Vài nơi ở nước ta ngày nay trong địa đồ Ptolemy

Đỗ Ngọc Giao 

25-Dec-2025

I know one thing, that I know nothing (Tôi biết rằng mình chẳng biết gì hết)—Socrates

1.     Giới thiệu

Ptolemy (đọc tô-lê-mi) là khoa-học-gia người Hy Lạp ở Ai Cập giữa thế kỷ 2 thời đế chế Roman, để lại ba bộ sách: Almagest (thiên văn), Geography (địa lý), Tetrabiblos (chiêm tinh)—chưa kể một tài liệu khác chép trên da thuộc đã bị xóa rồi chép đè lên từ thế kỷ 8 mà mới đây người ta vẫn đọc được, mô tả một dụng cụ thiên văn (meteoroscope) do ông chế ra.[1] Geography liệt kê tên gọi và tọa độ địa lý (coordinates) của hàng ngàn nơi trong ‘miệt có người ở’ (ecumene) mà quan quân, thương nhơn, lữ khách phương Tây hồi đầu thế kỷ 2 đã từng đi tới hoặc nghe nói; trong đó có một cái bến tránh gió (roadstead) kêu bằng Cattigara mà mấy vị học giả phương Tây cho là ở bờ biển nước ta ngày nay.

Bài này nói một chủ đề rộng hơn: thương nhơn phương Tây hồi đầu thế kỷ 2—trước thời Ptolemy—có thực là đã đi tới [những] nơi nào ở nước ta ngày nay hay chăng?

Bài dùng dữ liệu trong Geography theo bổn dịch của Stevenson (1858–1944), học giả người Mỹ,[2] và nhiều tài liệu khảo cứu đã công bố trên ‘internet’.

2.     Đôi điều cần biết

Geography bổn gốc [tiếng Hy Lạp] thực ra đã thất truyền, những gì còn lại ở tài liệu này ngày nay là 53 bổn sao của 7 ‘codex’ (văn bổn) ở thế kỷ 13–14, bắt nguồn từ 2 bổn ‘recension’ (đã chỉnh lý) ở thế kỷ 3 hoặc 4 (hình 1).

Hình 1. ‘phổ hệ’ (stemma) của Geography.[3]

Geography đại khái chia làm 3 phần:

  1. chương 1: các phép chiếu địa đồ (map projection).
  2. chương 2–7: một bộ ‘gazetteer’ ghi dữ liệu của 84 tỉnh (province), gồm chừng 8000 nơi (sông, núi, biển, vịnh,…) với tọa độ của hơn 6300 nơi.
  3. chương 8: cách làm sao để lập và vẽ địa đồ, kèm theo một bộ ‘atlas’ gồm địa đồ ‘ecumene’ và địa đồ từng vùng.

Trong 53 bổn sao Geography thì 16 bổn của các ‘codex’ O, R, U, K, F có địa đồ, hai ‘codex’ X, V chẳng có địa đồ.3

(Những địa đồ này dường như là của nhiều người vẽ lại theo phương pháp và dữ liệu tọa độ của Ptolemy, chớ chưa chắc là ông vẽ ra, nhưng ở đây vẫn gọi chung là ‘địa đồ Ptolemy’.)

Hình 2 và 3 là địa đồ ‘ecumene’ vẽ theo hai phép chiếu của Ptolemy (tôi tô thêm màu).

Hình 2. phép chiếu thứ nhứt.[4]

Hình 3. phép chiếu thứ nhì, chỉ có ở ‘codex’ K.4

Thomas Rylands (1818–1900), nhà thiên-văn-học người Anh,[5] cho biết như sau (hình 4).

Hình 4.

Theo đó, tính ra, địa đồ Ptolemy chứa được (18°+114°29′)/180° = 73.60% của địa đồ ngày nay, bởi vậy, mọi nơi trong địa đồ ngày nay, khi vẽ trên địa đồ Ptolemy, đều phải dãn ra 1/73.60% = 1.3587 lần thì mới khít. Ta có ‘sai số’ (error) thứ nhứt.

Cái mức ‘dãn ra’ đó làm cho mọi nơi trong địa đồ Ptolemy đều bị đẩy qua phía đông, vì phía Tây là kinh tuyến 0° cố định (hình 5). Ta có sai số thứ nhì.

Hình 5. phần chìm: địa đồ Ptolemy, phần nổi: địa đồ ngày nay.[6]

Chưa hết. Nhiều nơi, nhứt là những nơi xa hơn vùng Địa Trung Hải, trung tâm của đế chế Roma, mà Ptolemy chưa tới bao giờ, thì ông suy tính tọa độ theo lời thương nhơn lữ khách kể lại, thí dụ khoảng cách và hướng đi giữa nơi này với nơi kia, mà họ cũng nhắm chừng thôi, chớ lúc đó chưa có ‘la bàn’ (compass) hay thứ dụng cụ nào khác đặng coi cho trúng. Ta có sai số thứ ba.

Ba thứ sai số đó làm cho tọa độ các nơi trong Geography so với Google Maps ngày nay thì có ‘resolution’ (mức độ chính xác) kém lắm:

  • vùng Địa Trung Hải: ‘resolution’ trung bình là 15.5 km (mức này có thể phân biệt hai nơi gần cỡ Sài Gòn với Thủ Đức),
  • các vùng khác: ‘resolution’ trung bình là 51 km (mức này có thể phân biệt hai nơi xa cỡ Sài Gòn với Mỹ Tho).[7]

Nói tóm lại, bởi ba thứ sai số đó mà muốn tìm hiểu một nơi trong Geography thì trước hết ta cần có cách tính lại tọa độ nơi đó sao cho gần trúng với địa lý ngày nay cái đã.

3.     Khảo cứu

3.1         Địa điểm và phương pháp

Hình 6 (khung màu đỏ) là vùng bờ biển xa nhứt về phía Đông trong địa đồ Ptolemy.

Hình 6.

Coi trong hình, ta có thể nhận ra bán đảo Malay và đảo Sumatra gom lại thành một cục, kế bên là một cái vịnh kỳ dị hình chữ U lộn ngược, kêu bằng Sinus Magnus (vịnh Lớn).

Geography liệt kê tọa độ nhiều nơi dọc theo bờ vịnh Lớn nối dài cho tới nơi chót là bến Cattigara. Như đã nói ở mục 2, trước hết ta cần tính lại kinh độ những nơi đó.

Russo[8] và Martínek & Létal[9] cho biết hai ‘phương trình hồi quy’ (regression equation) với sai số lần lượt là 1.428 và 1.400 (chưa gồm mức lệch giữa kinh tuyến gốc Ptolemy với kinh tuyến Greenwich). Hai phương trình đó có thể dùng để tính lại kinh độ các nơi ở phía Tây trong địa đồ Ptolemy, nhưng nếu dùng cho vùng vịnh Lớn mà ta đang khảo sát thì sợ là khó trúng. Đàng khác, ta có dữ liệu tọa độ của hơn 20 nơi trong địa đồ Ptolemy mà Irwanto[10] đã nhận ra trong địa đồ ngày nay, thí dụ Zabe nay là Muara Sabak ở Indonesia. Dữ liệu này chưa đủ để lập phương trình hồi quy, nên tôi lấy tỷ số

kinh độ Zabe / kinh độ Muara Sabak = 168.33/104.00 = 1.6186

làm sai số chung cho những nơi dọc bờ vịnh Lớn (đã gồm mức lệch giữa kinh tuyến gốc Ptolemy với kinh tuyến Greenwich).

Theo đó ta sẽ dùng công thức này:

kinh độ tính lại = kinh độ Ptolemy / 1.6186

Tôi chọn Zabe làm ‘chuẩn’ bởi nơi này gần vịnh Lớn hơn các nơi khác trong dữ liệu của Irwanto.

3.2         Kết quả

Dưới đây là kinh độ các nơi (ở dạng số thập phân) theo thứ tự nêu trong Geography.

Bảng 1. Ấn-Độ-bên-kia-sông-Ganges.

địa danh kinh độ Ptolemy kinh độ tính lại
1.                    Zabe city 168.33 104.00
2.                    nơi đầu vịnh Lớn* 169.00 104.41
3.                    Thagora 168.00 103.79
4.                    Balonga metropolis 167.50 103.48
5.                    Throana 167.00 103.17
6.                    cửa sông Daona 167.00 103.17
7.                    Cortatha metropolis 167.00 103.17
8.                    Sinda city 167.25 103.33
9.                    Paprasa 167.50 103.48
10.                cửa sông Dorius 168.00 103.79
11.                Aganagara 169.00 104.41
12.                cửa sông Serus 171.50 105.95
13.                nơi chót vịnh Lớn** 173.00 106.88

* nguyên văn: on the Great bay next to beginning of great promontory (trên bờ vịnh Lớn, kế bên mũi lớn)

** nguyên văn: limits of the Great bay towards Sinae (giới hạn vịnh Lớn phía tỉnh Sinae)

Chú giải:

  • Các địa danh 1–11 đều ở Malaysia, Thái Lan hoặc Cambodia ngày nay, bên kia kinh tuyến 104°26’26.6″E của nước ta ở Hà Tiên.[11]
  • Địa danh số 2 (nơi đầu vịnh Lớn) có lẽ là Pungai ở mũi bán đảo Malay 1°26’08.7″N 104°17’39.3″E; hai nơi này có kinh độ lệch chừng 7′, khoảng cách chưa tới 15 km (hình 7).

Hình 7. Google Maps. (n.d.). Pungai. Retrieved Dec 22, 2025, from https://maps.app.goo.gl/MYEfjRokQH3TmmMc8

  • Địa danh số 12 (cửa sông Serus) là cửa sông Hậu Giang ngày nay 9°53’N 105°57’E (hình 8). Hai ngàn năm trước, cửa sông Hậu Giang còn thụt vô gần tới đầu cù lao Dung ngày nay.[12]

Hình 8. Google Maps. (n.d.). Cửa sông Hậu Giang. Retrieved Dec 22, 2025, from https://maps.app.goo.gl/DG9QQRZoj14beu4W8

  • Địa danh số 13 (nơi chót vịnh Lớn) là vịnh Gành Rái ngày nay 10°15’N 106°52’E (hình 9).

Hình 9. Google Maps. (n.d.). Vịnh Gành Rái. Retrieved Dec 22, 2025, from https://maps.app.goo.gl/DJmHdvZYJyctkjy67

Tới đây ta đã đi hết bờ vịnh Lớn trong địa đồ Ptolemy (hình 10).

Hình 10. một phần địa đồ Gastaldi 1548.[13]

Ở hình 10, ta thấy đường bờ vịnh Lớn vẫn còn một nửa bên phía đông. Vậy nửa này là gì?

Người ta thường cho rằng nửa đó là đường bờ biển của tỉnh Sinae, bắt đầu từ vịnh Gành Rái (biển Đông) lên tới bờ biển nước Tàu ngày nay.

Song le, mới đây, Gusev và Stafeyev[14] cho rằng:

  • cái nửa phía đông của vịnh Lớn thực ra là vịnh Hesperius ở phía Tây Libya (châu Phi ngày nay) mà Geography cũng gọi là vịnh Lớn,
  • ai đó trước thời Ptolemy đã đem vịnh Hesperius [và đường bờ vịnh nối dài] ráp lộn vô vịnh Lớn thành ra cái vịnh ‘kỳ dị’ hình chữ U lộn ngược.

Bởi vậy, những địa danh mà Geography để vô tỉnh Sinae thực ra đều là những địa danh bên Libya.

Bảng 2. Libya bị đưa lộn qua Sinae.

địa danh kinh độ Ptolemy kinh độ Greenwich[15]
14.                trên bờ biển cửa sông Aspithara 175.00 -16.2702
15.                Brama city 176.67 -16.5139
16.                cửa sông Ambastus 177.00 -16.0197
17.                Rhabana city 177.00 -15.9786
18.                cửa sông Saenus 176.33 -16.4921
19.                mũi Notium 175.00 ?
20.                hốc biển Ấn Độ* 176.00 ?
21.                mũi Satyrorum 175.00 ?
22.                Sinarus bay 178.00 ?
23.                cửa sông Cutiaris 177.00 -16.5578
24.                Cattigara 177.00 -8.8441
25.                trong đất liền Aspithra 175.50 -16.3958
26.                Acathara 178.33 -15.1520
27.                Coccoranagara 179.00 -13.7120
28.                Sarata 180.00 -13.4935
29.                Thyne metropolis 180.00 ?

* nguyên văn: recess of Indian sea.

Chú giải:

  • Địa danh số 24 (Cattigara) là một nơi ở bờ biển nước Liberia, phía Tây châu Phi, ngày nay.
  • Địa danh số 29 (Thyne metropolis) là một nơi ở Sinae, có thể là Tây An 西安, Lương Châu 涼州 hoặc Trương Dịch 張掖 ở miền tây bắc nước Tàu ngày nay, tùy theo vị trí ‘tham chiếu’ (reference).[16]

Nói tóm lại, địa đồ Ptolemy có hai nơi ở nước ta ngày nay (hình 11):

  1. cửa sông Serus: cửa sông Hậu Giang,
  2. nơi chót vịnh Lớn: vịnh Gành Rái.

Hình 11. vẽ trên hình nền của http://www.mapsofworld.com/

Chú giải:

  • Thương nhơn phương Tây hồi đầu thế kỷ 2 có đi tới cửa sông Hậu Giang, bởi họ gọi nơi đây là ‘cửa sông Serus’ (nghĩa là ‘cửa sông Lụa’), ý nói qua cửa sông này là tỉnh Sinae bán lụa.
  • ‘Nơi chót vịnh Lớn’ là một cái ‘địa giới’ mà thôi, ta chưa chắc thương nhơn phương Tây hồi đầu thế kỷ 2 đã đi tới đây. Nói ‘chưa chắc’, bởi nếu họ đi tới đây, ắt họ đã có một cái tên gì gọi vịnh Gành Rái.

Vì sao thương nhơn tới cửa sông Hậu Giang mà chẳng đi nữa qua tỉnh Sinae mua lụa?

Ta được biết, hai ngàn năm trước, từ bán đảo Cà Mau, qua cửa sông Hậu Giang, và các cửa khác của sông Mekong nói chung, lên tới vịnh Gành Rái, còn là một vùng đất ngập (wetland) minh mông,11 rừng đước bạt ngàn, khỉ khọn vô số, làm gì có lụa mà mua ở miệt này.

Lụa thì trước thời Ptolemy thương nhơn đưa từ miền tây bắc nước Tàu theo đường bộ qua ngã Turkestan và Parthia (Trung Á) tới cửa sông Indus, cửa sông Ganges, vịnh Cambay và Travancore, hết thảy ở Ấn Độ, rồi từ đây xuống tàu đi Alexandria về Rome. Qua thế kỷ 6, có mấy ông Cha  dưới trào vua Justinian qua Tàu lấy trứng tằm đem về Hy Lạp thì từ đó mới hết mua lụa của Tàu.[17]

Vậy, trong khi chờ thêm dữ liệu khác hơn, ta kết luận như sau (hình 12).

Thương nhơn phương Tây hồi đầu thế kỷ 2 đã đi tới nơi xa nhứt về phía đông là cửa sông Hậu Giang ở nước ta ngày nay mà thôi.

Hình 12. theo Margaret Synge (1861–1939).[18]

4.     Thảo luận

Dưới đây là cái ‘list’ một số nơi mà học giả bên Tây đã suy đoán là vị trí của Cattigara, cho độc giả quan tâm muốn biết thêm.

Bên ngoài nước ta ngày nay

Bên trong nước ta ngày nay

  • cửa sông Ông Đốc ở Cà Mau,[26]
  • Phan Thiết,[27]
  • mũi Kê Gà trong vịnh Phan Thiết,[28]
  • Bà Rịa,[29]
  • cửa sông Hồng,[30]
  • Quảng Yên – Hòn Gai.[31]

Nhà ngôn-ngữ-học người Pháp Michel Ferlus (1935–2024) giải thích Catti– trong Cattigara*[k]ˤraw təʔ cách đọc hai chữ Giao Chỉ 交趾 trong tiếng Tàu thời trào Hán (Old Chinese).[32] Nếu vậy, tôi giải thích CattigaraKê Gà có khi trúng hơn!

Mới đây, Koad et al[33] dùng phương trình của Russo8 để tính lại kinh độ những nơi có thể ở Đông Nam Á ngày nay; nhưng phương trình này tính lại kinh độ ‘nơi đầu vịnh Lớn’ là cửa sông Cổ Chiên, vậy là lệch quá xa sang phía đông.

Chót hết, theo dữ liệu ở mục 3.2, ta chẳng thấy nơi nào trong địa đồ Ptolemy mà có thể là Óc Eo hay Việt Trì ngày nay hết.


[1] https://www.sorbonne-universite.fr/sites/default/files/media/2023-03/press-release-claudius-ptolemy.pdf

[2] Claudius Ptolemy. The Geography. trans and ed Edward Luther Stevenson (1991).

[3] Florian Mittenhuber. The tradition of texts and maps in Ptolemy’s Geography. in Ptolemy in perspective, ed Alexander Jones (2010).

[4] J. L. Berggren and Alexander Jones (2000) Ptolemy’s Geography–an annotated translation of the theoretical chapters.

[5] Thomas G. Rylands (1893) The geogeaphy of Ptolemy elucidated.

[6] David Barry (2025) A Ptolemaic world map in Web Mercator. https://pappubahry.substack.com/p/a-ptolemaic-world-map-in-web-mercator

[7] C. Marx. On the precision of Ptolemy’s geographic coordinates in his Geographike Hyphegesis. Hist. Geo Space Sci., 2, 29–37, 2011.

[8] Lucio Russo. Ptolemy’s longitudes and Eratosthenes’ measurement of the earth’s circumference. Mathematics and Mechanics of Complex Systems, vol 1, no 1, 2013.

[9] Jan Martínek & Aleš Létal (2023) Astronomically determined localities, the core part of Ptolemy’s Geography. Journal of Maps, 19:1.

[10] Dhani Irwanto (2025) Aurea Chersonesus reconsidered: a bi-littoral golden corridor centered on Sumatra. https://www.researchgate.net/

[11] https://nhandan.vn/tham-cot-moc-314-noi-bien-cuong-xa-xia-post869804.html

[12] J. Paul Liu, David J. DeMaster, Thanh T. Nguyen et al. Stratigraphic formation of the Mekong River Delta and its recent shoreline changes. Oceanography, vol 30 no 3 (September 2017).

[13] https://sanderusmaps.com/

[14] Dmitri Gusev, Sergey Stafeyev. GIS Analysis and Digital Reconstruction of Ptolemy’s India beyond the Ganges, Serike and Sinae. International Cartographic Association, Commission on Cartographic Heritage into the Digital. Proceedings 13th ICA Conference Digital Approaches to Cartographic Heritage, Madrid, 18-20 April 2018.

[15] Lyudmila Filatova, Dmitri Gusev, Sergey Stafeyev. Iterative Reconstruction of Ptolemy’s West Africa Using Modern GIS Analysis. International Cartographic Association Commission on Cartographic Heritage into the Digital. 14th ICA Conference Digital Approaches to Cartographic Heritage, Thessaloniki, Greece, 8-10 May 2019.

[16] Irina Tupikova, Matthias Schemmel, Klaus Geus (2014) Travelling along the Silk Road: A new interpretation of Ptolemy’s coordinates. Berlin: Max-Planck-Institut für Wissenschaftsgeschichte.

[17] The Periplus of the Erythraean Sea, transl and annot Wilfred H. Schoff (1912).

[18] Margaret Bertha Synge (1912) A book of discovery.

[19] William Hughes (1874) An atlas of classical geography.

[20] M J Ferrar (2025) India Intra et Extra Gangem + Sinae: The maps of Claudius Ptolemy explained and the resolution of place-names including Taprobane and Cattigara Sina. https://www.cartographyunchained.com/cp3/

[21] G. E. Gerini (1909) Researches on Ptolemy’s geography of Eastern Asia.

[22] Raymond d’Hollander. La connaissance de la géographie du globe à l’époque de Christophe Colomb. Acta Geographica no 101 (1995).

[23] Gregor Reisch (2022) Asia East of the Ganges on maps according to the geography of Claudius Ptolemy.

[24] W. J. van der Meulen (1974) Ptolemy’s Geography of mainland Southeast Asia and Borneo.

[25] Brian Hooker. Ptolémée connaissait-il l’Australie? transl Cécile Chombard-Gaudin. Mappemonde 59 (2000.3).

[26] John Caverhill. Some attempts to ascertain the utmost extent of the knowledge of the ancients in the East Indies. Philosophical Transactions (1683-1775), 1767.

[27] https://www.davidrumsey.com/luna/servlet/detail/RUMSEY~8~1~3039~410038:Orbis-Veteribus-Notus-

[28] Alexander G. Findlay (1857) A classical atlas, to illustrate ancient geography.

[29] S. Karpeles. Activities of the Ecole Francaise d’Extreme Orient during 1940-1945. The Journal of Oriental Research Madras, vol XV (1945–1946).

[30] Arnold Toynbee and Edward Myers (1959) Historical atlas and gazetteer.

[31] Indochine annamite : la connaissance du pays jusqu’en 1900. In: Bulletin de l’Ecole française d’Extrême-Orient. Tome 21, 1921. pp. 197-278.

[32] Michel Ferlus (2009) Formation of ethnonyms in Southeast Asia.

[33] Peeravit Koad, Sirirat Somchuea, Thatdao Rakmak et al. Geolocating Southeast Asian early historic sites from astronomical observations in Ptolemy’s Geography, with supporting information from Indian records. Journal of Astronomical History and Heritage, 26(2), 339–352 (2023).

Bình luận về bài viết này