Chứng cứ không thể bác bỏ (Bài 2)

 Những cuộc phiêu lưu vào lịch sử khoa học pháp y

 MICHAEL KURLAND

Trần Quang Nghĩa dịch

2: Những sự kiện khởi đầu

TRONG PHẦN LỚN LỊCH SỬ CHÂU ÂU, từ khi Đế chế La Mã sụp đổ đến thế kỷ XVII và XVIII, việc phá án không hề khó khăn. Người ta chỉ cần buộc tội ai đó rồi tra tấn cho đến khi họ thú nhận. Có tội hay vô tội thực sự không được phép làm sai lệch quá trình.

Như Enrico Ferri đã giải thích:

Những cực hình, mà chúng ta thường gán ghép một cách sai lầm cho sự tàn bạo về mặt tinh thần của các thẩm phán thời đó, thực ra chỉ là hệ quả hợp lý của những lý thuyết đương thời. Người ta cho rằng để kết án một người, cần phải có bằng chứng chắc chắn về tội lỗi của người đó, và người ta nói rằng cách tốt nhất để có được bằng chứng chắc chắn này, nữ hoàng của các bằng chứng, chính là lời thú tội của phạm nhân. Và nếu phạm nhân chối tội, cần phải dùng đến tra tấn để buộc y phải thú tội, điều mà y giấu giếm vì sợ hình phạt. Có thể nói, tra tấn đã xoa dịu lương tâm của vị thẩm phán, người được quyền kết án ngay khi có được lời thú tội.

Nhưng làm sao để xác định ai là đối tượng cần tra tấn? Hans Gross, trong cuốn sách nổi tiếng “Điều tra Hình sự” xuất bản năm 1906, đã kể về một phương pháp thời trung cổ vẫn còn được sử dụng ở vùng nông thôn nước Đức khi ông còn là một điều tra viên. Được gọi là “sàng lọc di truyền”, nó được sử dụng để tiết lộ danh tính kẻ trộm. Đậu (nếu có thể là đậu đã bị đánh cắp) được ném vào rây từng hạt một. Tên của mỗi nghi can được xướng lên khi một hạt đậu được ném vào rây. Nếu hạt đậu nhảy ra, người được nêu tên vô tội; nếu hạt đậu vẫn nằm trong rây, bạn đã bắt được tên ăn trộm. Có nhiều cách xử lý rây khác nhau, và tất cả đều hiệu quả như nhau.

Đôi khi, có những biện pháp được sử dụng bị ngày nay lên án gay gắt. Vào những năm 1830, tại hạt Pest, Hungary, Bá tước Gideon Raday được triệu tập để ngăn chặn một loạt vụ cướp gây ra nỗi thống khổ lớn cho người dân. Không có bất kỳ kỹ thuật pháp y hiện đại nào trong tay, ông ta chỉ đơn giản là treo cổ thị trưởng của thị trấn nằm ở tâm điểm các vụ trộm. Các vụ trộm cướp liền chấm dứt.

Arden of Feversham, xuất bản lần đầu năm 1592, là câu chuyện về Thomas Arden (hay Arderne), một thị dân thành đạt của thị trấn Feversham (ngày nay là Faversham) ở Anh, và vợ ông là Alice, người đã nhiều lần tìm cách hãm hại ông và cuối cùng đã thành công. Mặc dù tác giả vở kịch không được ghi nhận, có người cho rằng có thể Shakespeare đã viết nó. Nhà thơ Swinburne đã nghĩ như vậy. Và thậm chí ông có thể đã vào vai một trong hai kẻ giết người được thuê, tên là Shakebag. Những người khác lại cho rằng Marlowe là tác giả của vở kịch vì đó là một câu chuyện có nội dung mạnh mẽ, không có nhân vật chính – kiểu mà Marlowe thích. Dựa trên phân tích về cách sử dụng từ, tuyên bố mạnh mẽ nhất về quyền tác giả cho rằng nó thuộc về Thomas Kyd, người cùng với Shakespeare và Marlowe là một trong những nhà viết kịch hàng đầu thời bấy giờ.

Câu chuyện được trích từ Tin tức Holinshed (1577), kể rằng Thomas Arden thực sự đã bị sát hại vào Chủ nhật, ngày 15 tháng 2 năm 1551, tại nhà riêng ở Feversham, Kent. Câu chuyện có thể không có nhân vật chính, nhưng lại có một thám tử – và, vào thời điểm đó, là một thám tử hạng nhất.

Thomas Arden, “một người đàn ông cao lớn và điển trai”, đã kết hôn với Alice Brigandine, “một phụ nữ quý phái trẻ trung, cân đối và xinh đẹp mọi mặt”. Sau đó, ông bắt đầu bỏ bê bà, dồn hết năng lực tài chính mua lại những bất động sản mà Vua Henry VIII trưng thư của giáo hội Thiên chúa giáo. Alice nhanh chóng chuyển trái tim mình sang nơi khác, tìm thấy niềm an ủi trong vòng tay của một gã thợ may tên là Thomas Mosby, người thường xuyên đến thăm bà, và như tờ Tin tức đã viết, “ăn nằm với bà và… kiểm soát bà bằng cách lạm dụng thân xác bà.”

Arden dường như không mấy phản đối việc này. Ông ta mời Mosby ở lại chơi trong khi mình đi khắp nơi tìm kiếm bất động sản nhà thờ để bổ sung vào bộ sưu tập của mình. Với những ai trong chúng ta tìm kiếm tình yêu bất chính, đây có vẻ là một tình huống lý tưởng. Nhưng với bà chủ Alice và người tình của bà thì không. Họ quyết tâm trừ khử ông chủ Arden thường xuyên vắng mặt. Nỗ lực đầu tiên, theo như chúng ta biết, là bằng một loại thuốc độc mà Alice mua từ một họa sĩ ở Feversham. Y bảo bà bỏ thuốc độc vào một bát cháo và đổ sữa lên trên, nhưng bà quên, lại đổ sữa vào trước rồi đổ thuốc độc lên trên. Arden thấy thứ cháu đó có vị khó chịu sau khi chỉ ăn một hoặc hai thìa, và Alice liền vứt nó đi trước khi ông ta kịp cật vấn bất kỳ câu hỏi nào. Tuy nhiên, vài giờ sau, Arden “rơi vào cơn thanh tẩy cực độ, phía trên thì nôn mửa phía dưới thì tiêu chảy “. Nhưng ông ta vẫn sống sót được sau trải nghiệm đó.

Sau nhiều lần ra sức vụng về, đôi tình nhân đã thuê hai tên cướp – Black Will và Loosebag (Shakebag trong vở kịch) – để thực hiện hành vi sát hại với giá 10 bảng Anh.

Một tối Chủ nhật nọ, khi Arden đang ở trong phòng khách với Mosby và cả hai đang cúi xuống chơi bài, Black Will lẻn vào phòng và  núp vào một góc. Như được kể lại trong vở kịch, Mosby sau đó đã ra ám hiệu: “Giờ thì tôi có thể đưa ngài đi, thưa ngài, nếu tôi muốn,” và sự việc diễn ra như sau:

“Đưa tôi đi ư?” Ông chủ Arden hỏi. “Bằng cách nào?”

Ông vừa nói xong, Black Will bước ra và quàng một chiếc khăn vào cổ Arden để chặn hơi thở và siết cổ ông ta. Còn Mosby, với một chiếc bàn ủi giấu ở thắt lưng nặng khoảng 5 kí , đập vào đầu ông khiến ông ngã xuống và rên rỉ thảm thiết. Sau đó, họ khiêng ông vào phòng làm việc, tại đây cơn đau nhói của cái chết đang ập đến, ông rên rỉ thảm thiết và duỗi người ra. Black Will rạch một đường vào mặt ông, lấy hết tiền trong ví và vuột chiếc nhẫn trên ngón tay ông. “Giờ thì chiến công này đã hoàn thành,” hắn nói khi bước ra khỏi phòng làm việc; “bà hãy đưa tiền cho tụi tôi.” Bà Arden đưa cho hắn 10 bảng, và… hắn bỏ đi.

Alice Arden sau đó đâm xác chồng đã chết vài nhát trước khi quay lại phòng ăn và bình tĩnh ngồi xuống dùng bữa tối với hai người bán tạp hóa ở London có cái tên kỳ lạ là Prune và Cole. Bà bảo họ đừng đợi chồng bà vì ông có thể về trễ. Khi những vị khách trở về quán trọ địa phương, bà Arden sai người hầu đi “tìm chồng bà ở nhiều nơi khác nhau”. Trong lúc họ vắng mặt, bà, cùng với con gái mình và em gái của Mosby, kéo xác chồng ra ngoài giữa lớp tuyết mới rơi và để lại trên một cánh đồng gần đó.

Bà Arden thông minh liền bày ra những trò khóc lóc, kêu than về người chồng vắng mặt của mình, thảm thương đến nỗi thị trưởng Feversham phải bật dậy khỏi giường. Ông lập một nhóm tìm kiếm người đàn ông mất tích. Tình cờ, Prune, người bán tạp hóa, phát hiện một khối hình người trên cánh đồng bên ngoài nhà Arden, nói: “Đứng lại cho tôi, hình như tôi thấy có ai ở đó.”

Rồi thị trưởng bộc lộ những phẩm chất khiến Sherlock Holmes (một thám tử lừng lẫy trong các tiểu thuyết trinh thám nổi tiếng của Conan Doyle) phải tự hào. Ông ngăn không cho ai lại gần thi thể và kiểm tra những dấu chân trên tuyết. Ba cặp dấu chân dẫn từ cửa vườn nhà Arden đến nơi nạn nhân nằm, và ba cặp dấu chân khác dẫn ngược trở lại cửa – những dấu chân duy nhất kể từ khi tuyết rơi. Thị trưởng kết luận rằng có ba người đã rời khỏi nhà cùng với thi thể Arden. Họ đã đặt thi thể xuống nơi nó nằm hiện giờ, rồi quay trở lại nhà. Thiên tài pháp y của ngài thị trưởng nằm ở chỗ ông có đủ trí thông minh để ngăn cản người của mình giẫm đạp khu vực hiện trường và kiểm tra nó một cách kỹ lưỡng, có thể là dưới ánh sáng mờ ảo của đèn dầu, nhằm xác định ra sự thật.

Thị trưởng đã cho khám xét nhà. Những mảnh giẻ đẫm máu được tìm thấy trong phòng khách và một con dao dính máu được phát hiện trong phòng ngủ. Chỉ hai giờ sau khi thực hiện vụ giết người được lên kế hoạch kỹ lưỡng, Alice Arden, con gái và người giúp việc đã bị bắt và bị đưa vào tù.

Sau đó, thị trưởng và người của ông ta đến quán trọ và đánh thức Mosby dậy. Khi họ tìm thấy máu trên tất và ví của hắn ta, hắn liền bị tống giam cùng người tình. Tất cả đều bị xét xử tại phiên tòa tiếp theo ở Feversham và bị treo cổ hoặc thiêu sống, cùng với một gã đàn ông tên Green, người đã xui xẻo bị nhắc đến trong một bức thư Mosby gửi Alice. Thực tế, anh này không hề biết gì về tội ác này và cũng không tham gia vào đó. Sự vô tội của anh ta đã được xác định vài năm sau đó.

Năm 1828, Eugène François Vidocq, vừa mới nghỉ hưu khỏi vị trí giám đốc Sở Mật vụ (Sûreté), cơ quan điều tra của cảnh sát Paris, đã viết hồi ký, mang đến cho công chúng châu Âu cái nhìn đầu tiên về cuộc sống của một sĩ quan cảnh sát. Vidocq đã trải qua nửa đầu cuộc đời mình như một tên tội phạm và do đó rất am hiểu bọn tội phạm. Là một thám tử, ông thực hiện hầu hết các vụ bắt giữ bằng cách cải trang đi lang thang giữa các băng nhóm tội phạm ở Paris và lắng nghe các cuộc trò chuyện của họ. Kiến thức về các phương pháp điều tra tội phạm của ông đã giúp ông dự đoán và do đó ngăn chặn được nhiều tội ác. Như ông đã nói:

Mỗi ngày, số vụ khám phá của tôi lại tăng lên. Trong số những kẻ bị bắt, không ai là không do tôi ra tay bắt giữ họ, vậy mà không một ai trong số họ, dù chỉ một giây, nghi ngờ tôi có liên quan đến vụ việc. Tôi đã xoay xở rất tốt, đến nỗi cả trong lẫn ngoài bức tường nhà tù, đều không có một chút nghi ngờ nào. Những tên trộm mà tôi quen biết coi tôi như người bạn thân thiết nhất và chân thành nhất của chúng, những người khác đều cảm thấy vui khi có cơ hội kể cho tôi nghe những bí mật của họ, dù là vì thích trò chuyện với tôi hay vì hy vọng được hưởng lợi từ lời khuyên của tôi.

Vidocq được ghi nhận là người đầu tiên đưa hệ thống thẻ chỉ mục vào quy trình cảnh sát, và là người đầu tiên tạo dấu giày và dấu chân bằng thạch cao Paris. Ngoài việc xuất bản cuốn tự truyện sau khi rời khỏi lực lượng cảnh sát, ông còn thành lập một nhà máy sản xuất giấy và được cấp bằng sáng chế cho một loại giấy trái phiếu không thể thay đổi và một loại mực không phai. Năm 1833, ông thành lập Le bureau des renseignements (Văn phòng Tình báo), cơ quan thám tử tư đầu tiên trên thế giới.

Vidocq được cho là nguồn cảm hứng cho nhân vật C. Auguste Dupin của Edgar Allan Poe, thám tử hư cấu đầu tiên trên thế giới, cũng như thám tử Monsieur Lecoq của Émile Gaboriau. Ngày nay, Hội Vidocq, một hiệp hội phi lợi nhuận độc quyền chuyên giải quyết tội phạm của các chuyên gia pháp y, họp tại Philadelphia và xử lý các vụ án hình sự chưa được giải quyết mà các thành viên quan tâm.

☆  ☆  ☆

Vụ truy tố dẫn đến bản án oan đầu tiên trong một vụ án giết người ở Hoa Kỳ đã gặp phải một số vấn đề vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay – tâm lý địa phương bị kích động, chứng cứ “chuyên gia” sai lệch và sự quá lệ thuộc vào bằng chứng của “kẻ mách lẻo trong tù”.

Năm 1812, Russell Colvin, người sống và làm việc tại trang trại của bố vợ Barney Boorn ở Manchester, Vermont, đã mất tích. Bảy năm sau, chú của vợ anh, Amos, có một giấc mơ. Russell hiện về với Amos và nói rằng anh đã bị sát hại và thi thể bị vứt xuống hầm trong một cánh đồng khoai tây trong trang trại. Người ta đã xuống hầm tìm, nhưng hồn ma của Russell dường như đã nhầm lẫn – thi thể anh không còn ở đó. Có những chiếc đĩa vỡ, hai con dao và một chiếc cúc áo, nhưng không thấy Russell đâu. Nhưng vợ của Russell, Sally, khẳng định nhận ra những thứ đó là của chồng mình. Sally có động cơ mạnh mẽ để chứng minh Russell đã chết – cô ta đã sinh con vài năm sau khi Russell mất tích. Miễn là Russell được cho là còn sống, dù đã mất tích từ lâu, thì anh ta vẫn được coi là cha của đứa trẻ. Nếu Sally muốn nhận được sự hỗ trợ từ cha ruột của đứa trẻ, thì chồng cô ta phải chết.

Một thời gian ngắn sau, chuồng cừu của gia đình Boorn bị thiêu rụi. Không lâu sau đó, một con chó đã đào được vài mảnh xương, và ba bác sĩ khác nhau đã nhanh chóng xác định chúng là xương người.

Nghi ngờ của công chúng đổ dồn vào hai anh em của Sally, Jesse và Stephen. Họ được cho là những kẻ giết Russell, những kẻ cướp hầm khoai tây và đốt chuồng cừu. Người ta biết rằng hai anh em không ưa Russell, người mà họ coi là một kẻ hoang phí, dành quá nhiều thời gian để uống rượu tại quán rượu địa phương và quá ít thời gian làm việc trên đồng ruộng. Logic phổ biến là đi ngược lại từ việc phát hiện ra những bộ xương: Tại sao xương được chôn ở đó? Bởi vì chúng đã được chuyển ra khỏi chuồng cừu vì một lý do nào đó không rõ. Tại sao chuồng lại bị đốt? Để xóa sạch bất kỳ dấu vết nào về việc di chuyển thi thể. Tại sao ngay từ đầu nó lại ở trong chuồng? Nó được chuyển đến đó từ hầm khoai tây. Và, tất nhiên, nó đã được đặt trong hầm khoai tây để che giấu vụ giết người.

Dựa trên logic thoái hóa này, Jesse đã bị bắt giữ ngay lập tức và lệnh bắt giữ Stephen, vốn đã chuyển đến New York, được ban hành. Jesse bị nhốt chung với một kẻ chuyên làm giả giấy tờ và gian xảo tên là Silas Merrill. Hắn nhanh chóng đến gặp chính quyền để tìm hiểu xem họ muốn nghe điều gì, rồi nhanh chóng kể lại với họ bằng một giọng điệu khoa trương hơn. Jesse đã thú nhận tất cả với hắn, anh ta nói: hai anh em đã cãi nhau với Russell, Stephen đã đánh anh ta bằng dùi cui, và cha của họ, Barney, tình cờ đi ngang qua lúc đó, đã lấy một con dao rọc giấy của Stephen và cắt cổ Russell. Sau đó, cả ba chôn Russell trong hầm chứa khoai tây;

Sau đó, họ đào xác anh lên và chôn lại trong chuồng cừu Sau khi chuồng bị cháy, họ chuyển thi thể đến nơi con chó đã tìm thấy xương. Ít nhất trong phiên bản này, họ không cố ý đốt chuồng. Kẻ giết người thì đúng, nhưng không phải kẻ đốt chuồng cừu.

Phần thưởng mà Silas Merrill nhận được cho lời khai chống lại anh em nhà Boorn là hắn được thả ngay lập tức. Luật sư bang Calvin Sheldon sẵn sàng đổi một kẻ tội phạm làm giả giấy tờ để lấy ba kẻ giết người bất cứ lúc nào.

Jesse sau đó thú tội, tuyên bố Stephen thực sự đã giết người, và cha anh ta không hề liên quan. Những áp lực nào đã đè nặng lên y hoặc những lời hứa nào đưa ra chỉ có thể ước đoán. Nhưng khi Stephen, trước sự ngạc nhiên của mọi người – tự nguyện trở về từ New York – và khẳng định mình vô tội, Jesse đã rút lại lời thú tội.

Nhưng bằng chứng cứ chồng chất ra đấy. Bảy năm sau sự kiện, hàng xóm nhà Boorn mới nhớ lại những lời đe dọa mà hai anh em đã đưa ra với Russell trước khi anh ta mất tích. Họ nhớ lại những lời bình luận ác độc  của hai anh em sau đó, cho thấy họ biết nhiều hơn những gì họ có thể nói về sự mất tích của anh. Hai người đàn ông đột nhiên nhớ ra rằng họ đã chứng kiến ​​Stephen và Russell đánh nhau vào ngày Russell mất tích, mặc dù cả hai đều không ở lại xem diễn biến cuộc ẩu đả.

Với tất cả bằng chứng chống lại mình, Stephen giờ đây đã chịu thú nhận để tránh án tử hình, tuyên bố rằng hắn đã giết Russell để tự vệ. Lời thú tội dường như được viết bởi luật sư của Stephen, vì nó sử dụng những từ ngữ và cụm từ chắc chắn vượt quá trí thông minh và trình độ học vấn của hắn. Stephen vốn nổi tiếng là chậm chạp.

Vậy là chúng ta có hồn ma của Russell Colvin hiện ra trước mặt chú Amos, xương cốt của anh bị chó đào bới lên, lời thú tội của mỗi anh em, câu chuyện về kẻ chỉ điểm trong tù, và ký ức bảy năm của nhiều người dân địa phương. Chắc chắn là đủ để kết tội.

Khi bắt đầu phiên tòa, bằng chứng về xương đã biến mất khi kiểm tra kỹ hơn, các bác sĩ kết luận rằng chúng là xương động vật. Mặc dù không có thi thể (thậm chí không có một khúc xương), lời thú tội đã bị rút lại, và bằng chứng duy nhất có giá trị là câu chuyện một trong hai anh em đã được nhìn thấy đánh nhau với người mất tích, hai anh em vẫn bị kết án treo cổ. Bản án của Jesse sau đó được thay đổi thành tù chung thân. Hình ảnh ma quái của Colvin trước mặt chú Amos không được chấp nhận làm bằng chứng, nhưng chắc chắn bồi thẩm đoàn đã nghĩ đến điều đó.

Rồi sự tình cờ đã xảy ra. Một bài báo về vụ giết người đăng trên một tờ báo ở New York vào tháng 11 năm 1819 kể lại rằng sự xuất hiện ma quái của Russell Colvin trước mặt chú Amos đã khởi đầu cho các sự kiện dẫn đến phiên tòa xét xử và kết án hai anh em. Một người đàn ông ở  New Jersey, Tabor Chadwick, đang ở sảnh một khách sạn tại Thành phố New York thì có người ngồi gần y bắt đầu đọc to bài báo. Nghe xong, y lập tức  viết một lá thư cho tờ báo và một lá thư khác cho bưu điện trưởng ở Manchester, Vermont. Y nói mình có  biết một người đàn ông tên là Russell Colvin, làm công nhân nông trại ở Dover, New Jersey. Và gã Russell Colvin này đã nói rất nhiều về Vermont, quê quán anh ta.

Phải mất một chút thuyết phục Colvin mới chịu quay về Vermont, và ngay lập tức được hàng xóm cũ nhận ra ngay. Khi hai anh em được thả khỏi tù, Stephen chỉ còn sáu tuần nữa là đến ngày thi hành án hành quyết.

Ngày 7 tháng 10 năm 1925, Henry Sweet, 21 tuổi, và Carmen Wagner, bạn gái 17 tuổi của anh, rời nhà ở Eureka, California, để đi săn hươu ở Coyote Flat, một khu vực cách đó khoảng 45 dặm về phía đông nam. Bốn ngày sau, thi thể của Henry Sweet được tìm thấy trong một cabin bỏ hoang. Mười hai ngày sau, vào ngày 23 tháng 10, thi thể của cô gái được tìm thấy tại Baker Creek, cách đó vài dặm. Cô đã bị bắn hai phát, và có người đã ra sức chôn xác cô trong một ngôi mộ nông. Máu khô và những mảnh da vụn được tìm thấy dưới móng tay cô.

Cảnh sát quyết định bắt giữ một cặp “con lai”, Jack Ryan và anh trai cùng cha khác mẹ của hắn, Walter David, vì tội giết người. David bị bắt vào ngày 23 tháng 10 và Ryan vào ngày hôm sau. Hoàn toàn không có bằng chứng nào cho thấy họ có liên quan đến vụ giết người hay các nạn nhân, ngoại trừ việc họ sống trong cùng khu vực. David được thả vài ngày sau đó, nhưng Ryan bị giam giữ để xét xử về tội giết Wagner.

Phiên tòa xét xử Ryan bắt đầu vào tháng 2 năm 1926 và kéo dài năm tuần. Cuối cùng, bồi thẩm đoàn toàn nam, toàn da trắng tuyên bố y vô tội. Nhưng người dân Quận Humboldt lại không hài lòng với phán quyết này. Vào tháng 1 năm 1927, một luật sư địa phương kiêm kẻ buôn rượu lậu, Stephen Earl Metzler, đã ra tranh cử chức vụ công tố viên quận với cương lĩnh là sẽ sửa chữa sự bất công hiển nhiên này.

Khi Metzler đắc cử, ông đã bắt tay vào thực hiện lời hứa với cử tri. Thay vì “Công lý cho tất cả”, phương châm của ông dường như lại là “Đem đến cho người dân những gì họ muốn”.

Ngày 31 tháng 10, Walter David được phát hiện bị siết cổ đến chết bằng dây thép gai. Thi thể y có dấu hiệu bị tra tấn. Không ai bị xét xử vì tội giết người. Ngay sau vụ giết người, Jack Ryan bắt đầu nhận được những lá thư nặc danh đe dọa y sẽ phải chịu số phận tương tự nếu không thú nhận tội giết Sweet và Wagner. Những lá thư này được gửi bởi Biện lý Quận Metzler.

Ngày 12 tháng 7 năm 1928, Ryan bị bắt và bị buộc tội cưỡng hiếp theo luật định một bé gái 13 tuổi. Để tránh bị xét xử, y ngay lập tức nhận tội đối với hai trong ba tội danh bị cáo buộc. Bị giam giữ qua đêm tại nhà tù địa phương và bị Metzler thẩm vấn, đến sáng hôm sau y đã thú nhận hai vụ giết người. Vì không thể bị xét xử lần thứ hai về tội giết Carmen Wagner, y bị buộc tội giết Henry Sweet. Y nhận tội, bị kết án tù chung thân không xét xử, và bị đưa đến San Quentin ngay trong ngày hôm đó.

Năm 1947, Cục các Vấn đề người Da đỏ bắt đầu điều tra vụ án của Jack Ryan. Stephen Earl Metzler đã thừa nhận với các đặc vụ là mình đã gài bẫy Ryan về tội hiếp dâm, trả cho mẹ cô gái 100 đô la để bà khai man. Ông ta cũng thừa nhận rằng Ryan đã bị đánh đập để khai nhận tội giết người, và rằng Bill Shields, người có khả năng là thủ phạm, thực ra đã cung cấp thông tin cho ông ta để gài bẫy Ryan. Vậy mà phải mất sáu năm Ryan mới được tạm tha với lời cam kết của mình – chứ không phải ân xá  từ Tiểu bang California. Ngày 11 tháng 5 năm 1953, sau 25 năm, Jack Ryan bước ra khỏi nhà tù San Quentin, chưa hẳn đã là một người tự do.

Vào ngày 20 tháng 3 năm 1969, Thống đốc Ronald Reagan đã giảm án tù chung thân của Ryan xuống còn thời gian đã thụ án, trên thực tế đã giải thoát anh khỏi việc tạm tha. Tuy nhiên, về mặt pháp lý, anh vẫn có tội. Ryan qua đời vào năm 1978.

Phải đến năm 1996, sau khi cuộc điều tra không chính thức mở rộng do thám tử Richard H. Walton của Quận Humboldt tiến hành trong thời gian rảnh rỗi đã kết thúc, sự vô tội của Ryan mới chính thức được công nhận. Thống đốc bang California Pete Wilson lần đầu tiên đã ban hành lệnh ân xá và minh oan sau khi chết, tuyên bố Ryan rõ ràng đã bị Metzler gài bẫy. Trong tuyên bố của mình, Wilson nói:

Tiếc thay, chúng ta không thể thực thi công lý cho Jack Ryan, con người. Nhưng chúng ta có thể thực thi công lý cho Jack Ryan, ký ức. Và bằng cách đó, chúng ta thổi luồng sinh khí mới vào hệ thống tư pháp của mình. Chúng ta phải nhớ rằng một xã hội công bằng không phải lúc nào cũng đạt được công lý, nhưng nó phải luôn đấu tranh cho công lý. Điều này có nghĩa là chúng ta không được tha thứ cho người có tội cũng như phải nỗ lực minh oan cho người vô tội. Vì vậy, để công lý được duy trì, tôi xin ân xá cho Jack Ryan sau khi anh ta qua đời dựa trên bằng chứng vô tội.

 

3: Người đàn ông đeo mặt nạ đó là ai?

Nếu thiên nhiên chỉ có một tiêu chuẩn cố định cho tỷ lệ của các bộ phận khác nhau, thì khuôn mặt của tất cả mọi người sẽ giống nhau đến mức không thể phân biệt được chúng; nhưng thiên nhiên đã thay đổi năm bộ phận trên khuôn mặt theo cách mà mặc dù thiên nhiên đã tạo ra một tiêu chuẩn gần như phổ quát về kích thước của chúng, nhưng thiên nhiên đã không tuân theo nó quá nghiêm ngặt trong các điều kiện khác nhau đến mức ngăn cản khuôn mặt này rõ ràng khác biệt với khuôn mặt khác.

 

-Leonardo da Vinci

HÃY XEM XÉT một số vấn đề nảy sinh từ việc phân biệt người này với người khác, tưởng chừng như đơn giản. Trong cuốn “Nghệ thuật Nấu ăn“, một cuốn sách dạy nấu ăn thế kỷ 18 của Hannah Glasse, công thức nấu món Thỏ Hầm Rượu Vang được cho là ngon tuyệt của bà bắt đầu bằng câu: “Hãy bắt con thỏ của bạn khi nó bị nhốt trong rọ”, nghĩa là “Trước tiên hãy bắt con thỏ của bạn”. Vấn đề tương tự cũng tồn tại với tội phạm: chúng không thể bị bỏ tù cho đến khi bị bắt, và chúng không thể bị bắt cho đến khi bị nhận dạng. Từ thời Trung cổ đến thời hiện đại, những tội phạm không bị hành quyết ngay lập tức (và có hàng trăm tội ác mà hình phạt là tử hình) sẽ bị đóng dấu. Mục đích của việc đóng dấu là để nhận dạng – để cảnh báo những công dân tốt cảnh giác với kẻ phạm tội – chứ không phải để trừng phạt. Người ta cho rằng việc đóng dấu (bằng sắt nung đỏ) không đủ đau đớn trong thời đại mà đóng trăn, kẹp bánh  răng vào  ngón tay cái, giá treo cổ, và roi da được sử dụng phổ biến. Ở Pháp, từ thế kỷ 14 trở đi, hình hoa bách hợp được đóng dấu trên vai của một tù nhân được thả. Ở Anh thế kỷ 18, những tên trộm thoát khỏi án treo cổ bị đóng dấu trên má. Ở nước Nga thời Sa hoàng, các tù nhân bị đưa đến Siberia bị đóng dấu trên cả hai má và trán. Tục lệ này không biến mất trên toàn thế giới cho đến đầu thế kỷ 20. Nó tồn tại ở Trung Quốc cho đến năm 1905.

Ở nhiều nơi trên thế giới, một hình thức nhận dạng khác bằng cách làm biến dạng vẫn được sử dụng cho đến tận gần đây: cắt cụt chi, cắt tai hoặc cắt mũi, và thiến. Trong nhiều thế kỷ, Trung Quốc đã thực hành hình phạt cắt cụt mũi hoặc chân. Việc chặt tay kẻ trộm, vẫn còn là luật pháp ở Ả Rập Xê Út và các quốc gia Ả Rập khác, có tác dụng ba mặt: nhận dạng, trừng phạt và răn đe.

Tuy nhiên, việc đóng dấu và cắt xén là những giải pháp chung chung. Chúng không hiệu quả lắm trong việc xác định danh tính cụ thể của từng cá nhân.

Người ta có thể biết rằng một người mang dấu ấn, một chiếc mũi bị cắt cụt gọn gàng, hay một vết cắt hình chữ V ở dái tai trái là một tội phạm, nhưng không biết chính xác đó là tội phạm nào. Cần có một phương tiện xác thực để nhận dạng một tên tội phạm cụ thể, và phải mất nhiều thế kỷ sau mới tìm thấy. Trong Đế chế La Mã, những mô tả bằng văn bản về tội phạm mất dấu và nô lệ bỏ trốn đã được phân phát. Những mô tả này tập trung vào nhiều chi tiết tương tự như trong phương pháp nhân trắc học, một phương pháp được Alphonse Bertillon phát triển vào thế kỷ 19 và vẫn được một số lực lượng cảnh sát sử dụng ngày nay. Nhưng những mô tả này không chính xác hơn khả năng quan sát và mô tả của người viết.

Eugène Vidocq, một tên tội phạm đã hoàn lương và trở thành cảnh sát trưởng Paris vào những năm 1820, đã nhận ra tầm quan trọng của việc nhận dạng cá nhân. Trong hồi ký của mình, ông viết:

Vừa trở thành đặc vụ chính của lực lượng cảnh sát an ninh, tôi đã vô cùng sốt sắng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao phó, và tôi đã nghiêm túc dành thời gian thu thập thông tin cần thiết. Với tôi, đây dường như là một phương pháp tuyệt vời để phân loại, càng chính xác càng tốt, mô tả về tất cả những cá nhân đang bị công lý nhắm đến. Nhờ đó, tôi có thể dễ dàng nhận dạng họ hơn nếu họ trốn thoát, và khi bản án kết thúc, tôi cũng dễ dàng hơn trong việc giám sát họ theo đúng yêu cầu. Sau đó, tôi đã xin phép ngài Henry cho phép tôi cùng các cộng sự đến Bicetre để kiểm tra, trong quá trình thực hiện việc xiềng xích, cả những tù nhân ở Paris lẫn tội phạm ở các tỉnh, thường gông cùm chung trên cùng một dây xích.

Cùng với sự phát triển của các thành phố vào thế kỷ 19 và sự thành lập của lực lượng cảnh sát chuyên nghiệp, những nỗ lực nhằm hệ thống hóa quy trình nhận dạng đã xuất hiện. Khi các nhà tù trở thành nơi cải tạo được ưa chuộng, ý tưởng cho rằng những kẻ tái phạm chưa đủ ăn năn hối cải và nên nhận những bản án khắc nghiệt hơn đã xuất hiện. Những tên tội phạm chuyên nghiệp phải đối mặt với những bản án khắc nghiệt này đương nhiên sẽ tìm mọi cách để không bị nhận dạng. Cảnh sát, đặc biệt là các thám tử, được khuyến khích tham dự các cuộc diễu hành tội phạm hàng tuần, trong đó tất cả các nghi phạm đang bị giam giữ được xếp hàng. Sau đó, họ sẽ nhìn chằm chằm vào khuôn mặt  những tên đi qua hệ thống để có thể nhận ra họ khi gặp lại. Cảnh sát đến từ các khu vực pháp lý khác cũng được yêu cầu tham dự các cuộc xếp hàng địa phương này để họ có thể ghi nhớ đặc điểm của tội phạm địa phương và phát hiện bất kỳ tội phạm nào đang bị truy nã theo lệnh truy nã đang chờ xử lý tại thành phố của họ.

Theo thông lệ ở thành phố New York, các thám tử khi tham gia xếp hàng phải đeo mặt nạ để bọn tội phạm không thể trả thù sau này  bằng cách nhận mặt họ.

Đôi khi những nỗ lực nhằm xác định tội phạm bị truy nã và tội phạm tái phạm lại mang đến những kết quả bất ngờ. Vào tháng 7 năm 1844, cảnh sát trưởng Paris đã treo giải thưởng 20 franc cho việc xác định danh tính của những “kẻ tái phạm”, như cách gọi của họ. Thông thường, một tên tội phạm biết mình chắc chắn sẽ bị nhận diện sẽ thỏa thuận với một cảnh sát thân thiện, người này sẽ giao nộp hắn và chia đôi phần thưởng.

Nhưng việc nhận dạng cá nhân cho mục đích điều tra lại có những sai sót nghiêm trọng. Nhiều khóa học tâm lý dành cho sinh viên năm nhất đã chứng minh sự nguy hiểm của lời khai nhân chứng bằng cách cho một người bất ngờ chạy vào lớp học, bắn vài phát súng lục, rồi chạy ra ngoài, hoặc thực hiện một số trò gây chú ý khác. Sau đó, giáo sư yêu cầu sinh viên mô tả hành động và diễn viên. Hiếm khi có ai mô tả chính xác tất cả, hoặc thậm chí hầu hết, những sự kiện quan trọng.

Cũng đúng là mọi người có thể không để ý đến thứ gì đó ngay trước mắt mình. Trên internet, bạn có thể tìm thấy một đoạn clip dài bốn phút tuyệt vời về một trận đấu bóng rổ. Để rèn luyện khả năng quan sát, bạn được yêu cầu đếm số lần bóng được chuyền giữa các cầu thủ mặc áo trắng. Sau khi đếm xong, bạn được hỏi xem bạn có nhận thấy điều gì bất thường không. Sau đó bạn được cho xem lại đoạn clip, lần này cảnh giác với một điều gì đó thậm chí hơi kỳ lạ. Và lần này, bạn nhận ra điều mà ban đầu bạn không để ý – một người phụ nữ (trang web giải thích) trong bộ đồ khỉ đột bước vào khung hình từ bên phải, đi giữa các cầu thủ, đập ngực mình trước ống kính máy quay và rời đi ở bên trái.

Không chỉ trong lớp học lời khai của nhân chứng mới thành vấn đề. Năm 1803, một người thợ mộc ở thành phố New York tên là Thomas Hoag, đang hạnh phúc trong hôn nhân và là cha của một cô con gái nhỏ, đột nhiên mất tích. Hai năm sau, chị dâu anh nghe thấy giọng nói ngọng nghịu đặc trưng của anh vang lên phía sau lưng trên phố. Quay lại, cô thấy người đàn ông phía sau cô quả thực là Hoag. Cô báo cho chính quyền, và họ đã bắt giữ anh ta vì tội bỏ rơi gia đình. Tại phiên tòa xét xử, tám người, bao gồm chủ nhà, người thuê nhà và một người bạn thân, đã nhận dạng anh ta. Anh ta có một vết sẹo quen thuộc trên trán và một khối u dễ nhận biết ở sau gáy.

Nhưng bị cáo khẳng định rằng thực chất mình chính là Joseph Parker. Để chứng minh, anh ta đã đưa ra tám nhân chứng của riêng mình, bao gồm cả một người vợ đã kết hôn tám năm rồi. Thẩm phán không thể đưa ra phán quyết.

Một người bạn của Hoag, trước đây từng tập thể dục hàng ngày với Hoag, nhớ rằng Hoag có một vết sẹo lớn ở lòng bàn chân. Bị cáo được yêu cầu cởi giày ra, và anh ta vui vẻ làm theo. Không có vết sẹo nào cả, nên Parker đã về nhà với vợ. Hoag không bao giờ được tìm thấy.

Năm 1877, tại Anh, một vụ việc nhầm lẫn danh tính nghiêm trọng hơn đã xảy ra. Một người đàn ông tự xưng là “Lord Willoughby” đã phải vào tù vì tội lừa đảo những cô gái mà chính quyền gọi là “phụ nữ phóng đãng”. Vì người đàn ông này rõ ràng không đủ điều kiện để được gọi bằng cái tên mà ông ta khai, nên hồ sơ nhà tù đã chọn cái tên “John Smith” làm tên nhận dạng phù hợp.

Năm 1894, chưa đầy một năm sau khi ông ra tù, một nhóm phụ nữ, “chủ yếu là những người có tính cách phóng túng”, đã khiếu nại với cảnh sát rằng họ đã bị lừa đảo bởi một gã đàn ông tự xưng là “Lord Wilton”, hoặc đôi khi là “Lord Winton de Willoughby”. Mô tả của họ về tên đàn ông này rất khác nhau, nhưng những tấm séc giả mà họ nhận được dường như đều được viết bằng cùng một nét chữ. Khoảng một năm sau, vào tháng 12 năm 1895, một trong các phụ nữ ấy, Ottilie Maissonier, đi ngang qua một kỹ sư khai thác mỏ người Na Uy tên là Adolf Beck trên phố Victoria ở London. Cô nhận ra Beck chính là Lord Winton de Willoughby và đã báo y với một cảnh sát.

Beck phản đối, nói là mình vô tội, nhưng viên cảnh sát đã đưa y trở lại đồn cảnh sát, nơi một số phụ nữ khác cũng bị lừa đảo tương tự được mời đến xem xét y. Họ cũng xác định Beck là tên quý ông giả mạo. Một cảnh sát đã nghỉ hưu, người từng xử lý vụ “John Smith” trước đó, đã

được gọi đến để nhìn mặt Beck, và ông ta cũng thề rằng Beck và Smith là một. Ý kiến ​​của ông ta cũng được một sĩ quan thứ hai xác nhận.

Beck bị kết án bảy năm tù giam, một bản án nặng hơn mức y đáng lẽ phải nhận nếu không bị ghi vào hồ sơ tội phạm là tái phạm. Năm 1896, luật sư của Beck đã xoay sở để xem xét lại vụ án với lý do hồ sơ nhà tù cho thấy John Smith đã cắt bao quy đầu, trong khi Beck thì không. Bộ Nội vụ quyết định không xét xử lại y nhưng đã ra lệnh xóa bản án trước đó khỏi hồ sơ nhà tù.

Sau khi mãn hạn tù và được tự do gần ba năm, Beck bất hạnh lại bị bắt giữ một lần nữa với những đơn khiếu nại mới có nội dung rất giống với những đơn cũ. Lần này, y bị kết án và tuyên án tái phạm. Nhưng ngay khi y sắp bị đưa vào tù, một gã đàn ông tự xưng là Thomas đã bị buộc tội với các tội danh tương tự như những tội mà Beck vừa bị kết án. Khi đối mặt với Thomas, những phụ nữ từng nhận dạng Beck nhận ra rằng mình đã phạm sai lầm.

Cảnh sát, lúc này nghi ngờ sự thật, đã triệu tập nhân chứng của cả hai vụ án trước đó. Thomas được xác định là “Smith” thực sự và là kẻ đã gây ra tất cả các tội ác mà Beck đã bị kết án. Beck ngay lập tức được “ân xá tự do” và được bồi thường 5.000 bảng Anh.

Việc nhận dạng của nhân chứng càng mai một khi thời gian trôi qua. Năm 1981, John Demjanjuk, một người Ukraine sáu mươi hai tuổi, di cư đến Cleveland, Ohio, vào năm 1952 và làm công nhân thép, đã bị tước quốc tịch Hoa Kỳ vì bị cáo buộc nhập cảnh trái phép. Sau đó, vào năm 1986, ông bị dẫn độ về Israel để xét xử vì những tội ác chiến tranh nghiêm trọng. Ông bị Israel cáo buộc là “Ivan Bạo chúa”, một lính canh tại trại tử thần Treblinka, người đã giám sát phòng hơi ngạt và chịu trách nhiệm cho cái chết của hàng chục ngàn người Do Thái. Năm 1988, sau lời khai đầy xúc động của những nạn nhân sống sót sau trại Treblinka, những người đã xác định Demjanjuk là tên lính canh tàn bạo, và bất chấp những lời phủ nhận kịch liệt của mình, Demjanjuk vẫn bị kết án tử hình – một hình phạt mà ở Israel dành cho những kẻ phạm tội ác chống lại loài người.

Năm 1993, Tòa án Tối cao Israel đã đảo ngược bản án. Bằng chứng mới từ kho lưu trữ của Liên Xô cho thấy mặc dù Demjanjuk có thể là lính canh tại Sobibor, một trại tử thần khác ở Ba Lan (một cáo buộc mà ông ta cũng kịch liệt phủ nhận), nhưng thực tế ông ta chưa bao giờ ở Treblinka và không phải là Ivan Bạo Chúa. Việc những người sống sót nhận dạng Demjanjuk là lính canh mà họ đã chứng kiến ​​trong điều kiện khắc nghiệt 40 năm trước, mặc dù được thực hiện một cách thiện chí, đã bị nhầm lẫn. Demjanjuk thực sự có thể phạm tội ác chiến tranh, nhưng không phải chính là đối tượng bị buộc tội. Năm 2009, ông ta bị trục xuất về Đức, nơi các quan chức đang xét xử ông ta vì những tội ác chiến tranh khác.

Một vấn đề hiếm gặp nhưng thú vị và phức tạp về nhận dạng liên quan đến việc một người không phải là ai hơn là người đó là ai. Trường hợp nổi tiếng nhất thuộc loại này trong thế kỷ trước là vụ mất tích của Nữ Đại Công tước Anastasia của Nga và một số phụ nữ tự nhận mình là bà.

Sa hoàng Nicholas II, vị vua cuối cùng của triều đại Romanov, đã bị chính quyền mới Bolshevik sát hại cùng toàn bộ gia đình vào ngày 17 tháng 7 năm 1918. Thi thể của họ bị thiêu hủy và chôn trong một cái hố, địa điểm được giữ bí mật. Tuy nhiên, có một tin đồn dai dẳng rằng Anastasia, cô con gái út của Sa hoàng, đã trốn thoát khỏi vụ thảm sát và đang sống dưới một cái tên giả ở nước ngoài.

Trong số nhiều người tự nhận mình là bà, người thuyết phục nhất là một cô gái đã nhảy cầu ở Berlin vào ngày 17 tháng 2 năm 1920, một năm bảy tháng sau vụ hành quyết hàng loạt. Bà tuyên bố bị mất trí nhớ, và sau đó bà đã phải nằm viện tâm thần hai năm, nơi mọi người nhận xét bà rất giống công nương Anastasia xinh đẹp mất tích. Vì không có tên nào hay hơn, bà tự gọi mình là Anna Anderson. Bà tuyên bố có những ký ức mơ hồ về một cuộc đời khác, một cuộc đời vĩ đại và tuyệt vời đã bị cắt ngắn bởi bi kịch.

Bà nhớ mình đã bị đâm bằng lưỡi lê, và được một người lính tên Tschaikovsky cứu sống, đưa bà đến Romania. Họ kết hôn và có một đứa con. Khi Tschaikovsky bị giết trong một cuộc ẩu đả đường phố, bà gửi con vào trại trẻ mồ côi và lấy hết can đảm đến Berlin để cầu cứu dì của Anastasia, Công chúa Irene. Chính lúc đó, bà cảm thấy tuyệt vọng và nhảy xuống cầu.

Trong suốt quãng đời còn lại (bà mất năm 1984), bà đã thu hút cả những người ủng hộ lẫn những người phản đối, từ họ hàng hoàng gia của Anastasia, đến các nhà khoa học và chuyên gia đã nghiên cứu bà. Thái tử phi Cecilie, con dâu của hoàng đế Đức và là họ hàng xa của Anastasia, tin tưởng Anna, nhưng con trai của công chúa, Hoàng thân Louis Ferdinand, thì không. Pierre Gilliard, người từng là gia sư của Anastasia, ban đầu tin tưởng nhưng sau đó đã thay đổi ý định. Đại Công tước Alexander, anh họ của sa hoàng, thì tin tưởng tuyệt đối.

Đại Công tước Ernst xứ Hesse, người vốn không tin, đã tiến hành một cuộc điều tra và kết luận rằng Anna thực chất là Franziska Schanzkowska, một công nhân nhà máy người Ba Lan đã mất tích vào năm 1920. Tuy nhiên, Anna khẳng định mình biết về chuyến đi bí mật của đại công tước đến Nga vào năm 1916 để gặp Sa hoàng. Ernst kiên quyết phủ nhận việc thực hiện bất kỳ chuyến đi nào như vậy, nhưng vào năm 1966, con trai riêng của Hoàng đế Đức đã tuyên thệ trước tòa rằng ông ta đã được cho biết rằng Ernst thực sự đã thực hiện một chuyến đi như vậy [ngay giữa Thế chiến I trong đó Đức, Nga là hai phe đối địch, nhưng họ là bà con]. Nếu Anna là kẻ mạo danh, làm sao bà ta có thể biết được hành tung. bí mật này?

Nơi vùi lấp thi thể hoàng gia Nga đã được phát hiện và hài cốt được bốc lên và bảo quản vào năm 1991. Lúc đó khoa học DNA vừa được phát triển và cuộc xét nghiệm DNA bởi phòng thí nghiệm hàng đầu của Anh đã xác nhận rằng hài cốt bốc lên từ hố mộ chính là  xương cốt của sa hoàng, vợ ông và ba cô con gái. Hài cốt của Anastasia không được tìm thấy. Sau hơn một thập kỷ nữa, tại một địa điểm khác, người ta tìm thấy xương cốt cháy đen có thể là của Anastasia và em trai cô.

Có người giàu tiền bạc mà chẳng có trí tuệ, và có người giàu trí tuệ mà chẳng có tiền bạc. Chắc chắn đàn ông giàu tiền bạc mà chẳng có trí tuệ sinh ra là để dành cho đàn ông giàu trí tuệ mà chẳng có tiền bạc.

 

-Trích từ sổ tay của Arthur Orton

Vào thời đại trước khi có dấu vân tay, máy ảnh và kỹ thuật sinh trắc học, việc nhận dạng đơn giản có thể là một bài toán khó. Khi một người mẹ nói rằng bà nhận ra thi thể là của con trai mình, bất kể thi thể tìm thấy có khó nhận dạng đến đâu, thì làm sao chúng ta có thể phản biện được?

Tàu chở hàng Bella là một trong những con tàu đầu tiên mất tích ở nơi mà sau này được gọi là Tam giác quỷ Bermuda. Nó khởi hành từ Rio de Janeiro, hướng đến Thành phố New York qua Kingston, Jamaica, vào ngày 20 tháng 4 năm 1854, chở theo một lô hàng gồm hạt cà phê, thủy thủ đoàn gồm 40 người, và một hành khách – Roger Charles Doughty Tichborne, 25 tuổi, người thừa kế một trong những điền trang lâu đời và giàu có nhất nước Anh. Nhưng con tàu không bao giờ cập bến cả hai cảng, và cả ông Tichborne lẫn thủy thủ đoàn đều biệt tăm. Một mảnh vỡ tàu được tìm thấy, nhưng không còn dấu vết nào khác của con tàu. Hãng tàu Lloyd’s tuyên bố nó “bị chìm cùng với tất cả mọi người”.

Vào tháng 7 năm 1855, Roger Tichborne chính thức được tuyên bố mất tích trên biển. Mọi chuyện lẽ ra đã kết thúc ở đó, nhưng mẹ của Roger, Phu nhân Tichborne, không dễ dàng bỏ cuộc. Bà đã đăng quảng cáo trên các tờ báo khắp Anh, Mỹ, Châu Âu và Úc để tìm kiếm tin tức về con trai mình. Bà mô tả cậu bé khá nhỏ nhắn và mảnh khảnh, với những đường nét sắc sảo, đôi mắt đen và mái tóc đen thẳng. Nhiều chàng trai trẻ đã trả lời những quảng cáo này, nhưng không ai trong số họ chính là Roger mất tích.

Năm 1862, khi cha của Roger qua đời và tước hiệu Nam tước của ông được truyền lại cho em trai của Roger, bà bắt đầu một loạt quảng cáo mới, đưa ra phần thưởng cho thông tin. Một quảng cáo được đăng trên tờ Argus ở Melbourne, Úc có nội dung:

Một phần thưởng hậu hĩnh sẽ được trao cho bất kỳ ai có thể cung cấp thông tin giúp tìm ra số phận của Roger Charles Tichborne. Anh đã rời Rio Janeiro vào ngày 20 tháng 4 năm 1854 trên con tàu La Bella và kể từ đó không còn nghe thấy tin tức gì nữa, nhưng một báo cáo đã đến Anh cho biết một phần thủy thủ đoàn và hành khách của một con tàu cùng tên đã được một con tàu đi Úc, Melbourne, cứu vớt. Người ta không biết liệu Roger Charles Tichborne nói trên có nằm trong số những người chết đuối hay được cứu sống hay không. Hiện tại, anh khoảng ba mươi hai tuổi, có thể trạng mảnh khảnh, khá cao, tóc nâu nhạt và mắt xanh. Anh Tichborne là con trai của Ngài James Tichborne, hiện đã qua đời, và là người thừa kế toàn bộ tài sản của ông.

Lời kêu gọi này tất nhiên đã gây ra một làn sóng mới về những báo cáo nhìn thấy, những tuyên bố và những chuyện thêu dệt. Năm 1865, Phu nhân Tichborne được Phòng Bằng Hữu  Mất tích của Sydney, Úc thông báo rằng một người đàn ông có nhân dạng giống bà mô tả đã được tìm thấy tại thị trấn Wagga Wagga ở New South Wales, nơi anh ta điều hành một cửa hàng bán thịt và có tên là Thomas Castro. Tuy nhiên, anh ta nói rằng đây không phải là tên được đặt cho mình khi sinh ra. Một lá thư thứ hai xác nhận rằng Castro thực chất là một nhà quý tộc Anh cải trang, và anh ta đã thừa nhận với ít nhất một người rằng mình thực sự là Roger Tichborne. Bà mẹ đã cử Andrew Bogle, một người hầu cũ của gia đình, và Michael Guilfoyle, trưởng nhóm thợ làm vườn  trước đây tại Công viên viên Tichborne, cả hai đều đã chuyển đến Úc sống, đến nơi phỏng vấn người bán thịt. Trong khi đó, Castro đã ráng hết sức có thể để tìm hiểu mọi thứ về Tichborne và lịch sử gia đình. Bằng cách nào đó, cả Bogle và Guilfoyle đều công nhận gã đàn ông to béo, ít học này là Roger Tichborne mảnh khảnh, thanh lịch và đọc nhiều sách.

Chàng trai trẻ Tichborne mới được “trúng tuyển” sau đó đã viết thư trực tiếp cho “Mẹ yêu quý” của mình, cho thấy mình không thể viết một câu tiếng Anh đúng ngữ pháp và gặp khó khăn trong việc đánh vần một số từ, trong số đó có “Tichborne” (anh ấy đã đánh vần là “Titchborne”). Anh ấy đã quả quyết với mẹ rằng mình có vết bớt (mà bà không hề nhớ), và kể lại một sự việc ở Brighton (mà bà cũng không nhớ).

Nhưng dù sao thì Roger tội nghiệp cũng từng được nuôi dưỡng ở Pháp, và cậu bé luôn gặp khó khăn với tiếng Anh. Cậu bé chưa bao giờ có thể đánh vần tốt. Gần như bị thuyết phục bởi vì bà rất muốn tin tưởng, bà mẹ đã gửi cho cậu bé một tấm vé khứ hồi về Anh. Như bà đã viết cho người liên lạc ở Úc, “Tôi nghĩ Roger tội nghiệp của tôi đang lẫn lộn mọi thứ trong đầu, giống như trong mơ vậy, và tôi tin cậu bé là con trai tôi, mặc dù những phát biểu của cậu bé khác với những phát biểu của tôi.”

Nhưng gã đàn ông trở về khác xa với người con trai đã ra đi. Như Edward H. Smith đã viết trong cuốn “Những bí ẩn của người mất tích”:

Mười ba năm trước, bà đã đuổi đi một quý tộc nhỏ nhắn, thanh tú, giàu chất thơ, với đặc điểm nổi bật là sự tao nhã quá mức khiến cậu ta hoàn toàn không phù hợp với những căng thẳng thường nhật của cuộc sống. Thay vào đó, một gã bình dân thấp bé, thô kệch, béo ú, với những lỗi ngôn ngữ và giọng nói đặc trưng của dân Cockney lại trở về. Thay thế cho chàng trai trẻ biết tiếng Pháp mà không biết tiếng Anh, đây là một gã không nói được một từ tiếng Pháp nào và sử dụng tiếng Anh một cách tệ hại.

Dĩ nhiên bà nhận ra gã là con trai mình ngay lập tức. Họ gặp nhau ở Paris, nhờ đó tránh được những họ hàng người Anh của chàng trai trẻ cho đến khi anh ta có cơ hội học hỏi những điều cần thiết. Anh đến, ở lại và học hỏi rất nhanh. Và Phu nhân Tichborne hạnh phúc với người con trai mới tìm thấy cho đến khi bà qua đời khoảng ba năm sau đó, vào năm 1868.

Những tình tiết bất ngờ và khúc mắc của câu chuyện này đã chiếm ít nhất một chục cuốn sách. Ở đây, chúng ta sẽ theo dõi mạch truyện chính cho đến khi nó đi đến một kết luận nào đó. Năm 1870, kẻ giả danh Tichborne đã đệ đơn kiện để giành lại “quyền thừa kế” của mình: các điền trang Tichborne và tước vị nam tước đi kèm. Y đã dành những năm tháng đó để nghiên cứu mọi thứ về Tichborne và kết bạn với tất cả những người mà y được cho là đã quen biết từ thời thơ ấu, sử dụng mỗi thông tin mới mà y khai quật được như một đòn bẩy để moi ra thông tin tiếp theo. Người ta nhận thấy nét chữ của y ngày càng giống với nét chữ của Roger Tichborne, người từng có mặt trên tàu Bella. Liệu y có đang trở lại giống với chính mình ngày xưa, hay y chỉ đang luyện tập quá giỏi?

Sau cái chết của Phu nhân Tichborne, người tự xưng đã bị cắt đứt nguồn tiền, và những người thừa kế hiện tại không ủng hộ nỗ lực chiếm đoạt bất động sản của y. Vụ việc đã thu hút sự chú ý lớn của công chúng, với người trên phố đứng về phía người tự xưng. Theo quan điểm của công chúng, những họ hàng tham lam đang cố gắng bám víu vào số tiền không phải của họ. Suy cho cùng, một người mẹ hẳn hiểu con trai mình nhất, phải không?

Ngày 11 tháng 5 năm 1871, một phiên tòa bắt đầu và kéo dài đến tháng 3 năm 1872. Ngài John Coleridge, đại diện cho gia đình, đã thẩm vấn nguyên cáo mũm mĩm trong 22 ngày. Hơn 100 nhân chứng đã mất 100 ngày để nói với bồi thẩm đoàn rằng họ biết Roger Tichborne, và “người đàn ông đằng kia” chính là anh ta. Trong số các nhân chứng bên nguyên có một nam tước, sáu thẩm phán, một tướng lĩnh, ba đại tá, một thiếu tá, ba mươi hạ sĩ quan và binh lính, bốn giáo sĩ, bảy tá điền ở Tichborne, và mười sáu người giúp việc trong nhà.

Bên bị đơn chỉ đưa ra mười bảy nhân chứng, nhưng họ, cùng với lời khai của chính nguyên đơn, đã thắng kiện. Ngài John đã vạch trần rất nhiều mâu thuẫn, bóp méo, thiếu sót 9 và những sai lầm trắng trợn đến mức bồi thẩm đoàn đã nhận ra rằng hàng trăm nhân chứng làm chứng cho nguyên đơn đã nhầm lẫn. Nguyên đơn ngay lập tức bị bắt giữ, bị buộc ba tội khai man và bị trả về để xét xử tội hình sự.

Giữa hai phiên tòa, sự thật về nguyên đơn dần được hé lộ. Tên thật của y là Arthur Orton. Y là con trai của một người bán thịt sống tại số 69 phố High, Wapping, và bản thân y cũng từng hành nghề bán thịt ở Nam Mỹ và Úc. Sau khi đọc một trong những quảng cáo của Phu nhân Tichborne trên một tờ báo Úc, như một trò đùa, y bắt đầu tự gọi mình là Roger Tichborne và tự khoác lên mình những gì y cho là dáng vẻ quý tộc (chủ yếu là bắt chước từ các nhân vật trong các vở nhạc kịch).

Tại phiên tòa hình sự, Orton bị kết án 14 năm tù và thụ án gần 11 năm – một vài năm được giảm nhẹ vì cải tạo tốt. Khi ra tù, y đã viết và bán một cuốn sách kể về “câu chuyện có thật” của mình. Nhưng y không được trả công xứng đáng – lúc đó công chúng đã mất hứng thú.

Nhưng Orton đã thực hiện một hành động  lừa gạt người khác một cách ấn tượng, gần như đáng tin cậy. Nếu y không ra tòa để cố gắng đòi lại bất động sản, rất có thể y sẽ vẫn là người thuộc dòng họ Tichborne suốt đời. Gia đình thậm chí có thể chu cấp cho y một khoản đạm bạc nếu y đồng ý không kiện tụng. Hãy nghĩ đến việc hơn một trăm người từng biết Roger thật đã tuyên thệ trước tòa rằng Orton thực sự là Roger đã trở về. Y đã tận dụng thời gian ở Anh để thăm lại tất cả những nơi Roger đã đến, luyện chữ viết tay của Roger, học cách đi đứng và nói năng như một quý ông, và thậm chí học tiếng Pháp, mặc dù y không bao giờ có thể thành thạo.

Thời gian, chi phí và sự khét tiếng của phiên tòa, cũng như thành công trong gang tấc của Orton, đã cho chính quyền Anh thấy rõ rằng cần phải tìm ra một phương pháp tốt hơn để xác định danh tính mọi người.

Mục tiêu là tìm ra một phương tiện không thể sai lầm để nhận dạng những người, vì bất kỳ lý do gì, đã nằm trong tay cảnh sát, và phát minh về nhiếp ảnh đã đưa mục tiêu này đến gần hơn một bước.

Cảnh sát New York đang thuyết phục một người đàn ông cho họ chụp ảnh, năm 1906.

Ngay từ năm 1854, những tấm ảnh kỹ thuật daguerreotype sơ khai chụp tội phạm đã được thực hiện ở Thụy Sĩ. Đó là một quy trình tinh tế sử dụng tấm kim loại phủ bạc và thời gian phơi sáng lên đến hai phút, quy trình này chắc hẳn đã gây khó khăn cho cả chính quyền lẫn nghi phạm. Vào những năm 1860, giám đốc cảnh sát Paris, Lêon Renault, đã thành lập studio chụp ảnh đầu tiên dành riêng cho cảnh sát. Đến những năm 1880, sau khi các quy trình chụp ảnh khô hiệu quả hơn được phát triển, nhiếp ảnh đã trở thành một công cụ thiết yếu của cảnh sát. Ảnh tội phạm được chụp khi bị bắt hoặc bị kết án, tùy thuộc vào luật pháp địa phương. Ảnh của những tội phạm quen thói được tập hợp lại trong các “phòng trưng bày tội phạm” lớn, nơi cảnh sát thường xuyên đến nghiên cứu. Khả năng ghi nhớ khuôn mặt của những tội phạm quen thói của một thám tử điều tra trong địa bàn của mình là công cụ hữu ích nhất trong việc phát hiện và phòng ngừa tội phạm.

Thật không may, các bức ảnh chụp có khi không đáng tin cậy như người ta vẫn nghĩ. Những kẻ phạm tội lần đầu, vô tình trông giống các tội phạm quen thói, đã phải chịu mức án nặng hơn mức họ đáng phải chịu. Và điều ngược lại cũng xảy ra: năm 1888, một tù nhân tại Nhà tù Manchester đang thụ án nhẹ vì là tội phạm lần đầu đã giết một cai ngục; trong cuộc điều tra sau đó, người ta phát hiện ra rằng hắn là một tên tội phạm khét tiếng với ngoại hình đã thay đổi đến mức có thể đánh lừa máy ảnh.

Điều cần thiết là một phương tiện hoàn hảo để phân biệt người này với người khác – một số đo đặc điểm của một người giúp phân biệt anh ta với tất cả người khác. Lý tưởng nhất, đây sẽ là một thứ có thể dễ dàng đo lường, không thay đổi theo thời gian, và có thể được hệ thống hóa và truy xuất khi cần thiết. Mãi đến cuối những năm 1870, phương pháp như vậy mới được nghĩ ra.

Bình luận về bài viết này