đồng tiền này.

  1. Bố tiền mặt trước có chữ Đông Chu 東周, mặt sau có chữ Vương cát 王吉.
  2. Hoàn tiền Đông Chu 東周 và Tây Chu 西周
  3. Thử viên nhất cân 黍垣一釿. Tiền nước Ngụy.
  4. Tề quan hóa 齊官化. Tiền nước Tề.
  5. Yên Minh đao 燕明 刀 Tiền nước Yên.

Theo tôi tất cả tiền này do người nhà Chu đem về vào thời Hùng Vương lịch sử cùng với Nha Chương, nhưng Nha Chương biểu tượng cho quyền uy của vua, nên nên tìm thấy ở Phú Thọ.

Tinh thần đó cũng được phản ảnh qua trống Cửu Chân, Hà Tây, thạp Long Vượng, Thanh Hóa, bình Nghi Vệ, Bắc Ninh, cả ba hiện vật này đều thống nhất ghi “Đệ Mùi” tức là Tiên Rồng hay Hồng Bàng, nhưng lại ở ba nơi cách rất xa nhau. Có nghĩa là dù xa cách như vậy, nhưng người Việt vẫn luôn cố kết với nhau, khi có đủ điều kiện thì lại quần tụ với nhau để dành lấy quyền tự chủ của mình, cuộc nổi dậy của hai bà Trưng là kết quả của sách lược này.

Giải nghĩa đại ý quẻ 45. Trạch địa Tụy: Tụ dã. Trưng tập. Nhóm họp, biểu tình, dồn đống, quần tụ nhau lại, kéo đến, kéo thành bầy. Long vân tế hội chi tượng: tượng rồng mây giao hội.

http://cohoc.net/trach-dia-tuy-kid-45.html

Về minh văn trên các hiện vật này, tôi đã trình bày ở phần “Tổ tiên – Rồng Tiên”. Theo tôi các minh văn viết bằng chữ Nho trên các hiện vật này và trống Cổ Loa, cũng như Ngọc Lũ, đã có trước năm 111 TCN, khi nhà Hán bắt đầu xâm lược nước ta. Vậy người Việt học chữ Nho với ai, đặc biệt chữ giáp cốt và kim văn, mà biết để viết các minh văn đó, nếu không phải là chữ của người Việt!

Còn có một di chỉ thời Hùng Vương lịch sử nữa, đó là di chỉ Làng Cả, đây có thể là nghĩa địa của người Việt cổ, cái tên Đồi Nhãn 堆 眼 nói lên điều đó, vì Ly vi mục 離為日, mục 日 đồng nghĩa với nhãn 眼 con mắt. Ở đó có hai gò mộ lớn, một hướng Đông bắc, chi Dần cung Cấn, theo Lạc thư, nơi sinh ra người Kinh, và cái kia hướng Tây bắc, tháng 9, cung Cấn, theo Hà đồ, nơi người Việt trở về khi chết, vì vậy mà gọi nghĩa trang là Cửu kinh 九京.

III . KẾ HOẠCH KHÔNG HOÀN HẢO, NHƯNG CÓ HẬU

Mặc dù đã thực hiện chính sách quẻ Khôn, quẻ Khiêm triệt để, nhưng cuối cùng vẫn bị Triệu Đà tiêu diệt, Triệu Đà là một kẻ cơ hội chính trị, việc ông là người Hán, nhưng làm quan nhà Tần, lợi dụng lúc Tần sụp đổ, ông xưng đế, và lấy tên nước là Nam Việt, chứng minh cho điều ấy. Nếu không làm như vậy thì lấy quần chúng đâu để củng cố vương triều, bởi vì vào thời điểm đó chung quanh ông đều là người Việt, chính lực lượng này đã khiến nhà Hán e ngại, như lời Lục Giả:

sai sứ mang ấn thao cho vương. Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử?

Mặc dù An Dương Vương đã gả Mỵ Châu cho Trọng Thủy, hy vọng qua cuộc hôn nhân này, triều đại của ông sẽ vững bền, có thời gian để cũng cố lực lượng, tuy nhiên sau khi biết được nội lực của Âu Lạc, Triệu Đà vẫn đem quân sang đánh chiếm.

Lần thứ hai, khi nhà Hán sai Lục Giả sang thì ông bắt đầu lo sợ mà nói rằng:

“Vã lại phương nam đất thấp ẩm, dân Man di ở vào giữa. Ở phía đông đất Mân Việt, chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”. Ở phía tây nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui, chứ đâu để nói đến tai bệ hạ!”  (Sử ký Tư Mã Thiên, tr 746. NXB Văn Học, 1988)

Đây là lời nói hết sức trịch thượng, miệt thị người Việt ở Giao Chỉ của Triệu Đà, nhưng không phải không có cơ sở, có thể vì vậy mà Lê Văn Hưu và Ngô Sĩ Liên đã bỏ đi, không đưa vào TT.

Điều này cho thấy Hùng vương đã suy nghĩ hết sức thực tế, và đã có kế sách lâu dài, tức là ông đã thực hiện kế sách “ve sầu thoát xác”, nhằm xóa đi dấu vết phương bắc của mình. Bởi vì rất có thể cái triều đại do ông lập ra, cùng tiếng nói khác biệt với cư dân bản địa, sẽ là cơ sở để kẻ khác biết được nguồn gốc của mình, và những gì ông dự đoán đã xảy ra sau đó. Có nghĩa là Triệu Đà đã nghi ngờ nguồn gốc của Hùng Vương và An Dương Vương, bởi vì một nơi hoang địa như Giao Chỉ thì không thể bỗng dưng mà có “vương 王” được, vì “vương” là một khái niệm đến từ phương bắc, nhất định đó là hiện tượng không bình thường, lời nói của Đà trích trên cho thấy ông ta đã biết rất rõ điều đó. Đồng thời những lời nói của Triệu Đà với Lục Giả, sứ giả nhà Hán, không khác gì lời tố cáo Hùng Vương và An Dương Vương, không phải là người bản địa. Chính thông tin này, cùng cái tên đất Việt Thường, đã làm cho nhà Hán và các triều đại về sau nghi ngờ Thục Phán có thể là tên khác của Hùng Vương, bởi vì họ thừa biết Thục đã bị tiêu diệt từ lâu, làm sao có mặt ở Giao Chỉ được, nhưng họ biết Thục có liên quan đến nhà Chu, vì Thục là tổ tiên bên ngoại của nhà Chu.

Chính vì vậy, về sau họ không quan tâm nhiều về An Dương Vương, mà chỉ truy tìm nguồn gốc của Hùng Vương và người Việt ở Giao Chỉ mà thôi. Bởi vì nếu Hùng Vương có nguồn gốc nhà Chu, thì đây chính là nỗi lo lâu dài của họ ngày ấy, và ngay cả ngày nay.

Tuy nhiên do chính sách bảo mật tối đa của người Việt, nên các sách ở phương bắc chỉ ghi lại những thông tin thu nhặt được từ dân gian, vì vậy qua đó đã vẽ ra một hình ảnh người Giao Chỉ thời ấy hết sức lạc hậu.

Sử ký, sách ẩn do Tư Mã Trinh biên soạn vào đời nhà Đường, dẫn Quảng Châu ký chép:

Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân canh nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Đà đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả điển chủ người hai quận Giao Chỉ-Cửu Chân.”

Thái Bình quảng ký hoàn thành vào thời nhà Tống, dẫn theo Nam Việt chí thời Lưu Tống (420 – 479 SCN):

Đất Giao Chỉ vốn màu mỡ, di dân tới sống ở đó, (dân) mới bắt đầu biết gieo trồng, đất vùng ấy đen xốp, khí đất hùng mạnh, cho nên gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân vùng ấy gọi là Hùng Dân. Quân trưởng gọi là Hùng Vương. Có phụ tá là Hùng Hầu, chia đất cho các Hùng Tướng.

Cho nên chẳng lạ gì khi thông tin này cũng đã bị rò rĩ, cụ thể trong cuốn Thông Điển quyển thứ 184 – Châu quận 14 – 杜佑. 通典卷第一百八十四-州郡十四 của Đỗ Hựu 杜佑 (735-812), nhà Đường, viết như sau: 或云南越之君亦夏之後 – Có người cho rằng vua nước Nam Việt là hậu duệ nhà Hạ.

Chính việc chiếm đóng nước Âu Lạc, cùng với lời nhận xét sâu sắc như một lời tố cáo của Triệu Đà, đã làm tiền đề cho các cuộc xâm lăng của nhiều triều đại phương bắc đối với nước ta, kéo dài hàng ngàn năm. Vì vậy Ngô Thì Sĩ, trong Việt sử tiêu án, đã phê bình gay gắt vai trò của Triệu Đà đối với lịch sử nước ta như sau: “Nước ta bị nội thuộc vào nước Tàu từ đời Hán đến Đường, truy nguyên thủ hoạ cả Triệu Đà thì còn ai nữa? Huống chi Triệu Đà chia nước ta làm quận huyện, duy chỉ biết biên số thổ địa, thu thuế má, cung cấp ngọc bích cho nhà Hán, đầy túi tham của Lục giả thôi. Đến như việc xướng ra cơ nghiệp đế vương trước tiên, tán tụng Triệu Đà có công to, Lê Văn Hưu sáng lập ra sử chép như thế, Ngô Sĩ Liên theo cách chép hẹp hòi ấy, không biết thay đổi, đến như bài Tổng luận sử của Lê Tung, Thơ vịnh sử của Đặng Minh Khiêm thay nhau mà tán tụng, cho Triệu Đà là bậc thánh đế của nước ta. Qua hàng nghìn năm mà không ai cải chính lại vì thế mà tôi phải biện bạch kỹ càng.”

Theo tôi đây là những phê bình thích đáng, ta có thể hiểu được điều đó khi tìm câu trả lời cho câu hỏi:

Tại sao Lào cũng có đường biên giới hơn 400 km với phương bắc, nằm cạnh Giao Chỉ, hay Miến Điện có biên giới với họ hơn 2200 km, nhưng họ không liên tục tấn công, chiếm đóng và đem văn hóa Hán áp đặt lên đó?

Điều đó chứng minh rằng, các triều đại phương bắc xâm chiếm nước ta, không phải vì vấn đề mở rộng văn hóa và lãnh thổ, mà vì họ nghi ngờ người Giao Chỉ là người Việt Thường thị, tức là người nhà Chu. Chính vì vậy trong các cuộc xâm lăng đó, họ tịch thu sách vở, đập phá bia ký, như Việt kiệu thư đã ghi, đây là một việc làm trái với lẽ thông thường của kẻ xâm lược. Thông thường, bất cứ dân tộc hay triều đại nào cũng muốn dân tộc hay nước khác học văn hóa nước mình, nói tiếng của mình, viết chữ của mình, ấy vậy mà các triều đại phương bắc làm ngược lại. Tại sao vậy? Họ sợ cái gì? Câu trả lời đơn giản, đó là họ quá biết văn hóa mà họ đang tự nhận là của nhà Chu, vì vậy họ luôn lo sợ giới tinh hoa Việt bí mật ghi lại nguồn gốc của dân tộc mình, qua đó nói lên sự dối trá của họ, do đó họ phải tiêu hủy triệt để, thà đốt, phá, lầm còn hơn bỏ sót, ngay cả sách dạy trẻ con. Cho nên, nguồn gốc Việt được dân tộc ta che dấu gần 1300 năm, chỉ đến khi dành được quyền tự chủ, năm 968, Đinh Tiên Hoàng mới đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt, sau đó, năm 1054, Lý Thánh Tông đổi thành Đại Việt, từ đó đến nay ta mới gọi mình là người Việt, chính vì vậy ở trước tôi cho rằng đến thời Lý, giới tinh hoa vẫn còn biết rất rõ nguồn gốc Việt của dân tộc mình, chứ không lẽ tự dưng gọi mình là Việt.

Tất nhiên kế sách nào cũng có ưu khuyết điểm của nó, kế sách quẻ Khôn, Khiêm bên ngoài, quẻ Tụy bên trong, của vua Hùng cũng không ngoại lệ. Khuyết điểm của nó là chính vì giao cho phụ nữ vai trò lãnh đạo mà Trọng Thủy mới biết được nội lực của An Dương Vương, nhưng ngược lại ưu điểm của nó là cho dù có bị mất đi quyền lực trên thực tế, nhưng nguyên khí vẫn không bị tận diệt, vấn đề cốt lõi của dân tộc vẫn được duy trì, tức là người Việt vẫn tiếp tục phát triển nòi giống của mình, mà không bị ảnh hưởng gì nhiều sau những thất bại đó. Kế sách này về sau được tiền nhân thể hiện thông qua bức tranh dân gian “Đám cưới chuột”, một bức tranh trong đó cả nhà chuột luôn cảnh giác cao độ để “Thủ thân”. Thuyết quái viết: Cấn vi thử 艮為 鼠 – Cấn là chuột. Cấn là nhân, nhân này là người Việt.

IV .HỆ LỤY CỦA VIỆC GIÁN ĐOẠN THÔNG TIN VỀ NGUỒN GỐC

Như đã trình bày trước, đến thời Lý, người Việt vẫn còn nắm rất rõ nguồn gốc nhà Chu của mình, nhưng đến thời Trần, hầu như thông tin ấy không còn nữa; đồng thời nhà Trần đã phong cho Triệu Đà là Khai Thiên Thể Đạo Thánh Vũ Thần Triết Hoàng Đế開 天 体 道 聖 武 神 哲 皇 帝, điều này được phản ảnh qua việc Lê Văn Hưu, dựa vào thông tin trong Hậu Hán Thư, do Phạm Diệp, soạn vào thế kỷ thứ 5, đã sáng tác ra đoạn đối thoại đề cao Triệu Đà:

 “Khi sứ đến, vua ngồi xổm mà tiếp Lục Giả. … Giả nói: “Nay đã không làm thế, thì nên sắm lễ mà tiếp sứ giả mới phải, sao lại cậy dân Bách Việt đông mà khinh nhờn sứ giả của thiên tử? Thiên Tử nghe biết, phát binh sang hỏi tội, thì vương làm thế nào?”. Vua ra dáng sợ hãi, đứng dậy nói: “Tôi ở đất này lâu ngày quên mất cả lễ nghĩa”. Nhân hỏi Giả rằng: “Tôi với Tiêu Hà, Tào Tham ai hơn?” Giả nói: “Vương hơn chứ.” Lại hỏi: “Tôi với vua Hán ai hơn?”… Vua cười và nói: “Tôi lấy làm giận không được nổi dậy ở bên ấy, biết đâu chẳng bằng nhà Hán?” Giả ngồi im lặng, sắc mặt tiu nghỉu.

Ta biết thông tin về “Kỷ nhà Triệu” của Đại Việt Sử Ký, trước hết là tham khảo “Nam Việt Úy Đà liệt truyện” của Tư mã Thiên, soạn ở thế kỷ thứ II, nhưng trong truyện đó không có thông tin này. Ngược lại thông tin mà tôi đã dẫn trước của Sử Ký, thì Lê Văn Hưu bỏ đi; đồng thời dựa vào Hậu Hán Thư mà sáng tác ra đoạn đối thoại trên, về sau Ngô Sĩ Liên sao lại trong TT, vì vậy cả hai không tiếc lời ca ngợi Đà.

Tại sao Lê Văn Hưu làm vậy? Có thể ông làm như vậy cho phù hợp với quan điểm của nhà Trần, muốn đặt Tộc Việt ngang hàng với Tần, Hán chăng, đây là ý tưởng mang tính tự tôn dân tộc, nhưng lịch sử là lịch sử, hệ lụy của nó là không nhỏ. Cụ thể ngày nay nhiều người muốn xem Triệu Đà là triều đại đầu tiên của nước Việt, Viện dẫn nhà Trần đã phong Thần cho ông, Nguyễn Trải đã chấp nhận điều đó trong Bình Ngô đại cáo, cùng những nhận xét tích cực của Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, và đã đưa vào chính sử, cộng thêm cái đền thờ Triệu Vũ Đế và người vợ Việt của ông ở Kiến Xương, Thái Bình.

Đây là chuyện không có gì lạ, vì nó nằm ngoài tầm kiểm soát của người Việt đương thời, bởi vì họ là những kẻ cầm quyền thì lấy bao nhiêu vợ Việt chẳng được, chết rồi thì bọn tay sai tha hồ mà tôn vinh, để khẳng định quyền lực trên nước Việt; qua đó tạo cơ hội để tiến thân. Cho nên giới tinh hoa Việt chẳng dại gì mà can thiệp vào, làm như thế là “Lạy ông con ở bụi này”, tạo cớ cho họ tàn sát mà thôi.

Nói đâu xa, chỉ ở thế kỷ 20 thôi, Trần Trọng Kim, một sử gia Việt, trong cuốn “Việt Nam sử lược”, đã bênh vực cho việc xâm lăng nước Việt, mà ông ngụy biện là “bảo hộ”, của Pháp như sau:

Sức đã không đủ giữ nước mà cứ làm điều tàn ác. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại đem làm tội những người đi giảng đạo. Bởi thế nước Pháp và nước Tây Ban Nha mới nhân cớ ấy mà đánh nước ta vậy.”, “Ấy cũng tại vua quan mình làm điều trái đạo, giết hại những người theo đạo Gia Tô cho nên mới có tai biến như vậy”, và rằng “Đối với những nước ngoại dương, thì (nhà Nguyễn) thường hay gây nên sự bất hòa, làm cho nước Pháp phải dùng binh lực để bênh vực quyền lợi của mình. Vì những chính sách ấy cho nên mới thành ra có cuộc bảo hộ ngày nay”

Cũng chính vào thời gian này, chính quyền Pháp cho xây bia vinh danh những người Việt phản quốc, đã hy sinh cho nước Pháp trong thế chiến thứ nhất, nó nằm ở vị trí đắc địa và hoành tráng nhất nước Việt, ngay cả hoàng thành của nhà Nguyễn, nằm bên kia sông Hương, cũng ganh tỵ với nó. Thế mà ngày ấy, triều đình còn không dám phản đối, nói gì người dân.

Cái bia này được xây bằng máu xương của dân Việt, nó là một sự sĩ nhục quốc thể, vậy mà ngày nay có người gọi đó là bia Quốc học, vì nó nằm trước trường Quốc học, Huế, hay bia Chiến sĩ trận vong – Huế, thậm chí ngày nay chính quyền sở tại còn muốn vinh danh, quảng bá nữa, huống gì hơn hai ngàn năm trước.

Thật ra đó chỉ là những cách gọi của người dân, do họ không biết mục đích của cái bia đó, nhưng những người có trách nhiệm với lịch sử ở địa phương mà không biết là điều đáng lo ngại. Theo tôi nên gọi công trình này là “BIA QUỐC SĨ” mới đúng nghĩa.

Vì vậy, theo tôi, ý tưởng muốn vinh danh Triệu Đà là triều đại đầu tiên của nước Việt, không gì hơn là thể hiện tinh thần “Phi Hán tất Việt”; Đồng thời để khỏa lấp cái mặc cảm tự ti rằng người Việt chưa từng có một nhà nước đúng nghĩa, điều đó cho thấy rằng, trong sâu thẳm, họ chẳng tin gì vào chuyện Hùng Vương là quốc tổ, hằng năm người Việt vẫn kính cẩn, trang nghiêm, tổ chức quốc lễ. Cho nên trước khi nghĩ đến vấn đề có hay không tính chính thống của nhà Triệu, thiết nghĩ ta cần xác định Hùng vương là ai? Vấn đề này tôi đã trình bày trước.

V . KẾT

Với những trình bày trên, tôi cho rằng, sự kiện nước Văn Lang bị An Dương Vương diệt, chỉ là một vở kịch do Hùng Vương dựng lên, nhằm che dấu nguồn gốc nhà Chu của mình, trong 36 kế, đó là kế “Ve sầu thoát xác”. Đến cuối thế kỷ IX, người Việt vẫn còn giữ thông tin đó, vì vậy khi lấy lại nền tự chủ, Đinh Tiên Hoàng mới lấy tên nước là Đại Cồ Việt. Tuy nhiên đến đời Trần, hầu như thông tin về nguồn gốc của người Việt mất hẳn, chỉ còn trong truyền thuyết mà thôi, việc mất đi thông tin này dẫn đến nhiều hệ lụy đối với lịch sử nước ta như tôi đã trình bày.

Mặc dù đã che dấu nguồn gốc nhà Chu của mình bằng kế sách “Ve sầu thoát xác”, nhưng sợ rằng về sau con cháu không nhận ra, vì vậy Hùng Vương đã lấy tên triều đại tiếp theo là Thục Phán – An Dương Vương, tức là bên ngoại của ông, việc lấy tên này tương thích với kế sách quẻ Khôn, hay giao quyền cho phụ nữ như trong sử đã ghi, và đã được chứng thực qua cuộc khởi nghĩa của hai bà Trưng./.


Đà Lạt, Trọng thu, 2023

3 thoughts on “Ve sầu thoát xác

  1. Pingback: Thục Phán – An Dương Vương | Nghiên Cứu Lịch Sử

  2. Thời nhà Chu đường xá khó đi, núi cao trùng trùng. Làm sao mà một hậu duệ của Chu lại chạy xuống tận Việt Nam. Tác giả kết luận toàn dựa trên suy đoán vậy thì sao mà chính xác được. Láo lếu.

    Đã thích bởi 1 người

  3. Pingback: Cao Sơn Cảnh Hạnh | Nghiên Cứu Lịch Sử

Gửi phản hồi cho Van Pham Hủy trả lời