Trận Austerlitz

Trận Austerlitz ( François Gérard)

Harrison W. Mark

Trần Quang Nghĩa dịch

Trận Austerlitz (2 tháng 12 năm 1805), hay Trận chiến của Ba Hoàng đế, là một trong những trận đánh quan trọng nhất trong Chiến tranh Napoléon (1803-1815).  Nó chứng kiến ​​Hoàng đế Pháp Napoleon I và Đại quân của ông đánh bại đạo quân Áo-Nga đông quân số hơn một cách dứt khoát.  Chiến thắng của Napoléon đã khẳng định quyền bá chủ quân sự của Pháp ở lục địa châu Âu trong phần lớn thập niên tiếp theo.

Sự thành lập của Đế chế Pháp đầu tiên vào ngày 18 tháng 5 năm 1804 và lễ đăng quang sau đó của Napoléon I đã làm dấy lên lo lắng của người châu Âu về tham vọng đế quốc của Pháp.  Thủ tướng Anh William Pitt the Younger đã lợi dụng những lo ngại này để tổ chức những kẻ thù của Pháp thành Liên minh thứ ba, bao gồm Vương quốc Anh, Áo, Nga, Thụy Điển, Naples và Sicily, chống lại Đế quốc Pháp, các quốc gia chư hầu và  đồng minh bất đắc dĩ Tây Ban Nha.  Dẫn đầu Đại quân mới của mình băng qua sông Rhine, Napoléon đã giành chiến thắng nhanh chóng trước quân đội Áo trong Chiến dịch Ulm (25 tháng 9 đến 20 tháng 10 năm 1805) và chiếm được Viên vào ngày 13 tháng 11 năm 1805.

Khi chiếm được thủ đô của Áo, Napoléon nhận thấy quân đội của mình bị dàn trải quá mức và phải đối mặt với một đội quân Đồng minh kết hợp do các hoàng đế của Áo và Nga chỉ huy.  Sau khi dẫn dụ quân Đồng minh tấn công mình, Napoléon đã giành chiến thắng trong một trận chiến quyết định gần thị trấn Austerlitz ở Moravia (Slavkov u Brna ngày nay ở Cộng hòa Séc), sau đó quân Nga rút về Hungary và quân Áo cầu hòa.  Hiệp ước Pressburg (Bratislava) sau đó đã đưa Áo ra khỏi Liên minh thứ ba, buộc nước này phải nhượng lại lãnh thổ cho Pháp và mở đường cho sự tan rã của Đế chế La Mã Thần thánh vào năm sau.  Trận Austerlitz được coi là một kiệt tác trong chiến thuật quân sự và thường được xếp vào hàng những trận đánh quan trọng nhất trong lịch sử thế giới.

Đánh chiếm Viên

Vào tháng 8 năm 1805, Liên minh Thứ Ba bắt đầu điều động quân đội của mình, với ý định thu hẹp nước Pháp về biên giới trước chiến tranh năm 1792.  Hoàng tử Áo Charles và 96.000 lính Áo được gửi đến miền bắc nước Ý, nơi quân Đồng minh cho rằng chiến dịch quyết định sẽ diễn ra, trong khi một đội quân thứ cấp của Áo dưới quyền Tướng Karl Mack von Leiberich được gửi đến Bavaria, một đồng minh của Pháp.  Mục tiêu của Mack là đợi quân tiếp viện của Nga đến Bavaria, sau đó lực lượng phối hợp Áo-Nga sẽ tấn công Strasbourg và đe dọa một cuộc xâm lược vào chính nước Pháp.  Tuy nhiên, quân đội Nga dưới quyền chỉ huy của Nguyên soái Mikhail Kutuzov đã khởi đầu muộn và càng chậm trễ hơn bởi cơ sở hạ tầng Đông Âu kém chất lượng.  Về phần mình, Mack đang đợi quân Nga ở Ulm, một thành phố cách xa các đạp quân Đồng minh khác đủ để khiến ông trở thành một mục tiêu dễ dàng.

Trong khi đó, Napoléon không ngần ngại đáp trả.  Kể từ khi nối lại chiến tranh giữa Pháp và Anh vào tháng 5 năm 1803, hoàng đế Pháp đã tập hợp quân đội tại Boulogne để xâm lược nước Anh.  Đặt những kế hoạch này sang một bên, thay vào đó, Napoléon đã hành quân với lực lượng khổng lồ gồm 210.000 người này – sẽ sớm được đặt tên lại là Đại Quân – đến sông Rhine mà quân Pháp đã vượt qua vào ngày 25 tháng 9 năm 1805. Bao gồm bảy quân đoàn bán tự trị, mỗi quân đoàn có đủ quân nhu để  di chuyển độc lập với đội quân chủ lực trong một thời gian, Đại Quân tiến vào Đức với tốc độ đáng kể;  vào ngày 7 tháng 10, chỉ mười hai ngày sau khi vượt sông Rhine, quân Pháp đã đến bờ sông Danube.  Mack cố gắng vượt qua sông, nhưng ông ta nhanh chóng bị áp đảo bởi quân số của Pháp.  Quân Pháp bao vây Ulm, nhốt quân Áo bên trong.  Với quân tiếp viện Nga của Kutuzov vẫn còn cách xa hơn 160 kilômét (100 dặm), Mack không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đầu hàng.  Vào ngày 20 tháng 10 năm 1805, ông đầu hàng toàn bộ đạo quân đội của mình;  chưa đầy một tháng sau khi phát động Chiến dịch Ulm, Napoléon đã loại bỏ một đạo quân chủ lực của Đồng minh.

Đầu hàng tại Ulm, ngày 20/10/1805 (René Théodore Berthon)

Trong khi đó, Kutuzov và 36.000 người Nga của ông đến Braunacu vào ngày 23 tháng 10.  Đối mặt với toàn bộ sức mạnh của Đại Quân,    ông ta quyết định rút lui về phía đông, hy vọng tránh được một trận chiến lớn cho đến khi ông ta có thể liên kết với các đạo quân Đồng minh bổ sung.  Quân Nga rút lui về phía sông Danube, bị Lực lượng dự bị kỵ binh Pháp dưới sự chỉ huy của Thống chế Joachim Murat truy đuổi.  Vào ngày 5 tháng 11, ông hoàng  Peter Bagration đánh lui hậu quân Pháp trong một trận đánh gần Amstetten;  ba ngày sau, quân Nga vượt sông Danube, đốt cháy những cây cầu phía sau lưng họ.  Murat đã từ bỏ cuộc rượt đuổi, bị cám dỗ bởi phần thưởng “lấp lánh nhưng không liên quan về mặt quân sự” là Viên, hiện không có ai bảo vệ. Vào ngày 13 tháng 11, Murat dùng mưu mẹo để chiếm được cây cầu Tabor then chốt, và quân đội Pháp tiến vào Viên trong ngày hôm sau;  vào đêm ngày 14, Napoléon chiến thắng đã ngủ trong cung điện Schönbrunn của Habsburg.

Từ bỏ những cao điểm

Tuy nhiên, bất chấp những thành công gần đây của mình, Napoléon đang ở một vị trí mong manh.  Ông đã vào đủ sâu trong lãnh thổ của kẻ thù khiến quân đội bị đàn rộng một cách nguy hiểm vì cần cắt cử quân số để đồn trú trong các thị trấn hoặc bảo vệ đường tiếp tế trở về Pháp;  đến cuối tháng 11, ông chỉ còn 75.000 quân khả dụng.  Trong khi đó, sức mạnh của quân đội Liên minh đang tăng lên hàng ngày.  Sau khi chiếm được Vienna, Murat đã để người Nga lọt qua kẽ tay;  Kutuzov đã đến được Olmütz (Olomouc) an toàn, tại đây ông gặp một đội quân Nga khác dưới sự chỉ huy của Tướng Friedrich Wilhelm von Buxhoeveden.  Chẳng bao lâu sau, quân đội Đồng minh tại Olmütz đã tăng lên 90.000 người và được tham gia bởi Sa hoàng Alexander I của Nga và Francis II, Hoàng đế La Mã Thần thánh.  Ngoài đội quân chủ lực này, Napoléon còn phải đối mặt với những mối đe dọa khác.  Hoàng tử Charles hiện đang bị Thống chế Pháp André Masséna chận đứng ở Ý nhưng có khả năng thoát thân đi  bất cứ lúc nào để đe dọa hậu quân của Napoléon.

Hơn nữa, nước Phổ trung lập đang cân nhắc việc gia nhập Liên minh, lực lượng sẽ điều thêm 180.000 quân chống lại Napoléon.

Hoàng đế Pháp biết rằng ông phải hành động nhanh chóng trước khi Liên minh có thể đưa tất cả các lực lượng này chống cự.  Ông muốn đánh một trận quyết định nhưng biết rằng mình không đủ sức để hành động như một kẻ xâm lược;  thay vào đó, ông ta quyết định dụ quân Đồng minh tấn công mình trên trận địa do mình lựa chọn.  Vào ngày 21 tháng 11, Napoléon gửi một phần ba quân đội của mình tới Brünn (Brno) và Wischau (Vyškov), trên đường đến Olmütz;  chúng bao gồm Quân đoàn IV của Thống chế Jean-de-Dieu Soult và Quân đoàn V của Thống chế Jean Lannes, chiếm Cao nguyên Pratzen gần thị trấn Austerlitz, trong khi một lữ đoàn kỵ binh hạng nhẹ của Murat tiến đến Wischau.  Được nhà sử học Andrew Roberts mô tả là “nhấp nhô hơn cả  vách đá sườn núi”, Cao điểm Pratzen chiếm ưu thế trên cánh đồng Austerlitz;  Ý nghĩa chiến lược của cao điểm đã được Napoléon ghi nhận, ngài đã nói với các tướng lĩnh của mình, “Các ông, hãy kiểm tra khu địa hình này một cách cẩn thận. Đây sẽ là một chiến trường, và các ông sẽ có một phần vai trò trên đó!”

Vào ngày 25 tháng 11, Napoléon cử Tướng Anne-Jean-Marie Savary vào doanh trại Đồng minh.  Savary yêu cầu các hoàng đế Nga và Áo đình chiến, bày tỏ mong muốn của Napoléon tránh một trận chiến thảm khốc.  Điều này khiến các chỉ huy Đồng minh ngạc nhiên, họ tin rằng Napoléon sẽ không yêu cầu một thỏa thuận như vậy trừ khi vị thế của ông đang trở nên suy yếu.  Sự yếu kém đó dường như đã được khẳng định vài ngày sau đó khi Napoléon rút quân khỏi Cao điểm Pratzen;  chắc chắn, quân Đồng minh tin rằng, không có vị chỉ huy sáng suốt nào sẽ từ bỏ một vị trí thuận lợi như vậy mà không chiến đấu trừ khi y không có đủ sức mạnh để bảo vệ nó.  Vào ngày 27 tháng 11, một trong những phụ tá của sa hoàng, Hoàng tử Peter Dolgorukov, đã đến trại của Pháp để thương lượng với Napoléon.  Dolgorukov, một nhà quý tộc trẻ kiêu ngạo và hiếu chiến, đã báo cáo rằng vị trí của Pháp thực sự trông yếu ớt, và rằng “xung quanh Napoléon ai nấy đều run rẩy, và ngay cả lực lượng tiền quân của chúng ta cũng đủ để đánh bại ông ta”

Hoàng đế Napoléon trong phòng nghiên cứu của ông tại Tuileries (Jacques-Louis David)

Tuy nhiên, không phải ai cũng bị thuyết phục.  Kutuzov và các chỉ huy cấp cao khuyến nghị rút vào Dãy núi Carpathian, để lôi kéo Napoléon tiến sâu hơn vào lãnh thổ của kẻ thù.  Tuy nhiên, Sa hoàng Alexander, trẻ tuổi và đầy tham vọng, đã bị lung lay bởi đoàn tùy tùng gồm các quý tộc, bao gồm cả Dolgorukov, người chủ trương tấn công ngay lập tức kẻo người Nga bị bêu rếu là những kẻ hèn nhát.  “Những kẻ hèn nhát?”  sa hoàng phẫn nộ kêu lên.  “Vậy thì thà chết hết còn hơn”.  Vào ngày 30 tháng 11, lực lượng Đồng minh bắt đầu tiến về phía Austerlitz, quét sạch lữ đoàn kỵ binh ít ỏi của Pháp trong một cuộc giao tranh tại Wischau;  Sa hoàng Alexander, người chưa từng tham chiến trước đây, trở nên phát ốm khi nhìn thấy xác chết và rút lui về phía sau đạo quân, không ăn trong suốt thời gian còn lại trong ngày.  Vào ngày 1 tháng 12, quân Đồng minh leo lên các sườn dốc của Cao độ Pratzen.  Mặc dù có vẻ như họ đã nắm giữ lợi thế khi chiếm được độ cao, nhưng họ không thể nhầm lẫn được nữa;  quân Đồng minh đã sa thẳng vào bẫy của Napoléon.

Vào đêm hôm trước

Đồng minh không hề hay biết, Napoléon đã tiến hành một chiến dịch lừa dối.  Ông đã yêu cầu đình chiến và rút quân khỏi Cao độ  Pratzen với ý định thuyết phục quân Đồng minh rằng ông ta yếu ớt;  Khi Dolgorukov đến thăm doanh trại của Pháp, Napoléon đã cố tình tỏ ra lo lắng và đảm bảo rằng phái viên Nga sẽ chứng kiến ​​​​một đại đội binh lính chuẩn bị rút lui, tất nhiên là được dàn dựng. Ông ta thậm chí còn dàn dựng trận thua tại Wischau, ra lệnh cho các kỵ binh của mình hành động hoảng loạn khi họ rút lui.  Giờ đây, với quân Đồng minh trên Cao độ Pratzen, Napoléon được tự do thực hiện giai đoạn tiếp theo trong kế hoạch của mình.  Ông cố tình dàn quân mỏng quá mức bên cánh phải của mình, hy vọng sẽ khiến Đồng minh tấn công ông ở đó.  Như đã đề cập trước đó, Napoléon chỉ đưa một phần ba quân đội của mình đến Austerlitz;  quân đoàn của Thống chế Jean Bernadotte và Thống chế Louis-Nicolas Davout đang vội vã rời Vienna.  Kế hoạch là để cánh phải yếu ớt chiến đấu cầm cự cho đến khi có thể được tăng viện bởi Quân đoàn III của Davout;  điều này sẽ giải phóng phần còn lại của Đại quân  Pháp để chiếm lại các thế đất cao và tấn công vào những điểm quyết định trên chiến trường.

Một lần nữa, quân Đồng minh cắn câu.  Tham mưu trưởng người Áo, Franz von Weyrother, lên kế hoạch tấn công vào sườn phải của quân Pháp bằng ba trong số năm cột quân (59.000 người) do tướng Buxhoeveden chỉ huy.  Khi quân Đồng minh đã chọc thủng sườn phải của Pháp, họ sẽ tiến về phía bắc và bao vây phần còn lại của đạo quân Napoléon.  Trong khi cuộc tấn công chính đang diễn ra ở cánh phải của Pháp, Weyrother đã lên kế hoạch cho 13.000 binh sĩ khác dưới quyền của Bagration thực hiện một cuộc tấn công nghi binh vào cánh trái của Pháp trong khi trung tâm sẽ do anh trai của sa hoàng, Đại công tước Constantine, cùng với 8.500  Vệ binh Hoàng gia Nga.  Sa hoàng Alexander chấp thuận kế hoạch và phong Weyrother làm tổng tư lệnh quân đội Đồng minh, thay thế Kutuzov đang do dự.

Doanh trại Pháp vào đêm trước của trận Austerlitz, 1805 (Louis Albert Guislain Bacler d’Albe)

Khi màn đêm buông xuống Austerlitz, Napoléon nhận được tin xác nhận là quân đoàn của Davout đang tiến tới và sẽ đến kịp thời cho trận chiến vào sáng hôm sau.  Sau một giấc ngủ ngắn và bữa tối khiêm tốn với khoai tây và hành tây chiên, Napoléon và tham mưu trưởng Thống chế Louis-Alexandre Berthier đi giữa các đống lửa trại của  binh sĩ, trò chuyện thân mật với những người lính.  Những chiến sĩ lên tinh thần, ca hát và nhảy múa khi hoàng đế của họ đến gần.  Ngày hôm sau là ngày 2 tháng 12 năm 1805, kỷ niệm một năm ngày đăng quang của Napoléon, và những người lính coi đó là một dấu hiệu may mắn.  Vào lúc 4 giờ sáng, Napoléon tổ chức một cuộc họp vào phút cuối với các sĩ quan của mình tại bộ tư lệnh của ông ở Zuran, một ngọn đồi nhỏ ở bên trái trung tâm của chiến trường.  Napoléon đảm bảo rằng mọi người đều nắm rõ vai trò của mình: Quân đoàn IV của Thống chế Soult sẽ trấn giữ cánh phải cho đến khi Thống chế Davout đến tiếp viện cho ông ta.  Quân đoàn V của Thống chế Lannes sẽ trấn giữ cánh trái và được tăng viện bởi Quân đoàn I của Bernadotte khi quân đoàn này đến nơi.  Khi phần lớn quân đội Đồng minh đã tham chiến, các sư đoàn của các tướng St. Hilaire và Vandamme sẽ tấn công trung tâm Đồng minh đang suy yếu, qua đó giành lại các thế đất cao.

Cuộc chiến bắt đầu

Lúc 4 giờ sáng, binh lính Pháp tiến vào vị trí ban đầu giữa “đêm lạnh buốt”. Khi bình minh bắt đầu ló dạng, người ta phát hiện ra rằng mặt đất được bao phủ bởi lớp sương mù dày đặc, che giấu quy mô của mỗi đội quân.  Trận chiến bắt đầu lúc 7 giờ sáng, khi lực lượng tiên phong của Tướng Kienmayer của Áo tấn công làng Tellnitz (Telnice), ở ngoài cùng bên phải phòng tuyến của quân Pháp.  Giao tranh ác liệt phát triển xung quanh Tellnitz, nơi Trung đoàn Phòng tuyến số 3 của Pháp cầm cự trong một giờ trước khi bị đẩy ra khỏi làng;  cuộc rút lui của quân Pháp được che chở bởi kỵ binh của Davout, lực lượng tiên phong này đã đến trước phần còn lại của quân đoàn ông ta.  Sau đó, quân Đồng minh tiến đến ngôi làng Sokolnitz (Sokolnice) gần đó.  Lúc 8:30 sáng, quân Pháp buộc phải rời khỏi làng bởi một trận pháo kích dữ dội của quân Đồng minh;  khi rút lui, họ vô tình bị các đơn vị Pháp khác bắn nhầm trong lúc bối rối.

Nhưng Sokolnitz chỉ nằm trong tay quân Đồng minh 15 phút trước khi nó bị quân Pháp phản công tái chiếm từ Quân đoàn III của Davout, quân đoàn đã hành quân 112 km (70 dặm) trong hai ngày để đến kịp thời hạn.  Một sư đoàn dưới quyền anh rể của Davout, Tướng Louis Friant, chiếm lại Tellnitz trong khi Tướng Pháp Lagrand tái chiếm Sokolnitz với hai lữ đoàn (một trong số đó là đơn vị người đảo Corse, quê hương của Napoléon,  nên có biệt danh là ‘Anh em họ của Hoàng đế’).  Hai lữ đoàn của Lagrand nhanh chóng đối đầu với mười hai tiểu đoàn Nga;  đến 9:30 sáng, quân Nga đã xông vào lâu đài Sokolnitz, giết chết hoặc làm bị thương 11 trong số 12 chỉ huy cấp cao nhất của Pháp trong làng.  Các làng Tellnitz và Sokolnitz trở thành khu vực tranh chấp nhiều nhất trên chiến trường, đổi tay nhiều lần trong suốt buổi sáng

Trong khi đó, ở bên trái, Bagration giao chiến với Quân đoàn V của Thống chế Lannes, và giao tranh ác liệt diễn ra xung quanh làng Blasowitz (Blažovice).  Mặc dù Lannes đã được Quân đoàn I của Thống chế Bernadotte tăng cường trong thời gian ngắn, nhưng cuộc giao tranh trở nên tuyệt vọng khi người của Lannes bị pháo binh của Bagration đánh phá tơi tả.  Lannes cố gắng tập hợp quân của mình và chiếm lại Blasowitz bằng lưỡi lê, trong khi Murat cố gắng giảm bớt áp lực bằng cách dẫn 3.000 kỵ binh tấn công kỵ binh của Bagration.  Nhưng Bagration đã cử mọi đội kỵ binh sẵn có chống lại Murat, người nhanh chóng nhận thấy mình đang chiến đấu chống lại quân số gấp đôi quân số của mình.  Một trận chiến kỵ binh khốc liệt xảy ra sau đó, với “những chùm lông ngựa tung bay và áo giáp lấp lánh” nhưng cuối cùng, đội kỵ binh của quân Đồng minh tan vỡ và bỏ chạy.

Mặt trời của Austerlitz

Đến 9 giờ sáng, quân Đồng minh đã đổ 40.000 quân chống lại cánh phải của Pháp, lực lượng này đang dần được củng cố bởi Davout.  Khi mặt trời ló dạng từ các đám mây để đốt cháy sương mù buổi sáng, Napoléon có thể thấy rằng quân Đồng minh đã làm suy yếu trung tâm của họ bằng cách di chuyển thêm quân từ các cao điểm, đúng như ông đã hy vọng.  Ông ra lệnh cho Thống chế Soult bắt đầu cuộc tấn công vào trung tâm địch, tuyên bố: “Chúng ta hãy kết thúc cuộc chiến này bằng một tiếng sấm sét!”. Các sư đoàn của St. Hilaire và Vandamme, bị che khuất bởi sương mù ở chân cao độ, đã được cấp ba khẩu phần rượu mạnh để cổ vũ tinh thần của họ trước khi được lệnh tiến lên dốc.  Khi họ hành quân, ‘mặt trời Austerlitz’ nổi tiếng đã xua tan những màn sương mù còn sót lại và hàng nghìn lưỡi lê của Pháp lấp lánh dưới ánh nắng.

Đồng minh giật mình trước hai sư đoàn Pháp dường như xuất hiện từ hư không.  Kutuzov vội vàng ra lệnh cho quân Áo của Kollowrath quay trở lại đỉnh cao, và vào lúc 9:30, giao tranh nổ ra xung quanh làng Pratzen (Prace) gần đỉnh cao;  cuộc chiến ở đây tàn khốc đến mức hầu như không có tù nhân nào bị bắt, và những thương binh bị tàn sát không thương tiếc.  Cuộc chiến giành Pratzen kéo dài hơn một giờ cho đến 11 giờ sáng khi Thống chế Soult mang theo sáu khẩu pháo bắn đạn 12 cân và bắt đầu pháo kích vào các vị trí của quân Đồng minh.  Đến giữa trưa, quân Đồng minh đã bỏ chạy khỏi vùng đất cao, bỏ lại nó vào tay quân Pháp;  với các cột quân của Buxhoeveden vẫn giao tranh ở bên phải quân Pháp và Bagration bị trói ở bên trái, quân đội Đồng minh giờ đây đã bị cắt đôi một cách hiệu quả.

Vệ binh Hoàng gia Nga chiếm được một cờ hiệu Đại bàng Đế chế Pháp (Bogdan Willewalde)

Đến giờ, chỉ có Lực lượng Vệ binh Hoàng gia Nga là mối đe dọa nghiêm trọng đối với chiến thắng của Pháp.  Vào lúc 1 giờ chiều, Đại công tước Constantine dẫn đầu bốn tiểu đoàn kỵ binh Cận vệ Nga chống lại sư đoàn của Vandamme trong nỗ lực cuối cùng để giành lại các đỉnh cao.  Trung đoàn Phòng tuyến số 4 của Pháp đã tan vỡ trước cuộc tấn công này, đánh mất cờ hiệu Đại bàng Đế chế vào tay địch;  Khi Trung đoàn Phòng tuyến 4 hoảng sợ rút lui, những người lính vẫn còn đủ tâm trí để hét lên “Vive l’Empereur” (Hoàng đế Vạn tuế) khi họ chạy qua Napoléon.  Hoàng đế Pháp đã gửi năm đội kỵ binh Cận vệ Hoàng gia của riêng mình để ngăn chặn cuộc tấn công của Nga, và hai đơn vị tinh nhuệ đã gặp nhau trong trận chiến đẫm máu trên đỉnh Pratzen.  Lực lượng Vệ binh Nga dao động và cuối cùng tan vỡ, chấm dứt mọi hy vọng về một chiến thắng của quân Đồng minh.  Mặc dù bị một nhát kiếm vào đầu, Jean Rapp, một trong những phụ tá của Napoléon, đã dâng lên hoàng đế các quân hàm và tù binh Nga bị bắt, bao gồm Hoàng tử Nikolai Repnin-Volkonsky;  cảnh này đã trở thành bất tử trong bức tranh nổi tiếng về trận chiến của François Gérard.

Kết thúc trận chiến

Sau thất bại của Lực lượng Vệ binh Nga, St. Hilaire và Vandamme được cử đi đánh các tiểu đoàn Nga đang chiến đấu tại Sokolnitz và Tellnitz;  lúc 2 giờ chiều, Davout ra lệnh cho quân đoàn của mình tiến lên trong một cuộc tổng phản công, lạnh lùng nói với người của mình “không để một tên nào trốn thoát”.  Đến 3 giờ chiều, quân Đồng minh rút lui hoàn toàn, nhiều người trong số họ chạy trốn qua các hồ nước đóng băng;  Napoléon ra lệnh cho 25 khẩu đại bác bắt đầu bắn vào băng, khiến quân Nga lao xuống vùng nước lạnh cóng bên dưới (con số chính xác người Nga chết đuối vẫn còn gây tranh cãi; chính Napoléon đưa ra con số là 2.000, mặc dù hầu hết các học giả hiện đại ước tính con số 200 hoặc ít hơn).  Đến 4 giờ 30 phút, những tiếng súng hỏa mai cuối cùng đã tắt và quân Pháp nắm quyền kiểm soát chiến trường.

Napoléon và Francis II gặp nhau sau trận Austerlitz ( Antoine-Jean Gros)

Quân Pháp mất 1.305 người chết và hơn 6.940 người bị thương, nhưng những con số này không đáng kể so với tổn thất của Đồng minh: 11.000 người Nga và 4.000 người Áo chết hoặc bị thương trên chiến trường Austerlitz, với hơn 12.000 quân Đồng minh bị bắt.  Do đó, quân Đồng minh chịu tổng cộng 27.000 thương vong, tương đương một phần ba sức mạnh ban đầu của họ;  cuộc tàn sát đã khiến Napoléon nhận xét “Ngày mai, nhiều quý cô sẽ khóc ở St. Petersburg!”. Đây là chiến thắng quyết định mà Napoléon mong muốn;  Sa hoàng Alexander rút vào Hungary cùng với tàn quân của mình, trong khi Hoàng đế Francis cầu hòa.  Trận chiến đã kết thúc Chiến tranh của Liên minh hứ ba.  Sau Austerlitz, Đế quốc Pháp được hưởng ưu thế quân sự trên lục địa châu Âu trong phần lớn thập niên tiếp theo.


Bình luận về bài viết này