Khi trung quốc tấn công- Lời cảnh báo với nước Mỹ (Bài 11)

CHƯƠNG 11 : CHIẾN TRANH KINH TẾ: KHIẾN NGƯỜI MỸ HẾT ĐƯỜNG LÀM ĂN

Đại tá Grant Newsham

Trần Quang Nghĩa dịch

Người Mỹ biết rằng cạnh tranh kinh tế có thể gây tổn hại và có thể khiến các công ty phá sản. Nhưng họ không nghĩ đó là cũng là cách khiến đất nước suy sụp.

Người Trung Quốc thì nghĩ như vậy.

Bắc Kinh coi các hoạt động kinh tế và thương mại của mình đang góp phần vào một cuộc chiến rộng lớn hơn đến cùng với Hoa Kỳ – một yếu tố cốt lõi trong Quyền lực Quốc Gia Toàn diện.

ĐCSTQ tích cực làm việc để phá hủy các lĩnh vực sản xuất và thương mại của Hoa Kỳ. Nó cố gắng lôi kéo các công ty đến Trung Quốc, nơi dễ dàng đánh cắp công nghệ, kỹ thuật và khách hàng hơn. Nó tập trung vào việc thống trị các yếu tố chính của chuỗi cung ứng toàn cầu để biến Trung Quốc thành trung tâm kinh tế hấp dẫn của thế giới.

Đây không phải là cạnh tranh kinh tế bình thường. Đây là chiến tranh kinh tế. Và chúng ta đang vũ trang cho kẻ thù của mình đến tận răng.

Nguyên tội  WTO

Chúng ta đã trải qua hai thập kỷ trong mặt trận thương mại của cuộc chiến kinh tế và điều đó đã diễn ra tốt đẹp đối với người Trung Quốc.

Ngoại thương là dưỡng khí thúc đẩy sự phát triển của Trung Quốc. Số tiền mà nó kiếm được cho phép Đảng Cộng sản tài trợ cho quân đội và chi trả cho Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường – và gần như mọi thứ khác mà Trung Quốc cần từ nước ngoài. Điều đó bao gồm việc mua lại các công ty Mỹ và nước ngoài có công nghệ hữu ích cho các mục đích dân sự hoặc quân sự – và thường là cả hai. Với học thuyết hợp nhất quân sư-dân sự của Trung Quốc, đó là một điểm cần tranh luận.

Ngoại thương cũng giúp người Trung Quốc có việc làm, không phải là chuyện nhỏ đối với một chế độ độc tài, nơi công dân không thể loại bỏ những người ăn bám bằng lá phiếu (như họ có thể làm trong một nền dân chủ), và thay vào đó có thể cho họ vào một giuộc.

Washington đã tạo cơ hội cho Bắc Kinh tấn công trên mặt trận thương mại vào năm 2001 khi để Trung Cộng bước vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) – mặc dù Trung Cộng không đáp ứng đủ điều kiện.

Gia nhập WTO đòi hỏi một quốc gia phải là một nền kinh tế thị trường và tuân theo một số quy tắc cơ bản mà mọi quốc gia khác phải tuân theo, chẳng hạn như:

  • Tôn trọng sở hữu trí tuệ và không đánh cắp sở hữu trí tuệ và bảo vệ nó mạnh mẽ cho các công ty muốn làm kinh doanh tại đất nước của bạn
  • Không nhận được trợ cấp của chính phủ.
  • Không bán phá giá hay nói cách khác là không bán sản phẩm ra nước ngoài với giá thấp hơn chi phí để tạo ra chúng vì như thể sẽ đẩy tính cạnh tranh ra khỏi hoạt động kinh doanh.
  • Đối xử với các công ty nước ngoài như các công ty trong nước của bạn.
  • Kiểm soát các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu (DNNN), theo định nghĩa, vốn có lợi thế hơn đối với doanh nghiệp tư nhân (cơ bản nhất, các DNNN không nhằm kiếm tiền. Đó không phải là lợi thế nhỏ khi điều hành doanh nghiệp).

Tuy nhiên, những yếu tố đó lại thể hiện các thành phần chủ chốt trong mô hình kinh doanh của ĐCSTQ.

Vì vậy, Bắc Kinh, biết rằng không có cách nào để tuân thủ, đã mua cho mình một đường băng để tiến hành một mũi tấn công nghiêm trọng, hứa hẹn sẽ đáp ứng các tiêu chuẩn của WTO, nếu chỉ cần có một chút thời gian để sắp xếp mọi thứ vào trật tự. Và có rất nhiều người Mỹ thúc giục chúng ta cho Bắc Kinh thời gian.

Suy nghĩ được nêu ra là bằng cách hỗ trợ Trung Quốc – cho phép nước này gia nhập WTO và phớt lờ hành vi của nước này – CHND Trung Hoa sẽ dần dần tuân thủ các quy tắc và thậm chí trở thành nhà nước tự do.

Cách suy nghĩ đó đòi hỏi chính quyền Hoa Kỳ coi Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc không phải là một mối đe dọa và không có mưu đồ ác ý. Có nhiều người trong và xung quanh chính quyền biết rõ hơn.

Nhưng nhiều người khác sẵn sàng giả bộ khác đi, và một số người thực sự tin rằng Trung Quốc có thể trở thành một thành viên cấp tiến chơi theo luật của cộng đồng quốc tế. Đặc biệt là khi nền kinh tế của nó phát triển và người dân Trung Quốc trở nên giàu có hơn. Theo lý thuyết, tầng lớp trung lưu mới của Trung Quốc sẽ đòi hỏi các quyền tự do của mình.

Và như vậy, Trung Quốc đã được kết nạp vào WTO. Từ quan điểm kinh tế toàn cầu, đây là một tội lỗi nguyên thủy.

Thay vì trở thành một phiên bản lớn như của Canada, các nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc vừa củng cố quyền kiểm soát của mình vừa tăng gân cốt quân đội – và nhìn chung, người dân đã ủng hộ điều đó.. Nhiều người rất vui khi có đủ việc làm tử tế (hoặc ít nhất là hy vọng rằng con cái họ sẽ có những công ăn việc làm tốt hơn) và đủ tự hào về sự phát triển của Trung Quốc để trở thành một nước dân tộc chủ nghĩa, chứ không có chút nào chống Mỹ.

Không cần phải là một thiên tài chiến lược để biết điều gì sẽ xảy ra. Không có vẻ như là tuân thủ các quy tắc quốc tế là một điểm mạnh của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Năm 1988, một quan chức Trung Quốc đến lãnh sự quán Hoa Kỳ tại một quốc gia châu Âu. Y hy vọng mình và vợ có thể xin được thị thực sang Mỹ hay nói cách khác là đào tẩu. Anh chàng CIA địa phương đã gặp y. Đây là thời điểm Trung Quốc đang cố gắng tham gia Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT).

Để thu hút sự chú ý của người Mỹ, y mang theo một chồng sách nhỏ chính thức (và “bí mật”) của Bộ Thương mại Trung Quốc giải thích cách lách các quy định của GATT— cùng với các cẩm nang cho các sản phẩm cụ thể như giày tennis và khăn tắm. Bắc Kinh đang chuẩn bị phá hoại GATT trong khi vận động hành lang để gia nhập nó.

Tương tự như vậy, với việc Trung Quốc gia nhập WTO, CHND Trung Hoa được phép tiếp cận thị trường của các nước khác trong khi vẫn giữ thị trường của mình gần như đóng cửa – chỉ cho phép tiếp cận hạn chế trong khi vũ khí hóa các doanh nghiệp nhà nước của mình chống lại các công ty nước ngoài phải chạy theo lợi nhuận.

Bản đồ Nghiên cứu và Thiết kế do Trung tâm vì một Xã hội Tự do An toàn (SFS) cung cấp.

Nam Mỹ là một ví dụ điển hình về sự mở rộng kinh tế ấn tượng của Trung Quốc và việc xây dựng ảnh hưởng kèm theo trong hai mươi năm qua. Để so sánh ảnh hưởng kinh tế của Hoa Kỳ và Trung Quốc ở mỗi quốc gia, điều này bổ sung: (A) ngoại thương (nhập khẩu và xuất khẩu), (B) lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài, (C) tổng tín dụng được cấp bởi các ngân hàng chính trị và thương mại, và (D) viện trợ phát triển chính thức. Xu hướng này được nhìn thấy trên toàn thế giới, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.

Vì vậy, CHNDTQ đã trỗi dậy  mạnh hơn và bắt kịp. Các đối thủ cạnh tranh của nó (hoặc kẻ thù của nó, theo cách nhìn của Bắc Kinh) đã mất lợi thế tương đối và thậm chí, như một mục tiêu mà Bắc Kinh mưu tính, ngày càng trở nên lệ thuộc vào Trung Quốc.

Điều này có ý nghĩa gì trong thực tế thế giới? Hãy xem điều gì sẽ xảy ra khi các doanh nghiệp chuyển sang Trung Quốc, khi doanh nghiệp Trung Quốc xâm nhập Hoa Kỳ và khi hàng hóa và dịch vụ đi khắp thế giới trên Vành đai và con đường của ĐCSTQ.

Chào mừng đến với Trung Quốc: Hãy Hóa Rồng ở Đây

Lập nghiệp ở Trung Quốc là gầy dựng sự cạnh tranh của riêng bạn và nó luôn luôn là như vậy. Có điều việc thâm nhập WTO chỉ làm cho tính trạng tồi tệ hơn.

Khi tôi làm việc tại Motorola vào những năm 1990, tôi đã chứng kiến ​​một trong những công ty đáng nễ nhất của Mỹ phá sản.

Công ty đã dốc toàn lực ở Trung Quốc, xây dựng nhà máy, chuyển giao công nghệ, tuyển dụng hàng nghìn người dân địa phương, thể hiện cam kết của mình với thị trường và lấy lòng giới lãnh đạo cộng sản.

Tất cả đều tốt đẹp trong một thời gian, nhưng Motorola đã thực sự tự sát và vô tình giúp các nhà khai thác và sản xuất viễn thông Trung Quốc đứng vững. Trong khi tôi cố gắng giúp Motorola tiếp tục phát triển công nghệ của mình, chính quyền Trung Quốc đã bàn bạc về những hành động cần thiết – bao gồm cả việc đánh cắp bí mật thương mại – để tăng tốc độ phát triển công nghiệp bằng cách nhảy vọt qua các giai đoạn.

Ngày nay, công ty điện tử Trung Quốc Lenovo sở hữu một phần những gì từng thuộc Motorola.

Như đã đề cập trước đó, cựu giám đốc tình báo quốc gia John Ratcliffe gọi mô hình này là “cướp, sao chép và thay thế,” và đó là quy trình vận hành tiêu chuẩn ở Trung Quốc.

Bắc Kinh công khai về điều đó. Năm 2020, Tập Cận Bình nói: “[Chúng ta] phải tạo ra một số công nghệ ‘chùy sát thủ’. Chúng ta phải duy trì và nâng cao ưu thế của mình trên toàn bộ chuỗi sản xuất… và chúng ta phải thắt chặt sự lệ thuộc của chuỗi sản xuất quốc tế vào Trung Quốc, hình thành các biện pháp đối phó mạnh mẽ và khả năng răn đe dựa trên việc cắt nguồn cung cấp một cách chủ ý cho nước ngoài.”

Cựu phó giám đốc Hội đồng An ninh Quốc gia Matthew Pottinger đã đánh giá chính xác rằng khả năng răn đe của Tập tốt hơn nên được coi là khả năng tấn công.

Phát triển khả năng đó là một trong những động lực đằng sau chính sách công nghiệp và chiến lược của ĐCSTQ, Made in China 2025, được chính thức thông qua vào năm 2015. ĐCSTQ thường xuyên trình bày các Kế hoạch 5 năm đưa ra cái nhìn sâu sắc về các mục tiêu của mình—và Made in China 2025 chính là điều đó, rất kinh khủng.

Ý tưởng về Made in China 2025 là sản xuất mọi thứ ở Trung Quốc – ít nhất là những thứ tốt. Đó là một tên mới cho ý tưởng vắt kiệt công nghệ và bí quyết của người nước ngoài và thay thế chúng bằng một công ty Trung Quốc. Đó không phải là lời nói khoác vô hại.

Mục tiêu của Made in China 2025 là nâng cấp các ngành công nghiệp lớn – đặc biệt là các ngành ứng dụng quân sự/chiến lược. Kế hoạch nêu bật mười lĩnh vực ưu tiên:

  1. Công nghệ thông tin mới
  2. Công cụ tự động và người máy
  3. Trang thiết bị hàng không vũ trụ
  4. Thiết bị hàng hải và vận chuyển công nghệ cao
  5. Trang thiết bị vận tải đường sắt hiện đại
  6. Phương tiện vận chuyển và thiết bị năng lượng mới
  7. Thiết bị năng lượng
  8. Thiết bị nông nghiệp
  9. Vật liệu mới
  10. Dược phẩm sinh học và sản phẩm y khoa

Các công ty Mỹ dường như đã đổ xô tới để giúp Made in China thành công. Tự thuyết phục bản thân rằng mình phải có mặt ở thị trường Trung Quốc là điều thật dễ dàng. Có một giấc mơ không bao giờ được hồi đáp – bán một thứ gì đó cho mọi người ở Trung Quốc. Hoặc đó là sức hấp dẫn của lao động giá rẻ – không có liên đoàn lao động và các tiêu chuẩn môi trường lỏng lẻo.

Ngoài ra, nếu bạn chuyển hoạt động sản xuất sang Trung Quốc và tăng doanh thu cũng như giá cổ phiếu, thì sẽ có một phần thưởng hấp dẫn đang chờ bạn. “Ghi bàn” chỉ một lần và bạn sẽ có tiền tiêu đến cuối đời. Ai quan tâm điều gì sẽ xảy ra với chính công ty – bạn sẽ nhấm nháp ly sangria trên một bãi biển ở đâu đó khi các chủ nợ chọn nhặt xương của nó.

Hoặc đi theo con đường dễ dàng: bán toàn bộ công ty cho một người mua Trung Quốc và các giám đốc điều hành hàng đầu lấy đi một khoản tiền lớn.

Nếu bạn cần thêm lời biện minh, có ba từ kỳ diệu khiến chiến tranh kinh tế Trung Quốc thậm chí hiệu quả hơn: Tối đa hóa Giá trị Cổ đông.

Câu thần chú này khẳng định rằng nhiệm vụ duy nhất của ban quản lý là “tối đa hóa giá trị của cổ đông” – và nó đã cung cấp vỏ bọc tuyệt vời cho quá trình Tách rời Vĩ đại ngành công nghiệp ra khỏi Hoa Kỳ và chuyển tới Trung Quốc trong bốn thập kỷ qua.

Tuy nhiên, “tối đa hóa giá trị cổ đông” về cơ bản là một lý thuyết có một cuộc sống riêng, phục vụ như một cái cớ thuận tiện để các CEO và CFO (Giám đốc Điều hành và Giám đốc Tài chính) có thể chăm sóc tốt hơn lợi ích của chính họ. Không ai biết nó đến từ đâu, mặc dù Milton Friedman thường được ghi công.

Người ta chỉ cần tìm một quốc gia nơi ai đó sẽ làm việc gần như không có bao nhiêu tiền (so với người Mỹ), và người ta có thể hốt bạc – ít nhất đủ lâu để nhồi nhét tài khoản ngân hàng của mình trước khi chạy đến những ngọn đồi hoặc bãi biển.

Đối với những tác động đối với công nhân của bạn và cộng đồng địa phương ở Hoa Kỳ thì sao?

“Không thể tránh được. Giá trị cổ đông mà, bạn biết đấy.”

Trong phần lớn tầng lớp quản lý, cách tiếp cận bất thành văn làm-giàu-nhanh “Tôi có phần tôi” hoặc “Après moi le deluge” (Tiếng Pháp: Sau tôi là đại hồng thủy) đối với Trung Quốc là trên hết – đặc biệt là vì các triển vọng dài hạn, vâng, là “dài hạn”.

Kết quả là, với Trung Quốc, cả một thế hệ tốt nghiệp MBA đã dành toàn bộ cuộc đời làm việc của họ để phi công nghiệp hóa Hoa Kỳ nhằm mang lại lợi nhuận nhanh chóng cho chính họ – và lợi ích lâu dài hơn cho Trung Quốc.

Một giám đốc điều hành người Mỹ gần đây đã nói rằng, khi nhìn lại, “Các doanh nhân trở nên vô đạo đức khi các nhà phân tích chứng khoán trở nên quan trọng hơn Chúa.”

Người Mỹ cũng thường ngây thơ và thậm chí hạ mình ngay từ đầu. Chuyển giao công nghệ là vé vào thị trường Trung Quốc kể từ khi nó mở cửa vào cuối những năm 1970 – và nó vẫn vậy. Nhiều người Mỹ sẵn sàng chịu trả giá.

Chủ tịch của một công ty điện tử hàng không nổi tiếng của Mỹ đã tuyên bố vào đầu những năm 1990 rằng ông không ngại trao công nghệ cho người Trung Quốc – vì công ty của ông sẽ luôn đi trước họ.

Việc tự nguyện chuyển giao, dùng biện pháp mạnh và đánh cắp vì lợi thế kinh tế (và quân sự) của Trung Quốc đã không được coi trọng như lẽ ra chúng phải thế. Chúng được coi là chi phí kinh doanh với Trung Quốc.

Người ta thường từng nói (và nay vẫn vậy) rằng người Trung Quốc không thể cách tân, vì vậy họ phải ăn cắp. Vì vậy, chúng ta không có gì phải lo lắng, vì chúng ta thông minh hơn và có một chế độ tốt hơn.

Người Anh đã áp dụng lối suy nghĩ tương tự cho những người Mỹ ở thế kỷ 19, những người đã đánh cắp các công nghệ chủ chốt từ các nhà máy của Anh.

Chúng ta gọi đó là sự khéo léo của Yankee [tiếng lóng, chỉ người dân Bắc Mỹ thời lập quốc] sử dụng công nghệ của người khác và cải tiến nó. Trong trường hợp của chúng ta, làm như vậy đã thúc đẩy cuộc Cách mạng Công nghiệp giúp chúng ta bắt kịp người Anh, và cuối cùng chúng ta đã vượt qua họ. Có lẽ họ không nhận ra chúng ta chơi khăm.

Tương tự như vậy, nhiều người Mỹ dường như không nhận ra một sự thay đổi có thể đang đến và rằng họ đang giúp điều đó xảy ra.

Khoảng đầu những năm 1990, công ty hàng không vũ trụ Loral Corporation có một tướng Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ đã nghỉ hưu trong biên chế khăng khăng CHND Trung Hoa không đặt ra mối hiểm họa nào. Loral đã vô tình đã giúp cộng sản Trung Quốc làm chủ công nghệ MIRV, được sử dụng để phóng nhiều vệ tinh từ một tên lửa duy nhất.

Người Trung Quốc sử dụng công nghệ ấy cho tên lửa đạn đạo – phóng một tên lửa và nhiều đầu đạn từ một tên lửa duy nhất thay vì một tên lửa và một đầu đạn. Đánh chặn một tên lửa đang lao tới dễ dàng hơn nhiều so với việc cố gắng ngăn chặn nửa tá tên lửa.

Khoảng năm 2017, khi sự hiểu biết về bản chất của ĐCSTQ trở nên phổ biến hơn, nhiều người nước ngoài bắt đầu tự hỏi liệu họ có phải là mục tiêu bị tiêu diệt hay không.

Vì vậy, ĐCSTQ đã ra lệnh cho các phương tiện truyền thông nhà nước ngừng nói về Made in Trung Quốc 2025, nhưng nó không biến mất. Và một thuật ngữ mới đã xuất hiện, “Vòng tuần hoàn Kép”.

“Vòng tuần hoàn Kép” nhằm mục đích tạo ra một nền kinh tế độc lập bên trong Trung Quốc. Trung Quốc sản xuất và tiêu dùng trong nước, giúp nền kinh tế nước này bớt phụ thuộc vào xuất khẩu và ít bị tổn thương trước áp lực hoặc lệnh trừng phạt từ bên ngoài. Điều đó rất hữu ích nếu Trung Quốc dự kiến ​​sẽ hành động (bắt đầu một cuộc chiến tranh sát thương) vào một ngày nào đó trong tương lai không xa.

Ngay cả khi đó, các công ty Mỹ vẫn tiếp tục đến. Chỉ cần nhìn vào Boeing.

Boeing Nhảy Vào Thị trườngTrung Quốc

Boeing là công ty hàng không vũ trụ hàng đầu của Mỹ và cung cấp các máy bay và hệ thống hàng không vũ trụ thiết yếu cho quân đội Hoa Kỳ (và các đồng minh của họ). Nhưng Boeing cũng rất thích thị trường Trung Quốc. Vào năm 2018, hãng đã thành lập một nhà máy hoàn thiện cho những chiếc 737 gần Thượng Hải.

Trung Quốc là thị trường lớn thứ hai của Boeing và thỏa thuận ước tính trị giá 1,2 nghìn tỷ USD yêu cầu đối với hơn 7.690 máy bay mới tại thị trường Trung Quốc trong vòng 20 năm tới là điều hấp dẫn đối với bất kỳ công ty nào.

Nhảy vào Trung Quốc, tất nhiên, là rủi ro, do các mục tiêu chiến tranh kinh tế của Trung Quốc và hồ sơ theo dõi của ĐCSTQ về đánh cắp hoặc lối sử dụng các biện pháp mạnh mẽ, thiếu hệ thống pháp luật trung thực và phân biệt đối xử với các công ty nước ngoài – đặc biệt các công ty thành công.

Nhưng nó thậm chí còn rủi ro hơn đối với Boeing. Trung Quốc khao khát tham gia vào thị trường máy bay thương mại. Công nghệ hàng không vũ trụ nằm trong danh sách mười sản phẩm hàng đầu Made in China 2025 của ĐCSTQ – cho cả ứng dụng dân sự và quân sự.

Trung Quốc đã phát triển tốt máy bay quân sự – một phần từ đánh cắp công nghệ của nước khác – mặc dù nó vẫn thiếu công nghệ động cơ tiên tiến nhất.

Trung Quốc cũng đã sớm mua một phần ngành công nghiệp hàng không tổng quát của Mỹ và công nghệ của nó. Teledyne-Continental Motors đã được bán cho công ty AVIC International của Trung Quốc vào năm 2010, và Cirrus Industries đã được mua bởi China Aviation Industry General Aircraft vào năm 2011.

Nhưng chế tạo máy bay thương mại đáng tin cậy để cạnh tranh với Boeing và Airbus là điều khó khăn. Đó là một trong những ngành công nghiệp quan trọng mà Trung Quốc vẫn chưa thành thạo.

Động thái của Boeing bước vào thị trường Trung Quốc đặt nó thẳng vào tầm ngắm của chính sách công nghiệp của CHND Trung Hoa và trên lãnh địa của Trung Quốc.

Tại thị trường Trung Quốc, mọi thứ diễn ra theo cách khác với những gì người ta mong đợi. Hãy hỏi Motorola, Microsoft, Google và Apple. Tại sao Boeing nghĩ rằng nó sẽ khác?

Nhân tiện, đối với kế hoạch bán hàng ngàn máy bay của Boeing tại thị trường nội địa Trung Quốc, vào năm 2022, các tiêu đề báo chí Trung Quốc đã thông báo về việc ra mắt Máy bay C919 do Trung Quốc chế tạo.

Còn được gọi là: “Sát thủ Boeing 737.”

Năng lượng

Thành công của CHND Trung Hoa trong việc lôi kéo ngành công nghiệp Hoa Kỳ vào Trung Quốc thật ngoạn mục. Và chúng ta đã giúp họ. Chỉ cần nhìn vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.

Năng lượng mặt trời. Hoa Kỳ ban đầu là nước dẫn đầu, nhưng Trung Quốc đã chiếm đoạt công nghệ và hạ gục các đối thủ, khiến hầu hết họ phá sản. Giờ đây, những người lắp đặt đang yêu cầu Hoa Kỳ loại bỏ hàng nhập khẩu giá rẻ của Trung Quốc. Các nhóm môi trường đang hỗ trợ họ.

Năng lượng gió. Giống nhau cả thôi. Một sĩ quan tình báo Hoa Kỳ đã nghỉ hưu lưu ý: “Các ngành công nghiệp năng lượng gió của Trung Quốc khét tiếng về hành vi đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ, gián điệp công nghiệp, bán phá giá và thao túng thị trường để đẩy các đối thủ cạnh tranh nước ngoài ra khỏi hoạt động kinh doanh. Google American Superconductor và Trung Quốc là một trường hợp tham khảo. Kết thúc bình luận.”

Xe điện (EV) là một công nghệ khác mà Trung Quốc muốn thống trị để bao gồm cả việc nắm được chuỗi cung ứng khoáng sản cần thiết để sản xuất pin EV.

Một mỏ coban lớn ở Congo thuộc về một công ty Mỹ, Freeport McMoran, cho đến khi công ty này gặp khó khăn về tài chính và muốn bán vào năm 2016. Họ đã yêu cầu chính phủ Mỹ giúp đỡ. Không ai quan tâm. Không từ đại sứ Hoa Kỳ tại Congo, Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại hay Hội đồng An ninh Quốc gia.

Một công ty của Trung Quốc, China Molypden, đã bước vào và mua nó với giá 2,6 tỷ USD. Trong trường hợp bạn đang thắc mắc làm thế nào CHND Trung Hoa sử dụng hiệu quả lượng ngoại hối mà họ kiếm được từ việc mua sắm tại Walmart của bạn và những nơi khác, thì đây chính là câu trả lời.

Thậm chí còn điên rồ hơn, chính quyền Hoa Kỳ biết tầm quan trọng của coban trong pin máy tính xách tay và điện thoại di động – và nhu cầu đó sẽ tăng vọt trong những năm tới cùng với nhu cầu về nguyên liệu năng lượng sạch. Nó biết nguồn cung cấp coban của Hoa Kỳ rất ít. Nó biết hầu hết coban đến từ Congo. Nó biết Trung Quốc đang nhắm đến việc lũng đoạn thị trường.

Một nhà ngoại giao Mỹ nhận xét rằng câu chuyện coban của Freeport McMoran Congo “chỉ ra mấu chốt của vấn đề: hai chế độ và hai trò chơi khác nhau. Sự tách biệt giữa chính phủ Hoa Kỳ và doanh nghiệp không địch nổi với sự hợp nhất giữa chính quyền và doanh nghiệp không gặp thách thức của Trung Quốc. Một số ít công cụ mà chính phủ Hoa Kỳ có chỉ trợ giúp được ngoài lề và trong hệ thống của Hoa Kỳ (ví dụ: bảo lãnh của chính phủ đối với các khoản vay thương mại, được cho vay theo cách mà hệ thống của chúng ta cho phép).”

Chúng ta biết có một vấn đề. Bộ Năng lượng Hoa Kỳ báo cáo công khai sự thống trị của Trung Quốc về năng lượng mặt trời và khai thác khoáng sản đất hiếm vốn cực kì quan trọng cho công nghệ hiện đại.

Trong suốt đại dịch, như đã đề cập trước đó, người ta đã biết rộng rãi rằng nguồn cung cấp được phẩm gốc cũng bị Trung Quốc thống trị tương tự — bao gồm, theo dữ liệu của Bộ Thương mại, 95% hàng nhập khẩu của Mỹ là ibuprofen, 91% nhập khẩu hydrocortison, 70% acetaminophen, hơn 40% penicillin, 40% heparin và 80% nguồn cung kháng sinh của Hoa Kỳ.

Chúng ta biết điều này vì truyền thông nhà nước Trung Quốc đe dọa sẽ cắt nguồn cung cấp cho chúng ta để trả đũa việc hỏi về nguồn gốc của COVID, khiến chúng ta bị “nhấn chìm vào biển dữ vi-rút corona.”

Bằng cách lôi kéo các doanh nghiệp Mỹ và nước ngoài khác vào Trung Quốc, Bắc Kinh đã khiến các đối thủ và kẻ thù của mình phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc, do đó đảm bảo người nước ngoài sẽ tiếp tục cung cấp các đầu vào cần thiết (tiền, công nghệ, sản xuất) để củng cố sự thống trị của ĐCSTQ.

Đổi lại, điều này hạn chế sự sẵn sàng của Washington trong việc thách thức hành vi của Trung Quốc – vì sợ bị loại khỏi thị trường Trung Quốc hoặc bị cắt khỏi các sản phẩm chính (chẳng hạn như dược phẩm) mà chỉ do Trung Quốc cung cấp.

Ảnh hưởng chính trị của Trung Quốc đã phát triển nhanh chóng, và điều đó cần thiết để làm rạn nứt liên minh Hoa Kỳ, bóc tách những người bạn của nước Mỹ, chiếm lĩnh các tổ chức quốc tế và tăng cường cô lập Đài Loan.

Hãy tự hỏi bản thân: Bạn sẽ có thể  cứng rắn đến mức nào đối với đất nước đang sản xuất dược phẩm giúp bạn khỏe mạnh? Hoặc pin cho quân đội của bạn? Hoặc cung cấp nhu cầu thô và hiếm? vật liệu ngành công nghiệp của bạn

Đến Mỹ

Việc thâm nhập WTO cũng thúc đẩy ĐCSTQ dấn vào thị trường Hoa Kỳ.

Nó đã lùng sục kinh khiếp và phần lớn không được kiểm soát.

Từ năm 2002 đến 2016, các công ty thuộc sở hữu nhà nước hoặc có liên kết với nhà nước của Trung Quốc đã chi 120 tỷ USD để mua tài sản ở Hoa Kỳ.

Sau đây là một ít:

Smithfield Foods [Công ty Thực phẩm] được Shuanghui International Trung Quốc mua lại vào năm 2013 với giá 4,7 tỷ USD. Tính đến năm 2021, Smithfield là nhà chế biến thịt lợn lớn nhất thế giới, nắm giữ nó rất hữu ích nếu, giống như Trung Quốc, bạn lo ngại về an ninh lương thực.

Chuỗi rạp chiếu phim AMC Theaters được Dalian Wanda Group Trung Quốc mua lại vào năm 2012 với giá 2,6 tỷ đô la; Công ty giải trí Legendary Entertainment cũng được Dalian Wanda Group mua lại vào năm 2016 với giá 3,5 tỷ đô la. Rất hữu hiệu để gây ảnh hưởng và tuyên truyền chiến tranh chính trị.

Nhà sản xuất thiết bị GE Appliances – được Qingdao Haier Co., Ltd. mua vào năm 2016 với giá 5,6 tỷ USD. Chủ sở hữu, Zhang Ruimin, cũng là một đại biểu của đảng tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 19.

Ông mô tả mạng Internet Vạn vật mang đặc tính Trung Quốc, nói rằng: “Hãy tưởng tượng bằng cách chạm vào màn hình trên tủ lạnh, bạn có thể mua sắm trực tuyến. Bằng cách sử dụng các ứng dụng trên điện thoại di động, bạn có thể kiểm tra xem phòng giặt ủi gần nhà mình có máy giặt nào còn rảnh không” (Có gì sai nào!))

Motorola Mobility (công ty cũ của tôi)—được Lenovo mua lại vào năm 2014 với giá 2,91 tỷ USD. Lenovo trở thành một trong những nhà sản xuất điện thoại di động lớn nhất thế giới.

Henniges Automotive-được  Tập đoàn Công nghiệp Hàng không Trung Quốc (AVIC) thuộc sở hữu nhà nước của ĐCSTQ mua lại với giá 600 triệu USD vào năm 2015. Đây là nhà sản xuất phụ tùng chính xác và, theo Peter Schweizer, AVIC nằm ở trung tâm của tổ hợp quân sự-công nghiệp Trung Quốc.

Do thuộc lĩnh vực nhạy cảm nên thỏa thuận này cần có sự chấp thuận của Ủy ban Đầu tư Nước ngoài tại Hoa Kỳ (CFIUS). Và Bộ Ngoại giao của John Kerry đã đồng ý.

CFIUS Không Chỉ Làm Chuyện Đó Một Lần

Như một giám đốc điều hành công nghệ cao đã lưu ý: “Tôi không thể tin rằng chính phủ Hoa Kỳ lại cho phép ngành công nghiệp (bán dẫn) chuyển từ Hoa Kỳ sang Đài Loan và Trung Quốc – nhưng bất cứ khi nào tôi hỏi, câu trả lời từ ban quản lý cấp cao luôn là: ‘Chúng tôi đã hỏi…. Quốc hội, Nhà Trắng và CFIUS không coi chuyện đó là quan trọng.”

Đó là tất cả vỏ bọc mà doanh nghiệp Hoa Kỳ cần.

Những mối nguy hiểm đã rõ ràng từ rất sớm. Vào năm 2013, một luật sư thương mại người Mỹ và cựu quan chức chính phủ đã mô tả sự năng động trong giai đoạn này và cuộc chiến thương mại thành công của Trung Quốc đã ảnh hưởng như thế nào đến chính sách của chính phủ Hoa Kỳ đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa:

Về cơ bản, (người Trung Quốc) đang ngồi trên núi ngoại hối bằng tiền của Hoa Kỳ kiếm được thông qua xuất khẩu của Trung Quốc về mọi thứ mà người tiêu dùng Hoa Kỳ muốn mua – nhưng không phải tự xây dựng các xưởng bóc lột sức lao động. Tiếp theo, Cục Dự trữ Liên bang tiến hành in ấn tiền (nới lỏng định lượng 1 & 2…) hàng tỷ  đô la mỗi tháng.

Chính phủ Trung Quốc dựa vào chính phủ Hoa Kỳ để nới lỏng đánh giá của CFIUS (Ủy ban nước ngoài về đầu tư tại Hoa Kỳ) về các giao dịch mua “nước ngoài” của họ đối với ngành công nghiệp nội địa của Hoa Kỳ. Được trang bị hàng núi tiền mặt có giá trị giảm dần, trong thời kỳ suy thoái kinh tế gần đây nhất, giờ đây họ đã mua một cách điên cuồng những viên ngọc quý của ngành công nghiệp và doanh nghiệp Mỹ từ các cổ đông/giám đốc điều hành Hoa Kỳ mong muốn tối đa hóa lợi nhuận hàng quý.

Bao gồm cả những viên ngọc quý của ngành hàng không tổng quát của Mỹ. Việc bán công nghệ vô giá này hiện đang được ca ngợi là “Trung Quốc, vị cứu tinh của Hàng không Tổng quát của Hoa Kỳ” – những thằng điên.

Năm 2018, gần 20 năm sau khi Trung Quốc được phép gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nhà kinh tế học đáng kính người Mỹ Marvin Feldstein đã lưu ý: “Điều cần thiết là Trung Quốc thay đổi hành vi để tuân thủ các quy tắc mà Bắc Kinh đã chấp nhận khi gia nhập WTO vào năm 2001.”

Chúc may mắn với điều đó.

Tôi sẽ có những gì cô ấy đang có

Những gì các công ty Mỹ không cho đi, thì người Trung Quốc đã đánh cắp – và vẫn còn đánh cắp. Thiệt hại: $225- $600 tỷ mỗi năm.

Nhưng đó không chỉ là tổn thất tiền tệ tức thời Chúng ta cũng mất thị trường, tất cả thu nhập trong tương lai và sự phát triển R&D (ngành Nghiên cứu và Phát triển).

Việc đánh cắp từ các công ty khác ở Trung Quốc là khá dễ dàng, nhưng việc lùng sục bất cứ thứ gì có giá trị cũng diễn ra ở nước ngoài. Một số là do nhà nước chỉ đạo, được hợp pháp hóa bởi Luật Tình báo Quốc gia năm 2017. Nhưng một số chỉ là dựa vào đầu cơ, vì tư nhân Trung Quốc đánh cắp sở hữu trí tuệ và bí quyết với mục đích muốn được thuê lại ở Trung Quốc hoặc thành lập các doanh nghiệp cạnh tranh.

Ví dụ, vào năm 2012, Tze Chao, người đã từng làm việc tại DuPont từ 1966 đến 2002, nhận tội âm mưu thực hiện hoạt động gián điệp. Theo bản nhận tội của mình, ông ta đã “biết rằng chính phủ CHND Trung Hoa đã ưu tiên phát triển công nghệ TiO2 của quy trình clorua trong một thời gian ngắn và mong muốn có được công nghệ này từ  các công ty Tây phương.”

 Tze đã đấu thầu thiết kế một cơ sở TiO2 với Tập đoàn Pangang bao gồm thông tin “bí mật” của DuPont. Ông ấy đã không trúng thầu. Nhưng sau đó, ông được yêu cầu xem xét công việc thiết kế của người khác và cung cấp thêm bí quyết thương mại DuPont cho Tập đoàn Pangang.

Giám đốc FBI Christopher Wray cho biết vào năm 2021  cứ sau mười giờ FBI lại mở một vụ án mới liên quan đến hành vi trộm cắp do Trung Quốc và ĐCSTQ tài trợ – từ hàng tiêu dùng đến công nghệ vệ tinh, hạt giống nông nghiệp đến khí tài quân sự.

Một vài ví dụ

Thường thì đó là hoạt động gián điệp kiểu cũ, không liên quan đến việc hack máy tính. Năm 2021, Yanjun Xu, một quan chức Bộ An ninh Nhà nước Trung Quốc (MSS giống như CIA hoặc FBI) ​​bị kết tội cố gắng tuyển dụng một nhân viên của General Electric để cung cấp công nghệ động cơ phản lực độc quyền của công ty. Nỗ lực tuyển dụng là theo kiểu cổ điển: phát hiện, tiếp cận và dần dần thu hút mục tiêu.

FBI đánh hơi được việc đó. Họ dàn xếp để bắt gián điệp MSS ở Bỉ, và y bị dẫn độ về Hoa Kỳ. Y đã bị xét xử và kết án 20 năm tù trong một thắng lợi hiếm hoi của người Mỹ.

Chương trình Ngàn Nhân tài vẫn tiếp diễn của Trung Quốc là một âm mưu khác để phát hiện người Trung Quốc và người nước ngoài làm việc trong các lĩnh vực công nghệ quan trọng và cung cấp cho họ một hợp đồng phụ béo bở để chia sẻ những gì họ biết. Và, trong một số trường hợp, để kéo họ hoàn toàn vào giuộc.

Không phải lúc nào cũng đánh cắp, nhưng thường thì có hoặc gần như vậy. Vì mọi thứ được thực hiện một cách lặng lẽ, nó gợi ý rằng có điều gì đó không ổn lắm.

Trong một vụ án nổi tiếng, giáo sư Đại học Harvard, Tiến sĩ Charles Lieber, đã bị kết án vào năm 2020 vì nhận hàng triệu USD trong dự án tài trợ từ chính phủ Trung Quốc và che giấu mục đích. Ông ta phủ nhận đã cung cấp bất kỳ thông tin được bảo mật nào.

Nick Eftimiades, người đã viết cuốn sách về gián điệp Trung Quốc theo đúng nghĩa đen, lưu giữ một cơ sở dữ liệu về các vụ gián điệp kinh tế liên quan đến Trung Quốc. Ông đếm có đến bảy trăm lẻ. Và đó chỉ là những vụ đã bị phát giác.

Điều này không có gì mới. Quân đội Trung Quốc và Huawei đã khiến Northern Telecom (Nortel) ngừng hoạt động vào giữa những năm 2000. Northern Telecom là công ty lớn nhất của Canada. Điều đó giống như việc đưa AT&T ra khỏi hoạt động kinh doanh (khi đó là công ty viễn thông chiếm ưu thế ở Mỹ). Và trong quá trình đó, Huawei và ZTE phát triển lên mạnh mẽ.

Họ đã làm điều đó như thế nào?

Thông qua hack máy tính, cài bọ và gián điệp bên trong Nortel, theo báo cáo là đã sử dụng sinh viên Trung Quốc lấy bằng tiến sĩ đang làm việc cho Nortel để đánh cắp thông tin và nỗ lực thỏa hiệp với các nhà quản lý Nortel bởi  các đặc vụ ĐCSTQ và QGPNDTQ.

Hàm ý đang tạo ảnh hưởng bao trùm, còn lâu mới chấm dứt. Theo Anders Corr:

Có vẻ như Huawei đã tấn công các công ty viễn thông của Canada và Vương quốc Anh (Nortel và Marconi) để đánh cắp quyền sở hữu trí tuệ và dữ liệu định giá của họ, sau đó ra giá thấp hơn cho các hợp đồng ở quốc gia của họ, khiến họ bị loại khỏi kinh doanh. Vào thời điểm đó, Nortel là công ty lớn nhất của Canada và có công nghệ hỗ trợ 70% lưu lượng truy cập internet của thế giới.

Tôi nghĩ rằng một người có lý trí có thể kết luận rằng chúng ta cần loại bỏ không chỉ các thành phần của Huawei khỏi hệ thống của chúng ta và các hồ sơ dự thầu của Huawei khỏi quy trình đấu thầu của chúng ta, mà tất cả các công ty của Trung Quốc (ví dụ: các công ty hạt nhân dân sự đang trên đà phát triển), vốn chắc chắn hưởng lợi một cách có hệ thống từ dữ liệu định giá bị đánh cắp và nhận trợ cấp của chính quyền Trung Quốc, do đó có thể ra giá thầu thấp hơn các đối thủ của họ và phá hủy các doanh nghiệp.

Một khi các doanh nghiệp này biến mất, rất khó, nếu không muốn nói là không thể, để tái dựng lại chúng do sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt từ Trung Quốc. Và khi các công ty của Trung Quốc thâm nhập vào cơ sở hạ tầng của chúng ta và vào các nút then chốt quan trọng trong nền kinh tế của chúng ta, họ có quyền kiểm soát ngày càng tăng đối với tất cả các hệ thống của chúng ta và tạo đòn bẩy đối với các nhà lãnh đạo chính trị của chúng ta, những người sẽ không bao giờ muốn thừa nhận những sai lầm nghiêm trọng mà họ đã mắc phải.

Tập và Obama đã nhất trí vào năm 2015 là không tham gia vào hoạt động gián điệp kinh tế mạng. Người Mỹ không làm điều đó, trong mọi trường hợp. Nhưng có lẽ, Tập đã vẫn khoanh tay.

Và dù sao đi nữa, đại sứ quán Trung Quốc tại Washington đã phủ nhận tất cả: “Những thành tựu phát triển khoa học và công nghệ của Trung Quốc không phải đến từ đánh cắp hay cướp bóc, mà là từ sự lao động cần mẫn của người dân Trung Quốc”. Bạn đã biết rồi đó.

Theo nghiên cứu Brookings, hành động rút ruột nền kinh tế Mỹ được tài trợ tốt, có mục tiêu và không ngừng nghỉ  này đã dẫn đến hàng triệu việc làm bị mất. Phần lớn ngành kinh doanh thép và chất bán dẫn đã biến mất, công nghiệp dệt may và sản xuất nội thất của Mỹ cũng gần như biến mất.

Trong những lĩnh vực một thời phát đạt như sản xuất, không lẽ thình lình những người mất việc lại đang học viết phần mềm . Nghiên cứu cho thấy rằng “các khu vực bị cắt giảm việc làm trong lĩnh vực chế tạo do tình hình thương mại gây ra không thấy có sự giảm khác biệt trong nguồn cung lao động, ví dụ, do di cư ra nước ngoài, cũng như không có sự thu hút nhiều lao động hơn của các ngành phi sản xuất. Sự mất việc làm trong ngành chế tạo có hiệu quả tương đương một đổi một với tỉ lệ  giữa số người có việc làm và dân số.

Bạn có thể tự mình xem các hiệu ứng ở Baltimore; Erie, Pennsylvania; hoặc Đông Cleveland. Nhắc nhở bản thân rằng những gì đã từng ở đó hầu hết được đưa ra nước ngoài và phần lớn là đến Trung Quốc.

Có một sự khác biệt lớn giữa kiểu sống mà một người có thể có tạo ra mọi thứ so với việc trở thành người chào hàng của Walmart – làm việc tại đó để kiếm sống chứ không phải để hỗ trợ hưu trí.

Và việc đó trở nên tồi tệ hơn.

Hợp nhất quân sự-dân sự

Tất nhiên, ý tưởng rằng tất cả những thứ này có thể có ứng dụng quân sự là chính sách của chính phủ Trung Quốc. Nó được gọi là sự hợp nhất quân sự-dân sự, và là nền tảng trong cách Trung Quốc nhìn nhận Quyền lực Quốc gia Toàn diện của mình.

Đối với Bắc Kinh, hợp nhất quân sự-dân sự có nghĩa là sử dụng các công nghệ dân sự, R&D và bí quyết để áp dụng chúng vào mục đích quân sự.

Nó cũng có thể hoạt động theo hướng khác – ví dụ, sử dụng gián điệp cấp độ quân sự để đạt được lợi thế thương mại.

Mục đích là để làm cho Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trở thành quân đội tốt nhất thế giới vào năm 2049 – kỷ niệm một trăm năm thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.

Để thực hiện điều này, QGPNDTQ dự kiến ​​​​sẽ đạt được các công nghệ và kỹ thuật từ bất cứ nơi nào chúng tồn tại kể cả ở nước ngoài – và bằng bất kỳ phương tiện nào, tốt đẹp hay xấu xa.

Đây là một ví dụ về cách nó hoạt động trong thực tế và tại sao chúng ta nên lo lắng.

Cả về mức độ tinh vi và quy mô, ngành đóng tàu của Trung Quốc đã trở thành một ngành công nghiệp thống trị, đẳng cấp thế giới trong ba thập kỷ qua. Và việc đóng một tàu chở hàng dân sự cũng dễ dàng như đóng một tàu chiến hải quân.

Ngành đóng tàu Mỹ ư? Nó hấp hối cùng với số tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ. Trong thập kỷ qua, Trung Quốc đã hạ thủy 5 tàu chiến cho mỗi tàu Mỹ hạ thủy. Hải quân QGPNDTQ đã lớn hơn Hải quân Hoa Kỳ. Với tốc độ này, đến năm 2030, nó sẽ bằng một rưỡi quy mô của hạm đội Mỹ.

Quân đội Trung Quốc đã đạt đến mức mà trong một số trường hợp nhất định – chẳng hạn, một cuộc chiến gần lục địa Trung Quốc hoặc ở Biển Đông – nó có thể đánh tơi tả các lực lượng Mỹ.

Ngay cả khi Hoa Kỳ quyết định xây dựng lại hạm đội của mình (ngoài việc chỉ nói về nó), thì cũng không rõ liệu chúng ta có xưởng đóng tàu hay công nhân được đào tạo để làm việc đó hay không (một sản phẩm phụ của việc Trung Quốc giết chết lĩnh vực chế tạo của chúng ta là nó cũng xóa sổ chuyên môn của chúng ta).

Vậy điều gì sẽ xảy ra trong một cuộc chiến khi tàu bị chìm và bạn cần đóng những chiếc mới, hoặc sửa chữa những con tàu bị hư hỏng nhưng không có khả năng để làm điều đó? Bạn không thể, vì vậy bạn không làm được

Kẻ thù thường không đứng yên chờ đợi để bạn xây dựng lại ngành công nghiệp của mình.

Góp thêm nỗi sỉ nhục vào tổn thương, các công ty nước ngoài – Đài Loan, Nhật Bản, Châu Âu và Mỹ – đã giúp ngành đóng tàu của CHND Trung Hoa phát triển bằng cách đặt hàng với các xưởng đóng tàu của Trung Quốc. Các xưởng này của Trung Quốc được thiết lập với ý tưởng hợp nhất quân sự-dân sự.

Chúng ta đang giết chết năng lực của chính mình trong khi trợ cấp cho năng lực của họ.

Hay, nói cách khác, là xuất ra Quyền lực  Quốc gia Toàn diện của chúng ta cho Trung Quốc. Còn Trung Quốc lại khiến chúng ta tự làm mình dễ bị tổn thương. Việc đó tệ đến mức nào?

Việc đó thật tệ.

Một báo cáo năm 2022 của Bộ Quốc phòng về việc Trung Quốc xiết chặt các nguyên liệu chủ chốt cho quân đội Hoa Kỳ là một bài viết nghiệt ngã.

Báo cáo mô tả quân đội Hoa Kỳ phụ thuộc vào các nhà cung cấp Trung Quốc trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả pin, vi điện tử và vỏ kim loại (cứ nghĩ là đạn).

Chỉ cần nhìn vào pin, Trung Quốc cung cấp pin thành phẩm, nhưng thậm chí còn cung cấp nhiều thành phần hơn để tạo ra pin: 94% lithium hydroxit, 76% chất điện phân, 70% lithium cacbonac và 65% anôt. Theo báo cáo, việc Hoa Kỳ và quân đội Hoa Kỳ chuyển sang quá quan tâm đến bảo vệ môi trường sẽ “vô tình làm gia tăng sự thống trị” của Trung Quốc.

Trung Cộng cũng đang nhắm đến việc tăng cường kiểm soát đối với lĩnh vực vi điện tử. Báo cáo của Bộ Quốc phòng cũng trích dẫn việc Trung Quốc “mua các công ty và công nghệ vi điện tử quan trọng, trộm cắp quyền sở hữu trí tuệ và tuyển dụng nhân tài rầm rộ.” Và tệ hơn nữa, “Các thành phần vi điện tử giả mạo đã được xác định trong nhiều hệ thống của Bộ Quốc phòng.”

Trung Quốc cũng hoàn toàn kiểm soát ngành đúc kim loại. Bộ Quốc phòng thừa nhận đã mua một số lớn sản phẩm đúc và rèn từ Trung Quốc, cũng như “nhiều máy công cụ và hệ thống chế tạo mà Bộ Quốc phòng phụ thuộc.”

Không ai có thể nghĩ rằng sự tín nhiệm – đúng ra là sự lệ thuộc – vào một quốc gia coi Hoa Kỳ là kẻ thù là một điều tốt.

Sẽ là một bước đầu tiên tốt đẹp nếu chúng ta hiểu rõ vấn đề. Một quan chức Hoa Kỳ đã nhận xét cách đây vài năm: “Sẽ là một tiến bộ lớn nếu chúng ta chỉ đơn giản phối hợp các nỗ lực của chính quyền Hoa Kỳ dựa theo một chiến lược và sự hiểu biết chung. Thay vào đó, chúng ta đã tiến hành những nỗ lực trái ngược nhau trong chính quyền, nếu không muốn nói là trong cùng một bộ. Bộ Ngoại giao buổi sáng đưa ra một công hàm phản đối CHNDTQ  và buổi chiều bạn cho các nhà khoa học Trung Cộng một khoản trợ cấp và thị thực.”

Trong khi Bộ Quốc phòng đưa ra một báo cáo về việc Trung Quốc nắm giữ các nguyên vật liệu quan trọng, thì Bộ cũng tài trợ cho các công ty mới thành lập nhỏ và các công ty khác thông qua chương trình Nghiên cứu Đổi mới Doanh nghiệp Nhỏ (SBIR). Có những trường hợp các công ty mang công nghệ và bí quyết do Bộ Quốc phòng tài trợ đến Trung Quốc – trong một số trường hợp, làm việc với các đơn vị hỗ trợ Quân đội Giải phóng Nhân dân và ngành công nghiệp quốc phòng của Trung Quốc.

Ví dụ: Solarmer Energy, Inc., một nhà phát triển pin mặt trời polyme của Hoa Kỳ, đã nhận được SBIR và sau đó giải thể các doanh nghiệp có trụ sở tại Hoa Kỳ và chuyển giao nghiên cứu, phát triển,  và sở hữu trí tuệ của nó cho một công ty con có trụ sở tại Bắc Kinh. Công ty con đó được cho là làm việc với một phòng thí nghiệm do chính phủ Trung Quốc điều hành và đã tiến hành nghiên cứu các ứng dụng quốc phòng.

Chúng ta tạo quá nhiều thuận lợi cho CHNDTQ. Và người Nhật, châu Âu và những người khác cũng vậy.

Đến lượt mình, thành công của CHNDTQ trên mặt trận kinh tế và tốc độ tăng trưởng kinh tế khổng lồ của nước này trong 30 năm qua đã tạo nên một sự tăng trưởng đáng kinh ngạc của Quân Giải phóng Trung Quốc.

Những người cộng sản Trung Quốc không buộc phải lựa chọn giữa súng và bơ. Họ có thể có được cả hai nhờ Hoa Kỳ (và các nước khác) sẵn lòng, và thậm chí đôi khi còn háo hức, cung cấp nhiều tài trợ và công nghệ mà QGPNDTQ cần đến. .

Và khi bạn nhìn xa hơn những gì đang xảy ra với các doanh nghiệp Hoa Kỳ ở Trung Quốc và các hoạt động của Trung Quốc ở Mỹ, bạn có thể thấy mọi thứ thậm chí còn tồi tệ hơn những gì bạn tưởng.

Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường hay Sáng kiến ​​Hối lộ và Đàn áp?

Tôi đã tập trung vào cuộc chiến kinh tế trực tiếp của Trung Quốc chống lại Hoa Kỳ. Nhưng CHNDTQ coi cuộc chiến chống Mỹ có tính toàn cầu, mở rộng đến mọi nơi trên hành tinh.

Đó là nơi mà Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường (SKVĐCĐ) xuất hiện- nỗ lực của CHNDTQ – như một phần của việc dịch chuyển quyền lực kinh tế thành quyền lực chính trị và cuối cùng là quyền lực quân sự.

SKVĐCĐ được ĐCSTQ chính thức công bố vào năm 2013, bắt đầu như một chiến lược cho cơ sở hạ tầng và đầu tư thương mại của Trung Quốc bên ngoài Trung Quốc – mọi thứ từ đường sắt đến cảng đến các nhà máy điện và đập trên khắp Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương và ở Châu Mỹ Latinh, Châu Phi, Trung Á và Châu Âu.

Vành đai đề cập đến cơ sở hạ tầng trên đất liền và con đường dẫn đến các dự án liên quan đến hàng hải. Giờ đây cũng có thêm thành tố kỹ thuật số. Hãy cho Bắc Kinh thời gian và họ sẽ tìm ra cách chứng minh cơ sở hạ tầng mặt trăng là một phần của SKVĐCĐ.

KẾ HOẠCH CỦA TRUNG QUỐC TẠI MỸ LATIN

Sự tham gia rộng rãi của Trung Quốc vào việc phát triển cảng Nam Mỹ trên danh nghĩa là vì mục đích thương mại nhưng rõ ràng là có mục đích quân sự khi QGPNDTQ mở rộng khả năng triển khai sức mạnh của mình. Các mô tả đồ họa tương tự có thể được thực hiện ở mọi nơi trên thế giới. Bản đồ do Phòng Nghiên cứu và Thiết kế của Trung tâm vì một Xã hội Tự do An toàn (SFS) cung cấp. Được xuất bản lần đầu trên ngày 28 tháng 10 năm 2022.

Nó đã được đưa vào hiến pháp của Trung Quốc vào năm 2017 và dự định hoàn thành vào năm 2049. Bạn có nhớ niên đại này không?

Về cơ bản, đó là một lời biện minh nghe có vẻ lành tính, dễ hiểu cho việc xây dựng một thế giới trong đó “tất cả (vành đai và) con đường đều dẫn đến Bắc Kinh”.

SKVĐCĐ đóng một vai trò nổi bật trong nỗ lực của ĐCSTQ nhằm giành quyền thống trị về kinh tế, chính trị và quân sự. Nó có cả góc độ tài chính và chiến lược. Nếu các dự án có thể kiếm tiền và tạo điều kiện cho lao động Trung Quốc nhàn rỗi (bao gồm cả tù nhân) làm việc, thì đó là điều tốt.

Nhưng nếu Trung Quốc có thể tiếp cận, gây ảnh hưởng chính trị và tạo ra sự lệ thuộc của các quốc gia SKVĐCĐ – giống như với người Mỹ – thì đó là điều vô giá và kết quả tài chính không quan trọng lắm.

Như một ví dụ nhỏ, SKVĐCĐ đầu tư vào Hy Lạp có thể đóng một vai trò trong việc người Hy Lạp ngăn chặn một nghị quyết của Liên minh châu Âu về những vi phạm nhân quyền của Trung Quốc.

Nhiều dự án SKVĐCĐ – cảng và sân bay, chẳng hạn – có khía cạnh “lưỡng dụng”. Chúng hoạt động tốt cho mục đích thương mại cũng như cho mục đích quân sự. Hãy nhìn vào nơi mà ĐCSTQ đã phát triển khả năng tiếp cận cảng và sân bay trên toàn cầu, và tính hữu ích của việc “phô diễn sức mạnh” quân sự là rõ ràng. Các quan chức và sĩ quan quân đội Trung Quốc thường xuyên nói về điều đó—không giấu diếm.

Và thông thường, cũng có một cách sử dụng thứ ba: hoạt động bất hợp pháp lôi kéo những kẻ tham nhũng bản địa, trói buộc họ thậm chí chặt chẽ hơn với Bắc Kinh.

Một ví dụ điển hình về việc chính quyền Trung Quốc sử dụng thành công đầu tư SKVĐCĐ (và hứa hẹn nhiều hơn nữa) để đạt được lợi thế chiến lược được nhận thấy ở các quốc gia thuộc Quần đảo Solomon và Kiribati – được người Mỹ ở một độ tuổi nhất định biết đến là nơi từng diễn ra các trận chiến đẫm máu trong Thế chiến thứ hai tại Guadalcanal và Tarawa. Năm 2019, do những lời hứa mơ hồ từ Bắc Kinh, cả hai quốc gia đã hủy bỏ việc công nhận Đài Loan.

Chưa đầy ba năm sau, CHNDTQ và chính phủ Quần đảo Solomon đã ký một thỏa thuận cho phép Quân đội Giải phóng Nhân dân (và Cảnh sát Vũ trang Nhân dân) đến và hoạt động ở Quần đảo Solomon gần như theo ý muốn.

Đây là lần đầu tiên quân đội Trung Quốc cài đặt tại địa điểm đe dọa tiềm năng Úc và New Zealand và cắt đứt toàn bộ kế hoạch phòng thủ của Washington ở Thái Bình Dương.

Trong khi đó, ở Kiribati (cách Trân Châu Cảng 1500 dặm), Trung Quốc đang tiến hành các động thái nhằm tân trang lại một sân bay cũ của Mỹ trên đảo Canton. Về mặt chính thức, nó dành cho du lịch, nhưng không ai thực sự tin điều đó. Những sáng kiến ​​lấy cảm hứng từ SKVĐCĐ  này xứng đáng với bất cứ giá nào đối với Bắc Kinh – và đã thu hút được sự chú ý ở Washington và Canberra. Không phải là họ đã tìm ra những gì cần làm về nó.

SKVĐCĐ  của Trung Quốc thường bị chỉ trích là mang tính săn mồi hay cái gọi là “ngoại giao bẫy nợ”. Và thực sự, các giao dịch thường không rõ ràng, có lợi cho Trung Quốc, được định giá quá cao vượt quá mức công bằng hoặc giá cả phải chăng, và đầy rẫy hoạt động hối lộ các quan chức và chính trị gia bản địa.

Nhưng hãy đến gần hơn, và nghe người dân địa phương sẽ thường nói với bạn: “Chúng tôi còn phải làm gì nữa?” Tổng thống của một quốc gia Trung Thái Bình Dương có mối quan hệ chặt chẽ với Hoa Kỳ đã được nghe lỏm vài năm trước tâm sự đăm chiêu, “Chúng tôi không có lựa chọn, vì cần thiết phải làm.”

Và Trung Quốc  từ từ xây dựng nền móng. Từ rất lâu trước SKVĐCĐ, hoạt động thương mại của Trung Quốc thực sự đã có mặt ở khắp mọi nơi cho đến tận cùng của khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương – thậm chí xuống cấp độ có cửa hàng ở mọi góc phố. Ví dụ, ít nhất 80 phần trăm doanh nghiệp bán lẻ ở quốc gia Tonga này được điều hành bởi con buôn Trung Quốc mới đến gần đây.

Mô hình chung này có thể dự đoán được nếu bạn chịu khó chú ý.

Thông thường, quá trình chuyển đổi từ kinh tế sang chính trị sang chiến lược tạo ra sự lệ thuộc và ảnh hưởng, đặc biệt là trong giới tinh hoa – và không ít bất mãn trong quần chúng. Nhớ chiến tranh entropy chứ?

Nhưng đến lúc đó thì đã quá muộn và khó có thể xoay chuyển tình thế nếu không có nỗ lực vượt bậc. Và nếu người dân trở nên quá bất ổn, giới tinh hoa thân CHNDTQ  có thể tìm đến bạn bè của họ ở Bắc Kinh, như thủ tướng của Quần đảo Solomon đã làm, và yêu cầu sự bảo vệ –  khỏi sự nổi dậy từ chính người dân của họ.

Đó là lý do tại sao, trong nhiều trường hợp, SKVĐCĐ  cũng có thể đại diện cho Sáng kiến ​​Hối lộ và Đàn áp.

Cũng có một hiệu ứng tích lũy, khi những nước láng giềng chứng kiến những gì đang diễn ra và một nhận thức được hình thành. Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc không chỉ củng cố khả năng xây dựng quốc phòng của nước này, mà còn giúp nuôi dưỡng nhận thức rằng Trung Quốc là một quốc gia hùng mạnh đang trỗi dậy, một quốc gia được trời định sẵn để thống trị.

Đồng thời, nước Mỹ được dự đoán là đang suy tàn hoặc tệ hơn là người Mỹ không thèm quan tâm.

Điều này thúc đẩy một số quốc gia khác muốn xích lại gần hơn – một số để gắn bó với kẻ chắc thắng trong tương lai, một số để tự bảo tồn. Trong khi đó, các đối thủ của Trung Quốc đang lo lắng và thậm chí bị đe dọa.

Người ta có thể không thích những gì Trung Quốc đã làm trên mặt trận chiến tranh kinh tế, nhưng bạn phải ngưỡng mộ những nỗ lực của họ. Và đáng khen thay, người Trung Quốc sẵn sàng “đi ra tận ngoài đó” và gánh vác hoạt động thương mại đầy khó khăn theo cách mà nhà buôn Bắc Mỹ ngày xưa thường làm.

Ngày nay, các doanh nghiệp Hoa Kỳ (và cả nhiều nhà ngoại giao) dường như không quan tâm đến những nơi mà cuộc sống không quá dễ dàng (không đủ khách sạn 5 sao) và lợi nhuận không được đảm bảo hoặc đủ lớn.

Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của Trung Quốc là món quà trời cho khác về kinh tế, chính trị – và thậm chí quân sự – của CHNDTQ, hẳn sẽ là điều không thể nếu không tiến hành chiến tranh kinh tế thành công chống lại Hoa Kỳ.

Và Rồi Donald Trump Đến

Trump và nhóm của ông đã buộc  Bắc Kinh phải chú ý đến với thuế quan, truy tố hành vi đánh cắp sở hữu trí tuệ và áp lực lên các công ty lớn của Trung Quốc như Huawei và ZTE. Trump cũng thắt chặt các hạn chế của CFIUS đối với đầu tư của Trung Quốc vào Hoa Kỳ.

Điều này đã bẻ cong chiến lược chiến tranh kinh tế của Trung Quốc và cắt đứt dòng ngoại hối huyết mạch (nghĩa là đô la Mỹ) cho ĐCSTQ.

Đây là một sự thay đổi lớn kể từ khi các công ty và giám đốc điều hành của Mỹ (và chính phủ các cấp) tự tìm cách thu hút tiền của Trung Quốc hoặc bán quyền khai sinh công ty của họ với giá cao. Nhớ Chimerica và Chinafornia?

Cũng quan trọng không kém, không ít người châu Âu, Ấn Độ, người Úc, người Nhật và những người khác đã âm thầm cổ vũ Trump.

Không có gì đáng ngạc nhiên, cả Tân Hoa xã và Nhân dân Nhật báo của Đảng Cộng sản đều đăng một bài xã luận tuyên bố một “cuộc chiến tranh nhân dân” chống lại những nỗ lực của Hoa Kỳ nhằm chống lại cuộc chiến kinh tế của Trung Quốc. Tập Cận Bình nói với đồng hương chuẩn bị cho một ” cuộc trường chinh mới”. Bộ trưởng Quốc phòng Trung Quốc tuyên bố tại Đối thoại Shangri La sẽ “chiến đấu đến cùng” đối với Đài Loan.

Gần như mỗi tuần, truyền thông Trung Quốc đưa tin một sĩ quan quân đội đã nghỉ hưu hoặc các nhà bình luận khác yêu cầu Bắc Kinh bỏ qua cuộc chiến thương mại và tiến thẳng đến một cuộc chiến thực sự với Hoa Kỳ.

Trong khi đó, Phố Wall, Phòng Thương mại Hoa Kỳ, và một chòm sao Đại Cát (nhóm bạn bè của Trung Quốc) dường như cũng tuyên bố chiến tranh nhân dân với Donald Trump – vì lợi ích của Trung Quốc.

Lá thư

Đến tháng 7 năm 2019, những nỗ lực của chính quyền Trump nhằm làm chậm cuộc tấn công của Trung Quốc – và thậm chí có thể bắt đầu đẩy lùi Bắc Kinh – đã có hiệu quả. Trung Quốc cảm thấy bị đe dọa. Và một số người Mỹ không thích điều đó.

Tờ Washington Post đã đăng một bức thư có tiêu đề “Trung Quốc Không Phải Là Kẻ Thù.” Bức thư bắt đầu:

Chúng tôi là thành viên của cộng đồng học thuật, chính sách đối ngoại, quân đội và doanh nghiệp, phần lớn đến từ Hoa Kỳ, trong đó có nhiều người đã tập trung vào châu Á trong suốt sự nghiệp chuyên môn của chúng tôi. Chúng tôi lo ngại sâu sắc về quan hệ càng ngày xấu đi của Hoa Kỳ với Trung Quốc, điều mà chúng tôi tin rằng không phục vụ lợi ích của Hoa Kỳ hoặc lợi ích toàn cầu.

Thư viết  tiếp:

Chúng tôi không tin rằng Bắc Kinh là một kẻ thù kinh tế hay một mối đe dọa an ninh quốc gia hiện hữu mà chúng ta phải đối đầu trong mọi lĩnh vực….Sự tham gia của Trung Quốc trong hệ thống quốc tế là thiết yếu cho sự tồn tại của hệ thống và hoạt động hiệu quả đối với các vấn đề phổ biến như biến đổi khí hậu. Hoa Kỳ nên khuyến khích sự tham gia của Trung Quốc vào các chế độ toàn cầu mới hoặc đã được điều chỉnh, trong đó các cường quốc đang trỗi dậy có tiếng nói lớn hơn.

Nó đã được ký bởi hơn một trăm nhân vật ưu tú.

Sau đây là một số người đã có thời gian thuộc danh sách nhận lương của những người đóng thuế Mỹ: Jeffrey A. Bader (cựu giám đốc cấp cao phụ trách Đông Á trong Hội đồng An ninh Quốc gia), Dennis J. Blasko (cựu Tùy viên Quân đội Hoa Kỳ tại Trung Quốc), Bernard Cole (cựu đại úy Hải quân Hoa Kỳ), James F. Collins (cựu Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên bang Nga), Robert Einhorn (cựu trợ lý bộ trưởng ngoại giao về vấn đề không phổ biến vũ khí hạt nhân), Thomas Fingar (cựu phó giám đốc tình báo quốc gia về phân tích), David F. Gordon (cựu giám đốc hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ), Philip H. Gordon (cựu trợ lý đặc biệt của tổng thống và điều phối viên về Trung Đông và trợ lý bộ trưởng ngoại giao về các vấn đề châu Âu và Á-Âu), Morton H. Halperin, (cựu giám đốc Ban hoạch định chính sách tại Bộ Ngoại giao), Lee Hamilton (cựu nghị sĩ), Clifford A. Hart Jr. (cựu tổng lãnh sự Hoa Kỳ tại Hồng Kông và sĩ quan tình báo quốc gia Đông Á), Đại sứ Carla A. Hills (cựu đại diện thương mại Hoa Kỳ), Mickey Kantor (cựu bộ trưởng thương mại, đại diện thương mại Hoa Kỳ), Albert Keidel (cựu phó giám đốc Văn phòng các Quốc gia Đông Á tại Bộ Tài chính), Herbert Levin (cựu nhân viên phụ trách Trung Quốc trong Hội đồng An ninh Quốc gia và Hội đồng Hoạch định Chính sách), Kenneth Lieberthal (cựu giám đốc cấp cao châu Á, Hội đồng An ninh Quốc gia), John McLaughlin (cựu phó giám đốc và quyền giám đốc CIA), Michael Nacht (cựu trợ lý thư ký quốc phòng cho các vấn đề chiến lược toàn cầu), Daniel W. Piccuta (cựu phó trưởng phái đoàn và quyền đại sứ Bắc Kinh), Thomas Pickering (cựu thứ trưởng ngoại giao phụ trách các vấn đề chính trị; cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hợp Quốc), Charles S. Robb (cựu thượng nghị sĩ Hoa Kỳ, chủ tịch tiểu ban Đông Á của Ủy ban Đối ngoại Thượng viện và thống đốc bang Virginia), J. Stapleton Roy (cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Trung Quốc), David Shear, (cựu trợ lý bộ trưởng quốc phòng, đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam), Anne-Marie Slaughter (cựu giám đốc hoạch định chính sách, Bộ Ngoại giao), James Steinberg (cựu thứ trưởng ngoại giao), Strobe Talbott, (cựu thứ trưởng ngoại giao), Susan A. Thornton (cựu quyền trợ lý ngoại trưởng phụ trách Đông Á và Thái Bình Dương), Daniel B. Wright, (cựu giám đốc điều hành Trung Quốc và Đối thoại Chiến lược Kinh tế, Bộ Tài chính).

Tất cả bọn họ nên đi thực hiện nghĩa vụ với tư cách là cố vấn hướng dẫn tại một trường trung học công lập ở Baltimore.

Ngay sau khi bức thư xuất hiện trên mặt báo, một loại vi rút đã xuất phát từ Trung Quốc, phần lớn nước Mỹ đã phải tự sát về kinh tế và Joseph Biden trở thành tổng thống.

Trung Quốc sẽ không dừng lại

Chính quyền Biden đã đóng cửa China Initiative (Sáng kiến ​​Trung Quốc), chương trình mà chính quyền Trump đưa ra để theo dõi hoạt động gián điệp của Trung Quốc vào các ngành công nghiệp, sau khi các nhóm dân quyền gọi nó là phân biệt chủng tộc.

Nhóm Biden cũng đã trả tự do cho năm nhà nghiên cứu Trung Quốc có đính líu đến chính phủ của họ trong các lĩnh vực khoa học và công nghệ cao (có ứng dụng quân sự), những người này đã bị bắt vì nói dối về mối quan hệ với chính phủ của họ. Tại sao họ làm như vậy là một điều bí ẩn.

Và chính quyền Biden đã từ bỏ tính độc lập về năng lượng. Nó đóng các đường ống dẫn dầu, hủy hợp đồng thuê dầu và khiến ngành công nghiệp dầu mỏ sợ chết khiếp.

Đó là toàn là tin tốt theo quan điểm của Trung Quốc. Nó làm tăng tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát, cũng như tính phụ thuộc của Mỹ vào ngành sản xuất năng lượng mặt trời và nguồn cung cấp khoáng sản chính của Trung Quốc cần thiết cho các công nghệ sản xuất bảo đảm môi trường.

Dầu và khí đốt giá rẻ dưới thời Trump đã giúp đưa ngành chế tạo trở lại Hoa Kỳ bằng cách hạ thấp thành phần năng lượng trong việc chế tạo. Đội Biden đã từ bỏ điều này.

Nhưng điều đó không có nghĩa là Bắc Kinh sẽ chơi đẹp. Ngược lại. Chiến tranh kinh tế đang ở mức cao.

Phản hồi của CHNDTQ đối với báo cáo năm 2022 của Đại diện Thương mại Hoa Kỳ về các vi phạm sở hữu trí tuệ của Trung Quốc bao gồm một bài xã luận của Thời báo Hoàn cầu tuyên bố: “Đối với Trung Quốc, báo cáo đặc biệt 301 của Hoa Kỳ về cơ bản chỉ là một tờ giấy chứa đầy những tuyên bố vô căn cứ có thể dễ dàng loại bỏ như một thứ rác rưởi.”

Trung Quốc cũng đưa ra một thông điệp khác, thậm chí còn quen thuộc hơn nữa. CHNDTQ hứa hẹn cải cách và “mở cửa” hơn nữa và rằng lần này họ thực sự có ý đó. Thật sự.

Vào tháng 5 năm 2022, theo truyền thông nhà nước Trung Quốc, Thủ tướng Lý Khắc Cường

nhắc lại lập trường của Trung Quốc rằng nước này sẽ kiên quyết mở rộng cửa và tiếp tục đưa nước này trở thành thị trường lớn của thế giới và là điểm nóng cho đầu tư nước ngoài…. Lý cho biết Trung Quốc sẵn sàng hợp tác với các nước khác để bảo vệ các quy tắc – dựa trên hệ thống thương mại đa phương với Tổ chức Thương mại Thế giới là nòng cốt.

Trung Quốc sẽ tuân thủ tự do và thương mại công bằng, thúc đẩy thương mại và tự do hóa đầu tư và tạo thuận lợi, đồng thời duy trì sự ổn định và dòng chảy thông suốt của chuỗi cung ứng và công nghiệp toàn cầu để duy trì hòa bình, phát triển, ổn định và thịnh vượng của quốc tế và khu vực…. Trung Quốc sẽ tiếp tục cải cách sâu rộng về hành chính , làm rõ các quy tắc quản lý minh bạch, ổn định và có thể dự đoán được, tự do hóa hơn nữa tiếp cận thị trường, đảm bảo sự tiếp cận bình đẳng của các doanh nghiệp nước ngoài đến các khu vực đã mở ra theo luật, và bảo vệ nghiêm ngặt quyền sở hữu trí tuệ.

Lý cũng cho biết Bắc Kinh muốn trở thành “điểm nóng cho đầu tư nước ngoài” và sẽ hợp tác chặt chẽ với các công ty nước ngoài để đảm bảo các quy tắc của mình có thể biết trước được.

Giống như Charlie Brown luôn nghĩ rằng Lucy sẽ cầm bóng cho anh ta đá, không thiếu người Mỹ tin – hoặc nói là họ tin – bất cứ điều gì mà ĐCSTQ nói ra.[cậu bé Charlie Brown và cô bé Lucy là hai nhân vật trong truyện tranh khôi hài được yêu thích tại Mỹ, rất nhiều đoạn trong đó cô bé giữ quả bóng bầu dục đứng thẳng và dụ cho cậu bé chạy lấy đà đến đá thật mạnh. Nhưng vào phút cuối,  cô ta giật lùi quả bóng, khiến cậu đá gió và quay lông lốc trên không trước khi đâm sầm xuống đất. Dù bị gạt đủ kiểu, cậu ta lúc nào cũng mắc bẫy. Tác giả ví Lucy ranh ma như Trung Quốc còn Charlie Brown khù khờ là Mỹ].

Vào năm 2022, Craig Allen, chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Hoa Kỳ-Trung Quốc cho biết,  “Các doanh nghiệp Mỹ mà chúng tôi nói chuyện đều khá lạc quan về tương lai.”

Ông nói điều này trong thời gian phong tỏa COVID, trong một cuộc tấn công vào cái gọi là khu vực tư nhân, trong khi Trung Quốc trang bị vũ khí cho chiến tranh khi họ không phải đối mặt với kẻ thù nào, trong khi họ đang phạm tội diệt chủng ở Tân Cương, và khi họ đang bóp nghẹt Hồng Kông.

Một số ít người đứng về phía Hoa Kỳ hoặc hoạt động trong ngành công nghiệp Hoa Kỳ không còn bị thuyết phục bởi những lời hứa của Trung Quốc trên mặt trận thương mại nữa.

Một doanh nhân người Mỹ đã làm việc ở Trung Quốc trong vài thập kỷ đã nói cách đây vài năm:

Ấn bản vào cuối tuần của tờ China Daily in ở Hoa Kỳ được phát tại khách sạn của tôi. Tôi nhặt một bản ngày hôm qua. Dòng tiêu đề in đậm: “Tập cam kết mở cửa nhiều hơn.” Tôi có thể nói với bạn bằng tất cả sự nghiêm túc, tiêu đề tương tự này đã được đưa ra ít nhất mỗi quý một lần kể từ khi tôi bắt đầu ở Trung Quốc. Tôi đã ở Trung Quốc hoặc làm ăn với Trung Quốc tổng cộng 133 quý. Điều này có nghĩa là Trung Quốc đã thực hiện 133 cam kết “mở cửa nhiều hơn”. Mỗi lần mở cửa dẫn đến các thủ tục hợp lý hóa “lần đầu tiên chưa từng có” và các ban hành mới. Các quy tắc thay đổi, nhưng kết quả luôn giống nhau … “nhà cái thắng”.

Anh bạn này có khả năng nhìn thấy trước, nếu không muốn nói là có khả năng thấu thị. Kinh nghiệm sẽ làm được điều đó.

Các nhà đàm phán Trung Quốc cũng hứa (đại loại là) sẽ ngừng ăn cắp công nghệ – trong khi họ cũng nói dù sao thì họ cũng không ăn cắp. Những hành vi trộm cắp như vậy là một phần phương thức Trung Quốc, và một mệnh lệnh văn hóa. Điều đáng chú ý là các công ty Trung Quốc cũng nhiệt tình ăn cắp của nhau.

Nhưng ngay cả khi phía Hoa Kỳ nghi ngờ một cách đúng đắn, họ cũng yêu cầu thực thi thỏa thuận. Đó là phần khó khăn.

Trong thực tế, điều đó có lẽ là không thể. Bạn thấy đấy, Đảng Cộng sản Trung Quốc không thể thực hiện lời hứa của mình mà vẫn tồn tại.

Ngoài việc yêu cầu thay đổi hành vi vốn có thể đe dọa sự kiểm soát của ĐCSTQ, Trung Quốc sẽ không cho phép người Mỹ điều khiển hành vi của mình.

Thật ra, chấp nhận các yêu cầu của Mỹ – hoặc thậm chí chỉ cần tuân thủ đầy đủ các yêu cầu của WTO – đến mức cực kỳ hợp lý của chúng, và bạn sẽ thấy chế độ thay đổi.

ĐCSTQ sẽ đẩy nền kinh tế Trung Quốc qua một bờ vực trước khi tự nguyện để điều đó xảy ra.

Điều đó cho thấy rõ tầm quan trọng của chiến tranh kinh tế đối với chế độ Trung Quốc. CHNDTH chưa bao giờ có ý định thực hiện những lời hứa của mình. Nếu có, ĐCSTQ đã sụp đổ. Và ở Trung Quốc, tất cả là về Đảng và đảm bảo Đảng khống chế tầm kiểm soát.

Hệ thống của họ không giống như của chúng ta. Bạn phải ghi nhớ điều này để hiểu rõ mối đe dọa của Trung Quốc, đặc biệt về kinh tế và mặt trận mậu dịch. Tất cả mọi thứ là vì lợi ích của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nó có vẻ bừa bãi và hỗn loạn trong thực tế, nhưng cuối cùng, đó là sự thật.

Chuyện xảy ra với tỷ phú thương mại điện tử Trung Quốc Jack Ma là một ví dụ điển hình. Ông ấy dường như đã thoát khỏi lực hút của ĐCSTQ, nhưng thực ra còn chưa đến gần. Không ai trong số những nhà tài phiệt này đã thoát khỏi. Ông ta đã vượt qua ranh giới, và Đảng (hoặc một người nào đó có quyền lực trong Đảng) đã đẩy ông  ta gục ngã.

Kể từ năm 1950, không có kỷ nguyên nào của chủ nghĩa tư bản không bị kiềm chế ở Trung Quốc. Không có tư nhân hóa ở ĐCSTQ như nó được định nghĩa trong các nền kinh tế mở. Trung Quốc giống như mafia: Ông trùm sở hữu một phần công ty của bạn – đôi khi có nhiều hơn một ông trùm.

ĐCSTQ nhìn các yếu tố sản xuất – đất đai, lao động, vốn và quản lý (chủ nghĩa kinh doanh ở Hoa Kỳ) như tài sản cá nhân của họ để biến thành một nền kinh tế và văn hóa bảo tồn sứ mệnh cơ bản của Đảng:  cai trị vĩnh viễn Trung Quốc. Chủ nghĩa tư bản không bị kiềm chế như chúng ta biết là mối đe dọa đối với việc hoàn thành sứ mệnh này, như một nền kinh tế hùng mạnh và thực dụng của Hoa Kỳ.

Quá nhiều người Mỹ, ít nhất là trong giai cấp thống trị, chưa hề coi—hoặc không muốn coi – thương mại là một cuộc chiến. Không có gì đáng ngạc nhiên, vì rất nhiều người trong số họ trở nên giàu có nhờ Trung Quốc – hoặc ít nhất nhờ bán hết cho Trung Quốc.

Giáo sư William Hawkins phát biểu rất hay về điều đó:

Bắc Kinh không chỉ vươn lên để trở thành chuỗi cung ứng toàn cầu khổng lồ, thống trị ngành sản xuất chế tạo. Nó xé nát ngành công nghiệp Mỹ và rút ruột tầng lớp trung lưu cổ cồn xanh. Nó giống như khu trung tâm của Hoa Kỳ bị ném bom chiến lược, nhưng nó thực sự giống sự phá hoại của bọn cộng tác viên với Trung Quốc nằm giữa  giới tư bản Mỹ hơn, những kẻ đã trở thành những tên “xuyên quốc gia” như những người không có quốc gia (ngoại trừ việc họ thực sự phục vụ một quốc gia mà không nghĩ đến điều đó). Chính quyền của chúng ta không thể thờ ơ với bất cứ thứ gì di chuyển qua biên giới của chúng ta (vào hoặc ra), bởi vì chính những di chuyển này định hình cán cân quyền lực.

Tất nhiên, Hoa Kỳ vẫn chưa sụp đổ – và vẫn còn rất nhiều hoạt động sản xuất đang diễn ra.

Trong khi đó, Tập Cận Bình vẫn chưa hoàn toàn tránh được các lệnh trừng phạt đối với nền kinh tế CHNDTQ – mặc dù ông ấy đang cố gắng thực hiện kế hoạch Made in China 2025 và vòng tuần hoàn kép. Tập chưa đến được đó, và có cả một đoạn đường để vượt qua, mặc dù quan trọng hơn, bản thân Tập có thể nghĩ khác.

Và, Mỹ đã mất lợi thế tương đối so với CHNDTQ. Ba thập kỷ trước, Hoa Kỳ là siêu cường tuyệt đối

Nhưng giờ không còn nữa – và chính phủ Hoa Kỳ giờ đây coi Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh ngang hàng.

Điều này đi kèm với sự mất đi ảnh hưởng chính trị của Mỹ trên toàn thế giới và lòng tự tin đã giảm sút. Người Mỹ vẫn có thể bừng tỉnh cơn phê thuốc, nhưng đồng hồ đang kêu tích tắc, và nếu chúng ta không xoay xở, sức mạnh kinh tế và quân sự của CHNDTQ một ngày nào đó có thể đập tan khả năng kháng cự của Hoa Kỳ.

Chiến tranh kinh tế của Trung Quốc chống lại chúng ta (và những người bạn của chúng ta) đã rất thành công. Thật vậy, có lẽ là một trong những cuộc chiến dễ dàng nhất từng xảy ra.

Và cuộc chiến sẽ không dừng lại cho đến khi chúng ta ngăn chặn nó.

Bình luận về bài viết này