Thư qua lại trên đường Nam Quan – Bắc Kinh của phái đoàn Tây Sơn

Nguyễn Duy Chính

MỞ ĐẦU

Việc nước ta một số lần được gửi thư sang Trung Hoa và nhận thư đem thư về dưới triều Quang Trung có những biến chuyển rất tế nhị. Từ một khởi đầu có vẻ ngẫu nhiên nhưng nhà Thanh lại dùng làm cái cớ để dọn sạch những trở ngại trong việc “mời” Nguyễn Quang Bình sang Bắc Kinh dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ của vua Cao Tông.

 

Thượng dụ ngày mồng 6 tháng Hai v/v mua nhân sâm

Sau khi vua Quang Trung được phong vương, ông sai Nguyễn Hoành Khuông mang biểu sang Bắc Kinh tạ ơn. Tuy phái đoàn đã ra khỏi Nam Quan rồi, ông vẫn gửi gấp một lá thư (nhờ quan lại Trung Hoa chuyển) chỉ thị cho phái bộ tìm mua nhân sâm (để phụng dưỡng mẹ già nay đã 80 tuổi).[1] Theo đúng thể chế, lá thư đó được chuyển cho Thang Hùng Nghiệp (án sát sứ Quảng Tây) rồi lên Phúc Khang An (tổng đốc Lưỡng Quảng). Phúc Khang An mở thư ra xem (theo thông lệ nhà Thanh, mọi thư từ gửi sang Trung Hoa đều phải do biên thần đọc trước để yêu cầu chấn chỉnh nếu cần) và khi biết được mục đích của thông tin này, chính ông ta vội lấy ra 4 lạng sâm đưa đến Lạng Sơn gửi cho vua Quang Trung đồng thời chuyển lá thư đi và gửi bản sao báo cho vua Càn Long.

Khi thấy tin này, vua Càn Long đã cho lấy một cân sâm hảo hạng trong nội khố gửi hoả tốc sang An Nam. Ông cũng khen Nguyễn Quang Bình vừa có hiếu vừa tận trung,  nhưng lại cũng gài một câu như một lời xác nhận là Nguyễn Quang Bình lo cho mẹ để yên tâm sang triều cận.

Trong văn bản ngày mồng 6 tháng Hai năm Càn Long 55 có chép:

… 昨據福康安奏,湯雄業將安南國王阮光平寄阮宏匡等書信拆閱,係屬照例辦理。福康安因書已拆閱,其囑令使臣購買人参之事,未便作為不知,已偹参四兩,專繕照會,𤼵交湯雄業,委員馳送諒山等語。所辦俱好,向來外藩遞送書函進口,例由管轄大臣拆閱。

今湯雄業在彼駐劄,見阮光平有寄伊陪臣書信,不稍拘泥,照例拆閱,並將原書寄遞福康安等轉奏,尚為得體。至阮光平因伊母年老,氣體稍衰,意欲購覔人参,不敢遽行實告,而又料及所寄書信,必經內地拆閱,希冀奏達後,自必䝉恩賞賚。

阮光平殊屬巧於用心。福康安即給参四兩,俾該國王將母有資,安心入覲,雖與朕意符合,但人参為內地貴重之物,前於孫永清奏到時,朕已加恩賞給一觔,福康安又先酌給四兩,若似此有求必遂,無所節制,伊轉視為泛常,無及輕重。福康安亦不可不稍為留意,俾阮光平知人参實非易得,而天朝格外優賚,更可堅其向化之誠也。… [2]

Hôm qua theo lời tâu của Phúc Khang An thì Thang Hùng Nghiệp mở thư của An Nam quốc vương Nguyễn Quang Bình ra xem, ấy là theo lệ mà hành sự. Phúc Khang An thấy thư đã mở ra rồi, trong đó có dặn sứ thần tìm mua nhân sâm nên không tiện làm như không biết, đã lấy bốn lượng nhân sâm rồi viết thư gửi giao cho Thang Hùng Nghiệp để sai người đưa đến Lạng Sơn. Cách biện lý như thế rất tốt.

Trước nay phong thư ngoại phiên đưa lên qua cửa khẩu, theo lệ thì viên chức lớn ở quản hạt sẽ mở ra đọc. Nay Thang Hùng Nghiệp trấn nhậm ở đó, thấy Nguyễn Quang Bình gửi thư cho bồi thần, không chút câu nệ nên đã mở ra xem, rồi đem nguyên thư đệ lên Phúc Khang An để chuyển tâu lên, cũng là đúng thể thức.

Còn như Nguyễn Quang Bình vì mẹ y tuổi già, khí thể đã kém nên có ý tìm mua nhân sâm nhưng không dám trình thực lên mà cũng liệu được rằng thư y gửi qua ắt nội địa sẽ mở ra xem, tâu lên rồi sẽ được ban thưởng, quả là Nguyễn Quang Bình cũng khéo dụng tâm.

Phúc Khang An lập tức cấp cho bốn lạng nhân sâm để quốc vương phụng dưỡng mẹ ngõ hầu an tâm nhập cận, tuy phù hợp với ý trẫm nhưng nhân sâm là vật quí trọng của nội địa, trước đây khi Tôn Vĩnh Thanh tâu lên, trẫm đã gia ân thưởng cấp cho một cân rồi, Phúc Khang An lại tặng cho bốn lượng trước, tưởng như đã xin là được, không có gì khó khăn, e rằng y sẽ cho là một món tầm thường, không đủ phân biệt nặng nhẹ. Phúc Khang An không thể không lưu ý để cho Nguyễn Quang Bình biết rằng nhân sâm không phải là món dễ tìm mà đây là thiên triều ưu đãi vượt mức để cho càng thêm kiên định lòng thành hướng hoá.

Đây có thể xem như khởi đầu việc nhà Thanh cho phép nước ta gửi thư riêng khi phái đoàn đã ra khỏi Nam Quan, và sau đó đã trở thành tiền lệ. Khi phái đoàn Quang Trung sang Trung Hoa, việc thư từ qua lại trở nên thường xuyên hơn, coi như một đặc quyền mà vua Càn Long ban cho ngoại phiên.

ĐẶC TÍNH CỦA VIỆC CHO NƯỚC TA TRUYỀN TIN

Không kiểm duyệt

Ngay từ những ngày đầu tiên, khi phải gửi thư về nước ngày 24 tháng Tư, Càn Long 55, ba lá thư của vua Quang Trung nhờ tổng đốc Lưỡng Quảng Phúc Khang An, tuần phủ Quảng Tây Tôn Vĩnh Thanh chuyển giao. Những lá thư đó được sao lại và kèm theo tờ trình gửi lên vua Càn Long để báo cáo.

Trong chỉ dụ ngày 11 tháng Năm, vua Càn Long có viết:

Ngày 11 tháng Năm năm Càn Long 55 nhận được thượng dụ về một tờ triệp của Phúc Khang An [nói về việc] đưa Nguyễn Quang Bình đi đến Nam Ninh và tình hình trên đường, trong đó có sao lục thư của quốc vương gửi về Thăng Long, tất cả ba lá để trình lên. Việc như thế rất đúng, trẫm đọc lời tâu rất vui mừng.

Nguyễn Quang Bình nhiều lần được ơn, thành tâm cảm kích, từ khi nhập quan đến nay được mắt thấy đất đai thiên triều rộng lớn, thanh giáo tỏa ra khắp nơi cho nên rất hâm mộ trong dạ càng thêm khiếp sợ. Việc cung đốn ban thưởng đều hậu hĩ đúng mực, không việc gì không thể tuất ưu đãi nên tấm lòng bình thường hâm mộ văn vật Trung Hoa nay càng thêm xác thực.

Quốc vương đó tình hình rất vui vẻ cảm mến ấy cũng là do sự thành thực trong lòng nên thư viết trên đường đi gửi về cho Phan Văn Lân ba bức đều không dán kín, đủ biết quốc vương rất là chín chắn hiểu việc, mười phần cung cẩn mà lo liệu việc nước trong thư đều đâu ra đấy, lại kể rõ các ân điển và ưu đãi của thiên triều, hết lòng tôn kính không chỉ để khoa trương với thần dân mà còn để cho lòng người trong nước thấy thiên triều thi ân như vậy ắt sẽ càng thêm vui vẻ kính phục.

Xem ra Nguyễn Quang Bình dụng tâm chu đáo, có ý trấn phủ để được hưởng ân sâu của trẫm lâu dài thật đáng khen ngợi. Thế nhưng quốc vương kia nhập cận chúc thọ, đi về cũng phải mất đến tám, chín tháng nên việc quốc sự ắt phải qua lại thảo luận cũng như việc nhà thì phải tùy thời mà gửi thư. Nếu như nhất luật đều không được dán kín để tiện triển duyệt thì không phải là đạo tin tưởng người ở xa.

Vậy Phúc Khang An trên đường đi trước hãy cho biết thể chế thiên triều, phàm ngoại phiên trình đệ văn thư thì đều không được dán kín. Nay quốc vương đã được phong làm phiên thuộc, thành tâm nhập cận, đại hoàng đế đối với mọi người đều đãi bằng lòng nhân, không phân biệt trong ngoài, đã nhiều lần thi ân cho quốc vương chẳng khác gì cha con trong nhà.

Từ nay trở đi thư tín quốc vương gửi về nước và của bồi thần ở lại giữ nước gửi lên bẩm báo cho quốc vương không phải theo lệ mà không phải dán kín. Như thế nói rõ để dụ cho Nguyễn Quang Bình nghe được để càng thêm vui mừng đội ơn mà cũng hết nghi ngại.

Lại cũng nói rõ thêm là lần này nếu như Nguyễn Quang Bình có thư gửi về cho Phan Văn Lân, thì thể nào cũng có tờ bẩm gửi lại, Tôn Vĩnh Thanh nhận được nếu chưa dán kín, thì phải lập tức theo đường dịch mã giao lại cho Phúc Khang An để chuyển cho Nguyễn Quang Bình.

Còn như thư tín đã dán kín thì Tôn Vĩnh Thanh không nên chấp nê mà mở ra xem, hãy đem nguyên thư đệ giao. Tổng đốc Phúc Khang An cũng không nên mở xem mà hãy đưa cho Nguyễn Quang Bình mở, quốc vương là người cẩn thận biết việc sau khi đọc xong ắt sẽ chuyển trình lên Phúc Khang An xem vậy.[3]

Theo qui chế nhà Thanh tất cả những văn bản từ nước ngoài gửi lên triều đình đều không được dán kín để quan lại Trung Hoa xem xét có chỗ nào không thích hợp mà yêu cầu sửa đổi trước khi chuyển đi, nói chung là kiểm duyệt cả hình thức lẫn nội dung. Do đó theo nguyên tắc, thư từ nước ta dù gửi đến hay gửi về cũng phải để cho Phúc Khang An và Tôn Vĩnh Thanh đọc trước. Nay vua Càn Long cho nước ta đặc ân không phải để ngỏ là một ưu đãi khác thường.

Thư từ hai chiều

Cũng là lần đầu nước ta được gửi thư đến và chuyển thư đi. Từ trước tới nay, sau khi ra khỏi Nam Quan thì các sứ thần hoàn toàn bặt tin cho đến khi trở về nước. Gia quyến những người được cử đi sứ thường không chỉ coi như một cuộc sinh ly mà còn coi là tử biệt, lấy ngày đi làm ngày giỗ.

Vì không phải là quân báo nên không dùng đường dịch nhanh, tính ra thì từ Trung Hoa sang Thăng Long, tuỳ theo đường dài hay ngắn mà thời gian chuyển tin khoảng từ 20 đến 30 ngày, có khi lâu hơn nữa. Những chi tiết trong các thư từ qua lại tuy không chứa đựng những nội dung quan trọng nhưng đều ăn khớp với thực tế, giải quyết được một số nghi vấn lịch sử. Ngoài ra theo di văn từ những bồi thần đi theo, họ cũng có dịp gửi kèm thư nhà về nước.

Hoa trình hậu tập của Vũ Huy Tấn thấy có thư trả lời Ngô Thì Nhậm (Võ Xương công quán, hồi gián Binh bộ Ngô đài huynh, Mạc Khẩu lữ thứ ký Binh bộ Ngô đài huynh), thư gửi Ninh Tốn (1744-1790)[4] (Quế Lâm lữ thứ hồi ký Ninh huynh Hy Chí, họa tiền thi vận), Tinh Tra Kỷ Hành của Phan Huy Ích thấy có thư gửi Ngô Thì Nhậm (Võ Xương dịch thứ, phụ quốc thư ký Ngô Binh bộ)… Những lá thư này đều gửi kèm theo quốc thư khi vua Quang Trung liên lạc với trong nước.

Việc thông báo đó dù hiếm hoi nhưng cũng là những biến động lớn vì xưa nay nước ta chưa từng được ưu đãi như thế bao giờ.

TÓM TẮT CÁC THƯ QUA LẠI TRONG CHUYẾN CÔNG DU NĂM CANH TUẤT

STT Ngày gửi Người gửi Nơi gửi Người nhận Nơi nhận Ghi chú nguồn
1 Ngày 24 tháng Tư, Càn Long 55. Nguyễn Quang Bình Nam Ninh Phan Văn Lân, Nguyễn Văn Danh, Ngô Thì Nhậm Thăng Long Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc, số hiệu 039379-0 (Quân Cơ Xứ, Nguyệt Triệp Bao, hòm tài liệu số 2778, phong bì 163, số hiệu 3911 theo Trang Cát Phát)
2 Ngày 24 tháng Tư, Càn Long 55. Nguyễn Quang Bình Nam Ninh Nguyễn Văn Diệu, Trần Văn Thận Nghệ An Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc, số hiệu 039379-0
3 Ngày 24 tháng Tư, Càn Long 55. Nguyễn Quang Bình Nam Ninh Phạm Công Hưng, Trần Chánh Kỷ Phú Xuân Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc, số hiệu 039379-0
4 22 tháng Năm, Càn Long 55. Nguyễn Quang Bình Nguyễn Quang Thuỳ Thăng Long DVQT, quyển VI, 6.6 tr. 362-4

v/v ban thưởng ngọc như ý

6 29 tháng Bảy, Càn Long 55. Nguyễn Quang Bình Viên Minh Viên (Bắc Kinh) Nguyễn Quang Toản Phú Xuân DVQT, quyển VI, 6.43, tr. 411-4

v/v được phong thế tử

7 15 tháng Chín, Càn Long 55. Nguyễn Quang Thuỳ Thăng Long Nguyễn Quang Bình Hồ Nam Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện (Đài Bắc): Quân Cơ Xứ Đáng Triệp Kiện, số hiệu 045795-a v/v Nguyễn Quang Thuỳ tạ ơn được ban cho ngọc như ý.
8 [15] tháng Chín, Càn Long 55. Phan Văn Lân Thăng Long Nguyễn Quang Bình Hồ Nam Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện (Đài Bắc): Quân Cơ Xứ Đáng Triệp Kiện, số hiệu 046052-a v/v hải phỉ và bình định dư đảng nhà Lê.

Theo thời gian chúng ta thấy khi phái đoàn Quang Trung sang đến Quảng Tây và vì Nguyễn Quang Thùy bị bệnh, Nguyễn Quang Bình đã sai Phạm Công Trị (cháu vua Quang Trung người mà sử triều Nguyễn vẫn nhận lầm là vua Quang Trung giả) và (thiếu bảo) Nguyễn Văn Danh hộ tống quay về Thăng Long.

Một thời gian không lâu sau đó (khi vẫn còn ở Quảng Tây và mới ra khỏi Nam Quan độ mươi ngày), ngày 24 tháng Tư năm Càn Long 55, vua Quang Trung đã gửi về ba lá thư cho ba trung tâm hành chánh – quân sự chính của An Nam. Đó là Thăng Long do Phan Văn Lân lưu thủ có con trai thứ là Nguyễn Quang Thùy làm tiết chế, địa điểm thứ hai là Nghệ An do Nguyễn Văn Diệu[5] trấn thủ, có Nguyễn Văn Thận phụ tá. Nghệ An còn có một người con của Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Bàn, còn gọi là ông Hoàng Thùng, làm tiết chế. Lá thư thứ ba gửi về Phú Xuân (tức Thuận Hoá) cho Nguyễn Quang Toản, còn gọi là ông Hoàng Trát, là con trưởng (dòng đích) và trên danh nghĩa thay mặt vua Quang Trung trị nước có hai lưu kinh đại thần là Phạm Công Hưng và Trần Chánh Kỷ[6].

Cả ba lá thư đều viết chung chung về việc phòng vệ và an ninh vì vua Quang Trung mới rời nước chưa lâu nhưng chủ yếu có lẽ để thông báo là ông an toàn và đánh tan [nếu có] những tin thất thiệt về ác ý và âm mưu của nhà Thanh đối với triều đình Tây Sơn.

Cũng nên thêm, theo tài liệu còn lưu lại, trong dư luận vẫn có một nguồn tin của nhóm nhà Lê cho rằng đây chỉ là kế điệu hổ ly sơn để khi Nguyễn Huệ ra khỏi nước thì quân Thanh sẽ ba mặt giáp công đánh xuống Thăng Long, Nghệ An (đường bộ) và Phú Xuân (đường biển) nên những lá thư này cũng là một cách vô hiệu hoá những lời đồn vô căn cứ này.

Một hiểu lầm của vua Càn Long khi nghe tin Nguyễn Quang Thùy đi cùng lại tưởng rằng đây là con trưởng nên đã mau mắn phong cho Nguyễn Quang Thùy làm thế tử. Thế tử là danh hiệu dành cho người thế tập của quốc vương nước nhỏ hay con trưởng của thân vương trong triều đình nhà Thanh. Danh hiệu đó đã khiến vua Quang Trung phải thanh minh rằng Nguyễn Quang Thùy chỉ là con thứ, Nguyễn Quang Toản mới là con thừa tự đang ở Phú Xuân và vua Càn Long phải sửa đổi để ban xuống một sắc dụ mới phong cho Nguyễn Quang Toản làm thế tử.[7]

Tuy nhiên những quà cáp mà vua Càn Long ban cho Nguyễn Quang Thùy không phải trả lại nên vua Quang Trung đã nhân dịp này gửi ngọc như ý mà vua Càn Long ban thưởng để chúc phúc cho mau bình phục kèm một lá thư của chính ông hỏi thăm bệnh tình của con trai. Đó là lá thư gửi về Thăng Long đề ngày 22 tháng Năm.

Tháng Bảy năm đó, khi vua Quang Trung và phái đoàn đang tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ thì ở công quán tại Viên Minh Viên, ông cũng viết một lá thư khá dài tường thuật những việc đã xảy ra. Lịch trình này hoàn toàn ăn khớp với đại lễ của nhà Thanh trong các tài liệu cung đình và cũng có thêm một số chi tiết làm sáng tỏ vai trò của phái bộ nước ta khi ra ngoài.

Ngoài những thư từ phái đoàn gửi về, chúng ta lại thấy có những lá thư trong nước gửi ra, bao gồm tin tức qua lại lẫn văn thư hành chánh, quốc phòng do Phan Văn Lân, Nguyễn Quang Thùy tấu báo về những công tác tiễu phỉ và dẹp loạn. Nhiều tài liệu rải rác cũng đề cập đến những nhóm thân Lê mưu định nổi dậy trong thời gian từ tháng Tư đến tháng Mười năm Canh Tuất (1790), trùng hợp với thời gian vua Quang Trung và phái đoàn sang Bắc Kinh. Những chi tiết trong đó tuy không nhiều nhưng cũng phản ảnh được tình hình chung lúc bấy giờ, xác định được cơ cấu tổ chức của nhà Tây Sơn và tên của một số võ tướng, văn thần vốn dĩ vẫn chỉ tồn tại trong tài liệu triều Nguyễn, việc đúng sai chưa bao giờ bàn cãi.

Hoàng Xuân Hãn trong “Phe Chống Đảng Tây-Sơn ở Bắc với tập Lữ Trung Ngâm” [Tập san Sử Địa Saigon số 21 (1971), chủ đề 200 năm phong trào Tây Sơn] trang 11-12 viết:

(bắt đầu trích) …Tháng tư năm sau, Canh-tuất (1790), Huy-Dao thảo bức thư lấy lời Bồng [Trịnh Bồng tức Yến Đô Vương] gửi cho Duy-Chỉ ở Bảo-lạc (ở biên thuỳ Hà-giang ngày nay) đề nghị “phàm cơ-nghi đánh dẹp cùng nhau hiệp-đồng thương nghị”. Bấy giờ Bồng lại tự coi mình là chúa, ban cho ông chức nhập thị. Duy-Chỉ trả lời chấp thuận; lấy danh-nghĩa nhà Lê mưu phục quốc. Huy-Dao thảo các văn tế Trời Đất, tế Bách-thần, tế các vua trước và tế các chúa trước.

Vào tháng mười một (Một), ông thay lời Hoàng-đệ Duy-Chỉ viết các hịch bằng văn nôm: dụ các người trung nghĩa (ở Bắc), dụ phiên-thần các xứ, dụ hai xứ Thanh Nghệ. Bấy giờ sự kháng-địch coi chừng có tổ-chức. Ông theo lệnh truyền mật chỉ cho các người cần-vương chung quanh Kinh đô. Ông ghi rõ rằng:

Về văn ban, quan tham-tụng cũ Tứ-xuyên hầu (Phan Huy-Phiên hoặc Trọng-Phiên, quê Đông-ngạc cạnh hồ Tây) được nhận hai mươi hốt bạc; các quan đốc-đồng Nguyễn Duy-Khiêm, Lê Công-Thạc, Lê Đăng-Cử đều nhận được mật-chiếu. Về vũ-ban, Quản-vũ hầu ở đạo Bắc, Can-vũ hầu ở đạo Đông, Vạn-vũ hầu (con Hoàng Phùng Cơ) ở đạo Tây đều nhận được mật-chỉ. Diễn-trung hầu, Hoa-đình hầu, Vĩnh-trung hầu thì được vi-thần (tiếng nói khiêm trỏ mình, nghĩa là tôi mọn) trực-tiếp trao mật-chỉ làm nội ứng (ở Thăng-long).

Từ tháng mười năm ấy (Canh-tuất 1790), Trịnh Bồng náu ở huyện An-sơn, phía tây Thăng-long để lo sự đánh úp thành nầy. Nhưng sau khi giao quyền cho Huy-Dao và các bầy tôi khác tổ-chức, lại đi vùng thượng-du, rồi đầu năm sau (Tân-hợi [tác giả Hoàng Xuân Hãn viết nhầm là Tân-dậu] 1791, chừng tháng giêng) mất tại Cao-lăng. Tin ấy vừa đưa về thì cuộc âm-mưu tập-kích Thăng-long bị lộ vì Tín-vũ hầu làm việc không kín. Nhiều đồ-đảng bị hại… (hết trích)

Lẽ dĩ nhiên, các sự việc trong thư có thể không hoàn toàn chính xác vì được viết trong môi trường ngoại giao (và cũng không biết ai là tác giả thực của những lá thư này) nhưng ít nhiều nêu ra những nét chính, đánh tan những lập luận tưởng tượng của nhiều người về tình hình miền bắc lúc đó. Những chi tiết mà người ta hư cấu sau này phần nhiều khởi nguồn từ các nhóm thân Lê, thân Nguyễn luôn luôn miêu tả một cách chủ quan. Dù sao chăng nữa, một số sự kiện được ghi lại tại chỗ cũng bổ túc cho nhau và khi nối kết nhiều nguồn, chúng ta có được một bức tranh toàn cảnh tương đối chi tiết và linh động.

Dịch Trạm

Ngay từ thời thượng cổ, người Trung Hoa đã thiết lập một hệ thống truyền tin, chủ yếu là chuyển giao các văn thư và mệnh lệnh hành chánh của triều đình, người thường muốn thông tin cho nhau thì không gì khác hơn là sai hay nhờ người chuyển. Công văn nếu do người chạy bộ chuyển đi thì gọi là bưu (郵), còn chạy bằng ngựa thì gọi là dịch (驛), đời Chu gọi chung là bưu dịch (郵驛), đời Tần Hán gọi là bưu hay đình (亭), đời Tùy Đường gọi là dịch (驛), đến đời Nguyên gọi là dịch trạm (驛站).

Những văn thư khẩn cấp – mà hiện nay ta gọi là hỏa tốc – cũng theo từng thời kỳ có tên gọi khác nhau, đời Hán gọi là bôn mệnh thư (奔命書), đời Tống gọi là cấp cước đệ (急腳遞). Những công văn đó đời nhà Thương dùng xe do ngựa kéo để chuyển gọi là nhật (馹) hay truyền (傳), nếu như cưỡi ngựa chuyển đi thì gọi là đệ (遞) hay dịch (驛).

Sang đời Chu, triều đình thiết lập trên những đường cái và trục lộ lớn cứ mỗi 30 dặm lại dựng một nhật trí (馹置) hay dịch trạm (驛站) (trạm chuyển tin) và sang đời Tần, Hán thì hệ thống này mở rộng ra toàn quốc thành một mạng lưới khá phức tạp. Tại mỗi dịch trạm triều đình chuẩn bị sẵn ngựa tốt (khoái mã) và dịch lại (驛吏) (tức người chạy thư), khi đem thư đi tới trạm kế tiếp thì phải cầm theo một thẻ bài làm giấy phép thông hành, vừa để các nơi họ đi qua có thể kiểm nghiệm, vừa có thể yêu cầu giúp đỡ phương tiện khi cần.

Thẻ bài này cũng theo từng thời kỳ một khác, đời Chu dùng thẻ tre hay thẻ đồng, đời Tần Hán dùng thẻ đồng, đời Đường dùng thẻ bạc hay giấy còn sang đời Tống Nguyên thì dùng thẻ gỗ [mộc bài]. Nếu ngựa cưỡi bị mệt hay yếu, người đưa thư có thể xin đổi ngựa tại các dịch trạm. Cũng nên thêm, trước khi phát minh ra giấy [đời Hán], công văn cũng được chép trên thẻ tre, thẻ gỗ hay trên lụa. Lịch sử chép rằng bôn mệnh thư đời Hán trên ống có viết lại mã trì hành (吏馬馳行) bỏ trong túi màu đỏ hoặc màu trắng do người đem đi bằng ngựa chạy nhanh.

Đời Đông Hán, trái vải từ phương Nam được chạy ngựa đưa lên kinh đô nhưng về sau thấy quá tốn phí về cả người lẫn ngựa nên phải bãi bỏ. Sang đời Đường, hệ thống dịch trạm đã được hoàn thiện nên tốc độ chuyển tin cũng nhanh hơn, văn thư khẩn cấp đạt tới mức trên 300 dặm một ngày (khoảng 126 km). Khi An Lộc Sơn nổi loạn, Đường Huyền Tông đang ở Thiểm Tây (陝西) cách kinh đô 3.000 dặm mà tin đến nơi chỉ mất 6 ngày, tính ra một ngày chạy được 500 dặm. Qua đời Tống, triều đình đặt ra cấp cước đệ là cách chạy tiếp sức suốt ngày đêm gồm bốn hạng: bộ đệ [chạy bằng chân], mã đệ [chạy bằng ngựa], cấp cước đệ và kim tử cấp cước đệ.

Người phu trạm đưa tin chạy bằng chân thì cầm theo thẻ viết chữ màu xanh [青字牌: thanh tự bài), chạy bằng ngựa thì dùng thẻ chữ màu đỏ (紅字牌: hồng tự bài) là cách chuyển loại công văn thường. Hai hạng còn lại dùng riêng cho công văn khẩn cấp dùng thẻ chữ màu vàng (金字牌: kim tự bài). Người phu trạm cưỡi ngựa chạy trên đường, ban ngày thì ngựa đeo lục lạc, ban đêm thì đốt đuốc soi đường, ai trông thấy nghe thấy đều phải tránh xa, nếu bị đụng ngã hay chết không chịu trách nhiệm. Việc chạy trạm suốt ngày đêm, gió mưa không nghỉ, mỗi trạm thay ngựa một lần, vài trạm thay người một lần là việc vừa tốn kém, vừa khó khăn nên kim tử cấp cước đệ đặc biệt chỉ dùng trong lệnh lạc quân sự của nhà vua mà thôi, bình thường không dùng tới.

Đến đời Nguyên, Trung Hoa đã hình thành một hệ thống quân báo quy mô, trên toàn quốc thiết lập 1.380 chỗ, ngoài dịch trạm lại có thêm phô (舖) để truyền đạt tin tức khẩn cấp. Sang đời Minh, triều đình giữ y nguyện hệ thống báo cáo đời Nguyên.

Quân Báo Đời Thanh

Sang đời Thanh, cơ cấu bưu dịch đã hoàn bị. Theo Đại Thanh hội điển [in đời Quang Tự], quyển 51 thì những nơi nào có đặt bưu trạm thì tùy nơi mà gọi là bưu, dịch, trạm, đường (塘), đài (台), sở (所) hay phô (舖), tùy đường mà đặt, có chuẩn bị phu, ngựa, xe và kinh phí để lo liệu, cuối năm thì khóa lại. Bên trong nội địa các bưu trạm gọi là dịch, nếu dùng để chuyển văn thư quân sự thì gọi là trạm. Những nơi biên viễn xa xôi thì lập quân đường (軍塘), quân đài (軍台). Trên toàn quốc, cộng chung các loại dịch, trạm, đài, đường là 1.791 nơi chưa kể các tỉnh những nơi trù mật như sảnh, châu, huyện cũng có các phô ty (舖司) để chuyển công văn gấp khi cần đến, tính chung lên đến 13.833 phô sở.

Tùy theo tỉnh mà thiết lập nhiều hay ít trạm, tùy theo phương tiện giao thông mà dùng ngựa, lừa, trâu bò, thuyền, lạc đà… Theo thống kê của Mã Sở Kiên trong Trung Quốc cổ đại bưu dịch chương “Thanh đại dịch truyền thuật lược” (Đài Loan thương vụ, 1999) tr. 574-575 thì phu dịch trên toàn quốc lên đến hơn 8 vạn người đủ biết nhà Thanh đã có một hệ thống truyền tin rất quy mô.

Dịch trạm có những nhiệm vụ sau đây:

– Cung sai (供差). Khi các quan lại đi ra ngoài do việc công trở về kinh đô có thể dùng bưu phù đưa đến các dịch trạm để sử dụng phu trạm, ngựa, xe, thuyền và lương thực. Bưu phù (郵符) cấp cho các quan gọi là khám hợp (勘合) còn cho binh lính lại dịch thì gọi là hỏa bài (火牌). Các trạm sẽ xem xét nếu khám hợp, hỏa bài đúng thể lệ, cách thức sẽ tùy theo quy định mà cấp cho. Nếu như có quan đi ngang qua khu vực mình, nếu cần thì cũng phái binh lính hộ tống, xem xét binh bài mà cử người đi theo.

– Chuyển công văn. Tiệp báo xứ là cơ quan ở Bắc Kinh tiếp nhận tấu triệp từ các tỉnh, giao cho Tấu sự xứ chuyển lên. Quân cơ xứ gửi đi các ký tín, dụ chỉ và châu phê tấu triệp cho các tỉnh thì Tiệp báo xứ gói lại cẩn thận giao cho dịch trạm đưa đi. Các ông văn chạy ngựa đều có cầm theo hỏa tiêu của bộ Binh để quy định nhanh chậm. Nếu công văn do Quân cơ xứ đưa đi do chạy ngựa thì hạn một ngày phải chạy được 300 dặm. Nếu như cần phải giao nhanh hơn thì tùy loại mà 400, 500 hay 600 dặm. Đi đến trạm nào tùy theo hỏa tiêu của bộ Binh mà tiếp tục gửi đi theo tốc độ đó.

Các công văn thường của đốc phủ không phải là việc quân sự gấp gáp thì sẽ do binh phu của đường phô chuyển đi gọi là phô đệ (舖遞), thường chỉ từ 100 đến 300 dặm một ngày. Các loại văn thư từ bên ngoài gửi lên triều đình cũng tùy theo quy định mà chuyển đi.

Công văn tùy theo loại mà dùng báo hạp (tráp), giáp bản (ván kẹp), ấn hoa hay ấn phong. Tấu thư của đốc phủ được bỏ trong tráp (báo hạp – 報匣) là đồ được nhà vua ban riêng cho từng người, khi đổi đi nơi khác cũng mang theo. Người tiếp nhiệm nếu chưa từng được ban thưởng loại tráp này thì phải trình lên để xin được cấp. Tùy loại văn thư, mỗi loại có cách thức gửi riêng để bảo đảm độ mật.

Từ kinh đô xuống các tỉnh có 8 lộ trình chính gọi là “bát điều chủ mạch”. Thư từ Bắc Kinh sang nước ta thì phải theo đường Nam Trung Lộ qua Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Tây.

Trích từ Nguyễn Duy Chính: Phái đoàn Đại Việt và lễ Bát Tuần Khánh Thọ của Thanh Cao Tông (VH-VN, 2016) tr. 408=411

 

Lộ trình phái đoàn Tây Sơn sang tham dự lễ Bát Tuần Khánh Thọ năm Canh Tuất (1790)

(trích từ Bát Tuần Khánh Thọ, 2016 sđd. tr. 258)

Ngày 24 tháng Tư (Giáp Tuất) tại Nam Ninh, một thị trấn vốn được gọi là tiểu Nam Kinh, phái đoàn Quang Trung có viết ba lá thư (không dán kín) nhờ chuyển theo đường trạm về Nam Quan. Phúc Khang An trong dịp này tâu lên về tình hình đi đường, cả việc chuyển thư và sao lục ba lá thư đó gửi về triều.

Bản sao ba lá thư (1, 2 và 3) của vua Quang Trung từ Nam Ninh gửi về Thăng Long, Nghệ An và Phú Xuân được sao dịch ở dưới[8]

SỐ 1

THƯ VUA QUANG TRUNG GỬI VỀ THĂNG LONG NGÀY 24-THÁNG TƯ-CL 55

 

1.令示昇隆城留守內侯大都督潘文璘, 少保阮文名, 兵部尚書吳時任及文武諸臣等遵知

我仰荷大皇帝恩寵, 無階報答, 今躬親瞻覲, 本出至誠, 萬里馳驅, 不以為逺。

進關以後, 䝉爵閣部堂, 撫部院與列位官長事事照顧, 凡行次所需輿馬, 船艙並飲食品料, 莫不極其豐華, 扈隨人貟各各妥適。

舟程現抵南寧府城, 回盼雲山瞭然在念, 月前唘行, 一切國情曾與卿等諄囑。

居守之任, 鎖鑰攸關, 其綏撫保寧之畧, 隄防經理之宜, 應禀遵教令叶力奉行, 務俾十分妥當。

仍細心採訪四鎮地方及外鎮兵民情獘如何, 一一飛驛唘知, 慰我厪注。

兹令示

再者王子回國何日到城, 一路康吉何似, 併書飛遞唘知。

乾隆五十五年, 四月, 二十四日

Lệnh gửi cho lưu thủ thành Thăng Long là nội hầu đại đô đốc Phan Văn Lân, thiếu bảo Nguyễn Văn Danh, binh bộ thượng thư Ngô Thì Nhậm và các bầy tôi văn võ biết mà thi hành

Ta trông lên ân sủng to lớn của đại hoàng đế, không cách gì báo đáp được, nay khom mình chiêm cận, vốn từ lòng chí thành nên dù vạn dặm ruổi rong cũng không thấy thế là xa.

Sau khi tiến quan (qua khỏi Nam Quan), nhờ được công tước các bộ đường (tổng đốc Lưỡng Quảng), tuần phủ bộ viện (tuần phủ Quảng Tây) cùng với các vị quan lại mọi việc chiếu cố, từ việc đi đường đến các món cần dùng, kiệu khiêng, ngựa cưỡi, khoang thuyền, đồ ăn thức uống, không thứ gì là không cực kỳ đầy đủ, xa hoa, những người cùng đi ai nấy đều thoả thích.

Đường thuyền đi hiện nay đã đến phủ thành Nam Ninh, trông về mây núi thấy lòng nhung nhớ, những tháng sắp tới ở trên đường đi, mọi việc trong nước thì cũng đã dặn bảo các khanh cả rồi.

Nhiệm vụ cư thủ, các sách lược đóng mở, vỗ về để giữ an ninh, quyền nghi phòng ngừa sửa sang, thì hãy cùng nhau tuân theo những điều đã chỉ dạy để mà cùng nhau hợp lực thi hành, cốt sao để mười phần thoả đáng.

Vậy hãy lưu tâm xem xét các nơi bốn trấn và binh dân ngoại trấn xem tình hình thế nào, nhất nhất gửi khải theo đường dịch cho ta biết để cho ta bớt lo ngại.

Nay ra lệnh.

Lại thêm nữa vương tử về nước ngày nào đến được Long thành, đường đi có an khang không thì cũng viết cho biết luôn thể.

Càn Long 55, ngày 24 tháng Tư.

SỐ 2

THƯ VUA QUANG TRUNG GỬI VỀ NGHỆ AN NGÀY 24-THÁNG TƯ-CL 55

2.令示義安城留守大都督阮文耀, 協鎮陳文慎及文武諸臣等遵照

本月十五日, 自鎮南關進程北上。二十四日至南寧府, 䝉爵閣部堂, 撫部院及列位大人, 仰體大皇帝綏懷德意, 一路舟車陪伴, 供給賞賜儀物極優。

此行恭祝聖壽, 叩謝天恩, 往回約有半年上下, 境內兵民專賴卿等管理。近來本轄民情靜帖如何, 藩屬諸牢遵禀如何, 並宜具唘飛遞, 庶慰逺懷。

至於綏撫調馭之方, 具在留教勉各遵照, 務俾十分妥當。

慎哉!兹令示。

乾隆五十五年, 四月, 二十四日

Lệnh cho lưu thủ thành Nghĩa An là đại đô đốc Nguyễn Văn Diệu, hiệp trấn Trần Văn Thận và các bầy tôi văn võ để tuân theo

Ngày 15 tháng này [tháng Tư], từ Trấn Nam quan theo đường lên phương bắc. Ngày 24 đến phủ Nam Ninh, được mong nhờ công tước các bộ đường (tổng đốc Lưỡng Quảng), phủ bộ viện (tuần phủ Quảng Tây) và liệt vị đại nhân, trông lên đức ý vỗ về thương xót của đại hoàng đế nên trên đường thuyền xe bầu bạn, cung cấp các món thật là ưu hạng.

Lần này đi cung chúc thánh thọ, khấu t thiên ân, cả đi lẫn về phải trên dưới nửa năm, đất đai trong vùng đều dựa vào các ngươi trông coi. Gần đây tình hình dân chúng bản hạt yên tĩnh thế nào, phiên thuộc các nơi tuân theo ra sao, mọi thứ hãy viết khải gửi lên, để cho ta ở xa đỡ khắc khoải.

Còn như việc vỗ về sắp xếp thì ta cũng đã dặn dò để lại rồi không phải trình bày, cốt sao mười phần thoả đáng.

Hãy cẩn thận. Nay lệnh gửi đến.

Càn Long năm 55, ngày 24 tháng Tư.

SỐ 3

THƯ VUA QUANG TRUNG GỬI VỀ PHÚ XUÂN NGÀY 24-THÁNG TƯ-CL 55

  1. 3. 令示富春城留守太尉范公興, 中書令陳正紀[3]及文武諸臣等

我深䝉大皇帝恩施, 無可仰答, 輒此趨程覲, 兾表寸虔。

本月十五日進關, 重荷爵閣部堂, 撫部院及列位官長, 優待有加, 莫可名報。

二十四日已到南寧府城, 幸藉龍光, 一路康好。

惟本國自前月以來, 逺近民物宴帖何似?𨽾屬諸番禀遵何似?根本之地, 我甚懸念焉。卿等職在居守, 宜一一聲叙, 飛遞唘知, 庶慰逺懷。

至撫綏調馭之方, 防範綱維之術, 自當遵照留教奉行, 務得十分受當。如我親在董勸, 用違國有常典。

慎哉!兹令示。

乾隆五十五年, 四月, 二十四日

Lệnh gửi cho lưu thủ thành Phú Xuân là thái uý Phạm Công Hưng, trung thư Trần Chánh Kỷ và chư thần văn võ.

Ta chịu ơn sâu của đại hoàng đế ban cho, không thể không trông lên báo đáp nên đã lên đường chiêm cận để tỏ tấc lòng thành.

Ngày 15 tháng này tiến quan, được ơn nặng của công tước các bộ đường, phủ bộ viện và liệt vị quan trưởng hết lòng ưu đãi, không biết báo đáp cách nào.

Ngày 24 đã đến Nam Ninh phủ thành, may mắn được nhờ ơn thiên tử nên trên đường mọi sự tốt đẹp.

Còn nước ta từ tháng trước đến nay, dân chúng xa gần việc yên ổn thế nào? Các xứ phiên lệ thuộc có theo hay không? Nơi vùng đất gốc rễ là nơi ta rất là khắc khoải.

Các khanh lo việc cư thủ, vậy mọi việc hãy nhất nhất trình rõ lên, gửi khải lên báo cho ta biết để cho ở xa lòng bớt quan hoài.

Còn như phương lược vỗ về điều ngự, kỹ thuật phòng phạm cương vực, thì hãy tuân theo các điều đã dặn lại mà làm, để sao cho mọi phần thoả đáng. Nếu như ta đích thân lo liệu giám sát thì e vi phạm thường điển.

Hãy cẩn thận. Nay gửi lệnh đến.

Càn Long 55, ngày 24 tháng Tư.

Như trên đã nói, ba lá thư này được Phúc Khang An sao lại gửi về triều nay còn trong kho tài liệu của Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc (Thanh Đại Đáng Án Kiểm Sách Hệ Thống; Quân Cơ Xứ Đáng Triệp Kiện), văn kiện số hiệu 039379-0.

SỐ 4

THƯ VUA QUANG TRUNG GỬI NGUYỄN QUANG THUỲ NGÀY 22-THÁNG NĂM-CL 55

令示王子阮光垂遵知。我赶程進覲, 蒙公中堂與列位官長, 仰體大皇帝鴻恩慈, 凡供給宴餞之儀, 塈從優厚。舟輿所經。均覺妥適。毋勞兒輩懸眄。

爾自幕營囬國以來, 興居動履如何。我寔睠睠于衷。昨在廣州省城。欽奉諭旨鑒爾瞻就真情。特賜封爲世子。並賞御用大小菏包, 香器各種。

我捧讀恩綸, 無任感激。惟念爾兄光纘。序居冢嫡。我國世子名位已定。爾以次第, 豈宜越分受封。旣已具表推辭。候奉繳旨。

玆於南雄途次。再奉接引御賜賞爾玉如意並綵幣各色。著令派員賚囬交爾領受。俾爾歡喜安痊。再取具書馳赴。

仰惟聖恩浩蕩。家世均霑。乃古今希奇之遇。爾在穉齡亦[6/6/364]當知感, 爰委都指揮使智畧侯陳有和賫遞御賜品物出關, 刻日囬昇龍城。

爾其敬恭跪受, 什襲珍藏, 永為美祥吉慶。仍即將近來寧好消息, 具繕啟札, 交陳有和馳遞進關, 跟我行次, 以慰厪懷。

爾在昇龍城與兄們乆別, 必思南旋。現在舊恙已清, 聽撥起護衛兵役囬富春城, 隨同爾兄光纘奉守祭官禮節。

慎哉!

兹令示。

乾隆五十五年、五月、二十二日

《大越國書, 册6, [6], 頁7b-8b》

Nay lệnh cho vương tử Nguyễn Quang Thùy biết rằng:

Ta trên đường tiến cận, được công trung đường (tức Phúc Khang An là người được vua Càn Long sai cùng đi với vua Quang Trung, chữ gọi là bạn tống) cùng các vị quan trưởng thể theo lòng nhân từ bao la của đại hoàng đế nên mọi việc cung ứng ăn uống rất là hậu hĩ. Thuyền kiệu đi qua đâu đều rất thoải mái, các con không phải lo lắng gì cả.

Con từ khi ở nơi màn doanh về nước thì ăn ngủ ra sao? Ta thật lấy làm vương vấn. Hôm trước ở nơi tỉnh thành Quảng Châu ta nhận được dụ chỉ hoàng đế xét thấy chân tình chiêm cận của con nên đặc biệt phong cho ngươi làm thế tử, lại thưởng cho ngự dụng hà bao lớn nhỏ và hương khí các món.

Ta nâng đọc ân luân, hết sức cảm kích nhưng nghĩ đến anh con là Quang Toản, theo thứ tự thì là dòng chính, danh vị thế tử của nước ta đã định rồi, còn con là em thứ, đâu có thể vượt phận mà thụ phong cho nên lập tức dâng biểu khước từ, đang đợi chỉ trả lời.

Đến khi đang đi trên đường ở Nam Hùng, lại nhận được đồ nhà vua ban cho ngươi ngọc như ý và tơ lụa các màu, ra lệnh sai người mang về giao cho con nhận lãnh để ngươi vui vẻ mà chóng khỏi rồi phải gửi thư trở lại ngay.

Trông lên ơn thánh thượng lồng lộng, các đời nhà ta đều được thấm nhuần, thật là xưa nay hiếm gặp tuy ngươi tuổi còn nhỏ cũng đã biết rồi. Vậy nên sai đô chỉ huy sứ Trí Lược Hầu Trần Hữu Hoà mang các phẩm vật vua ban xuất quan, chỉ ít ngày sẽ đến thành Thăng Long.

Ngươi phải cung kính quỳ nhận, giữ như của quý để mãi mãi hưởng điều tốt đẹp may mắn. Ngươi cũng đem tin tức gần đây sức khỏe thuyên giảm thế nào viết khải gửi lên giao cho Trần Hữu Hòa đem gấp tiến quan theo đường đi của cha để cho ta khỏi lo lắng.

Ngươi ở Thăng Long cùng các anh lâu ngày cách biệt chắc cũng mong được về nam. Hiện nay bệnh cũ đã bớt thì hãy sắp xếp hộ vệ binh dịch trở về thành Phú Xuân, cùng anh con là Quang Toản trông coi việc lễ nghi tế tự.

Cẩn thận giữ gìn.

Nay ra lệnh bảo cho biết.

Càn Long năm thứ 55, ngày hai mươi hai (22) tháng Năm.

(DVQT, quyển VI, tr. 7b-8b.)

SỐ 5

LỆNH GỬI CHO NGUYỄN QUANG TOẢN NGÀY 16-THÁNG SÁU- CL 55

發囬國書

令示世子阮光纘遵知

兹欽奉大皇帝俯鑒我恭順悃忱, 覃施恩寵, 以及後昆, 降㫖封爾為安南國世子, 命閣臣撰勅, 俟我到京時頒給。

再奉恩賞玉如意一柄、大荷包一對、小荷包二對、紗四端、茶葉二瓶、扇一匣、香器一匣、藥錠二十對。

前次頒給爾弟光垂之例, 我即於行次領受, 具表陳謝。仰惟聖恩浩蕩, 家世均霑, 當知歡忭感激, 永敦忠欵。

爾在髫齡, 勉當遵奉訓規, 膺受寵數, 以延我國家之愆休。先此具將御賜品物各項, 委前差使臣道善侯黎伯璫等順賫囬國, 交爾接領。

該使臣賫到國城, 爾其整飭儀衛, 遮道迎接, 仍向闕焚香叩跪捧受, 十分恭謹。

且著各處留守官員並行傳播恩賜事情, 俾通國臣民舉同歡慶, 以繫人心重國統。

慎哉!

兹令示。

乾隆五十五年、六月、十六日

《大越國書, 册6, [31], 頁23a-23b》

Thư gửi về nước

Nay ra lệnh cho thế tử Nguyễn Quang Toản biết mà tuân theo.

Khâm phụng đại hoàng đế cúi xét cho lòng thành thực cung thuận của ta nên thi ân rộng rãi đến cả con cháu, đã giáng chỉ phong cho ngươi làm thế tử nước An Nam, ra lệnh cho các thần (quan trong Nội Các) soạn sắc, đợi khi ta đến kinh đô sẽ ban cho.

Hoàng thượng lại thưởng cho một thanh ngọc như ý, một đôi đại hà bao, hai đôi tiểu hà bao, bốn tấm lụa, hai bình trà diệp, quạt một hộp, hương khí một hộp, dược đĩnh (thuốc viên) hai chục đôi.

Lần trước ban cấp cho em ngươi Quang Thùy ta đã theo lệ trên đường đi nhận lãnh rồi lập tức dâng biểu trần tạ. Vì chưng hoàng ân lồng lộng cả nhà ta đời này sang đời khác đều được thấm nhuần để hoàng thượng biết rằng cha con ta vui mừng cảm kích, mãi mãi trung thành.

Ngươi đang còn trong tuổi ấu thơ, hãy hết sức tuân theo huấn quy, để được ân sủng nhiều hơn nữa, đất nước ta được hưởng thanh bình lâu dài. Vậy nên ta đem các món ngự tứ phẩm vật ủy cho sứ thần trước đây sai đi là Đạo Thiện Hầu Lê Bá Đang (道善侯黎伯璫 ) thuận đường đem về nước, giao lại cho con tiếp lãnh.

Vậy khi sứ thần đem về tới quốc thành, ngươi hãy chỉnh sức nghi vệ, trên đường nghinh tiếp, hướng về cung khuyết đốt hương quỳ lạy, đón nhận mười phần kính cẩn.

Lại truyền cho các quan viên lưu thủ khắp nơi đều truyền bá sự việc ngươi được ban ơn, để cho mọi người trong nước đều hân hoan vui mừng hầu ràng buộc lòng người, quay về quốc thống.

Hãy thận trọng vậy.

Nay cho biết.

Ngày mười sáu (16) tháng Sáu năm Càn Long 55.

(DVQT, quyển VI, tr. 23b-23b.)

SỐ 6

THƯ VUA QUANG TRUNG GỬI NGUYỄN QUANG TOẢN NGÀY 29-THÁNG BẢY-CL 55

Khi ở công quán tại Viên Minh Viên, vua Quang Trung cũng viết thư về Thăng Long cho Nguyễn Quang Toản đề ngày 29 tháng Bảy năm Càn Long 55, tường thuật diễn tiến những việc ông và phái đoàn đã trải qua và qua đó chúng ta biết thêm được nhiều chi tiết mà không thấy nhắc đến ở nơi khác.

在圓明公舘寄囬國書

令示世子阮光纘及留守各員等遵知。

我於六月十七日, 在胡北起程北上, 晝夜兼行。

七月初七夜到良鄉, 禮部德大人奉㫖來接賜茶。蓋特恩也!次早起程過京都。

初十日夜進到熱河行宮, 陪臣員從及行人、伶工、護衛, 隨人各各寧好。

十一日星早, 福公爺帶同入覲, 奉行「抱見請安」禮。

聖心甚為喜悅, 特加恩賜御詩並冠服、馬匹與銀一萬両及朝冠一頂。陪臣至行人並奉賞賜銀両等勿。

是日赴宴, 看戲班, 接列位親王。晚時即具表并和詩進謝。

十二日趨朝, 御閱文武自選官員奉率陪臣奉侍訖, 奉賜入大內, 遍觀嚴邃宸所, 得見御製詩文, 刊掛墻壁, 到處皆滿。

十三日, 扈駕徧覩, 乍如崙圃等。

十四日, 奉賜大宴, 賞給綵緞綾細各色。陪臣以至隨人並奉賞給甚厚。是夕, 扈駕在萬壽園看火樹。

十六日, 奉侍宴看戲。陪臣潘輝益、武輝瑨奉和禦詩, 特奉旗賞。

十七日, 侍宴看戲, 又奉賞賜霑及陪臣。

十八十九等日, 並奉侍宴看戲, 奉欽賜御製詩文各集及器玩各項, 不可數紀。

浹旬之內無有不䝉恩賜充食及各種珍奇。聖恩高厚, 寔同家人父子。

奉頒晉封世子勅書, 我跪領捧囬公驛, 供奉案上, 待囬國時交爾領受。

二十日, 奉㫖賜先囬圓明園(京城外三十里)候駕。

二十三日到園所舘于行宮在側, 官廚供給極為優厚。聞得八月初一日以後欽侍慶駕筵宴。

我惟在汝戀望, 輒此遵承報知, 并抄奉勅書一本寄囬為喜。汝當播告臣民, 俾咸知皇恩浩蕩, 奕世均霑, 以繫人心隆國本。

至於國中一一事務, 汝須申飭大小諸臣, 恪迪忠勤, 協心整理, 俾遐邇共孚, 中外寧帖, 以慰我懷。

我䝉大皇帝如天厚恩, 極欲乆留帝京, 朝夕恭請聖訓;但造邦伊始, 計我赶緊囬程亦須三箇餘月, 方能直抵國都, 勢不能乆依黼座, 擬俟祝嘏後, 懇切陳謝情邀恩早得囬國, 則年周即可囬至昇龍矣。

信哉!

兹令示。

乾隆五十五年、七月、二十九日

《大越國書, 册6, [43], 頁32a-33b》

Quốc thư từ công quán Viên Minh gửi về nước

Lệnh cho thế tử Nguyễn Quang Toản

Cùng các viên chức lưu thủ [ở lại giữ nước] biết mà tuân hành

Ngày 17 tháng Sáu, ta ở Hồ Bắc khởi trình lên phương bắc, đi cả ngày lẫn đêm.

Đêm mồng 7 tháng Bảy thì đến Lương Hương. Đức đại nhân (tức thị lang Đức Minh) ở bộ Lễ tuân chỉ đến đón ban trà. Ấy là một đặc ân vậy.

Sáng sớm hôm sau, lại lên đường đi ngang qua kinh đô.

Tối mồng 10 [tháng Bảy] thì đến hành cung ở Nhiệt Hà, các bồi thần và người đi theo cùng hành nhân, linh công, hộ vệ, tùy nhân ai nấy đều khỏe mạnh.

Sớm tinh sương ngày 11, Phúc công gia đưa ta vào nhập cận [tức triều kiến vua Càn Long], làm lễ bão kiến thỉnh an.

Thánh thượng hết sức vui mừng nên đặc biệt gia ân ban cho ta ngự thi cùng mũ áo, ngựa, một vạn lạng bạc cùng một cái mũ đội khi vào triều (triều quan). Bồi thần cho đến hành nhân cũng đều đều được ban thưởng ngân lượng và các món khác.

Cùng ngày hôm đó ta được ăn yến và xem tuồng cùng tiếp đón các vị thân vương. Đến chiều ta lại dâng biểu [tạ ơn] và bài họa [ngự thi].

Ngày 12 ta lại vào chầu. Nhà vua xem các tờ biểu của văn võ quan viên được chọn đưa lên. Ta được lệnh dẫn các bồi thần vào hầu và được cho phép vào trong đại nội, đi xem hết các nơi thâm nghiêm của vua ở, được xem thơ văn vua làm, viết treo trên tường, chỗ nào cũng có.

Ngày 13, ta theo hầu xe vua đi xem các vườn [hoa] và núi non, phong cảnh.

Ngày 14, lại được ban đại yến và được thưởng các loại đoạn, các cuộn lụa cuộn vải nhiều màu. Bồi thần cho chí người đi theo cũng đều được thưởng rất hậu. Tối hôm đó ta lại theo nhà vua đến Vạn Thụ Viên xem hỏa thụ.

Ngày 16, lại được dự yến và xem tuồng. Bồi thần Phan Huy Ích, Vũ Huy Tấn phụng họa ngự thi, được thưởng.

Ngày 17, lại được đãi yến và xem tuồng. Lại được thưởng cả đến các bồi thần.

Ngày 18, 19 lại được ăn yến, xem tuồng. Lại được ban cho nhiều tập thi văn ngự chế và các loại khí ngoạn không kể xiết.

Tính ra suốt một tuần không ngày nào không được ban ơn, ăn uống và các món trân kỳ. Ơn của thánh nhân cao dầy không khác gì cha con trong nhà.

Lại được ban cho sắc thư phong thế tử, ta quỳ lãnh bưng về công dịch, đặt lên trên án để đến khi về nước thì giao lại cho con nhận.

Ngày 20, ta phụng chỉ cho phép về Viên Minh Viên trước [ở ngoài cách kinh thành 30 dặm] để đợi hoàng thượng giá lâm.

Ngày 23, ta đến công quán ở Viên Minh Viên ngay bên cạnh hành cung, quan trù [đầu bếp nhà vua] cung cấp thật là đầy đủ. Ta nghe nói đến sau ngày mồng 1 tháng Tám thì sẽ có yến tiệc mừng thọ.

Ta chỉ khắc khoải về con nên đã tuân lệnh báo cho ngươi biết và sao lại sắc thư để gửi về báo tin vui. Vậy con nên bá cáo cho thần dân tất cả mọi người biết là hoàng ân lồng lộng, đời trước đời sau đều được thấm nhuần để buộc lòng người, bền gốc nước.

Còn về việc nước mọi việc, con phải đích thân đôn đốc các bầy tôi lớn nhỏ, hết lòng chuyên cần, trung nghĩa tận tâm lo liệu để cho xa gần đều tin nhau, trong ngoài đều yên ổn để ta yên tâm.

Ta được ơn dày như trời của đại hoàng đế thật rất muốn ở lại đế kinh lâu hơn, sớm tối cung kính xin được dạy bảo. Thế nhưng vì là lúc vừa mới mở nước, dù có gấp tính ra cũng phải mất hơn ba tháng thì mới đến được quốc đô, không thể ở lâu bên phủ tọa[9] [黼座]. Chắc là đợi khi chúc thọ xong, ta sẽ khẩn thiết trình bày tình thế mà xin ơn trên sớm cho về nước, cuối năm sẽ đến được Thăng Long.

Nay tin cho biết.

Nay thư lệnh bảo.

Ngày 29 tháng Bảy năm Càn Long 55.

(Đại Việt Quốc Thư, q. VI, tài liệu 43)

Ba lá thư 4, 5, 6 còn chép lại trong Đại Việt Quốc Thư là tập hợp những văn thư qua lại giữa nước ta với nhà Thanh đời Tây Sơn (bản dịch Nguyễn Duy Chính, nxb Văn Hoá – Văn Nghệ, tp. HCM, 2016)

SỐ 7

THƯ NGUYỄN QUANG THUỲ GỬI VUA QUANG TRUNG NGÀY 15-THÁNG CHÍN-CL 55

Thư Nguyễn Quang Thùy gửi vua Quang Trung [10]

鈔錄阮光垂啟書稿

臣阮光垂稽首頓首謹啟, 為冒瀝愚衷, 仰干慈鑒事。

臣自幕府拜別回關, 瘴暑交蒸, 病體未見差减。適奉接兩廣督部堂福, 委貟馳賜綵緞各色, 病中欣感, 頓覺輕快, 即日趕回, 離此瘴地。

迨到昇隆城, 日漸痊可, 惟是旌車在望, 孺慕良深。

兹奉接貟從陳有和欽遞大皇帝恩賞玉如意一柄與少紗縑器物, 沛然湛露, 超格逾涯。且因此得聞王父一路驩康佳信, 臣不覺忻慶喜躍之至。

宿病霍然良已登, 即望北焚香叩首欽領御賜等物件, 拾襲珎藏。臣年尚𡸁髫, 不敢冒昧具表恭謝[2]天恩, 伏望王父轉為奏謝, 以達微忱。

再臣捧誦令示, 奉大皇帝聖㫖因臣前欲隨從入覲, 特降恩諭封臣為世子。臣又不覺競惶駭愕之至。

臣國家庶子也, 長兄光纘以震鬯之重, 衆望久孚。昨奉旌旆逺行進覲。臣兄禮宜代守彊圉, 故臣得從侍左右, 以伸瞻就之誠旋, 因賤恙返回, 弗遂趨朝。

自惟福力淺薄, 獲免加譴已為萬幸, 安敢妄當非分之榮。今奉大皇帝聖慈𡸁鑒, 王父一念肫誠, 深為嘉予, 遂將隆恩異數施及童䝉。竊想我家分義事情, 一切未䝉九重洞燭。故有是命, 臣惟有披肝瀝胆, 固為辭避, 萬萬不敢承當。奉見令示現曾具有表奏, 知為臣懇辭。

父子兄弟之間, 表裏洞達, 臣實不勝喜慰, 輒敢具事瀝陳, 以白衷悃。伏望王父生之而又成之, 於到京時進[3]見龍顏, 再為臣聲明切實, 一一奏知, 庶幾天聽可回追繳成命, 俾臣完守名義獲安於心。

至臣童年瞻慕之誠, 莫可名狀, 惟望覲祝, 禮完旌旆, 早旋都邑。

臣獲於庭闈之內, 重展日三之禮, 以慰孺依。是臣之大願望也。

區區冒凟, 伏候高輝洞照。

兹謹啟。

Sao lục khải thư của Nguyễn quang Thuỳ gửi đến

Thần là Nguyễn Quang Thuỳ rập đầu kính cẩn gửi khải để tỏ tấc lòng trung xin bề trên biết đến

Thần từ khi ở mạc phủ bái biệt trở về Nam Quan, trong người lúc nóng lúc lạnh, bệnh thế không thấy thuyên giảm. Đến khi nhận được sứ giả của đốc bộ đường Phúc gửi nhanh thải đoạn các màu, trong cơn bệnh nhưng vui mừng lập tức khinh khoái ngay hôm đó trở về rời nơi chướng địa.

Đến khi tới thành Thăng Long, mỗi ngày thấy thêm thuyên giảm, có điều trông ngóng xe tinh, càng thêm thương nhớ.

Nay nhận được viên tòng Trần Hữu Hoà đệ lên ân thưởng của đại hoàng đế một thanh ngọc như ý, những vải lụa và các món, thật là ơn thiên từ sâu dày không sao nói hết được. Lại nhân đây cũng nghe tin mừng vương phụ trên đường vui vẻ khoẻ mạnh, thần bất giác vui sướng vô cùng.

Vì chưng bệnh thế đột nhiên qua đi, thần lập tức trông lên phương bắc, đốt hương rập đầu nhận lãnh các món ngự tứ, gom lại cất giữ. Thần tuổi còn để trái đào, không dám mạo muội viết biểu cung tạ thiên ân, xin mong vương phụ chuyển lời tâu lên để tỏ tấc lòng thành.

Lại nữa thần bưng đọc lệnh gửi xuống thấy được thánh chỉ của đại hoàng đế trước đây vì thần xin được đi theo nhập cận nên đặc giáng ân dụ phong cho thần làm thế tử, thần bất giác kinh hoàng sợ hãi hết mực.

Thần trong nước, trong nhà chỉ là con thứ, anh lớn Quang Toản vốn giữ việc tế tự, ai ai cũng đều tin tưởng. Hôm trước khi vương phụ cầm cờ đường xa chiêm cận, anh thần theo lễ phải thay mặt trông coi cương vực, vì thế thần mới được đi theo hầu ở bên cạnh, mong vươn dài chiêm tựu cho thành toàn, thế nhưng vì sức yếu phải quay về không toại lòng được đến triều đình.

Tự thấy mình phúc lực mỏng manh, không bị khiển trách cũng đã may mắn lắm rồi, đâu dám mong chuyện vượt quá phận mình. Nay được đại hoàng đế lòng từ trông xuống, vương phụ một lòng thành thực, tuy mừng vì được ban ơn thấy long ân hết mực xuống cho kẻ trẻ thơ, trộm đem phận nghĩa sự tình nhà ta mọi việc trình lên mong được cửu trùng chiếu xuống.

Nếu như có lệnh như thế thần đành lấy hết can đảm, cố sức từ tránh, vạn vạn không dám nhận. Nay thấy lệnh đã tỏ rằng từng dâng biểu tâu lên, vì thần mà hết sức từ chối.

Trong vòng cha con anh em, trình bày gan ruột, thần thật vui mừng vô cùng, nay đem tấm lòng trình lên rõ ràng để tỏ tấc lòng trung khổn. Trông mong vương phụ đã sinh ra thì cũng thành cho, khi đến kinh đô tiến kiến long nhan, lại vì thần thiết tha thanh minh, mọi việc tâu bày, mong được thánh thượng biết đến để có thể thu hồi lệnh cũ để thần giữ được danh nghĩa mà lòng được an.

Còn như thần tuổi thơ có lòng thành chiêm mộ, không biết chừng nào, chỉ mong được cận chúc, lễ xong lên đường để sớm trở về kinh thành.

Thần được đến chốn đình vi, thi hành tam lễ để thoả tấc lòng, ấy là đại nguyện vọng của thần vậy.

Vài lời quấy nhiễu, mong được trên cao soi xuống.

Nay kính cẩn gửi khải lên.

SỐ 8

THƯ PHAN VĂN LÂN TRÌNH LÊN VUA QUANG TRUNG NGÀY [] THÁNG CHÍN-CL 55

Bản sao lá thư của Phan Văn Lân gửi vua Quang Trung [11]

抄啟

謹將安南留守潘文璘等寄呈阮光平唘書抄錄恭呈御覽。

奉差昇隆城留守內侯臣潘文璘, 少保臣阮文名, 兵部臣吳時任及文武將士等謹啟, 為奉洞達事。

臣等奉守國城, 仰仗大皇帝寵靈, 王上洪慶, 境內晏帖無事。惟安廣道沿海一帶, 自秋至兹常有齊桅洋匪, 自海外揚帆入該鎮之白龍尾, 幽囊等處, 邀截商船來路刦奪商貸, 又飛艙出海, 不知去向。

臣等經奉飭令山南, 海陽, 安廣三鎮增設巡海官兵, 加意擒防, 以寧海面。

廼於兹年七月十一日, 內地廣東雷州府遂溪縣船戶陳朝球, 盧應忠, 李元鄉, 曾賢才等, 被齊桅掠取商貸在白龍尾, 𨺗連船刦盡, 會山南塩戶屯將范光章巡洋, 方至青梅海門, 適與齊桅相遇, 混戰海外。

伊黨之在船中者盡為光章所殺, 收獲商船一隻, 乃是陳朝球等被刦之船。

伊期接見欽州, 分州, 楊貴臺公移內開由陳朝球等被刦之日, 飛奔小艇奪路回訴。

臣等因奉飭令范光章將所獲刦船交納分州官給發船戶認領, 這案並已清楚。

惟齊桅賊夥實繁有徒, 伊等嘯聚風浪, 往來刦掠大為商賈之梗。

臣等奉照海防要地荊門之塗山八社, 乃東南之衝, 其山一簇巉巗落出海面, 洋匪出沒, 勢必經由臣等奉已擇差幹員, 就處設屯, 嚴加防汛。竊恐海道關防安廣與內地連界, 事關慎重, 不敢恬然。

伏望高輝洞悉前情, 於鑾駕回程之便, 申請制憲尊大人憲裁飭下巡海官兵與本國海防聯絡策應。倘有哨出齊桅嘯聚之處, 隨方搜捕, 無使滋蔓, 則惡夥消散, 而商旅之道通[3]矣。

再臣等於本月初七日接奉令示王世子一道, 奉已立即飛驛回富春城轉遞遵照。臣等渴望玉顏, 遥瞻瑞彩, 不勝瞻仰顒傒之至。

兹謹啟。

乾隆五十五年, 九月, 初日

Bản sao tờ khải

Kính đem trình văn của lưu thủ An Nam Phan Văn Lân gửi Nguyễn Quang Bình sao lục để hoàng thượng xem đến

Người được sai lưu thủ thành Thăng Long là nội hầu Phan Văn Lân, thiếu bảo Nguyễn Văn Danh và binh bộ Ngô Thì Nhậm cùng văn võ tướng sĩ kính cẩn trình lên mong được biết đến.

Bọn thần được lệnh giữ quốc thành, nhờ vào sủng linh của hoàng đế, hồng khánh của vương thượng nên trong biên cảnh đều yên ổn vô sự. Chỉ có một dải vùng duyên hải đạo Yên Quảng từ mùa thu tới nay thường có dương phỉ Tề Ngôi từ ngoài biển dương buồm chạy vào các nơi Bạch Long Vĩ, U Nang của trấn này, chặn bắt thuyền buôn cướp đoạt hàng hoá rồi lại dong thuyền ra biển không biết đi chốn nào.

Bọn thần đã sức cho các trấn Sơn Nam, Hải Dương, Yên Quảng sắp đặt tăng gia quan binh đi tuần ngoài biển, để tâm tuần phòng để cho mặt biển được yên.

Đến ngày 11 tháng Bảy năm nay, thuyền hộ huyện Toại Khê, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông của nội địa là Trần Triều Cầu, Lô Ứng Trung, Lý Nguyên Hương, Tăng Hiền Tài bị bọn phỉ Tề Ngôi cướp lấy hàng hoá ở Bạch Long Vĩ, gặp đồn tướng của diêm hộ Sơn Nam là Phạm Quang Chương tuần dương, vừa đến cửa biển Thanh Mai, gặp bọn Tề Ngôi hai bên hỗn chiến ngay tại trên biển.

Bọn chúng ở trong thuyền đều bị Quang Chương giết sạch, lấy lại được một chiếc thuyền buôn, ấy chính là thuyền của Trần Triều Cầu bị cướp.

Bọn họ khi được các ngài ở Khâm Châu, Phân Châu, Dương Quí tiếp kiến trong lời khai có nói là bọn Trần Triều Cầu bị cướp thì ngày hôm đó cũng đã đi thuyền nhỏ trở về tố cáo.

Bọn thần nhân đó sức lệnh cho Phạm Quang Chương đem thuyền bị cướp giao nạp cho quan ở Phân Châu để thuyền hộ nhận lại, vụ án đó kể như đã xong.

Có điều giặc tề ngôi rất đông, bọn chúng đi sóng về gió, qua lại cướp bóc quả là trở ngại của việc buôn bán.

Bọn thần nhận lệnh phòng ngự ngoài biển các nơi yếu địa ở Kinh Môn là tám xã Đồ Sơn, là nơi xung yếu ở đông nam, một mỏm núi đó hiểm trở trồi ra ngoài biển, dương phỉ vào ra, bọn thần ắt phải chọn người có khả năng ra đó thiết lập đồn ải, lập trại đề phòng nghiêm nhặt.

Trộm nghĩ quan phòng đường biển ở Yên Quảng cùng với nội địa biên giới liền nhau, việc rất nặng nề, không thể để yên được.

Trông mong trên cao ngó xuống việc vừa kể trên, đến khi loan giá trở về thuận tiện thì xin chế hiến tôn đại nhân (tổng đốc Lưỡng Quảng) sức xuống cho quan binh tuần hải cùng với hải phòng của bản quốc liên lạc sách ứng.

Nếu như khi đi tuần thấy có bọn tề ngoại kêu gọi tụ tập thì sẽ tìm cách bắt giữ, không để cho chúng lan tràn ra thì bọn ác hẳn sẽ tiêu đi mà đường buôn bán sẽ được thông suốt vậy.

Lại bọn thần vào ngày mồng 7 tháng này [tháng Chín] nhận được một đạo lệnh gửi cho vương tử nên đã lập tức gửi nhanh theo đường dịch về Phú Xuân chuyển đệ tuân hành.

Bọn thần mong mỏi trông thấy ngọc nhan, đường xa chiêm cận nhiều phúc lành, không khỏi hết sức trông đợi.

Nay kính cẩn gửi khải.

Càn Long 55, tháng Chín, ngày …

 

KẾT LUẬN

Cho đến nay, chuyến đi của vua Quang Trung vẫn chưa được đánh giá một cách đầy đủ. Điều đó một phần vì sau khi triều Tây Sơn chấm dứt, giai đoạn lịch sử này bị bỏ quên hàng trăm năm và chỉ được khôi phục khi ảnh hưởng của triều đình Huế đã suy giảm.

Tuy nhiên, những gì người ta tô điểm cho triều đại Tây Sơn vẫn không qua việc ca tụng các chiến thắng ngoại xâm mà không hề nhìn lại thành công ngoại giao của thời kỳ này. Chuyến đi của vua Quang Trung gần như hoàn toàn biến mất, nếu có nhắc đến thì chỉ coi như một sự đánh tráo để lừa nhà Thanh không có gì đáng ca ngợi.

Thực ra, việc công nhận nước ta trong một hoàn cảnh khá đặc biệt – do nhiều yếu tố chủ và khách quan – những ưu đãi vượt bực đó quả là thiên cổ nan phùng nhưng cả nhà Thanh lẫn triều Nguyễn đều không muốn nhắc đến. Vua Càn Long và cận thần đã tìm đủ mọi cách để biến một thất bại quân sự thành một thắng lợi ngoại giao khiến chúng ta có cảm tưởng đây là một vở kịch lớn mà người nào cũng muốn đóng vai cho trọn vẹn. Chiến dịch đánh An Nam và đường lối lôi kéo để An Nam thần phục gần như là chủ điểm của hàng ngàn công văn, tấu triệp, thượng dụ trong suốt ba năm (1788-1790) và kéo dài đến hết đời Quang Trung. Khi vở kịch đã hạ màn, nhất là sau khi vua Càn Long qua đời, vua Gia Khánh lên ngôi cùng với sự thay đổi triều đại ở Việt Nam giao tình này hầu như không còn ai nhắc đến nữa.

Điều lạ lùng hơn cả, ngay cả tại Trung Hoa (lục địa) các bộ sử nổi tiếng viết về đời Thanh cũng bỏ qua biến cố lịch sử này. Sách vở chỉ nói đến việc nước ta quay trở lại quĩ đạo cũ (tam độ khất hàng) mà hoàn toàn không đề cập đến cảnh nhộn nhịp, gấp rút khi nhà Thanh dốc toàn bộ vào việc tiếp đón một phái đoàn phiên vương gần 200 người đi dọc từ tây nam lên đông bắc Trung Hoa, cả đi lẫn về kéo dài đến 9 tháng.

Cũng chưa một sử gia nào của Trung Hoa nghiên cứu sâu thêm về những khía cạnh bất thường khi tiếp phái đoàn Quang Trung trong khi lại rất quan tâm đến một sự kiện ít nổi bật hơn khi đón phái đoàn Anh Cát Lợi ba năm sau đó. Cũng không ai cất công đi tìm những việc trước đây chưa từng xảy ra trong giao thiệp thiên triều phiên thuộc và so sánh với sử triều đại (dynastic histories) của Trung Hoa để xem đây là một chính sách mới hay chỉ là bột hứng nhất thời khiến không ít quan lại chẳng biết phải làm thế nào cho đúng ý hoàng đế.

Cơn sốt ưu đãi tuy cũng hạ nhiệt dần nhưng việc điều chỉnh để tình trạng hai quốc gia trở về bình thường cũng mất nhiều thời gian và sự sụp đổ của nhà Tây Sơn là một cơ hội tốt cho nhà Thanh để loại trừ miếng “gân gà ngoại giao” và quay lại giữ khoảng cách với phương nam như những đời trước đó. Có lẽ đôi khi cũng cần phân tích của một điều tra viên (detective) để giải mã những bất thường của giai đoạn này.

Rằm tháng Giêng năm Quí Mão

2-2023


[1] Lá thư này nguyên văn còn chép trong Bang Giao Hảo Thoại của Ngô Thì Nhậm và Lịch Triều Tạp Kỷ của Ngô Cao Lãng với lý do ông sắp phải đi xa nên cần thuốc để cho mẹ ông tẩm bổ. Nhà Thanh cũng nhân dịp này tặng nhân sâm như một ràng buộc để ông không thể thoái thác việc sang chúc thọ. Tuy nhiên theo nhiều chi tiết rải rác trong sử sách thì mẹ ông qua đời trước khi ông sang Trung Hoa. Việc lấy cớ về Phú Xuân thăm mẹ ghi trong sử chính là về lo tang lễ cho thân mẫu vì trên đường đi nhiều lần ông lấy cớ đang thọ tang nên từ chối yến tiệc và vui chơi.

[2] Càn Long Triều Thượng Dụ Đáng q. XV (Đáng Án xbx, 1991) tr. 459-460.

[3] Đại Việt Quốc Thư, bản dịch Nguyễn Duy Chính (VH-VN: 2016), quyển VI, 6.9, tr. 365-9

[4] Hiệu Chuyết Am, tự Hy Chí, người Ninh Bình, hội nguyên, tam giáp tiến sĩ năm Cảnh Hưng 39 (1778) là Hàn lâm học sĩ sau thăng lên thượng thư bộ Binh đời Quang Trung.

[5] Ông này có nhiều tên khác nhau nhưng hiện nay sử chỉ biết đến cái tên Trần Quang Diệu (và vợ là Bùi Thị Xuân) nhưng đây là tên trên lá thư do chính Nguyễn Huệ gửi về nước.

[6] Trần Chánh Kỷ ngày nay được biết dưới tên Trần Văn Kỷ.

[7] Hai bản sắc phong này vẫn còn tồn tại trong tài liệu của nước ta và nhà Thanh và cũng đã được chúng tôi công bố.

[8] Lá thư này còn lưu một bản sao trong kho tài liệu của Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc (Thanh Đại Đáng Án Kiểm Sách Hệ Thống; Quân Cơ Xứ Đáng Triệp Kiện), văn kiện số hiệu 039379-0 và cũng được Trang Cát Phát chép lại trong Thanh Cao Tông thập toàn võ công nghiên cứu (1982), tr. 401-402. (Quân Cơ Xứ, Nguyệt Triệp Bao, hòm tài liệu số 2778, phong bì 163, số hiệu 3911).

[9] Ngai vàng, chỗ vua ngồi

[10] Quốc Lập Cố Cung Bác Vật Viện Đài Bắc; Thanh Đại Đáng Án Kiểm Sách Hệ Thống; Quân Cơ Xứ Đáng Triệp Kiện, văn kiện số hiệu 045795-a (Sao lục khải của Nguyễn Quang Thuỳ, ngày 15 tháng Chín, Càn Long 55)

[11] Quốc Lập Cố Cung Bác Vận Viện Đài Bắc; Thanh Đại Đáng Án Kiểm Sách Hệ Thống; Quân Cơ Xứ Đáng Án Triệp Kiện; văn kiện 046052 (Phụ phiến 2: An Nam lưu thủ Phan Văn Lân gửi Nguyễn Quang Bình)

Bình luận về bài viết này