Những cuộc phiêu lưu vào lịch sử khoa học pháp y

MICHAEL KURLAND
Trần Quang Nghĩa dịch
7: Với một viên đạn
VỀ MẶT LỊCH SỬ “đạn đạo học” là nghiên cứu về quá trình di chuyển của một vật thể phóng đi – một quả bóng, viên đạn, mũi tên, phi tiêu, đạn pháo hoặc chiếc bánh – bất cứ thứ gì bay trong không khí từ nơi này đến nơi khác được cung cấp bởi một động lực ban đầu. Từ này bắt nguồn từ tên của một loại vũ khí được người La Mã cổ đại sử dụng, ballista, một chiếc nỏ có dây cót cỡ lớn mà họ dùng để ném những phi tiêu lớn hoặc thậm chí những tảng đá nặng vào kẻ thù hoăc thành trì của chúng. Thuật ngữ này vẫn được sử dụng trong cộng đồng bắn súng để biểu thị việc nghiên cứu về tác động của trọng lực và sức cản của gió lên một viên đạn có hình dạng, khối lượng và vận tốc nhất định, được bắn ở một góc nhất định.
Trong hơn 80 năm qua, định nghĩa pháp lý về đạn đạo đã mở rộng để bao gồm mọi thứ liên quan đến vũ khí phóng đạn và các vật thể được bắn từ chúng. Đạn đạo pháp y liên quan đến các đặc điểm của vũ khí, bản chất của chất nổ, hình dạng và thành phần của viên đạn, tác động của quá trình đạn đi qua nòng vũ khí và phương tiện xác định vũ khí cụ thể mà đạn được bắn ra.
Nếu một vũ khí bắn ra được sử dụng để phạm tội, chuyên gia đạn đạo sẽ đặt câu hỏi: Đây là loại vũ khí gì? Ai đã tạo ra nó và làm thế nào nó có thể đến được đây? Nó bắn loại đạn gì? Đây có phải là vũ khí thực sự mà đạn thu được tại hiện trường được bắn ra không? Nó được bắn từ khoảng cách bao nhiêu? Đây có phải là loại đạn dược trùng khớp với đạn dược tìm thấy tại nhà nghi phạm không? Vụ nổ súng là vô tình hay cố ý?
Cho đến đầu thế kỷ 20, cảnh sát thường tham khảo ý kiến thợ súng khi cần thông tin về súng. Tuy nhiên, nhiều câu hỏi mà các điều tra viên hình sự quan tâm lại nằm ngoài khả năng của một thợ súng thông thường. Như Hans Gross đã giải thích vào năm 1906:
Ngay cả khi giao dịch với một thợ súng am hiểu nghề, chúng ta cũng thấy kiến thức của anh ta trong hầu hết các trường hợp chỉ giới hạn ở việc có thể chỉ ra nguồn gốc và giá của vũ khí, tên các bộ phận khác nhau của nó, và các chi tiết cơ khí khác, nhưng phải thừa nhận rằng trong hầu hết các trường hợp, kiến thức đó cũng có một giá trị nhất định. Tuy nhiên, anh ta không thể nói nhiều về mục đích sử dụng của vũ khí, hiệu ứng mà nó có thể tạo ra, mối liên hệ giữa bản thân vũ khí và viên đạn được sử dụng, bên cạnh vô số câu hỏi quan trọng khác.
Gross cho rằng điều tra viên tội phạm thắc mắc về vũ khí có thể phải nhờ đến các chuyên gia trong các lĩnh vực khác – “xạ thủ giàu kinh nghiệm, bác sĩ, thanh tra súng hỏa mai, nhà vật lý, nhà hóa học và nhà vi mô học”.
Để một người có thể bao quát được bề dày chuyên môn này, cần phải xây dựng thêm một kho kiến thức khác, vốn rất hữu ích cho cảnh sát nhưng lại ít được ứng dụng ở nơi khác. Phải đến những năm 1930, các phòng thí nghiệm tội phạm mới có thể xác định và đào tạo những kỹ thuật viên thực sự có thể tự nhận mình là chuyên gia đạn đạo.
Vụ bắt giữ tên giết người đầu tiên được biết đến thông qua cái mà ngày nay chúng ta gọi là bằng chứng đạn đạo xảy ra ở Anh vào năm 1794. Nạn nhân là Edward Culshaw ở Lancashire, và nghi phạm là John Toms. Vũ khí gây án là một khẩu súng lục hỏa mai nạp đạn bằng nòng.
Để nạp đạn cho súng hỏa mai, trước tiên người ta đổ một lượng thuốc súng vừa đủ vào nòng súng, sau đó nhét một cục giấy vào. Tiếp theo, người ta thả viên đạn vào, rồi nhét một cục giấy khác xuống để viên đạn không lăn ra ngoài nòng súng. Sau đó, người ta đổ một ít thuốc súng vào chảo, kết nối với thuốc súng trong nòng súng thông qua một ống mỏng khoét qua thành. Để bắn thứ này, người ta kéo cò súng liên kết với một cái búa nhỏ gắn đá lửa và bóp cò. Khi đá lửa chạm vào chảo, một tia lửa đốt cháy thuốc súng bên ngoài và một ngọn lửa chạy qua ống và đốt cháy thuốc súng bên trong nòng súng. Thuốc súng cháy nhanh, tạo ra một lượng lớn khí nóng thổi viên đạn xuống nòng súng và bắn ra ngoài.
Đôi khi tia lửa không đốt cháy thành công thuốc súng bên ngoài. Đôi khi thuốc súng chỉ lóe lên mà không làm ngọn lửa lan xuống ống vào thuốc súng ở nòng.
Quay lại với ông Toms, người bị tình nghi bắn ông Culshaw. Khẩu súng lục thực tế đã nổ, và viên đạn đã bay vút qua không trung và găm vào hộp sọ ông Culshaw. Mẩu giấy giữ viên đạn cũng bay theo. Vị bác sĩ phẫu thuật lấy viên đạn ra khỏi hộp sọ nạn nhân cũng tìm thấy mẩu giấy còn nguyên vẹn và cẩn thận mở nó ra. Khi Toms, vì những lý do khác bị coi là nghi phạm hợp lý, bị bắt và khám xét, y có một tờ rơi trong túi. Góc bị mất của tờ rơi này hoàn toàn trùng khớp với mẩu giấy được lấy ra từ nạn nhân. Toms đã lên giá treo cổ.
Năm 1835, Henry Goddard, lúc đó là thành viên của Bow Street Runners, tổ chức tiền thân của Cảnh sát London (và sau này là cảnh sát trưởng Northamptonshire), nhận thấy một viên đạn lấy ra từ nạn nhân bị giết có một nốt mụn nhỏ ở một bên. Khi khám xét nhà nghi phạm, ông phát hiện ra một khuôn đúc đạn bị lỗi khiến đạn đúc từ khuôn này có một nốt mụn nhỏ ở một bên. Ông chỉ ra điều này cho nghi phạm, và nghi phạm đã nhanh chóng thú tội.
Vào tháng 8 năm 1876, một cảnh sát Anh tên là Cock đã bị sát hại tại Whalley, Manchester. Hai anh em tên là Habron đã bị xét xử vì tội giết người. Một người được trắng án, nhưng người kia, William, bị kết án tử hình. Tuy nhiên, bản án của anh ta được giảm xuống thành “tù khổ sai chung thân” vài tuần sau đó, vì người ta cho rằng anh ta chắc chắn có đồng phạm (một người khác ngoài anh trai mình), và đồng phạm này đã bắn phát súng chí mạng. Một ngày sau khi phiên tòa xét xử Habron kết thúc, một người đàn ông tên là Arthur Dyson đã bị sát hại tại Ecclesall, một vùng ngoại ô của Sheffield. Kẻ giết người đã bị phát hiện và nhận dạng là Charles Peace, một tên tội phạm quen thói. Peace chỉ bị bắt hai năm sau đó khi hắn bắn và làm bị thương một cảnh sát tên là Robinson trong khi đang cố gắng đột nhập vào Blackheath. Trên đường đến giá treo cổ vì tội giết Dyson, Peace thú nhận mình là kẻ sát hại cảnh sát Cock và tuyên bố rằng mình đã hành động một mình.
Cảnh sát không muốn tin hắn, nhưng họ vẫn so sánh các viên đạn đã sát hại cảnh sát Robinson, Arthur Dyson và cảnh sát Cock. Tất cả đều được bắn từ cùng một khẩu súng của Peace. Phương pháp họ sử dụng để so sánh các viên đạn không được tiết lộ, nhưng đây là một trong những ví dụ sớm nhất được biết đến về một cuộc kiểm tra đạn đạo thực sự. William Habron được thả khỏi tù và được bồi thường cho sự thiệt thòi khi bị tước mất ba năm cuộc đời.
Do súng ngắn phổ biến khắp Hoa Kỳ, và do sự nhầm lẫn phổ biến giữa việc quen sử dụng và kiến thức, nhiều người Mỹ tự coi mình là chuyên gia về súng. Hầu hết họ đều nhầm lẫn. Năm mươi năm trước, chính những người lầm lạc này đã tự xưng là chuyên gia đạn đạo và làm chứng trong các phiên tòa hình sự, gây bất lợi cho công lý trong nhiều vụ án. Trong phần giới thiệu cuốn sách mang tính bước ngoặt của mình xuất bản năm 1935, “Điều tra, Nhận dạng và Chứng cứ về Súng“, J. S. Hatcher nhận xét:
Trong trường hợp tử vong do bị bắn, thường xảy ra trường hợp tính mạng hoặc quyền tự do của người bị tình nghi có thể hoàn toàn phụ thuộc vào khả năng của chính quyền trong việc xác định loại vũ khí đã được sử dụng trong vụ nổ súng, hoặc liệu vỏ đạn bắn ra hay viên đạn liên quan đến vụ việc có phải được bắn ra từ một khẩu súng cụ thể hay không. Kiến thức về súng ống và chất nổ cũng như cách chúng hoạt động mà công chúng nói chung, bao gồm hầu hết các sĩ quan cảnh sát và các thành viên trong ngành luật, nắm giữ còn quá ít ỏi đến mức những sai sót gần như không thể tin được trong lời khai, vốn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tội lỗi hay sự vô tội của bị cáo, vẫn liên tục xảy ra.
Trong hơn hai mươi năm qua, tác giả đã có dịp quan sát nhiều trường hợp việc bắt giữ một cá nhân chịu trách nhiệm về tội phạm liên quan đến súng hoặc chất nổ bị trì hoãn hoặc trở nên bất khả thi do thiếu dù chỉ một chút kiến thức đúng đắn từ các thám tử hoặc cảnh sát tiến hành điều tra. Ông cũng đã quan sát những trường hợp khác mà luật sư, tòa án và bồi thẩm đoàn bị áp đặt hoặc bị đánh lừa bởi những cá nhân thiếu hiểu biết hoặc vô đạo đức, những người đã xoay sở để có đủ điều kiện làm nhân chứng chuyên môn về súng.
Con quay thường chỉ đi theo một hướng, và nếu quay đủ nhanh, nó sẽ chống lại mọi nỗ lực thay đổi hướng đi. Con quay hồi chuyển quay nhanh có khả năng chống thay đổi hướng đến mức có thể được sử dụng như một la bàn. Tương tự, một quả bóng đá sẽ bay thẳng và đúng hướng nếu người chuyền bóng tạo ra một lực xoáy khi đá. Nếu không có lực xoáy, quả bóng sẽ lộn nhào, lệch hướng và rơi xuống bất cứ đâu. Tương tự, nếu bạn nhắm súng vào một điểm và tạo ra một lực xoáy cho viên đạn bắn ra, nó sẽ có nhiều khả năng bay đến đúng mục tiêu hơn.
Vào thế kỷ thứ mười tám, để tạo độ xoáy cho viên đạn và giúp nó bay thẳng đến mục tiêu, các nhà sản xuất súng đã nảy ra ý tưởng khoét các rãnh xoắn ốc trên nòng súng. Những rãnh và phần bề mặt còn lại giữa các rãnh được gọi là hệ thống khương tuyến.
Những khẩu súng có khương tuyến được gọi là súng trường. Trong Cách mạng Hoa Kỳ, súng trường Kentucky do thợ súng người Đức ở Pennsylvania chế tạo và được những người lính biên phòng mang theo có độ chính xác ở khoảng cách xa hơn nhiều so với súng hỏa mai nòng trơn của quân đội Anh. George Hanger, một đại tá trong quân đội Anh, đã bắt đầu quan tâm đến hiện tượng này khi con ngựa của người lính thổi kèn của ông bị bắn văng ra khỏi người y ở khoảng cách mà Hanger đo nhiều lần – “đúng 400 yard” (khoảng 380m).
“Tôi đã nhiều lần hỏi những người lính Mỹ ở vùng rừng núi xa xôi xem những xạ thủ giỏi nhất của họ có thể bắn trúng xa nhất bao nhiêu”, ông kể lại. “Họ liên tục nói với tôi rằng một xạ thủ lão luyện, miễn là anh ta có thể ngắm chuẩn xác, có thể bắn trúng đầu một người ở khoảng cách 200 yard.” Khẩu súng hỏa mai tiêu chuẩn của quân đội Anh, có biệt danh là “Brown Bess”, ngay cả trong điều kiện tốt nhất cũng chỉ đạt độ chính xác ở khoảng cách 50 yard.
Nhưng súng trường cũng phải có độ khít giữa đạn và nòng. Nếu không, khí đẩy sẽ chỉ thoát ra ngoài qua các rãnh. Và rất khó để nhét một viên đạn khít vào một khẩu súng trường nạp đạn qua nòng. Với sự hoàn thiện của súng nạp đạn qua khóa nòng vào giữa thế kỷ 19, súng hỏa mai dần dần biến mất khi súng trường nạp đạn qua khóa nòng và súng ngắn nòng xoắn được sử dụng rộng rãi. Số lượng rãnh xoắn trên những khẩu súng mới này thường dao động từ 4 đến 7. Hướng xoắn – ngược tay thuận chiều kim đồng đồng hồ – tùy thuộc vào ý thích của người chế tạo.
Năm 1899, Alexandre Lacassagne, giáo sư pháp y tại Đại học Lyons, là người đầu tiên được biết đến đã so sánh dấu vết trên một viên đạn lấy từ thi thể nạn nhân bị giết với rãnh xoắn được tìm thấy trong súng ngắn của nhiều nghi phạm. Ông phát hiện viên đạn có bảy rãnh dọc được tạo ra khi xuyên qua nòng súng có rãnh xoắn. Chỉ có một trong số những khẩu súng mà ông kiểm tra có bảy rãnh trùng khớp. Chủ sở hữu của khẩu súng này đã bị kết án tử hình.
VỤ ÁN STIELOW
NHỮNG NGƯỜI BỊ KẾT ÁN ĐƯỢC THẢ NHỜ LỆNH ÂN XÁ
Auburn, New York, ngày 9 tháng 5. Charles F. Stielow – người đã được Thống đốc Whitman ân xá sau khi ở tù ba năm trong án tù chung thân vì tội giết Charles B. Phelps và quản gia Margaret Wolcott tại West Shelby vào tháng 3 năm 1915 – đã được thả khỏi nhà tù Auburn hôm nay. Ông ta lập tức lên đường đi Buffalo. Nelson Green, người bị kết án hai mươi năm tù vì tội đồng lõa với Stielow và cũng được Thống đốc ân xá, đã được thả cùng lúc.
-Altoona Tribune, ngày 10 tháng 5 năm 1918
Có thể nói rằng cuộc điều tra khoa học về bằng chứng đạn đạo tại Hoa Kỳ đã bắt đầu trong và nhờ vụ án Charlie Stielow và Nelson Green năm 1915. Sáng sớm ngày 22 tháng 3, Stielow, được mô tả là “một nông dân tá điền mù chữ, tốt bụng”, rời khỏi nhà ở Quận Orleans, New York và phát hiện một người phụ nữ đã chết mặc váy ngủ trước cửa nhà. Những dấu chân trên lớp tuyết mới cho thấy bà đến từ nhà của Charles B. Phelps gần đó, chủ đất của Stielow. Khi Stielow cúi xuống để xem xét kỹ người phụ nữ, ông nhận ra Margaret Wolcott, quản gia của Phelps. Bà đã bị bắn vào ngực (hóa ra là xuyên qua tim). Vội vã đến nhà Phelps, ông thấy cửa bếp mở và Phelps, 90 tuổi, nằm trên sàn. Ông bị ba lỗ đạn khoét trên người và gần như chết tốt. Stielow ngay lập tức chạy sang nhà hàng xóm và báo động.
Cảnh sát địa phương, vốn không quen với việc điều tra nghiêm túc, đã đến nhà Phelps và lục lọi khắp nơi, không thu được kết quả gì đáng kể và còn giẫm đạp lên bất kỳ bằng chứng pháp y nào có thể có. Chính quyền Quận Orleans đã thuê George W. Newton, một thám tử tư đến từ Buffalo, New York, để điều tra. Mười ngày sau, theo đề nghị của Newton, cảnh sát đã bắt giữ Nelson Green, em rể của Stielow, người sống cùng Phelps và vợ của Phelps. Họ đưa anh ta đến đồn cảnh sát, và đến hai giờ sáng hôm sau, Newton bắt anh ta ký vào một bản thú tội, trong đó ghi rất chi tiết về cách anh ta và Stielow đã thực hiện các vụ giết người. Khi Stielow bị bắt, ông ta đã thú tội một cách đúng đắn.
Hai thủ phạm kể lại gần như cùng một câu chuyện. Xét đến việc họ bị giam giữ riêng biệt và thực tế họ không phạm tội, điều này cho thấy sức thuyết phục của các kỹ thuật thẩm vấn của Thám tử Newton. Theo lời thú tội của họ, họ đã gõ cửa nhà bếp. Khi Phelps ra mở cửa, họ bắn ông ta rồi đi về phía phòng ngủ, nơi họ nghĩ rằng ông ta cất tiền. Ngay lúc đó, Margaret Wolcott chạy ra khỏi phòng và đi qua cửa bếp, đóng sầm cửa lại sau lưng. Hoặc Green hoặc Stielow (mỗi người đều khẳng định người kia đã nổ súng) sau đó đã bắn người quản gia qua tấm kính ở cửa bếp trước khi quay lại phòng ngủ và tìm tiền. Mỗi nghi phạm đều thú nhận rằng mình đã tìm thấy khoảng hai trăm đô la và đưa cho ngưòi kia giữ.
Khi họ trở về nhà, họ thấy Margaret Wolcott bị thương đang đập cửa trước và gào thét đòi vào nhà. Vì vậy, họ đi vào bằng lối sau nhà và để mặc bà kêu thét cho đến chết.
Newton phát hiện ra rằng họ đã nói dối khi cả hai đều phủ nhận sở hữu vũ khí. Stielow đã đưa cả một khẩu súng lục ổ quay cỡ nòng .22 và một khẩu súng trường cỡ nòng .22 cho một người họ hàng giấu. Các nạn nhân đã bị giết bằng một khẩu súng lục cỡ nòng .22.
Stielow bị xét xử đầu tiên, và mặc dù y phủ nhận lời thú tội của mình, nói rằng đó là do bị ép cung, nhưng lời thú tội vẫn được chấp nhận làm bằng chứng. Việc còn lại là ghép những viên đạn thu được từ thi thể các nạn nhân vào một trong những khẩu súng của Stielow. Bên công tố dựa vào Tiến sĩ Albert Hamilton, một chuyên gia tự xưng về vũ khí đến từ Auburn, New York. Vốn là một người bán thuốc dạo và tự nhận mình có bằng y khoa, Hamilton gần đây đã trở thành chuyên gia trong mọi lĩnh vực pháp y. Ngoài vũ khí, ông ta còn đưa ra ý kiến uyên bác về các vấn đề hóa học, độc chất, vi thể và giải phẫu. Ông phân tích vết máu và chữ viết tay một cách thành thạo, cũng như thực hiện khám nghiệm tử thi.
“Tiến sĩ” Hamilton khai rằng ông đã kiểm tra khẩu súng lục ổ quay của Stielow bằng kính hiển vi và phát hiện chín khuyết điểm ở đầu nòng súng trùng khớp với chín vết xước trên mỗi viên đạn trong số bốn viên đạn lấy từ thi thể nạn nhân. Khi được hỏi tại sao những vết xước này không xuất hiện trên ảnh phóng to của các viên đạn, ông trả lời rằng do nhầm lẫn nào đó, chúng nằm ở đầu bên kia của viên đạn.
Khi được hỏi tại sao những khuyết tật ở đầu nòng lại đánh dấu lên viên đạn? Ông trả lời:
Xi lanh được lắp khít vào phía sau nòng súng đến mức không có rò rỉ khí ở khóa nòng. Toàn bộ lực khí theo viên đạn ra khỏi nòng súng, đạn chì giãn nở khi rời khỏi nòng súng, lấp đầy bất kỳ chỗ lõm nào ở rìa ngoài nòng súng và chịu các vết xước từ các chỗ lồi lên giữa các chỗ lõm đó.
Hội đồng xét xử tuyên bố Stielow phạm tội giết người cấp độ một, và thẩm phán tuyên án tử hình trên ghế điện. Green nhận tội để tránh bị điện giật, và bị tuyên án tù chung thân.
Vào tháng 2 năm 1916, tòa phúc thẩm đã giữ nguyên bản án, nhận định rằng, “sau khi xem xét hồ sơ, không thể tưởng tượng được bồi thẩm đoàn có thể đưa ra bất kỳ phán quyết nào khác”.
Trong khi chờ đợi bị hành quyết tại nhà tù Sing Sing, Stielow bằng cách nào đó đã thuyết phục được Phó giám thị Spencer Miller, Jr. rằng mình vô tội, hoặc ít nhất là những khiếu nại của y đáng được xem xét.
Miller kể lại vụ án cho Louis Seibold, phóng viên tờ New York World. Seibold sau đó thuê một thám tử ở Buffalo tên là Thomas O’Grady để điều tra. O’Grady phát hiện ra rằng cả Stielow và Green đều mù chữ và không ai có khả năng viết lời thú tội hoặc sử dụng một số cụm từ tính tế như đã xuất hiện trong hồ sơ. Ông cũng phát hiện ra rằng cả Newton và Hamilton đều làm việc theo chế độ trả công theo kết quả: họ sẽ không được trả công trừ khi Stielow và Green bị kết tội.
Trong khi đó, đơn kháng cáo thứ hai và thứ ba xin xét xử lại đều bị bác bỏ. Tuy nhiên, thống đốc đã quan tâm đến vụ án, và vào ngày 4 tháng 12 năm 1916, ông đã giảm án cho Stielow xuống tù chung thân và chỉ định một luật sư ở Syracuse tên là George Bond điều tra. Bond đã mời Charles Waite, một điều tra viên từ Văn phòng Tổng chưởng lý New York, đến hỗ trợ ông.
Họ nhanh chóng nhận ra lời thú tội của hai người không khớp với sự thật của vụ án. Cả hai lời thú tội đều cho thấy Margaret Wolcott chạy ngang qua hai kẻ sát nhân trên đường ra khỏi cửa nhà bếp. Nếu vậy, bà ta hẳn đã nhận ra chúng. Thế mà sau đó bà ta lại chạy đến cửa trước nhà Stielow để cầu cứu là điều vô lý. Và, mặc dù bị bắn xuyên tim, lời thú tội của hai người đàn ông cho thấy bà ta vẫn còn sống khi họ ra khỏi phòng ngủ của Phelps và trở về nhà. Trong lời thú tội, bà ta kêu lên: “Charlie, làm ơn cho tôi vào, tôi sắp chết rồi!”. Hơn nữa, góc bắn được cho là của viên đạn bắn trúng Wolcott khi bà ta chạy về phía nhà Stielow là không thể về phương diện hinh hoc.. Bất cứ ai bận tâm đến hiện trường đều sẽ nhận ra điều này ngay lập tức.
Khẩu súng lục ổ quay .22 của Stielow được giao cho các chuyên gia từ Cục Thám tử New York. Họ kiểm tra nó trước khi bắn thử để đánh giá xem nó đã nằm im bao lâu không được sử dụng. “Chắc chắn là ba hoặc bốn năm, hình như lâu hơn,” họ kết luận. Sau đó, họ bọc nó bằng một tờ giấy và bắn một viên đạn. Thay vì không có rò rỉ khí hơi, như lời khai của Tiến sĩ Hamilton, tờ giấy bốc cháy do sức nóng và sức mạnh của khí hơi xả ra. Tiếp theo, đạn được bắn vào một hộp bông gòn và sau đó được đưa đến Tiến sĩ Max Poser, một chuyên gia giám định vi mô tại trụ sở Bausch & Lomb ở Rochester. Ông không chỉ không thể tìm thấy những vết xước nhỏ mà Hamilton đã thề, mà còn phát hiện ra rằng những viên đạn giết người được bắn ra từ một khẩu súng có lỗi sản xuất – nó thiếu một trong năm rãnh được cho là có trên nòng súng. Khẩu súng của Stielow không thể bắn ra những viên đạn giết chết ông Phelps và người quản gia của ông. Stielow và Green đã được thống đốc ân xá ngay lập tức.
Từ vụ án Stielow, Charles Waite nhận ra rằng khả năng kết nối một viên đạn từ hiện trường vụ án với một khẩu súng cụ thể sẽ rất hữu ích trong hầu hết mọi trường hợp thu thập được viên đạn từ hiện trường. Và một bước tiến lớn theo hướng đó sẽ là thu thập dữ liệu về tất cả các loại súng đang được sản xuất: đường kính nòng, số lượng và chiều rộng của rãnh, độ nghiêng và hướng rãnh xoắn, cùng bất kỳ thông tin nào khác có thể để lại dấu hiệu nhận biết trên viên đạn được bắn ra từ chúng. Trong nhiều năm, Waite đã đi khắp đất nước để thu thập dữ liệu về súng ống, nghiên cứu kỹ lưỡng các sổ ghi chép cũ và phỏng vấn các quản đốc đã nghỉ hưu của các công ty vũ khí đã giải thể, nhiều người trong số họ vẫn còn giữ sổ ghi chép công việc.
Vào cuối Thế chiến thứ nhất, khi một lượng lớn súng lục nước ngoài giá rẻ tràn vào nước này, Waite thấy cần phải dành thời gian ở nước ngoài, chủ yếu là ở Châu Âu, để mở rộng cơ sở thông tin của mình.
Trong khi đó, vào những năm 1920, các nhà nghiên cứu đạn đạo Calvin Goddard và Philip Gravelle đã phát minh ra kính hiển vi so sánh, một thiết bị hai mắt trong đó mỗi thị kính nhìn qua một kính hiển vi riêng biệt ở một vùng quan sát khác nhau. Một phiên bản trước đó, đơn giản hơn, đã được sử dụng để so sánh các hạt hoặc sắc tố nghiền.

Một kính hiển vi so sánh đầu tiên. Thiết bị này được Calvin Goddard và Philip Gravelle phát minh vào những năm 1920.
Goddard và Gravelle đã cải tiến nó để có thể so sánh các viên đạn hoặc vỏ đạn cùng lúc, cạnh nhau.
Năm 1925, Goddard và Gravelle hợp tác với Waite thành lập Phòng Đạn đạo Pháp y tại Thành phố New York, nơi họ cung cấp chuyên môn tổng hợp của mình cho các cơ quan thực thi pháp luật trên khắp cả nước. Ngoài việc so sánh vũ khí, phòng còn cung cấp dịch vụ lấy dấu vân tay, phân loại máu và phân tích dấu vết.
Vào ngày lễ tình nhân năm 1929, hai người đàn ông cải trang thành cảnh sát, xếp hàng sáu tên côn đồ và một bác sĩ đi ngang qua, áp sát vào tường một gara ô tô tại số 2122 phố North Clark, Chicago. Hai người đàn ông khác, mặc áo khoác dài và mang theo súng tiểu liên Thompson (“súng Tommy”), xông vào gara và bắn bảy mươi phát đạn vào những người đàn ông đang xếp hàng. Hầu hết bọn họ chết ngay lập tức, và không ai sống sót quá vài giờ. Những kẻ nổ súng được “cảnh sát” hộ tống ra ngoài và biến mất. Một người sống sót, một tên gangster tên là Frank Gusenberg, khi được hỏi ai đã bắn anh ta, đã thở hổn hển, “Tôi sẽ không khai đâu – chẳng ai bắn tôi cả.” Anh ta chết trên sàn gara với mười bảy viên đạn trong người. Trùm côn đồ George “Bugs” Moran, mục tiêu tiềm năng của những kẻ giết người, đã đến quá muộn để được tính vào số nạn nhân. Khi được hỏi ông ta nghĩ ai đã làm điều đó, ông ta trả lời, “Chỉ có Capone mới giết người như thế.”
Khoảng một năm sau vụ thảm sát, hai khẩu súng tiểu liên Thompson được tìm thấy tại nhà của một sát thủ khét tiếng tên là Fred Burke khi hắn đang bị bắt vì tội giết một cảnh sát Michigan. Goddard đã so sánh những viên đạn giết người trong Ngày lễ Tình nhân với những viên đạn thử nghiệm được bắn ra từ những khẩu Thompson này và xác định hai khẩu súng chính là hung khí gây án. Kẻ nào thực sự đã sử dụng chúng trong gara hôm đó vẫn còn là một câu hỏi chưa có lời giải.
Qua nhiều năm, các giám định viên vũ khí đã mở rộng và tinh chỉnh kỹ thuật của họ để giờ đây họ có thể khai thác nhiều đặc điểm riêng biệt của các loại vũ khí và đạn dược khác nhau. Cỡ đạn, số lượng và kích thước rãnh xoắn trong nòng súng, và vị trí của các dấu hiệu trên vỏ đạn được gọi là “đặc điểm phân loại”. Tất cả các loại vũ khí tương tự đều có cùng đặc điểm. Ví dụ, nòng của tất cả các loại súng lục tự động Colt cỡ .45 đều có sáu rãnh xoắn với độ xoắn trái. Độ sâu rãnh của Colt .45 là 0,0035 inch, và mức độ xoắn là đi trọn một vòng tròn trong 16 inch.
“Cỡ nòng” là đơn vị đo đường kính nòng (lỗ mà viên đạn đi qua) tính bằng phần trăm inch – một khẩu súng cỡ nòng .30 có cỡ nòng là 30 phần trăm inch. Tuy nhiên, tính đơn giản của hệ thống này đã bị mất đi theo thời gian, và hiện tượng lệch nòng xảy ra. Ví dụ, khẩu Colt đặc biệt cỡ nòng .38 chỉ có cỡ nòng .346. Còn loại được gọi là .38-40 có cỡ nòng .401. Và qua nhiều năm, nhiều nhà sản xuất vũ khí hạng nhẹ đã chế tạo những khẩu súng đặc biệt với cỡ nòng khác thường.
Cỡ nòng của súng châu Âu được đo bằng milimét; cỡ nòng .30, đối với người châu Âu, là 7,63 mm. Cỡ nòng 9mm phổ biến là .354 inch và do đó gần tương đương với cỡ nòng .38 tiêu chuẩn của chúng ta, mà do độ lệch, thực tế là .359.
Nếu bạn đang xem xét một viên đạn dưới kính hiển vi và bạn cần xác định mức độ xoắn của nòng súng, bạn phải đo đường kính của viên đạn và góc mà rãnh tạo ra so với đường thẳng vẽ từ điểm đầu của viên đạn chạy ra sau. Sau đó, bạn có thể sử dụng hình học thời trung học của mình. Công thức để xác định mức độ xoắn tính bằng inch là P = ㅠ × D : tan a. P là mức độ, D là đường kính của viên đạn và tan a là tang của góc rãnh. Ví dụ, giả sử bạn đang xem một viên đạn cỡ nòng .45 có đường kính .451 inch và bạn thấy góc của rãnh là 5° 04′. Máy tính khoa học của bạn cho bạn biết rằng tang của 5° 04′ là .0885. Bạn nhân pi (3,14159) với đường kính và được 1,4168. Chia kết quả đó cho .0885 và bạn sẽ thấy mức độ xoắn là một vòng trong 16 inch.
Như bạn có thể thấy từ bản tóm tắt ngắn gọn này, một chuyên gia về đạn đạo pháp y sẽ cần biểu đồ, sách tham khảo và kiến thức chuyên môn sâu rộng chỉ để giải quyết vấn đề về đặc điểm thuộc lớp.
Đặc điểm cá nhân càng làm vấn đề thêm phức tạp. Sau khi chuyên gia xem xét biểu đồ, quan sát viên đạn qua kính hiển vi và nói với bạn rằng viên đạn được bắn từ súng lục ổ quay tự động Webley-Fosberry 455, một câu hỏi vẫn còn đó.
Liệu đó có phải là cây Webley-Fosberry mà ông nội của nghi phạm chính đã mang về nhà sau khi phục vụ trong Trung đoàn Cận vệ 12 của Nữ hoàng trong cuộc Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn ở Trung Quốc không? Hay là một cây Webley-Fosberry khác?
Khi khoét lỗ nòng ra khỏi thanh kim loại đặc dùng để chế tạo nòng súng, dụng cụ khoét lỗ nòng để lại vô số vết xước nhỏ. Sau đó, đến công cụ làm nhẵn, giúp giảm các vết xước này xuống kích thước cực nhỏ, tiếp theo là dụng cụ cắt các rãnh trên nòng và tạo ra các rãnh. Các rãnh này cũng tạo ra các kiểu vết xước riêng. Và vì mỗi lần cắt tạo ra những thay đổi nhỏ trong chính dụng cụ cắt, nên cấu trúc kim loại của mỗi nòng súng cũng hơi khác nhau. Vì vậy, ngay cả ở cấp độ vi mô, mỗi nòng súng để lại một kiểu vết xước khác nhau trên các viên đạn đi qua nó. Và hai viên đạn được bắn qua cùng một nòng súng liên tiếp (và trước khi bị hao mòn, gỉ sét hoặc xử lý sai cách làm thay đổi đáng kể các vết trên nòng súng) sẽ có các vết xước rất giống nhau.
CẢNH SÁT GUTTERIDGE
Khoảng 6 giờ sáng ngày 27 tháng 9 năm 1927, thi thể vẫn còn ấm của cảnh sát George Gutteridge thuộc Sở Cảnh sát Quận Essex được tìm thấy trên đường Ongar, ngay gần Howe Green. Anh đã bị bắn bốn phát, hai phát dưới một bên tai và một phát vào mỗi mắt. Hai viên đạn cuối cùng này chắc chắn được bắn ra sau khi nạn nhân đã chết. Sổ báo cáo của Gutteridge nằm bên cạnh, và anh vẫn còn nắm chặt một mẩu bút chì.
Scotland Yard được gọi đến ngay lập tức, và Chánh Thanh tra James Berrett đã tiếp quản vụ án. Hai viên đạn giết người đã xuyên qua thi thể của viên cảnh sát và được lấy ra từ mặt đường; hai viên còn lại được thu thập tại phòng khám nghiệm tử thi. Cả bốn viên đều có cỡ nòng .45.
Một vết lốp xe ô tô được tìm thấy trên bãi cỏ bên đường nơi Gutteridge đã đứng. Sổ báo cáo mở và đèn pin vẫn còn trong túi áo khoác khiến Berrett kết luận rằng viên cảnh sát đang cố gắng viết dưới ánh đèn pha ô tô thì bị bắn. Liệu Gutteridge có ghi lại biển số xe không? Ai không muốn biển số xe mình bị ghi lại? Khi Berrett hỏi liệu gần đây có xe nào được báo cáo bị mất cắp trong khu vực không, ông được cho biết một bác sĩ Lovell ở làng Billericay, cách hiện trường vụ án mạng 12 dặm, đã khai mất xe.
Vụ sát hại một cảnh sát địa phương đã gây ra làn sóng phẫn nộ lớn trong khu vực. Nhiều manh mối được đưa đến, tất cả đều phải được thẩm tra để đảm bảo chúng vô căn cứ như Berrett nghi ngờ. Một số người dân địa phương nghi ngờ cùng một gã đàn ông, một kẻ lập dị được cho là sở hữu súng. Hắn ta nhanh chóng được minh oan. Khi một người đàn ông ở Basingstoke, cách hiện trường vụ án 60 dặm, thú nhận tội lỗi, cảnh sát đã dành thời gian quý báu để thẩm vấn y nhưng lại phát hiện ra rằng y có thói quen thú nhận những vụ giết người mà y không hề gây ra. Y lại được minh oan.
Chiếc xe mất tích của Bác sĩ Lovell đã được cảnh sát tìm thấy tại Brixton, một quận ở phía nam London. Đất và cỏ tìm thấy trong bánh xe bên trái trùng khớp với cỏ trên bờ đường Ongar. Vết máu được xác định là máu người trên bậc lên xuống. Chiếc xe được kiểm tra kỹ lưỡng để tìm dấu vân tay, nhưng không tìm thấy dấu vân tay nào đáng chú ý. Một vỏ đạn đã sử dụng được tìm thấy phía sau ghế trước bên trái.
Những viên đạn thu được từ hiện trường vụ án đã được chuyển cho các chuyên gia tại Kho vũ khí Hoàng gia, giám định viên xác định chúng được bắn từ một khẩu Colt, Smith & Wesson, hoặc một khẩu súng lục ổ quay Webley. Sau đó, họ chuyển những viên đạn này cho Robert Churchill để xem liệu ông ta có thể rút ra được thêm thông tin nào hay không.
Đến năm 1927, Churchill đã trở thành một trong những giám định viên đạn đạo pháp y hàng đầu ở Anh. Vốn là một nhà sản xuất súng, ông đã tiếp quản công việc kinh doanh do chú mình, Edwin Churchill, thành lập khi Edwin mất năm 1910. Robert bắt đầu sự nghiệp bằng việc cung cấp bằng chứng chuyên môn trong các vụ án liên quan đến súng và trong quá trình đó đã hình thành tình bạn với Ngài Bernard Spilsbury, nhà nghiên cứu bệnh học nổi tiếng của Bộ Nội vụ. Điều này đã truyền cảm hứng cho ông mở rộng kiến thức về súng, vượt ra ngoài các đặc điểm cơ học của chúng, sang việc so sánh đạn và vỏ đạn, cũng như những chi tiết nhỏ khác của chuyên môn đạn đạo học pháp y. Năm 1927, sau khi nghe về phát minh của Goddard và Gravelle, ông đã cho chế tạo một kính hiển vi so sánh để sử dụng riêng.
Bằng cách quan sát những viên đạn đã giết chết cảnh sát Gutteridge qua kính hiển vi so sánh và so sánh thêm với những viên đạn được bắn ra từ nhiều loại súng lục ổ quay khác nhau, Churchill tuyên bố khá chắc chắn rằng khẩu súng được sử dụng trong vụ án là súng lục ổ quay Webley.
Giờ thì cảnh sát đã biết phải tìm kiếm điều gì. “Dựa trên thông tin nhận được”, họ đã theo dõi một gara ở Battersea thuộc sở hữu của Frederick Guy Browne, một người đàn ông có tiền án trộm cắp, trộm xe và bạo lực. Hắn bị bắt vào ngày 20 tháng 1 năm 1928, khi đang lái xe vào gara. Trong túi cửa bên tài xế, cảnh sát tìm thấy một khẩu súng lục ổ quay Webley đã nạp đạn đầy đủ.
Ngày hôm sau, Churchill tiến hành các thử nghiệm so sánh đạn bắn ra từ khẩu Webley của Browne và đạn giết người. Kính hiển vi so sánh cho thấy sự trùng khớp, nhưng đạn giết người bị biến dạng nặng, nên bồi thẩm đoàn khó có thể nhận ra sự giống nhau. Và vì chưa từng có bồi thẩm đoàn Anh nào được yêu cầu chấp nhận kết quả nhận dạng bằng kính hiển vi so sánh, Churchill muốn vụ án đầu tiên của mình phải rõ ràng. Vì vậy, ông đã đối chiếu vỏ đạn tìm thấy trong chiếc xe bị bỏ lại với đạn bắn ra từ khẩu Webley và nhận thấy các dấu hiệu trên khóa nòng của khẩu Webley trùng khớp với hoa văn trên vỏ đạn từ chiếc xe. Churchill muốn khẳng định chắc chắn hơn nữa. Ông đã kiểm tra hoa văn khóa nòng của 1.374 khẩu súng ngắn được đặt tại Kho vũ khí Hoàng gia để sửa chữa và nhận thấy không một khẩu nào có thể bị nhầm lẫn với khẩu súng đã đánh dấu trên vỏ đạn. Chỉ khi đó ông mới sẵn sàng ra tòa.
Ngày 23 tháng 4 năm 1928, Browne và đồng phạm, William Henry “Pat” Kennedy, bị đưa ra xét xử tại Tòa án Old Bailey. Bằng chứng pháp y đã khẳng định bản án của họ. Họ bị treo cổ vào ngày 31 tháng 5.
ỐI!
Khi cảnh sát Virginia ập vào nhà Robert và Barbara Parks vào ngày 18 tháng 2 năm 1950, họ phát hiện Robert, một cựu đại úy quân đội 38 tuổi, trong phòng ngủ. Ông đã chết vì vết thương do súng bắn: một viên đạn đi qua sườn phải, xuyên qua ngực và găm vào phía sau tim.
Barbara kém chồng mười hai tuổi. Robert Parks nổi tiếng là người nóng tính, và mấy năm gần đây, hôn nhân của họ gặp nhiều trắc trở. Chỉ vài tuần trước đó, Barbara đã gọi điện cho một người bạn ở San Francisco để vay tiền mua vé xe khách một chiều. Cô muốn rời xa Robert.
Câu chuyện của Barbara, khi cô kể lại trong tiếng nức nở, là cô đang ở trong bếp thì nghe thấy tiếng súng. Chạy vội vào phòng ngủ, cô thấy Robert đang đứng cạnh cửa. “Em yêu, súng bị nổ sớm,” ông nói, rồi gục xuống chết.
Khẩu súng được nhắc đến, một khẩu súng lục tự động, nằm dựa vào bức tường phía xa của phòng ăn. Một phát súng đã được bắn ra, và vỏ đạn đã không được đẩy ra đúng cách – nó bị kẹt ở lỗ đẩy. Dựa vào góc viên đạn đi vào cơ thể Parks và việc không có dấu vết thuốc súng, các điều tra viên pháp y kết luận rằng Parks không thể tự mình cầm súng bắn chính mình. Barbara Parks sau đó đã bị bắt vì tội giết chồng.
Nhưng các nhà điều tra có hai câu hỏi cần trả lời trước khi khép lại vụ án: Tại sao Barbara Parks lại kể một câu chuyện khó tin như vậy khi cô ta có nhiều lời giải thích hợp lý hơn? Cô ta có thể viện cớ tự vệ, hoặc nhầm chồng mình là kẻ trộm, hoặc ông ta đang dạy mình bắn súng thì súng vô tình cướp cò. Và làm thế nào mà tấm lưới tản nhiệt trên sàn nhà giữa phòng ngủ và phòng ăn lại bị móp đến mức bong tróc cả lớp sơn xuống tận lớp kim loại?
Các thám tử đã thu thập bằng chứng: khẩu súng, viên đạn, vỏ đạn và lưới tản nhiệt – và gửi chúng đến Phòng thí nghiệm Tội phạm FBI, nơi các kỹ thuật viên xác minh rằng khẩu súng thực sự đã bắn ra viên đạn cụ thể đó, vốn được bọc trong vỏ đạn. Họ kiểm tra lưới tản nhiệt và thấy vết lõm trên đó trùng khớp với hai điểm trên thanh trượt và búa đập kích ngòi nổ của khẩu súng tự động. Dưới kính hiển vi, họ quan sát thấy những đốm sơn nhỏ li ti từ lưới tản nhiệt dính tại đúng những điểm đó trên khẩu súng.
Sắp xếp các chi tiết của mảnh ghép, các kỹ thuật viên FBI hình dùng diễn tiến sự việc như sau: Parks đã ném khẩu súng xuống sàn phòng trong cơn nóng giận; khẩu súng chạm trúng lưới tản nhiệt ở một vị trí không đúng rồi súng nổ. Viên đạn trúng Parks – góc bắn trúng vừa đúng – và vỏ đạn kẹt trong lỗ đẩy khi lực giật của khẩu súng lục làm nó nảy lên trên sàn phòng.
FBI đã cử một chuyên gia về vũ khí đến Virginia để làm chứng cho những phát hiện này. Thẩm phán phán quyết rằng cái chết của Parks là một tai nạn. Lời mô tả khó tin của Barbara Parks về sự việc thực chất là sự thật. Cô đã được thả khỏi tù.
Hệ thống Nhận dạng Đạn đạo Tích hợp, hay IBIS, là một hệ thống được phát triển bởi Forensic Technology, một công ty Canada, nhằm mục đích phân tích, lưu trữ và chia sẻ dữ liệu so sánh đạn và các thông tin đạn đạo khác. Năm 1993, hệ thống này được Phòng Rượu, Thuốc lá và Vũ khí Hoa Kỳ (ATF) mua lại vào cùng thời điểm FBI đang phát triển một hệ thống riêng mang tên Drugfire. Trong vòng năm năm, FBI đã từ bỏ Drugfire và đạt được thỏa thuận với ATF về việc chia sẻ trách nhiệm quản lý IBIS. Theo thỏa thuận, FBI sẽ cung cấp và duy trì mạng lưới liên lạc cần thiết, trong khi ATF sẽ quản lý các hoạt động thực địa.
IBIS là một hệ thống tinh vi, đa diện. Sử dụng thiết bị IBIS đặc biệt, giám định viên pháp y chụp ảnh các viên đạn hoặc vỏ đạn thu được từ hiện trường vụ án và nhập chúng vào cơ sở dữ liệu IBIS cùng với thông tin cơ bản – cỡ nòng, ngày xảy ra vụ án, ngày xâm nhập và thông số kỹ thuật nòng súng. Sử dụng các thuật toán phức tạp, IBIS sau đó so sánh dữ liệu mới nhập với thông tin đã lưu trữ. Các đối tượng trùng khớp sẽ được giám định viên pháp y kiểm tra trên màn hình máy tính. Nếu kết quả so sánh có vẻ trùng khớp, bằng chứng vật lý thực tế sẽ được so sánh dưới kính hiển vi để xác minh cuối cùng. Một nhận dạng liên quan đến hai hoặc nhiều vụ án khác nhau được coi là một “vụ án” và được chỉ định một ký hiệu đặc biệt để tham khảo trong tương lai.
Chương trình Mạng Thông tin Đạn đạo Tích hợp Quốc gia (NIBIN) đã kết nối IBIS với hơn hai trăm phòng thí nghiệm tội phạm trên khắp Hoa Kỳ. Hơn nữa, hệ thống IBIS được sử dụng tại hơn ba mươi quốc gia trên toàn thế giới. Nó được ghi nhận là đã phát triển hàng ngàn đầu mối mà nếu không có nó, có thể đã bị bỏ sót.
Trong nỗ lực moi móc mọi thông tin có thể từ những viên đạn được tìm thấy tại hiện trường vụ án, FBI cũng đã phát triển một kỹ thuật được gọi là CABL, Phân tích Thành phần Chì của Đạn. Lý thuyết rất đơn giản: hầu hết các viên đạn đều được làm bằng chì, hoặc chứa ít nhất một lõi chì bên trong lớp vỏ kim loại cứng hơn. Lõi chì này chứa tạp chất, các nguyên tố còn sót lại khi chì được tinh chế hoặc đúc, cũng như các nguyên tố được cố ý thêm vào để thay đổi thành phần của chì. (Ví dụ, antimon có thể được thêm vào để tăng độ cứng của chì.) Hơn nữa, chì có nguồn gốc từ quặng khai thác ở các địa điểm khác nhau sẽ chứa các tạp chất khác nhau và với tỷ lệ khác nhau. Các chất phụ gia của các nhà sản xuất đạn khác nhau cũng sẽ khác nhau về loại và hàm lượng.
Vì vậy, nếu muốn liên hệ một viên đạn tại hiện trường với nghi phạm và phát hiện viên đạn bị hư hỏng hoặc vỡ vụn quá mức để so sánh với viên đạn được bắn ra từ vũ khí của nghi phạm, bạn có thể kiểm tra thành phần của chì và so sánh với chì từ những viên đạn được tìm thấy trong tay nghi phạm. FBI lập luận rằng nếu chúng giống hệt nhau hoặc rất giống nhau, thì những viên đạn này có thể đến từ cùng một lô chì, thậm chí có thể từ cùng một hộp đạn.
Khi FBI bắt đầu phân tích chì trong đạn vào những năm 1970, chỉ có ba tạp chất được đo lường – antimon, asen và đồng. Năm 1990, các xét nghiệm nhạy hơn được áp dụng, và thiếc, bismuth, bạc và cadmium được thêm vào danh sách các nguyên tố có thể phát hiện. FBI tin rằng những xét nghiệm này là hợp lệ và hữu ích, và các chuyên gia pháp y của họ đã chứng thực điều đó trong các phiên tòa hình sự. Ví dụ như sau:
Chúng ta không thể phân biệt được chúng. Điều đó cho thấy chúng được sản xuất hoặc có thể được sản xuất trong cùng một nồi chì tại một nhà máy sản xuất đạn. Vì vậy, trong tổng số khoảng chín tỷ viên đạn được sản xuất tại Hoa Kỳ, chúng ta có thể thu hẹp xuống còn hàng chục nghìn viên đạn được sản xuất có cùng thành phần.
Qua nhiều năm, khi chính FBI bắt đầu đặt câu hỏi về những giả định này, họ đã yêu cầu Viện Hàn lâm Quốc gia kiểm tra tính hợp lệ khoa học của chúng. Các Viện Hàn lâm đã ban hành một báo cáo, Phân tích Pháp y: Cân nhắc bằng chứng chì đạn, cho rằng FBI có lẽ đã quá vội vàng và kết luận của họ tích cực hơn mức được chứng minh bằng bằng chứng. Ví dụ, Viện Hàn lâm đã phát hiện ra rằng các nhà sản xuất đạn thường đổ chì còn sót lại từ một lô đạn vào nồi nấu được sử dụng cho lô mới, làm thay đổi đáng kể đặc tính hóa học của nó. Tương tự, các viên đạn mới đúc được đổ vào các thùng chứa lớn trước khi lắp vào vỏ đạn, do đó đạn từ lô này dễ dàng bị trộn lẫn với đạn từ lô khác. Hơn nữa, thành phần hóa học của một khối chì nóng chảy có thể thay đổi từ điểm này đến điểm kia trong khối đó. Và việc đóng gói đạn từ cùng một lô lại với nhau không được cân nhắc; báo cáo lưu ý rằng FBI đã nhận dạng các viên đạn từ mười bốn nguồn khác nhau trong một hộp đạn riêng lẻ. Báo cáo kết luận:
CABL không có tính đặc thù riêng biệt của các kỹ thuật như phân tích DNA để sử dụng làm bằng chứng độc lập. Điều quan trọng là các chuyên gia tư pháp hình sự và bồi thẩm đoàn phải hiểu rõ khả năng cũng như những hạn chế đáng kể của kỹ thuật pháp y này.
8: Dấu chân của một con chó săn khổng lồ
PHÂN TÍCH BẰNG CHỨNG DẤU VẾT là một trong những khía cạnh hữu ích nhất cũng như gây tranh cãi nhất của điều tra pháp y: hữu ích vì nó liên quan đến những gì tội phạm có thể đã bỏ lại hoặc mang theo khỏi hiện trường vụ án; gây tranh cãi vì, mặc dù được ngụy trang dưới vỏ bọc khoa học, phần lớn nó dựa trên giai thoại hoặc “lẽ thường” và chưa bao giờ được kiểm chứng nghiêm ngặt. Như Albert Einstein đã nói, “Lẽ thường là tập hợp những định kiến có được từ năm 18 tuổi.” Đôi khi những giai thoại này là những khái quát hợp lệ và đôi khi lẽ thường hóa ra lại là khoa học hợp lệ, nhưng không có cách nào để biết được đâu là cái nào nếu không thực hiện các bài kiểm tra xác thực.
Khi bất kỳ quy trình pháp y nào trở thành lối mòn, đã được thiết lập, và bằng chứng thu được từ quy trình đó được chấp nhận trong các vụ án hình sự mà không cần tranh luận, sai sót có thể len lỏi vào. Và khi quy trình đó dựa trên khoa học chưa được chứng minh, sai sót có thể nghiêm trọng và gây thiệt hại. Không phải tất cả, hoặc thậm chí hầu hết, bằng chứng dấu vết đều không hợp lệ, nhưng khả năng này là điều cần cảnh giác.
Bằng chứng dấu vết bao gồm những mảnh vụn nhỏ, có thể là cực nhỏ, mà tội phạm để lại tại hiện trường vụ án hoặc mang theo bên mình. Chúng có thể được thu thập và phân tích để xác định mối liên hệ giữa tội phạm và hành vi phạm tội. Trong số các khả năng có thể xảy ra là máu (và các chất dịch cơ thể khác); chất nổ còn sót lại; sợi động vật, sợi thực vật hoặc sợi nhân tạo; mảnh thủy tinh; lông; vết sơn cạo; dấu giày hoặc dấu chân; dấu lốp xe; vết cắn (sẽ thảo luận trong Chương 15); dấu vết trên đạn hoặc vỏ đạn; dấu môi; dấu tai; dấu găng tay; mẩu thức ăn hoặc các mảnh vụn khác; và vết cạo chứa bất kỳ vật liệu nào.
Tiến sĩ Edmond Locard (1877-1966) là tác giả của bộ sách quan trọng Traité de Criminalistique (Luận thuyết về Tội phạm học) (1923), gồm bảy tập, và là người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “tội phạm học”. Là một nhà tội phạm học người Pháp, Locard có bằng cấp về cả y khoa và luật, và là học trò của Alexandre Lacassagne, giáo sư y khoa pháp y tại Đại học Lyon. Locard trở thành trợ lý của Lacassagne nhưng rời đi vào năm 1910 để thành lập phòng thí nghiệm cảnh sát của riêng mình. Cơ sở của ông cuối cùng đã trở thành phòng thí nghiệm chính thức của cảnh sát kỹ thuật thuộc Quận Rhône. Kỹ năng của ông được đánh giá cao đến mức ông liên tục được các cơ quan cảnh sát trên khắp châu Âu săn đón.
Năm 1910, Locard đã nêu ra nguyên tắc mà ngày nay được gọi là Nguyên tắc Trao đổi của Locard: “Bất kỳ hành động nào của con người, và nhất là hành động bạo lực phạm tội, không thể xảy ra mà không để lại dấu vết.”
Năm 1912, Locard có cơ hội chứng minh lý thuyết của mình khi được gọi đến để hỗ trợ cảnh sát Lyons điều tra vụ sát hại một phụ nữ trẻ tên là Marie Latelle. Cô gái bị siết cổ trong phòng khách của ngôi nhà cô sống chung với cha mẹ, và có những vết hằn mờ nhạt trên cổ, cảnh sát nghi ngờ có thể là dấu vân tay. Từ tình trạng của thi thể, cảnh sát suy ra rằng Marie đã bị giết vào sáng sớm hôm trước. Cô có bạn trai, Emile Gourbin, một nhân viên ngân hàng, người được cho là nghi phạm hợp lý. Mối quan hệ của anh ta với Marie xinh đẹp lúc đầu khá bấp bênh; cô thích được tán tỉnh, còn anh ta thì có tính ghen tuông điên cuồng.
Vào thời điểm xảy ra án mạng, anh ta đang ăn tối với bạn bè cách đó vài cây số. Những người bạn này chẳng những hậu thuẫn chứng cứ ngoại phạm của anh ta mà còn khai rằng anh ta ở dưới nhà chơi bài đến khoảng một giờ sáng rồi lên phòng ngủ trên lầu để ngủ qua đêm.
Viên thẩm phán cảnh sát gọi Locard đến xem có thể giúp gì không – có lẽ ông ta biết cách nào đó để lấy dấu vân tay trên cổ nạn nhân. Locard khám nghiệm tử thi. Ông ta nhìn kỹ cổ nạn nhân qua kính lúp. Ông ta nói với cảnh sát rằng ông ta rất tiếc, nhưng những vết trên cổ không phải là dấu vân tay. Chúng là vết cào, có lẽ là do móng tay cào.
Locard đến nhà tù và lấy mẫu da cạo dưới móng tay của nghi phạm. Trở lại phòng thí nghiệm, ông quan sát mẫu vật qua kính hiển vi. Có những tế bào da có thể là của nạn nhân, nhưng cũng có thể là của Gourbin. Ngoài ra còn có những hạt nhỏ của một thứ gì đó khác, màu hồng. Quan sát kỹ hơn, Locard phát hiện ra rằng thứ này được tạo thành từ bột gạo chứa một lượng nhỏ kẽm oxit, magie stearat và một dạng oxit sắt được gọi là đỏ Venice. Sắc tố đỏ Venice sẫm hơn màu đỏ tươi một chút, được sử dụng trong các loại phấn phủ đắt tiền cùng với bột gạo, kẽm oxit và magie stearat.
Cảnh sát đã thẩm vấn tất cả các nhà sản xuất phấn phủ địa phương – thời đó chưa có mỹ phẩm đại trà – và tìm thấy một người sản xuất ra sản phẩm giống hệt sản phẩm được tìm thấy dưới móng tay của Gourbin. Thực tế, họ đã bán phấn phủ cho Marie Latelle.
Khi đối mặt với bằng chứng này, Gourbin đã thú nhận tội lỗi. Để có bằng chứng ngoại phạm, hắn đã chỉnh đồng hồ ở nhà bạn nhanh hơn một tiếng rưỡi. Sau đó, hắn lẻn ra ngoài gặp Marie. Hắn cam đoan với cảnh sát rằng cuộc hẹn này có mục đích hoàn toàn khác, nhưng khi hắn và Marie cãi nhau, hắn đã siết cổ cô ta. Lời thú tội của Gourbin là một trong những thành công đầu tiên của Locard khi sử dụng kính hiển vi và bằng chứng dấu vết.
Locard cũng đóng góp vào sự phát triển của nghiên cứu dactyloscopy (kỹ thuật phân tích dấu vân tay), và phát minh ra phương pháp poroscopy, nghiên cứu các kiểu dạng lỗ chân lông trên các đường vân nhú lên của dấu vân tay như một công cụ hỗ trợ nhận dạng. Năm 1914, Locard công bố kết quả phân tích thống kê các mẫu vân tay và thiết lập các quy tắc so sánh dấu vân tay vẫn còn đúng cho đến ngày nay. Để xác định các điểm trùng khớp giữa dấu vân tay nghi ngờ và dấu vân tay mẫu:
– Nếu có hơn 12 điểm trùng khớp và dấu vân tay rõ nét thì hai dấu vân tay sẽ trùng khớp.
– Nếu có 8 đến 12 điểm trùng khớp, trường hợp này là ranh giới và mức độ chắc chắn của sự trùng khớp sẽ phụ thuộc vào độ sắc nét của dấu vân tay; độ hiếm của loại dấu vân tay; sự hiện diện của lõi dấu vân tay và hình tam giác ở phần dấu vân tay tương tự; khả năng nhìn thấy các lỗ chân lông; độ rõ nét và sự phù hợp rõ ràng về chiều rộng của các rãnh và vân nhú, hướng của các đường và góc của các điểm phân nhánh.
– Nếu có ít hơn 8 điểm trùng khớp, dấu vân tay không thể được sử dụng để nhận dạng chính xác mà chỉ để khẳng định rằng nghi phạm không thể bị loại trừ.
Locard là một trong những người sáng lập Học viện Khoa học Hình sự Quốc tế vào năm 1929, một mô hình cho các tổ chức khoa học pháp y ngày nay.
Sáng thứ Sáu Tuần Thánh, ngày 10 tháng 4 năm 1936, Nancy Evans Titterton, 34 tuổi, đã bị cưỡng hiếp và sát hại tại căn hộ của mình ở số 22 Beekman Place, Manhattan. Cô được Theodore Kruger, chủ một cửa hàng đồ nội thất, và trợ lý của ông, John Fiorenza, phát hiện khi họ đến trả lại một chiếc ghế sofa cho căn hộ. Cửa trước căn hộ hé mở, nên họ vào nhà và gọi cô Titterton. Họ tìm thấy thi thể cô trong phòng tắm, nằm sấp trong bồn tắm không nước.
Đây là một vụ án nghiêm trọng. Nancy Titterton là một tác giả và nhà phê bình sách nổi tiếng, đồng thời là vợ của nhà phê bình văn học Lewis Titterton, người đứng đầu bộ phận bản quyền văn học tại NBC. Trợ lý Chánh Thanh tra John Lyons được giao nhiệm vụ chỉ đạo cuộc điều tra và được giao một lực lượng gồm 65 thám tử với hy vọng ông có thể nhanh chóng phá án.
Thi thể của Titterton trần truồng, chỉ còn lại một đôi tất dài tụt xuống. Bộ đồ ngủ quấn chặt đã được dùng để siết cổ cô. Cô đã bị cưỡng hiếp. Một con dao đã được lau sạch dấu vân tay nằm trên sàn phòng tắm. Có dấu hiệu của một cuộc vật lộn trong phòng ngủ. Dấu vết dây trói trên cổ tay nạn nhân cho thấy cô đã bị trói trước khi bị cưỡng hiếp, nhưng sợi dây dường như đã bị cắt đứt và lấy đi. Nhưng rồi Lyons đã gặp may: khi viên giám định y khoa nâng thi thể lên, ông phát hiện ra một đoạn dây dài 30 cm, được cắt gọn gàng ở cả hai đầu. Nó tương tự như dây buộc rèm kiểu Venice, nhưng nó không được tháo ra khỏi bất kỳ tấm rèm nào trong căn hộ.
Có một số manh mối rõ ràng. Một người đàn ông lạ mặt, được mô tả là trẻ trung, dễ mến và ăn nói lưu loát, đã gõ cửa tầng dưới hai lần, lần cuối vào lúc ba giờ sáng, để hỏi thăm tin tức về hai người phụ nữ khác nhau, cả hai đều không sống trong tòa nhà. Nhưng không thể tìm thấy người đàn ông đó, và không có manh mối nào khác dẫn đến đâu cả. Lyons quyết định xem liệu khoa học có thể giúp ích hay không. Như tờ New York Times đã viết: “Cảnh sát cho biết họ dựa vào việc kiểm tra trong phòng thí nghiệm các bằng chứng vật lý để tìm ra lời giải. Các lĩnh vực khoa học gần như bị bỏ qua trước đây đã được đưa vào điều tra hôm qua, và một số phương pháp điều tra khoa học được đề xuất trong vụ án Hauptmann giờ đã được sử dụng.” (Bruno Richard Hauptmann gần đây đã bị xét xử và kết án về tội bắt cóc và giết hại em bé nhà Lindbergh.)
Hai vật chứng có thể có giá trị pháp lý đã được kiểm tra kỹ lưỡng. Thứ nhất là đoạn dây thừng được tìm thấy bên dưới nạn nhân. Chất liệu cơ bản của nó là sợi Tampico, một sản phẩm được làm từ cây thùa sợi Mexico và đủ hiếm để có thể truy tìm nguồn gốc. Thứ hai là một sợi tóc trắng cứng dài nửa inch được tìm thấy sau khi kiểm tra cẩn thận tấm trải giường bằng kính lúp. Tiến sĩ Alexander Gettler thuộc Phòng Thí nghiệm Độc chất học New York, người tìm thấy sợi tóc, đã đặt nó dưới kính hiển vi và kết luận đó là lông ngựa. Đồ nội thất thường được nhồi bằng lông ngựa. Lyons đã lấy một mẫu lông từ chiếc ghế dài mà công nhân đã giao đến, và Gettler thấy hai sợi giống hệt nhau. Sau đó, Lyons đã cho người của mình kiểm tra tất cả đồ nội thất khác trong căn hộ và thấy rằng không có món nào được nhồi bằng bất cứ thứ gì trùng khớp với sợi lông được tìm thấy trên tấm trải giường. Vì vậy, sợi lông ngựa đó đã đến từ chiếc ghế dài. Có lẽ nó đã rơi ra từ quần áo của một trong những người thợ sửa đồ nội thất.
Theodore Kruger, chủ cửa hàng đồ nội thất, nói với Lyons rằng Fiorenza, trợ lý của ông, đã ở cùng ông khi họ lấy chiếc ghế sofa về hãng sửa một ngày trước vụ án mạng, và mãi đến gần trưa hôm xảy ra án mạng mới mang đến trả lại. Khi Lyons xem xét hồ sơ tiền án của Fiorenza, ông phát hiện ra rằng trong suốt 24 năm qua, Fiorenza đã bị bắt bốn lần vì tội trộm cắp tài sản và từng thụ án hai năm tù. Một báo cáo tâm thần năm 1934 cũng chẩn đoán Fiorenza bị ảo tưởng và dễ có những tưởng tượng hoang đường.
Người bán hàng tại cửa hàng bọc nệm giờ đây chắc chắn là nghi phạm chính, nhưng không có đủ bằng chứng để đưa ra bồi thẩm đoàn. Bằng chứng cần thiết đã đến vào ngày 17 tháng 4 khi sợi dây thừng Tampico dài 13 inch được tìm thấy bên dưới nạn nhân được xác định là của Công ty Hanover Cordage ở York, Pennsylvania. Các nhà bán buôn của họ đã thực hiện nhiều giao dịch mua bán ở khu vực New York, và một trong số đó đã đến cửa hàng bọc nệm của Kruger.
Có thể sợi lông ngựa trắng đã vô tình lọt vào phòng ngủ, mặc dù hai người đàn ông không hề vào phòng ngủ khi họ giao chiếc ghế sofa. Nhưng sợi dây thừng được tìm thấy dưới thi thể đã buộc Fiorenza phải bị tình nghi và bị đưa vào thẩm vấn chuyên sâu. Và khi nghe tin sợi dây thừng đã được lần ra từ cửa hàng, hắn đã thú nhận. Hắn khai đã trở lại căn hộ sáng hôm đó với niềm tin chắc chắn rằng Nancy Titterton đã phải lòng hắn trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi hôm trước. Khi cô cự tuyệt, hắn nổi cơn thịnh nộ đến mức trói cô lại và cưỡng hiếp. Điều này có vẻ hợp lý một cách hời hợt, vì Fiorenza đã được chẩn đoán mắc chứng hoang tưởng. Nhưng nếu vậy, tại sao hắn lại mang theo con dao và sợi dây?
Sau đó, hắn đã siết cổ cô và bỏ cô lại trong bồn tắm.
Hắn ta khai cô ấy vẫn còn thở khi hắn bỏ đi. Nhưng nếu hắn ta định để cô ấy sống, tại sao lại siết cổ cô ấy?
Câu chuyện của hắn không nhận được sự đồng cảm hay tin tưởng từ bồi thẩm đoàn đã kết án hắn. Hắn bị hành quyết vào ngày 22 tháng 1 năm 1937.
“Tôi ghét kiểu ‘tội phạm không bị đền tội ‘ này. Tội phạm ở Hoa Kỳ có lẽ là một trong những ngành kinh doanh lớn nhất thế giới hiện nay.”
-Paul Leland Kirk
Năm 1929, Paul Leland Kirk (1902-1970) được bổ nhiệm làm giáo sư hóa học tại Đại học California, Berkeley. Ngoại trừ những năm Thế chiến II, ông đã dành toàn bộ sự nghiệp của mình tại Berkeley, giảng dạy và phát triển các kỹ thuật phá án, sau này được gọi là “tội phạm học”, một thuật ngữ mà chính Kirk đã phổ biến. Ông mong muốn thiết lập lĩnh vực này không chỉ là một nghề nghiệp mà còn là một ngành khoa học được công nhận. Lời giải thích rõ ràng nhất cho niềm tin của ông là một tuyên bố được ông đưa ra vào năm 1974:
Bất cứ nơi nào hắn bước đi, bất cứ thứ gì hắn chạm vào, bất cứ thứ gì hắn để lại, dù là vô thức, đều sẽ trở thành nhân chứng thầm lặng chống lại hắn. Không chỉ dấu vân tay hay dấu chân, mà cả tóc tai, sợi vải trên quần áo, mảnh thủy tinh hắn đập vỡ, vết tích dụng cụ hắn để lại, lớp sơn hắn cào xước, máu hay tinh dịch hắn để lại hay được thu thập. Tất cả những điều này và hơn thế nữa, đều là nhân chứng thầm lặng chống lại hắn. Đây là bằng chứng không bao giờ quên. Nó không hề bị nhầm lẫn.
bởi sự phấn khích nhất thời. Nó không vắng mặt khi nhân chứng vắng mặt. Nó là bằng chứng thực tế. Bằng chứng vật chất không thể sai, nó không thể tự khai man, nó không thể hoàn toàn vắng mặt. Chỉ có việc con người không tìm thấy, nghiên cứu và hiểu được nó mới có thể làm giảm giá trị của nó.
Việc đào tạo của Kirk với tư cách là một nhà vi hóa học đã đưa ông đến với lĩnh vực điều tra pháp y, nhưng ông được biết đến nhiều nhất với tư cách là một chuyên gia về vết máu bắn tung tóe và phân tích hiện trường vụ án trong vụ án Sam Sheppard (xem Chương 11).
Việc sử dụng bằng chứng vết máu bắn tung tóe đã được các nhà phân tích pháp y và công chúng chú ý trong vụ án Sheppard, nhưng ý tưởng này đã tồn tại khá lâu. Năm 1890, Tiến sĩ Eduard Piotrowski thuộc Viện Y học Pháp y Ba Lan đã thử nghiệm sử dụng búa và rìu trên đầu thỏ. Ông đã công bố những phát hiện của mình trong cuốn sách nhỏ năm 1895 “Về Nguồn gốc, Hình dạng, Hướng và Sự phân bố của Vết máu sau Vết thương ở đầu do Đánh đập”. Piotrowski tin rằng “Điều quan trọng nhất đối với lĩnh vực pháp y là phải tập trung tối đa vào các vết máu được tìm thấy tại hiện trường vụ án vì chúng có thể làm sáng tỏ một vụ giết người và giải thích những khoảnh khắc quan trọng của vụ việc.”
Bằng chứng sinh học – mẫu máu, nước bọt và tinh dịch – được thu thập càng sớm càng tốt tại hiện trường vụ án. Việc này không phải lúc nào cũng đơn giản như bạn nghĩ. Máu khô có thể có màu đỏ, nâu, đen, thậm chí xanh lá cây hoặc vàng. Và không phải tất cả các vết đỏ đều là máu. Dịch, đặc biệt là vết nước bọt, rất dễ bị bỏ sót. Việc kiểm tra kỹ lưỡng và cẩn thận khu vực bằng một nguồn sáng thay thế, sử dụng phần quang phổ để các mẫu sinh học dễ nhìn thấy hơn, là điều cần thiết.
Dấu giày hoặc dấu lốp xe có thể là dấu vết phẳng (dấu chân trên sàn bụi) hoặc dấu tạo hình (vết lốp xe trên bùn). Trước tiên chúng được chụp ảnh, tạo ra cái gọi là “bản in tiềm ẩn”. Trong trường hợp dấu vết phẳng, sau đó nó được bóc ra bằng băng dính như dấu vân tay. Giày của nghi phạm có thể được so sánh với dấu giày bằng cách kiểm tra cạnh nhau hoặc bằng lớp phủ trong suốt. Dấu vết tạo hình sẽ được bảo quản bằng cách đúc thạch cao. Các nhà phân tích tương tự thường xử lý cả dấu chân và dấu lốp xe, và bất kỳ dấu vết nào khác mà không có chuyên gia cụ thể. Người giám định sẽ xem xét trước tiên các đặc điểm của nhóm: lốp xe có cùng kiểu gai, giày có cùng dấu hiệu gót và đế giày đặc trưng. Sau đó, người giám định sẽ tìm kiếm các “dấu vết ngẫu nhiên” – dấu vết mòn, vết cắt hoặc vết trầy xước xuất hiện trên dấu vết, hoặc các chất bám dính trên lốp hoặc giày. Các dấu hiệu của nhóm sẽ dẫn điều tra viên đến nhãn hiệu và kiểu lốp xe – có những thư mục chứa thông tin này – nhưng các dấu vết ngẫu nhiên sẽ liên kết dấu giày hay dấu lốp xe với một chiếc giày hoặc lốp xe cụ thể.
Đôi khi đặc điểm thuộc lớp như một kiểu giày, một nhãn hiệu xe … có thể rất gợi ý. Có những dấu chân trên máu tại hiện trường vụ giết người kép Nicole Brown Simpson-Ronald Goldman ở Los Angeles. Giám định viên FBI William Bodziak có thể chứng minh rằng chúng được tạo ra bởi một đôi giày Bruno Magli cỡ 12, được sản xuất độc quyền bởi một công ty Ý với số lượng rất hạn chế. O. J. Simpson, chồng cũ của Nicole, đã bị xét xử về tội giết người và được trắng án. Mặc dù anh ta phủ nhận từng sở hữu giày Bruno Magli, một bức ảnh chụp anh ta đi một đôi giày đã được tìm thấy. Bản thân đôi giày đã biến mất. Việc tìm thấy đôi giày và chứng minh rằng các dấu hiệu tai nạn trùng khớp sẽ là một bằng chứng mạnh mẽ chống lại anh ta. Mặt khác, nếu các dấu hiệu tai nạn không trùng khớp thì sẽ dễ dàng tin vào sự vô tội của anh ta hơn.
Để sử dụng bằng chứng dấu chân hoặc vết lốp xe, giám định viên cần phải chỉ ra chính xác loại giày hoặc lốp xe nào đã tạo ra dấu vết. Sau đó, các thám tử cần phải có khả năng liên kết một người cụ thể với dấu vết đó.
SWGTread, một tổ chức chuyên nghiệp dành cho các giám định viên giày dép và lốp xe, đề xuất rằng các thành viên của họ nên tránh sử dụng thuật ngữ thông dụng như “phù hợp với” hoặc “chịu trách nhiệm cho” và sử dụng các thuật ngữ chuẩn hóa sau:
– “nhận dạng” (kết luận chắc chắn về bản sắc)
– “hầu như chắc chắn đã tạo ra” (mức độ liên kết rất cao)
– “có thể đã tạo ra” (sự liên kết đáng kể của nhiều đặc điểm thuộc lớp)
– “kkhông thể kết luận” (liên kết hạn chế của một số đặc điểm)
– “chắc chắn không tạo ra” (mức độ không liên kết rất cao)
– “loại trừ” (loại trừ chắc chắn)
– “không phù hợp” (không đủ chi tiết để so sánh có ý nghĩa)
Louise M. Robbins (1928-1987) là giáo sư nhân chủng học tại Đại học Bắc Carolina ở Greensboro và là tác giả của cuốn Dấu chân: Thu thập, Phân tích và Diễn giải. Bà có thể phân biệt được những điều mà người khác không thể và sẵn sàng trình bày nó trên một tạp chí khoa học hoặc tuyên thệ trước tòa án. Năm 1978, khi nhà nhân chủng học Mary Leakey và nhóm của bà phát hiện ra những dấu chân người có niên đại 3,6 triệu năm trong một lòng suối cổ đại tại Laetoli ở Tanzania, Robbins khẳng định rằng chúng là dấu chân của con người, và hơn nữa, chúng là dấu chân của một người đàn ông và một người phụ nữ đang đi bộ cùng nhau, và người phụ nữ đang mang thai.
Trong các vụ án hình sự, khi có dấu giày để lại tại hiện trường, nhưng không có dấu giày của nghi can nào khớp với nó, bên công tố sẽ yêu cầu Robbins thực hiện “việc phân tích kiểu mòn của giày”. Như bà đã nhiều lần làm chứng, không có hai người nào có hình dạng bàn chân hoặc dáng đi giống hệt nhau. Vì vậy, nếu bà kiểm tra bên trong giày của bị cáo, bà có thể khớp bàn chân với dấu giày , ngay cả khi dấu giày được tạo ra bởi một chiếc giày khác. Các luật sư bào chữa và nhiều nhà khoa học đồng nghiệp của bà gọi phương pháp của bà là “phân tích Lọ lem”.
Trong một bài viết do Trung tâm Chính trực Công cộng xuất bản, Steve Weinberg đã viết:
Các công tố viên trên khắp cả nước từng thuê Louise Robbins, một giáo sư nhân chủng học tại Đại học North Carolina-Greensboro, người tuyên bố có thể đối chiếu dấu chân tại hiện trường vụ án với giày dép của thủ phạm. Ít có nhà khoa học pháp y nào khác xác nhận tính hợp lệ của các kỹ thuật của Robbins. Tuy nhiên, các công tố viên đã liên tục gọi điện cho Robbins, tin tưởng vào thiện chí của thẩm phán xét xử để chứng nhận bà là một chuyên gia. Robbins đã giúp kết án các bị cáo trên khắp cả nước cho đến khi kỹ thuật của bà được chứng minh là mang lại kết quả không tốt hơn sự may rủi.
Robbins bắt đầu làm chứng bằng phương pháp Lọ Lem vào năm 1976, và đến năm 1986, bà đã là nhân chứng truy tố tại mười tiểu bang và Canada. Năm 1987, Viện Hàn lâm Khoa học Pháp y Hoa Kỳ đã cho một hội đồng gồm 135 nhà nhân chủng học, nhà khoa học pháp y và luật sư xem xét các vụ án và kết luận của Tiến sĩ Robbins. Họ kết luận rằng công trình của bà không có giá trị khoa học. Một thành viên của hội đồng, giáo sư luật Melvin Lewis, đã gọi đó là “việc hoàn toàn vớ vẩn”.
Tại sao các thẩm phán, những người có trách nhiệm loại bỏ khoa học rác rưởi ra khỏi phòng xử án, lại chấp nhận lời khai của kẻ lừa đảo trơn tru này? Một lý do là bà đã làm chứng cho bên công tố. Hầu hết các thẩm phán tòa án hình sự, vốn đã trải qua các cấp bậc công tố, lại ít xem xét bằng chứng ủng hộ bên công tố hơn mức cần thiết.
Giống như một khẩu súng cụ thể để lại dấu ấn trên viên đạn xuyên qua nòng súng, một dụng cụ cụ thể – dùi đục, tua vít hay búa dùng để đập, nạy hoặc đục – cũng sẽ để lại dấu ấn trên bề mặt bị biến dạng. Và mỗi dụng cụ đều có những dấu vết riêng biệt có thể so sánh với những dấu vết còn sót lại.
Chuyên gia phân tích pháp y chuyên về lĩnh vực nghiên cứu này được gọi là giám định viên vũ khí và dấu vết công cụ. Các chuyên gia này có tổ chức chuyên môn riêng, Hiệp hội Giám định viên Vũ khí và Dấu vết Công cụ (AFTE). Quy tắc đạo đức của họ rất nghiêm ngặt và bao gồm nhiều khả năng có thể phát sinh trong quá trình điều tra hoặc xét xử, nhưng về cơ bản, giám định viên được yêu cầu phải công bằng. Họ không được đứng về phe nào, bóp méo lời khai, hoặc coi lời khai của mình có giá trị hơn mức bằng chứng cho phép.
Ba kết luận có thể có của cuộc kiểm tra dấu vết công cụ là nhận dạng – công cụ này tạo ra dấu vết này; loại trừ – công cụ này không tạo ra dấu vết này; và không có kết luận – không có đủ thông tin để biết công cụ này có tạo ra dấu vết này hay không.
Giống như các lĩnh vực phân tích pháp y khác, việc phân tích dấu vết công cụ chắc chắn phải chịu ảnh hưởng của sự thiên vị vô thức của giám định viên. Trong một vụ án gần đây, một chuyên gia đạn đạo được đánh giá cao, đang cố gắng đối chiếu các mảnh đạn với một khẩu súng cụ thể, đã nói khi nộp báo cáo: “Tôi thực sự đã phải rất vất vả để đối chiếu, nhưng cuối cùng tôi cũng làm được.” Ông ấy biết mình phải tìm thấy gì, và ông ấy đã nỗ lực hết mình để tìm ra nó. Liệu ông ấy sẽ tìm thấy gì nếu không biết mình được kỳ vọng sẽ tìm thấy gì?
Thật ngạc nhiên khi việc tìm thấy dấu tai tại hiện trường vụ án lại phổ biến đến vậy. Một người đang trốn và áp sát vào tường, hoặc một người đang nghe lén bên cửa sổ, rất có thể sẽ để lại dấu tai. Và có những nhà khoa học pháp y sẵn sàng thề rằng họ có thể phân biệt tai này với tai kia bằng dấu vết để lại. Cộng đồng khoa học không đồng tình, nhưng bằng chứng về dấu tai vẫn được đưa ra tòa, đôi khi dẫn đến những kết quả không mấy khả quan.
Vào thứ ba, ngày 7 tháng 5 năm 1996, Dorothy Wood, một nhân viên y tế đã nghỉ hưu 94 tuổi, đã bị làm ngạt thở đến chết tại nhà riêng ở Huddersfield, West Yorkshire, Anh. Cảnh sát tin rằng đó là do một tên trộm đã trèo vào qua cửa sổ chớp phía trên giường của bà. Kẻ giết người dường như đã đứng nghe ngóng ở cửa sổ trước khi đột nhập, vì phát hiện có dấu tai rõ ràng trên kính.
Cảnh sát đã xác định được một nghi phạm, một cư dân địa phương 24 tuổi tên là Mark Dallagher, người đã từng bị bắt vì tội trộm cắp. Dallagher khai rằng y đã ngủ với bạn gái suốt đêm. Tuy nhiên, cô ấy không thể xác minh điều này vì đã uống thuốc ngủ. Các thám tử đã lấy dấu tai của y và gửi chúng, cùng với dấu tai từ cửa sổ, cho Cornelius Van der Lugt, một chuyên gia về dấu tai người Hà Lan. Van der Lugt đã kiểm tra dấu tai và báo cáo rằng chúng không khớp.
Sau đó, Van der Lugt đổi ý và quyết định rằng cuối cùng thì chúng cũng trùng khớp. Có lẽ là vì công tố viên đã quyết định buộc tội Dallagher về tội giết người và cần lời khai của Van der Lugt. Bằng chứng tai gần như là tất cả những gì họ có, và không ai cần biết về báo cáo đầu tiên. Vào thời điểm phiên tòa bắt đầu tại Tòa án Leeds Crown, bên công tố đã tìm được một kẻ mách lẻo trong tù, người này làm chứng rằng Dallagher đã thú tội với anh ta khi họ ở chung phòng giam.
Bên công tố đã đưa hai chuyên gia về dấu tai ra làm chứng: Peter Vanezis, Giáo sư Khoa học và Y học Pháp y tại Đại học Glasgow, người nói rằng dấu tai có thể là của Dallagher nhưng ông không thể thề, và Cornelius Van der Lugt, người giờ đây chắc chắn 100% rằng dấu tai trên cửa sổ là do tai trái của Dallagher để lại. Ngày 15 tháng 12 năm 1998, Mark Dallagher bị kết tội giết người và bị kết án tù chung thân.
Đây là một chiến thắng cho các công tố viên và là chiến thắng đầu tiên ở Vương quốc Anh. Một trong số họ đã nói trong một cuộc phỏng vấn với BBC: “Khi lên kế hoạch sử dụng bằng chứng dấu tai, chúng tôi đã tham khảo ý kiến chuyên gia để chứng minh rằng nó không thể thuộc về bất kỳ ai khác.”
Bản án đã bị Tòa Phúc thẩm bác bỏ vào ngày 25 tháng 7 năm 2002 với lý do là “không an toàn”. Các luật sư mới của Dallagher đã mời hai chuyên gia của họ, Tiến sĩ Christopher Champod, một nhà phân tích của cơ quan khoa học pháp y Anh, và Giáo sư P. J. Von Koppen của Đại học Antwerp ở Bỉ. Cả hai đều đã thực hiện một nghiên cứu về dấu tai và cả hai, vì những lý do hơi khác nhau, đều nhận thấy rằng chúng không phải là một phương tiện nhận dạng đáng tin cậy. Sẽ phải có một phiên tòa khác.
Mười ngày sau phiên tòa xét xử Dallagher, bản báo cáo gốc của Van der Lugt được công bố. Trong đó, ông ta tuyên bố rằng dấu tai chắc chắn không phải của Dallagher. Thẩm phán đã dừng phiên tòa và ra lệnh cho Dallagher tại ngoại trong khi ông ta cân nhắc nên làm gì. Một thời gian ngắn sau, kết quả phân tích DNA từ chính dấu tai cho thấy người để lại dấu tai không thể là Dallagher. Thẩm phán Sir Stephen Mitchell đã ra phán quyết vô tội và nói với Dallagher: “Câu chuyện đáng tiếc nhất này cuối cùng cũng kết thúc.”
Trong cùng thời kỳ, một số bản án tại Hoa Kỳ dựa trên phương pháp phân tích dấu tai tiềm ẩn, bao gồm hai bản án mà Van der Lugt từng làm nhân chứng chuyên môn, đã bị đảo ngược vì phát hiện ra rằng kỹ thuật này không đáng tin cậy.
Tóc là một trong những dạng bằng chứng dấu vết phổ biến nhất được tìm thấy tại hiện trường vụ án. Giống như chó, mèo, thỏ và các loài động vật khác có thể đi lang thang qua hiện trường vụ án, con người liên tục rụng tóc. Tóc của các loài khác nhau có thể được phân biệt đáng tin cậy dưới kính hiển vi và tóc của hai người khác nhau có thể đủ khác biệt cho mục đích loại trừ. Thực hành tẩy trắng, nhuộm, uốn, làm thẳng và thay đổi tóc theo cách khác có thể cá nhân hóa hơn nữa một mẫu tóc, cũng như nhiều loại bệnh và ký sinh trùng. Nhưng tỷ lệ lỗi trong phân tích tóc bằng kính hiển vi quá cao để có thể sử dụng nó nhận dạng một cách đáng tin cậy ai là người sở hữu một mẫu tóc nhất định. Sau khi kỹ thuật phân tích DNA ra đời, FBI đã thực hiện một nghiên cứu để kiểm tra kết quả của họ và phát hiện ra rằng việc kiểm tra tóc bằng kính hiển vi do chính các chuyên gia của họ thực hiện đã sai 11 phần trăm thời gian.
DNA có thể được chiết xuất từ chân tóc, nhưng tóc rụng tự nhiên thường không có chân tóc. Vì vậy, việc kiểm tra bằng kính hiển vi thường vẫn cần thiết.
Vào ngày 19 tháng 4 năm 1989, một phụ nữ 28 tuổi đang chạy bộ tại Công viên Trung tâm Manhattan đã bị tấn công, cưỡng hiếp, đánh đập dã man và bỏ mặc cho đến chết. Khi được tìm thấy 5 giờ sau đó, cô đã mất 75% máu, hộp sọ bị nứt và một mắt bị lệch ra khỏi hốc. Nghi phạm trực tiếp là một băng nhóm gồm 14-15 thiếu niên đã chạy loạn xạ khắp công viên, xô ngã người đi xe đạp, tấn công người khác và gây náo loạn trong nhiều giờ đồng hồ vào thời điểm xảy ra vụ tấn công. Chúng đã bị cảnh sát vây bắt và đang bị giam giữ tại đồn cảnh sát ở Công viên Trung tâm khi nạn nhân chạy bộ được tìm thấy.
May mắn người phụ nữ vẫn sống sót, mặc dù cô bất tỉnh suốt mười hai ngày và liên tục mê sảng trong năm tuần tiếp theo. Cô không nhớ gì về các cơn đau, và thậm chí nhiều năm sau, toàn bộ khoảng thời gian năm tuần đó đã bị xóa khỏi ký ức của cô.
Ba sợi tóc tìm thấy trên quần áo của một trong hai cậu thiếu niên và một sợi tóc tìm thấy trên cậu còn lại đã được kiểm tra dưới kính hiển vi và phát hiện trùng khớp với tóc của nạn nhân. Dựa trên điều này và lời thú tội được ghi lại trên băng video, dù chúng đã rút lại gần như ngay lập tức, năm cậu thiếu niên đã bị đưa ra xét xử và bị kết tội.
Ba tháng sau khi người chạy bộ bị tấn công, Matias Reyes, mười tám tuổi, đã bị bắt vì tội hiếp dâm. Theo một phần của thỏa thuận nhận tội, hắn đã thú nhận một vụ hiếp dâm khác cũng như tội hiếp dâm-sát nhân một người phụ nữ đang mang thai. Mười ba năm sau, vào tháng 1 năm 2002, sau khi thời hiệu khởi kiện đã hết, hắn ta khai thêm vụ tấn công vào người phụ nữ chạy bộ ở Công viên Trung tâm vào danh sách tội ác của mình. Những tiến bộ gần đây trong xét nghiệm DNA đã giúp kiểm tra câu chuyện của hắn và tinh dịch thu được từ cơ thể của người chạy bộ đã được thử nghiệm. Nó trùng khớp với DNA của Reyes. Hơn nữa, xét nghiệm DNA trên tóc thu được từ năm cậu bé không khớp với DNA của nạn nhân. Theo yêu cầu của Biện lý Quận Manhattan Robert Morgenthau, bản án đối với năm cậu bé đã bị bác bỏ.