Tại sao có tên Sông Nhật Bản?(*)

Hội truyền giáo tại Pinhalu, Campuchia (Sabatier vẽ theo ghi chép của Mouhot). Nguồn: Tour du Monde, 2e semestre 1863.

Kỷ niệm 50 năm quan hệ Việt – Nhật 1973-2023

Trần Thanh Ái

 Như đã trình bày trong bài trước, tên gọi Sông Nhật Bản được Galen ghi trong nhật ký vào năm 1636 (Muller xuất bản lần đầu năm 1917), và nhất là nhờ bản tường trình chuyến đi của Hagenaar năm 1637 (xuất bản lần đầu năm 1706) mà sau đó tên gọi này được lan truyền rộng rãi trên thế giới. Tại sao người Hà Lan lại gọi như thế? Tại sao họ không gọi bằng một cái tên khác, chẳng hạn như “sông Trung Hoa” vì vào thời ấy người Hoa đã có mặt đông đúc ở Campuchia? Cách gọi này liên quan như thế nào đến sự hiện diện của người Nhật ở trong vùng? Chắc hẳn là sự xuất hiện của người Nhật đã tạo ra một dấu ấn đặc biệt nào đó thì mới khiến người Hà Lan gọi tên như thế. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều cách giải thích, nhưng dường như không có lý giải nào đứng vững trước những dữ liệu liên quan đến sự hiện diện của người Nhật ở Campuchia được lần lượt công bố trong thế kỷ XX. Chúng tôi gọi đó là những giả thuyết vì những ý tưởng ấy chưa được chứng minh hoặc không có chứng cứ nào thuyết phục được người đọc. Trước khi khảo sát nguồn gốc tên gọi này, chúng tôi sẽ tập hợp các giả thuyết liên quan đến nguồn gốc của tên gọi Sông Nhật Bản, kế đến chúng tôi tìm hiểu xem người Nhật đã đến Campuchia lúc nào, và như thế nào. Vì tên gọi Sông Nhật Bản xuất hiện được ghi nhận sớm nhất vào năm 1636 trong nhật ký của Galen, nên chúng tôi chỉ khảo sát sự hiện diện của người Nhật trên đất Campuchia trước năm 1636 mà thôi, để tìm xem trong giai đoạn này có những yếu tố nào có thể tác động đến cách gọi tên này.

  1. Các giả thuyết về nguồn gốc tên gọi Sông Nhật Bản

Điểm qua các tài liệu tham khảo, chúng tôi đã ghi nhận được một số ý kiến sau đây liên quan đến nguồn gốc của tên gọi sông Nhật Bản. Các tác giả này hoặc là dựa vào quan sát thực địa, hoặc chỉ dùng phép suy luận rồi nêu ra ý tưởng chớ không dùng dữ liệu khách quan để chứng minh, vì thế chúng cần được kiểm chứng lại.

1.1. Tên gọi này xuất phát từ sự tùy tiện

Nhà nghiên cứu người Anh J. Pinkerton, tác giả nhiều bộ sách về địa lý thế giới, cho rằng đó là cách gọi tên xuất phát từ sự ngẫu hứng phi lý (nguyên văn tiếng Anh là “absurd caprice”), với hàm ý rằng không hề có mối liên hệ nào giữa dòng sông này với Nhật Bản cả: “Campuchia nằm giữa các dãy núi ở phía Đông và Tây, và được bồi đắp bởi sông Maykaung hay Makon, một dòng sông lớn, gần cửa sông được gọi một cách ngẩu hứng phi lý là Sông Nhật Bản” (Pinkerton J. 1804, tr. 176). 

Có lẽ ở đây Pinkerton đã mơ hồ nhận ra đặc tính võ đoán của từ ngữ (arbitraire) mà 100 năm sau F. de Saussure đã lý thuyết hóa khi phân tích mối liên quan giữa cái biểu đạt (signifiant) và cái được biểu đạt (signifié). Tuy nhiên, Pinkerton đã không kịp nhận ra rằng mọi việc đều có nguồn gốc của nó, kể cả trong các tên gọi, chỉ có điều là ký ức của nhân loại không đủ sức để ghi nhớ tất cả. Cũng có thể có cả trường hợp mà ký ức cộng đồng vẫn còn lưu giữ thông tin về một sự vật nào đó, nhưng dưới mắt người đời sau thì các thông tin đó lại có vẻ phi lý. Trong trường hợp tên gọi Sông Nhật Bản, nếu đó là kết quả của sự ngẫu hứng cá nhân thì chắc chắn nó sẽ nhanh chóng rơi vào quên lãng, chứ không thể được lan truyền rộng rãi trong giới hàng hải phương Tây trong hơn hai thế kỷ được. Vì trong tên gọi này có một từ chỉ một đất nước là Nhật Bản, nên người ta có quyền thắc mắc tại sao người Hà Lan không gọi sông này là “sông Trung Hoa” vì thời ấy người Trung Hoa ở Campuchia đã rất đông đúc, và nhất là họ chi phối phần lớn hoạt động ngoại thương của Campuchia. Trong số những tác giả quan tâm đến nguồn gốc của tên gọi này, dường như không có ai tán thành ý kiến của Pinkerton: thật vậy, khi nhắc đến con sông ấy họ thường nhắc tới sự xuất hiện của người Nhật ở trong khu vực, mặc dù chứng cứ mà họ đưa ra còn rất mơ hồ, không đủ sức thuyết phục.

1.2. Do nhiều tàu thuyền người Nhật đi lại trên sông này

Nhiều tài liệu phương Tây thường gắn tên gọi Sông Nhật Bản với việc tàu thuyền người Nhật thường đi lại. Trong một đoạn nói về sông Mêkong, C. Malte-Brun đã viết “…dòng sông mà người ta đặt tên là sông Nhật bản, bởi vì tàu thuyền người Nhật thường đi lại trên sông này” (1813, tr. 210). Tác giả người Anh J. Hingston Tuckey cũng có cách giải thích tương tự như vậy:

“[Sông Cambodia hay Mey-kong] chảy ra biển qua ba cửa chính ở vĩ độ 100. Nhánh sông ở phía Tây được gọi là Bransaab hay Matsiam, và là nhánh sông rộng nhất; cửa sông của nó bị một cồn cát ngầm sâu từ 14 đến 18 feet vào mùa nước lớn nằm chắn ngang. Thành phố Cambodia, mà dân chúng ở đây gọi là Elnook, nằm cách cửa sông 80 dặm lớn, và chỉ có một con đường và một ngôi chùa. Nhánh thứ hai được gọi là Nhánh Nhật Bản từ việc khi xưa nhiều tàu thuyền người Nhật xuôi ngược qua đây.” (Hingston Tuckey J. 1815, tr. 239)

Tuy nhiên vào thế kỷ XIX dường như không có ai trong số những người đưa ra cách giải thích này cho biết thông tin chi tiết hơn về các chuyến đi ấy: người Nhật lui tới trên sông Cửu Long để làm gì? Điểm đến của họ là ở đâu? Họ có điểm gì nổi bật hơn so với những người nước ngoài khác khiến tên của dân tộc họ được chọn? Đến năm 1919, A. Cabaton cho biết thêm vài chi tiết liên quan đến lộ trình của họ:

“nó được mang tên ấy là vì người Nhật đã dùng nhánh sông ấy để đi Campuchia, và ngày nay tàu bè của Công ty vận tải đường sông Nam Kỳ Messageries Fluviales de Cochinchine vẫn còn đi Phnom Penh bằng nhánh sông ấy, vì đó là nhánh dễ đi nhất.” (Cabaton A. 1919, tr. 608)

Giả thuyết này được nhiều tác giả sử dụng để giải thích tên gọi con sông, vì qua cái nhìn ban đầu nó có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, có nhiều chi tiết lịch sử khiến người ta không thể dễ dãi chấp nhận cách giải thích sơ sài của giả thuyết này. Đúng là sông Tiền vẫn là tuyến đường huyết mạch của tàu thuyền đến Phnom Penh ít nhất là cho đến hết thời kỳ Pháp thuộc, như A. Pouyanne đã giới thiệu trong tài liệu xuất bản năm 1908 (Pouyanne A. 1908, tr. 9). Tuy nhiên, nếu nói như C. Malte-Brun và các tác giả cùng quan điểm với ông hóa ra là các đội thuyền của các nước khác như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Trung Hoa, Hà Lan… thời ấy đã không dùng nhánh sông này để đi đến kinh đô của vương quốc Campuchia hay sao! Thật vậy, khi khảo sát tình hình vương quốc Campuchia vào những năm cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, chúng ta thấy người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đã đặt chân đến đó trước người Hà Lan, và nhất là người Nhật cũng không phải là cộng đồng lớn nhất ở Campuchia. Nhiều ghi chép của các nhà truyền giáo châu Âu cho biết ngay vào năm 1596, khi người Tây Ban Nha đến Churdumuco tức Phnom Penh ngày nay, họ đã phải đương đầu với sự chống cự của 3.000 thương nhân người Chương Châu(1) (Phúc Kiến), vì những người này không muốn mất nguồn cung cấp hàng hóa bản địa về tay người Tây Ban Nha (Quiroga de San Antonio G., 1914, tr. 116). Người Nhật tuy cũng xuất hiện rất sớm ở các kinh đô của Campuchia, nhưng số lượng không đông như người Trung Hoa: theo Iwao Seiichi là 350 người (Clulow A. 2013, tr. 343), còn theo Yoshiaki Ishizawa là 1.500 người (Ribeiro M. 2001, tr. 73). Hơn thế nữa, người Trung Hoa gần như là chi phối toàn bộ các tuyến giao thương: có đến 98% thậm chí 100% thuyền viên là người Trung Hoa trên các thương thuyền của Campuchia và Xiêm, kể cả các thương thuyền của triều đình hai nước này, nên người Nhật gọi chung là tōsen, tức Đường thuyền, thuyền của người Trung Hoa (Ishii Y. 1998, tr. 3). Điều đó cho phép suy luận rằng mật độ xuất hiện của thương nhân Trung Hoa trên sông Mêkong rất lớn so với người Nhật.

Tóm lại giả thuyết này vấp phải hai câu hỏi không dễ trả lời như sau:

+ Tại sao người Trung Hoa không gây ấn tượng cho người Hà Lan dù cộng đồng kiều dân của họ ở Phnom Penh đông gấp nhiều lần người Nhật?

+ Tại sao người Hà Lan có ấn tượng mạnh với người Nhật đến độ họ gán tên họ cho một dòng sông, còn người Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha đến trước họ thì không?

Nếu trả lời được hai câu hỏi này, có thể chúng ta sẽ phát họa ra được một giả thuyết khác khả dĩ hơn trong việc tìm hiểu nguồn gốc của tên gọi Sông Nhật Bản.

1.3. Do giáo dân Nhật đến Campuchia lánh nạn

Nhà truyền giáo C.-E. Bouillevaux cho rằng vì có nhiều giáo dân Nhật đến định cư ở đó để trốn tránh chính sách cấm đạo Thiên Chúa của chính quyền Mạc phủ ở Nhật nên mới có tên gọi sông Nhật Bản: trong quyển du ký nói về chuyến đi qua các nước Đông Dương từ năm 1848 đến 1856, ông đã viết như sau:

“Vào thời cấm đạo ở Nhật Bản, nhiều tín đồ chạy trốn khỏi đất nước đau thương này đến định cư trong những vương quốc lân cận. Một số đi về Campuchia: tên Sông Nhật Bản được đặt cho một trong những nhánh sông Mêkong đã xác nhận sự kiện này.” (Bouillevaux C.E., 1858, tr. 217)

Cùng hướng suy nghĩ với C.E. Bouillevaux, A. Cabaton cung cấp thêm vài chi tiết: “Nó mang tên ấy là vì có một cộng đồng người Nhật theo đạo Thiên Chúa bị xua đuổi khỏi quê hương vì tôn giáo, và đến định cư trên hữu ngạn sông Mêkong, gần Phnom Penh” (Cabaton A. 1919, tr. 608). Tuy nhiên, hai tác giả này không đưa ra bằng chứng nào để chứng minh việc người Nhật theo đạo Thiên Chúa lánh nạn ở Phnom Penh là lý do khiến người Hà Lan gọi tên con sông ở đó là sông Nhật Bản. Vì thế cách giải thích này cũng vẫn chỉ là giả thuyết mà thôi, thậm chí giả thuyết này có nhiều điều không phù hợp với các sự kiện lịch sử đã được kiểm nhận.

Bìa sách Voyage dans l’Indo-Chine 1848-1856 của C.-E. Bouillevaux (1858)

Thật vậy, những người tỵ nạn này không thể gây ấn tượng cho người Hà Lan được với số lượng không lớn như nhiều tài liệu đã tiết lộ. Khi tổng hợp tài liệu do các nhà truyền giáo dòng Tên (Jesuits) biên soạn, M. Ribeiro cho biết rằng ở Campuchia đã từng có hai khu dân cư Nhật, một ở Phnom Penh (từ năm 1614) và một ở Pinhalu (từ năm 1618), và vào năm 1615 có một nhà thờ với khoảng 70 giáo dân, trên tổng số Nhật kiều sinh sống ở Campuchia khoảng 1.500 người theo ước tính của Y. Ishizawa (Ribeiro M. 2001, tr. 73). Mặt khác, theo L. Pagés, năm 1617, một sư huynh người Nhật và một linh mục người Bồ Đào Nha được phái đi truyền đạo ở Campuchia; ở đó họ gặp một số lượng lớn người Nhật ngoại đạo sinh sống. Nhưng vì bị nhà vua nước này dọa giết nên hai người đã theo một chiếc thuyền Macao mà trốn thoát (Pagés L. 1869, tr. 383). Các dữ liệu này cho thấy cách lý giải tên gọi Sông Nhật Bản của Bouillevaux dựa vào sự hiện diện của cộng đồng giáo dân Nhật là rất khiên cưỡng.

Cũng với cách lý giải tương tự như Bouillevaux, nhà nghiên cứu S. Lewitz đã viết như sau trong bài khảo cứu về địa danh ở Campuchia: “Các tên Japansche Rivier hay rivière japonaise chắc chắn là do người châu Âu theo đạo Thiên Chúa đặt ra, vì xúc động trước số phận của những đồng đạo người Nhật, trong khi người Campuchia ít xúc động hơn luôn gọi dòng nước này là Sông Bassac, Tonlé Bassac” (Lewitz S., 1967, tr. 422). Khi viết câu này, Lewitz cho thấy là ông chỉ dựa trên sự tưởng tượng mà thôi, vì ông không hề biết rằng chẳng phải “người châu Âu theo đạo Thiên Chúa” đặt ra cái tên ấy, mà ngược lại, chính người Hà Lan theo đạo cải cách một thời bị sự trừng phạt của Giáo hội La Mã, chính họ đã khai sinh ra tên gọi Sông Nhật Bản. Ngoài ra, Lewitz là một trong số vài tác giả hiếm hoi(2) cho rằng sông Nhật Bản là sông Bassac, tức sông Hậu! 

1.4. Tên gọi xuất phát từ một cộng đồng người Nhật

Năm 1860, trong quyển Japan and the Japanese, R. Hildreth cho rằng dòng sông mang tên ấy là do ngay ở đó có một cộng đồng người Nhật sinh sống vào thời ấy (Hildreth R, 1860, tr. 568). Giả thuyết này gần giống với giả thuyết của Bouillevaux đưa ra hai năm trước đó, nhưng R. Hildreth không đặt trọng tâm vào sự hiện diện của các tín đồ Thiên Chúa giáo. Tuy nhiên, đành rằng đây là một cộng đồng dân cư đông đúc nếu ước tính của Y. Ishizawa là đúng, nhưng như đã nói bên trên, so với người Trung Hoa thì họ vẫn còn quá ít, nên giả thuyết này chưa đủ sức thuyết phục để giải thích sự vượt trội của ảnh hưởng của người Nhật Bản đối với người Trung Hoa. Hơn nữa, R. Hildreth cũng đã không nói gì về việc chính người Hà Lan là tác giả của tên gọi ấy, khiến độc giả có thể nhầm tưởng đó là tên mà các cường quốc phương Tây thống nhất sử dụng để gọi nhánh sông Mêkong vào nửa đầu thế kỷ XVII. Cách giải thích này chẳng những không làm sáng tỏ vấn đề, mà trái lại, nó làm cho việc truy tìm nguồn gốc tên gọi càng thêm mờ mịt, vì đã bỏ qua yếu tố vô cùng quan trọng, là người Hà Lan.

Trước khi thử đưa ra cách giải thích khác về nguồn gốc tên gọi Sông Nhật Bản, chúng tôi tập hợp các dữ liệu liên quan đến sự có mặt của người Nhật trên đất Campuchia trước năm 1636, là năm xuất hiện sớm nhất của tên gọi Sông Nhật Bản được tìm thấy trong nhật ký của Galen.

  1. Người Nhật đi ra nước ngoài

Năm 1601, niên hiệu Khánh Trường (Keichō) năm thứ 6, bang giao giữa Nhật và Campuchia được đánh dấu bằng việc hai bên trao đổi thư từ chính thức và tặng vật. Sau năm 1627 không hiểu vì lý do gì mà quan hệ ngoại giao bị gián đoạn, “nhưng khi các sứ thần tới, họ vẫn thực hiện các nghi thức tôn kính sanpai 参拝 [tham bái]” (Ravina N. 2015, tr. 278). Thật vậy, nhiều tài liệu phương Tây đã xác nhận là người Nhật có mặt khá sớm ở Campuchia: năm 1604 nhà truyền giáo G. Quiroga de San Antonio xuất bản một bản tường trình trong đó đã nói về người Nhật ở đó, với nhận xét là họ và người Trung Hoa cũng giống như người Do Thái, họ không bao giờ đến những nơi cằn cỗi, mà chỉ đến nơi có nguồn lợi phong phú. Sự hiện diện của họ được xem như là chỉ dấu để nhận ra những vùng đất có nhiều tiềm năng (Quiroga de San Antonio G. 1914, tr. 208).

2.1. Những dòng người Nhật đi ra nước ngoài

Về thành phần người Nhật đi ra nước ngoài, mà chủ yếu là Đông Nam Á, trong khoảng thời gian cuối thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, Kim Yong-gon (1943) đã tổng hợp thành ba loại: thứ nhất là các thương nhân từ Nagasaki hay Kyodo, hoặc từ Sakai, thứ hai là các tín đồ Thiên Chúa giáo đi trốn tránh sự đàn áp của Mạc phủ Edo vào đầu thế kỷ XVII, và cuối cùng là các rōnin (lãng nhân), đa phần là những chiến binh samurai người Kyushu không có việc làm khi trở về từ hai cuộc xâm lăng Hàn Quốc vào các năm 1592 và 1597 (dẫn lại từ Hung-Guk Cho, 2000, tr. 79).

2.1.1. Làn sóng thương nhân Nhật

Theo một phụ lục của bài viết của A.-J.-C. Geerts, sách Ko-kon-sen-kuwa-kagami được biên soạn ở Nhật vào thế kỷ XVII cho biết rằng ngay từ năm 1434 người Nhật đã đến buôn bán thường xuyên ở vùng đất mà sau này được gọi là Đông Dương (Geerts A.-J.C. 1882, tr. 45) nhưng tác giả không cho biết chính xác nước nào, do đó không có gì chắc chắn là Campuchia đã có quan hệ thương mại với Nhật từ năm ấy. Nhưng vào cuối thế kỷ XVI thì có nhiều bằng chứng về mối giao thương giữa hai dân tộc: M. Oka dựa vào tài liệu của T. Kage cho biết: “Ōtomo Yoshishige 大友義鎮 lãnh chúa tỉnh Bungo, chẳng những cử tàu thuyền đi Trung Hoa mà còn thiết lập buôn bán mật thiết và quan hệ ngoại giao với Campuchia” (Oka M. 2018, tr. 165). Cũng theo tác giả này, trong thời gian trị vì của vua Satha (1570s–1595s), Campuchia trở nên thịnh vượng nhờ buôn bán với các nước trong vùng qua các thương cảng trên sông Tonle Sap. Trước năm 1579, Ōtomo Yoshishige đã cử một đoàn sứ giả đến Campuchia mang đến nhiều lễ vật trong đó có cả mỹ nữ (Oka M. 2018, tr. 165-166). Tuy nhiên, các tài liệu về giai đoạn này không cho biết rõ hơn về các hoạt động của người Nhật ở Campuchia, khiến chúng ta khó hình dung ra mức độ sinh hoạt nhộn nhịp của họ đến đâu, ngoài việc nó cho phép ta suy luận là người Nhật đã ngược dòng sông Mêkong để lên kinh đô của Campuchia thời ấy.

Năm 1604, G. Quiroga de San Antonio khi ghi lại sự kiện quân Tây Ban Nha hai lần đổ bộ lên đất Campuchia vào những năm 1596 và 1598, đã cho biết có vài mươi người Nhật làm lính đánh thuê trong đội quân Tây Ban Nha, và nhiều người Nhật khác đang có mặt tại Chordemuco, tức Phnom Penh ngày nay (Quiroga de San Antonio G. 1914, tr. 142). Sự hiện diện của họ được khắc họa qua tính cách kiêu hãnh, không dễ khuất phục khiến các dân tộc khác phải e dè, nể nang, thậm chí khiếp sợ.

Trong thời kỳ châu ấn thuyền, thuyền buôn đi lại giữa Nhật và Campuchia ngày càng nhộn nhịp; N. Péri cho biết như sau:

“Lãnh chúa quan trọng nhất là Shimazu Mutsu no kami Iyehisa 嶋津陸奥守家久, là lãnh chúa của vùng Kagoshima. Ông có quan hệ với Campuchia từ rất sớm. Ngay từ năm 1604 ông đã được cấp 3 châu ấn trạng (shuin-jo, tức giấy phép xuất nhập khẩu của Mạc phủ) mà 2 để đi Campuchia và 1 đi Xiêm” (Péri N. 1923, tr. 51).

Iwao Seiichi, tác giả công trình Shuinsen bōekishi no kenkyū (Nghiên cứu lịch sử mậu dịch thời châu ấn thuyền) được xem là nghiên cứu kinh điển về mảng đề tài này; ông cho biết là từ năm 1604 đến 1635 số lượng tàu thuyền Nhật đến Campuchia là 44 chiếc, đứng hàng thứ tư trong số 9 trung tâm mua bán trong vùng, sau Đàng Trong, Xiêm và Lữ Tống (Philippines) (Clulow A. 2019, tr. 228). Họ đi về phương Nam trên những chiếc thuyền có trọng tải từ 70 đến 600 tấn, khởi hành khi gió mùa Đông Bắc bắt đầu thổi, và trở về Nhật khi có gió mùa Tây Nam. Trong quan hệ mậu dịch đó, một số thương nhân đã ở lại các nước sở tại, và ở nhiều nơi họ sống quay quần với nhau, dần dần hình thành những cộng đồng kiều dân, mà họ thường gọi là nihon machi (khu phố Nhật). Như đã nói bên trên, ở Campuchia có 2 khu phố như thế, một ở Pinhalu và một ở Phnom Penh (Ribeiro M. 2001, tr. 73). Những cộng đồng di dân này tồn tại nhờ vào việc giao thương với nước Nhật, và khi chính sách tỏa quốc (sakoku) được ban hành thì chỉ năm bảy chục năm sau đó các cộng đồng ấy dần dần biến mất (Ribeiro M 2001, tr. 56). Riêng đối với tàu thuyền Hà Lan và Trung Hoa, vì được Mạc phủ cho phép cập cảng nước Nhật, nhưng với nhiều hạn chế khắt khe, nên họ vẫn tiếp tục đến Campuchia để mua các mặt hàng quen thuộc như da nai, ngà voi, gỗ vang (sappan).

Thương mại Nhật bản thế kỷ XVII: dấu ■: là nơi có các khu phố Nhật; dấu ●: là nơi có người Nhật cư trú.

2.1.2. Nụy khấu và Lãng nhân

Những ghi chép của người Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha xác nhận rằng từ cuối thế kỷ XVI nhiều tàu thuyền người Nhật đã có mặt ở các nước Đông Nam Á. Đó là những wakō, hay theo cách gọi của người Trung Hoa là wokou (倭寇 nụy khấu, oa khấu) dùng để chỉ những cướp biển, những thương nhân buôn bán lén lút với các nước trong khu vực, và những rōnin (浪人 lãng nhân(3)), là các samurai không còn nơi dung thân sau thất bại trong cuộc xâm lược bán đảo Triều Tiên và các cuộc chiến tương tàn giữa các lãnh chúa Nhật; họ đi khắp nơi để đầu quân cho các vua chúa trong khu vực (Péri N., 1923, tr. 6). Vào những thập niên đầu của thế kỷ XVII, các chiến binh Nhật tìm được việc làm ở Xiêm do các đời vua kế tiếp nhau chiêu mộ lập các đội quân đánh thuê người Nhật, ở Philippines để giúp người Tây Ban Nha đàn áp cuộc nổi dậy của người Trung Hoa, cũng như hỗ trợ các lực lượng địa phương chống lại các cuộc xâm lược tiềm tàng của nước Xiêm láng giềng (Clulow A. 2019, tr. 77). Họ được giới cầm quyền của các nước Đông Nam Á ưa thích và dành cho nhiều kính phục vì kỹ năng quân sự và tinh thần quả cảm, đặc biệt là khi các vua chúa phải luôn đối phó với thù trong giặc ngoài. Nói như trưởng đại diện của công ty Đông Ấn Hà Lan VOC tại Nhật Bản, họ là những con cừu trên quê hương họ, nhưng lại là quỷ dữ một khi đi ra nước ngoài (Clulow A., 2013, tr. 347). Vì thế, họ cũng để lại ấn tượng xấu cho cư dân dọc theo tuyến đường hàng hải thuộc lãnh thổ Campuchia thời đó, bao gồm cả hai bờ sông Mê kong. Trong thư gửi Mạc phủ năm 1610, vua Campuchia viết: “Dân của quý quốc thật là tàn bạo và hung hăn. Họ đến đây buôn bán nhưng chẳng mấy chốc hành xử trái ngược với mục đích này, và trút cơn điên cuồng lên dọc theo bờ. Kết quả là đã làm gián đoạn việc thông thương hàng hải và hủy hoại sự thịnh vượng của các cảng của Campuchia” (Clulow A. 2013, tr. 347). Tuy nhiên chính quyền Mạc phủ tỏ ra không dung tha những hành động hung hăng như vậy: sách Gaiban Tsūsho (Ngoại phiên thông thư) chép lại bức thư năm 1610 của Mạc phủ Tokugawa Ieyasu phúc đáp vua Campuchia như sau:

“Đầu tiên, thương nhân đến từ nước tôi đi nhiều nơi trên quý quốc cũng như ở Đàng Ngoài và Chiêm Thành. Ở đó họ trở nên hung hăng và tàn bạo. Tôi đã nhận được tin báo rằng họ đã gây ra nhiều tổn thất khủng khiếp và không có ngày nào yên bình ở những nơi đó… Hơn nữa, chúng tôi cũng nghe rằng họ đang lẩn trốn [ở trong vùng này]… và khi có điều kiện thuận lợi họ phạm tội ác và gây ra nhiều đau khổ cho dân chúng trong vùng. Các vụ tấn công của họ thì cực kỳ nghiêm trọng. Xin quý quốc cứ trừng phạt họ ngay lập tức theo luật pháp của quý quốc. Không cần phải nương tay chút nào trong chuyện này.” (Clulow A, 2013, tr. 343)

Ngoài ra, lằn ranh giữa thương nhân và lính đánh thuê cũng không phải luôn luôn rạch ròi trong cộng đồng người Nhật ở hải ngoại: thương nhân có thể thành lính đánh thuê, và sau đó khi không còn ai thuê mướn thì họ sẽ lại là thương nhân. A. Clulow cho biết, “ở Campuchia, việc chiêu mộ những người lính này bắt nguồn từ các cuộc khủng hoảng, nhưng một khi tình hình đã lắng dịu thì họ sẽ trở về với công việc kinh doanh” (Clulow A. 2019, tr. 79).

2.1.3. Làn sóng giáo dân Nhật đi lánh nạn

Di dân vì lý do tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong làn sóng di cư của người Nhật ra nước ngoài. Chính sách cấm đạo ở Nhật Bản bắt đầu từ cuối thế kỷ XVI và bùng phát mạnh từ năm 1614 dẫn đến nhiều vụ giết hại giáo dân, làm cho làn sóng di dân ra nước ngoài trở nên ồ ạt. Như đã trình bày bên trên, Campuchia là một trong những nước có quan hệ thương mại thường xuyên với Nhật Bản. Vì thế khi xảy ra nhiều vụ giết hại giáo dân ở Nhật thì Campuchia cũng là một trong những điểm đến mà người Nhật hướng tới trên đường đi lánh nạn. Thật vậy, trong bản tường trình năm 1645, nhà truyền giáo Fr. Cardim cho biết vào những năm 1610, người Nhật đã đến ẩn náo trong vương quốc Campuchia để trốn tránh sự đàn áp của Mạc phủ, và vì thế năm 1617 linh mục Pierre Marquez được Ma Cao cử đến đó để chăm sóc phần hồn cho họ (Cardim Fr. 1645, tr. 181).

Tuy máu của các nhà truyền giáo và giáo dân đã đổ từ mấy thập niên đầu thế kỷ XVII nhưng cũng chưa gây ra nỗi kinh hoàng trên nước Nhật, và cũng không có tài liệu nào cho biết có làn sóng người Nhật ồ ạt bỏ xứ ra đi trong giai đoạn này hay không. Thậm chí trong đợt đàn áp mạnh từ năm 1614 đến 1622 có hàng trăm người bị hành hình (Boxer 1967, tr. 334), nhưng ngay cả trong suốt thời gian đó nhiều giáo dân vẫn đi đi về về giữa Nhật Bản và Đại Việt để gặp các nhà truyền giáo xưng tội. Thật vậy, theo ghi nhận của A. de Rhodes, sau năm 1614 nhiều giáo dân Nhật lấy cớ giao dịch thương mại đã đến đó gặp các linh mục người Nhật làm các nghi thức tôn giáo:

“…sau lệnh cấm đạo năm 1614 nhiều tín đồ Thiên Chúa giáo Nhật đi thành từng đoàn rất đông trên ba bốn chiếc thuyền đầy người đến đây vào mùa chay và ba bốn dịp khác trong năm viện cớ buôn bán, để xưng tội với các linh mục dòng Tên biết tiếng Nhật, và nhận lễ ban thánh thể. Họ đã làm như thế trong suốt gần 10 năm với sự mãn nguyện tột độ và sự an ủi về tâm linh.” (Rhodes A. de, 1651, tr. 57-58)

Khoảng thời gian 1617-1618, lại có thêm một số nhà truyền giáo nước ngoài bị trục xuất và bị hành hình, nhưng dường như giáo dân Nhật vẫn chưa cảm thấy tính mạng bị đe dọa, nên chưa thấy có hiện tượng bỏ nước ra đi dồn dập. Tuy nhiên, tình hình ngày càng tồi tệ, do chính quyền Mạc phủ ban hành nhiều quy định khắc khe hơn nhằm mục đích loại trừ đạo Thiên Chúa ra khỏi nước Nhật. Ban đầu họ chỉ dùng các biện pháp đơn giản để ép buộc giáo dân bỏ đạo, nhưng dần về sau họ áp dụng nhiều biện pháp ngày càng khắt khe, trong đó có việc nghiêm cấm dân chúng đi ra nước ngoài. Theo tường thuật của Reyr Gysbertz, một đại diện thương mại của Hà Lan tại Nagasaki lúc bấy giờ, các cuộc bức hại người dân Nhật theo đạo Thiên Chúa bắt đầu khốc liệt từ cuối năm 1622: đến đầu năm 1623, 130 người gồm đàn ông, đàn bà và trẻ con tại Nagasaki bị xử chém và thiêu xác về tội che giấu các nhà truyền giáo nước ngoài, hoặc không tố giác những gia đình che giấu các nhà truyền giáo. Ít lâu sau đó thêm 100 người khác bị hành quyết. Tháng 1 năm 1624 ở kinh đô Iedo 128 người cũng bị thiêu sống vì đã chứa chấp một nhà truyền giáo, ở Firando 36 người bị dìm xuống biển vì không chịu bỏ đạo. Tháng 7 năm 1628, quan chức ở Arima dùng cực hình tàn khốc nhất để tra tấn 348 giáo dân để họ bỏ đạo, tháng 9 cùng năm tại Nagasaki có 25 người bị hành hình. Reyr Gysbertz kết thúc bản tường trình bằng một ghi nhận: “Năm 1626 khi chúng tôi tới Nagasaki, thành phố có 40.000 giáo dân, còn bây giờ, vào năm 1629 không còn một người nào.” (Reyr Gysbertz 1664, tr. 47). Sự giảm sút này chỉ có thể là do giáo dân bỏ đạo, và do họ bỏ nước ra đi để tìm nơi an bình. Và chắc hẳn là sự ra đi của người Nhật đã khiến Mạc phủ ban hành chỉ dụ năm 1636(4) nghiêm cấm người Nhật đi ra nước ngoài với hình phạt nghiêm khắc nhất.

L .Pagés cho biết, theo điều tra của các nhà truyền giáo ở Macao thực hiện vào năm 1640, một số lượng lớn tín đồ Thiên Chúa giáo người Nhật đã đi tị nạn ở Xiêm, Hội An, Campuchia và Đàng Ngoài (Pagés L. 1869, tr. 865). Thế mà ở Xiêm thì sau cái chết của Yamada Nagamasa năm 1630 người Nhật không còn được ưu ái nữa, và thậm chí đến đầu năm 1633 thì bị xua đuổi, đàn áp sau cuộc nổi dậy ở thuộc quốc Ligor. Vì thế Campuchia và các quần đảo trong vùng Đông Nam Á trở thành điểm đến ít nguy hiểm nhất đối với người Nhật. Nhà du hành người Anh P. Mundy cho biết ngày 16 tháng 6 năm 1637, khi đi thuyền từ Malacca đến Macao, lúc ngang qua vùng biển Đông, ông gặp một thuyền mành người Nhật đi từ Campuchia. Họ nói là sáu năm trước họ bị buộc phải rời bỏ đất nước đến đây sinh sống vì hoàng đế nước Nhật điên cuồng chống lại tín đồ Thiên Chúa giáo, nên buộc họ phải trốn chạy, nếu không muốn bỏ đạo hay là chết (Mundy P., 1919, tr.154).

(còn tiếp)


Tài liệu tham khảo

Bouillevaux C.-E., 1858. Voyage dans l’Indochine 1848-1856. Paris: Librairie de Victor Palmé.

Boxer C.R. 1967. The Christian Century in Japan 1549-1650 (xuất bản lần 2 có sửa chữa). Berkeley and Los Angeles: University of California Press.

Cabaton A. 1914. Les Hollandais au Cambodge au XVIe siècle. Trong tạp chí Revue de l’histoire des colonies francaises, số 2(1914)

Cabaton A. 1919. Les Hollandais au Cambodge et au Laos au XVIIe siècle. Tạp chí Tijdschrift van het Koninklijk Nederlandsch Aardrijkskundig Genootschap số 36. Leiden: Brill.

Cardim Fr. 1645. Relation de la province du Iapon. Tournay: Imprimerie d’Adrien Qvinqvé.

Clulow A. 2013. Like Lambs in Japan and Devils outside their Land: Diplomacy, Violence, and Japanese Merchants. Tạp chí Southeast Asia Journal of World History, Volume 24, Number 2, June 2013.

Clulow A. 2019. Amboina, 1623. Fear and Conspiracy on the Edge of Empire. New York: Columbia University Press.

Geerts A.-J.-C. 1882. Voyage du yacht hollandais Grol du Japon au Tonquin. Tạp chí Excursions et Reconnaissances, số 13, năm 1882.

Hagenaar H., 1706. Voiage aux Indes Orientales. Trong quyển 5 bộ Recueil des voiages qui ont servi à l’établissement et aux progress de la Compagnie des Indes Orientales formée dans les Provinces Unies des Païs-bas. Amsterdam: Etienne Roger, Libraire.

Hildreth R. 1860. Japan and the Japanese. Boston: Bradley, Dayton & Co.

Hingston Tuckey J., 1815. Maritime geography and statistics or A Description of the Ocean and its Coasts, Maritime Commerce, Navigation, Vol.3. London: Black Parry & Co.

Hung-Guk Cho, 2000. The Trade between China, Japan, Korea and Southeast Asia in the 14th Century through the 17th Century Period. Tạp chí International Area Review, Volume 3, Number 2, Winter 2000.

Ishii, Y. (Ed.), 1998. The Junk Trade from Southeast Asia. Translations from the Tôsen Fusetsu-gaki, 1674-1723. Singapore: Institute of Southeast Asian Studies.

Ishizawa Y. 2015. The World’s Oldest Plan of Angkor Vat: the Japanese so-called Jetavana, an Illustrated Plan of the Seventeenth Century. Udaya, Journal of Khmer Studies, N°13, Septembre 2015.

Kaempfer E., 1999. Kaempfer’s Japan: Tokugawa culture observed (Beatrice M. Bodart-Bailey chủ biên, dịch và chú giải). Hawaii: University of Hawai‘i Press

Lewitz S., 1967. La toponymie khmère. Trong tạp chí Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient, số 53-2 năm 1967.

Malte-Brun C., 1813. Précis de la géographie universelle, Tome 4, Paris: Chez Fr. Buisson Libraire-Editeur.

Mundy P., 1919. The Travels of Peter Mundy, in Europe and Asia, 1608-1667, Vol. III Part I. London: The Hakluyt Society.

Murduch J, 1903. A History of Japan. Kobe: Office of the Chronicle.

Oka M., 2018. The Nanban and Shuinsen Trade in Sixteenth and Seventeenth-Century Japan. Trong M. Perez Garcia & L. de Sousa (Eds) 2018. Global History and New Polycentric Approaches. Singapore: Palgrave Macmillan.

Pagés L., 1869. Histoire de la Religion chrétienne au Japon, Tome 1. Paris: Charles Douniol Libraire-Editeur.

Péri N. 1923. Essai sur les relations du Japon et de l’Indochine aux XVIe et XVIIe siècles. Tạp chí Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 23.

Pinkerton J. 1804. Modern Geography, Tome 2. Philadelphia: John Conrad & Co.

Pouyanne A., 1908. Étude sur les voies d’eau de la Cochinchine. Saigon: Imprimerie Commerciale Marcellin Rey.

Quiroga de San Antonio G. 1914. Brève et Véridique Relation des événements du Cambodge (bản tiếng Pháp của A. Cabaton). Paris: Ernest Leroux Editeur.

Ravina M., 2015. Tokugawa, Romanov, and Khmer: The Politics of Trade and Diplomacy in Eighteenth Century East Asia. Tạp chí Journal of World History, June 2015, Vol. 26, No. 2.

Reyr Gysbertz, 1664. Récit de la persécution des Chrétiens du Japon. Trong M. Thevenot, Relations de divers voyages curieux, Seconde Partie. Paris: Chez Sebastien Cramoisy & Sebastien Mabre Cramoisy.

Rhodes A. de, 1651. Histoire dv Royavme de Tvnqvin & des Grands Progrez qve la Predication de l’Evangile y a faits en la conuerſion des Infidelles. Lyon: Chez Iean Baptiste Devenet.

Ribeiro M., 2001. The Japanese Diaspora in the Seventeenth Century. According to Jesuit Sources. Bulletin of Portuguese – Japanese Studies, núm. 3, december, 2001, Universidade Nova de Lisboa Lisboa, Portugal.

van Swet Floris, 2019. Finding a Place: Rōnin Identity in the Tokugawa Period. Luận án tiến sĩ sử học, bảo vệ tại Đại học Harvard (Hoa Kỳ).

Ghi chú:

(*) Để tiện theo dõi, xin mời độc giả đọc bài “Lần theo dấu chân người Nhật trong lưu vực sông Cửu Long” của cùng tác giả, đã đăng trên tạp chí Xưa & Nay số tháng 10 và 11 năm 2022.

(1) Nguyên văn tiếng Tây Ban Nha là Chincheos (Quiroga de San Antonio G., 1604, Ch 2, §6) tức Changchow hay Zhangzhou.

(2) Trong bài trước, chúng tôi đã chỉ ra rằng năm 1914, A. Cabaton gọi sông Bassac là sông Nhật Bản, nhưng trong bài viết năm 1919, chính ông lại nói rõ rằng sông Nhật Bản là sông Tiền đổ ra biển Đông qua nhánh sông Cửa Tiểu. Vì thế chúng tôi cho rằng trong bài viết sau ông đã điều chỉnh lại nhận thức của ông cho phù hợp với tài liệu. Có lẽ Lewitz chỉ tham khảo bài viết năm 1914 của Cabaton mà không đọc được bài viết năm 1919.

(3) Một số tài liệu cũng viết là 牢人 (lao nhân), như Luke S. Roberts (2012), G. Groemer (2016), Floris van Swet (2019), A. Lushchenko (2020) hay tự điển online https://www.japandict.com/牢人. Tuy không hoàn toàn đồng nghĩa, nhưng cả hai đã được dùng để chỉ những người Nhật không còn chủ soái, phải đi khắp nơi kiếm sống.

(4) Theo cách ghi của người Nhật là năm Kanei 13 (寛永), nhưng E. Kaempfer quy ra là 1637, còn Beatrice M. Bodart-Bailey đã đính chính lại là 1636 (Kaempfer E. 1999, tr. 479). Nhiều tài liệu ghi là 1637, có lẽ là do tham khảo E. Kaempfer.

Bình luận về bài viết này