Lược Sử về Điệp Viên (Bài 7)

Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

PAUL SIMPSON

Trần Quang Nghĩa dịch

12 CUỘC ĐẤU TRANH MỜ MỊT LÂU DÀI

Vào tháng 6 năm 1985, Tổng thống Ronald Reagan đã nói với người dân Mỹ rằng họ đang “ở trong một cuộc chiến tranh dài hơi với kẻ thù ngoan cố của tự do”. Vào cuối Năm Gián điệp, không mấy ai có thể dự đoán được rằng chỉ trong vòng sáu năm, KGB sẽ không còn tồn tại, Chiến tranh Lạnh sẽ kết thúc, và vai trò tương lai của các cơ quan tình báo phương Tây sẽ được đem ra bàn luận.

Vào cuối những năm tám mươi, KGB tiếp tục chính sách loan truyền thông tin sai lệch, gieo rắc những câu chuyện tuyên truyền có thể ảnh hưởng đến quan điểm của các quốc gia khác về Mỹ và CIA. Sự can dự của CIA vào vụ Iran-Contra cho thấy thời kỳ đen tối của những năm 1960 có thể đang quay trở lại. Trò chơi Gián điệp đấu Gián điệp dường như đang ở đỉnh cao, với những cuộc đánh đổi trong vụ Daniloff tương đương với một số vụ trao đổi gián điệp không cân sức của những thập kỷ trước. Nhưng những cải tổ của Mikhail Gorbachev – cùng với một số sự cố thực sự, chẳng hạn như sự cố dẫn đến sự sụp đổ của Bức tường Berlin – đồng nghĩa với việc thời kỳ Liên Xô thống trị Đông Âu đang dần dến hồi kết.

***

Việc lan truyền những lời dối trá và thông tin sai lệch về Kẻ thù Chính không phải là một chiến thuật mới của KGB; thông qua các tổ chức bình phong và các nhà văn dễ dãi, họ đã tuyên truyền nhiều luận điệu xuyên tạc trong nhiều năm, chẳng hạn như  cuốn sách Oswald: Assassin or Fall-Guy (Oswald: Sát thủ hay kẻ Thế thân) của điệp viên Liên Xô Joachim Joesten, xuất bản năm 1964 về vụ ám sát John F. Kennedy. Năm 1982, Trung tâm Moscow đã tìm cách bôi nhọ uy tín của Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Jeane Kirkpatrick, bằng một câu chuyện được đưa lên tạp chí New Statesman của Anh, cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa bà và chế độ Nam Phi bị ruồng bỏ lúc bấy giờ (mặc dù các tài liệu chứng minh điều này chưa được kiểm tra thích đáng – cách viết sai của từ ‘priviously’ (đáng ra là “previously) đã tiết lộ điều đó.) Bài viết này được viết bởi nhà báo Claudia Wright, người sau này sẽ thúc đẩy các đường lối tuyên truyền khác của Liên Xô, chẳng hạn như tuyên bố của bà trên tờ Dublin Sunday Tribune năm 1989 rằng KAL 007 ‘máy bay phản lực khổng lồ của hãng hàng không Korean Airlines, bị Không quân Liên Xô bắn hạ cách hôm nay sáu năm trước, đang thực hiện nhiệm vụ do thám cho Hoa Kỳ’.

Những hoạt động này, được gọi là “biện pháp chủ động”, trở nên phổ biến hơn vào cuối những năm 1980, bất chấp tuyên bố của Chủ tịch Gorbachev vào tháng 7 năm 1987 rằng “Chúng tôi nói sự thật và chỉ sự thật”. Trong một trong những sắc lệnh cuối cùng của Yuri Andropov với tư cách là Giám đốc KGB năm 1982, ông tuyên bố rằng tất cả các sĩ quan tình báo nước ngoài, bất kể họ thuộc bộ phận nào, đều có nghĩa vụ tham gia vào các biện pháp chủ động. Đây là một lĩnh vực thường được “giao thầu phụ” chodường các quốc gia vệ tinh, chẳng hạn như Đông Đức. Như Đại tá Rolf Wagenbreth, giám đốc Phòng X (thông tin sai lệch) của tình báo đối ngoại Đông Đức, đã từng nói: “Bạn bè của chúng tôi ở Moscow gọi đó là “dezinformatsiya“. Kẻ thù của chúng tôi ở Mỹ gọi đó là “biện pháp chủ động”, và tôi, bạn thân mến ạ, gọi đó là “thú tiêu khiển yêu thích của tôi”.

Sau khi có những nỗ lực nhằm bôi nhọ tên tuổi của

Lãnh đạo Công đoàn Đoàn kết Ba Lan Lech Walesa trước khi ông được trao Giải Nobel Hòa bình năm 1983, Đức Giáo hoàng John Paul II, bản thân cũng là người Ba Lan, đã bị công kích. KGB coi ông như kẻ thù kể từ năm 1971 vì khuynh hướng chống Cộng của ông, và vào tháng 12 năm 1984, họ bắt đầu các biện pháp tiếp theo nhằm bôi nhọ ông là một phần tử phản động. Bài phát biểu của Tổng thống Reagan trước Nghị viện Châu Âu vào tháng 5 năm 1985 đã bị chỉ trích là một biện pháp chủ động. Những lá thư giả mạo đã được sử dụng để củng cố ấn tượng về một chính phủ Mỹ mất kiểm soát: Giám đốc CIA William Casey đường như đã lên kế hoạch lật đổ Thủ tướng Ấn Độ Rajiv Gandhi vào năm 1987; vào tháng 1 năm 1988, các tài liệu cho thấy Tổng thống Reagan đã chỉ thị cho NSA gây bất ổn cho Panama. Bộ trưởng Ngoại giao Nam Phi Pik Botha đã đề cập đến một thỏa thuận bí mật và nham hiểm với Hoa Kỳ trong một lá thư người ta cho là ông đã gửi nó vào năm 1989.

Các biện pháp chủ động có khả năng gây tổn hại nhiều nhất là những câu chuyện về các thí nghiệm y tế do người Mỹ thực hiện. Câu chuyện về virus AIDS được sản xuất trong một thí nghiệm kỹ thuật di truyền tại Fort Detrick, nơi từng đặt chương trình vũ khí sinh học của Hoa Kỳ, lần đầu tiên xuất hiện trên một tờ báo Ấn Độ thân Liên Xô, Patriot, vào năm 1983, nhưng thực sự bị bỏ qua cho đến khi nó được thổi phồng trên tờ Literaturnaya Gazeta vào tháng 10 năm 1985. Phiên bản mới này sau đó được tiếp nối bởi một báo cáo của một nhà vật lý sinh học Đông Đức đã nghỉ hưu (và là người cung cấp thông tin cho Stasi), Giáo sư Jacob Segal. Ông ta đã ‘chứng minh’ rằng virus đã được tổng hợp nhân tạo. Segal thực sự tin vào lý thuyết của mình, mặc dù nó bị bác bỏ, và đã rêu rao nó cho đến khi ông qua đời vào năm 1995.

Giả thuyết của ông đã được báo cáo là sự thật trong các tờ báo Anh như Sunday ExpressDaily Telegraph trích dẫn vào năm sau, và thực sự vẫn được các nhà lý thuyết âm mưu trích dẫn cho đến ngày nay.

Vào tháng 8 năm 1987, các quan chức Liên Xô chính thức phủ nhận việc họ coi AIDS là sản phẩm của Mỹ, nhưng đến lúc đó, câu chuyện này đã được xác nhận, đặc biệt là ở Thế giới thứ ba. Vào tháng 3 năm 1991, một lá thư gửi tờ Bulawayo Chronicle của Zimbabwe tuyên bố rằng Hoa Kỳ không chỉ phát minh ra AIDS, mà CIA còn xuất khẩu “bao cao su tẩm dầu AIDS” sang các nước khác vào năm 1986!

Một phiên bản sau này của cùng câu chuyện về AIDS cho rằng nó được người Mỹ tạo ra như một vũ khí sinh học sắc tộc, nhắm vào người da màu. Điều này một phần là do KGB tiếp nối nỗ lực nhằm kích động chủ nghĩa phân biệt chủng tộc tại Thế vận hội Los Angeles năm 1984, nơi những lá thư hăm dọa được cho là từ Ku Klux Klan (tổ chức kỳ thị chủng tộc của người da trắng nhắm sát hại người da màu ở Mỹ vào cuối thế kỷ 20) đã được gửi đến các nước châu Phi và châu Á hứa hẹn sẽ tiếp đón các vận động viên của họ ‘theo một cách họ sẽ không bao giờ quên’.

Một biện pháp chủ động cụ thể đã được Nghị viện Châu Âu công nhận, thông qua một động thái lên án nạn buôn bán “bộ phận nội tạng” của các trẻ em Mỹ Latinh bị làm thịt cho người Mỹ giàu có bị bệnh. Ngay cả Nhân Chứng Giê-hô-va cũng bị thuyết phục bởi động thái này, đăng câu chuyện trên tạp chí Awake của họ vào năm 1989, với lượng độc giả lên tới 11 triệu người bằng 54 ngôn ngữ. Mặc dù hiện nay người ta biết nhiều hơn về các biện pháp chủ động này so với thời Chiến tranh Lạnh, nhưng việc xem xét các báo chí trên thế giới ngày nay cho thấy cơ quan kế nhiệm KGB, Cơ quan Tình báo An ninh Quốc gia (SVR), vẫn đang miệt mài rao giảng những phiên bản méo mó của thực tế.

Bản chất đôi khi phức tạp của trò chơi gián điệp vào cuối những năm 1980 được minh chứng rõ ràng qua vụ Daniloff từ tháng 8 đến tháng 9 năm 1986, khi Liên Xô vu cáo Nicholas Daniloff, một nhà báo Mỹ, làm gián điệp ở Nga chỉ vài ngày sau khi một trong những điệp viên của họ tại Liên Hiệp Quốc bị FBI bắt giữ, trong một vụ việc mà tạp chí Time mô tả là “một trò chơi ăn miếng trả miếng đầy rủi ro”. Diễn ra trong bối cảnh lập kế hoạch cho cuộc gặp thượng đỉnh đầu tiên giữa Tổng thống Reagan và Mikhail Gorbachev tại Iceland vào cuối năm đó, vụ việc cuối cùng đã dẫn đến việc trao đổi Daniloff lấy Gennady Zakharov (mặc dù cả hai bên đều không thừa nhận đó là sự thật vào thời điểm đó).

Đặc vụ Liên Xô, một nhà vật lý làm việc tại Liên Hiệp Quốc, đã thu phục một cư dân Guyana ở New York, chỉ được gọi là CS hoặc Birg, người làm việc tại một hãng thầu quốc phòng. Điều mà Zakharov không nhận ra là Birg đã làm việc với FBI trong ba năm, kể từ lần tiếp xúc đầu tiên. Khi y đưa cho Birg 1.000 đô la để đổi lấy ba tài liệu mật, FBI đã chờ sẵn. Vài ngày sau, Daniloff, người đã dành năm năm rưỡi trước đó làm phóng viên cho tờ News & World Report, gặp một người bạn, Misha, tại Đồi Lenin ở Moscow; Misha đưa cho anh ta một gói được niêm phong với một số bài báo được cắt ra, hoặc ít nhất là Daniloff nghĩ vậy. Trên thực tế, như anh phát hiện ra khi KGB bắt giữ anh ta trên phố và đưa  đến nhà tù Lefortovo, đó là những ảnh chụp binh lính và xe tăng ở Afghanistan. Như một tờ báo lúc đó đã giải thích, ‘KGB đã dựng lên một vụ án chống lại Daniloff theo đúng nghĩa đen là hình ảnh phản chiếu của vụ án chống lại Zakharov.’ Mặc dù Daniloff và Zakharov được thả sau hai tuần bị giam giữ tại đại sứ quán của họ, mối đe dọa đối với nhà báo Mỹ vẫn tiếp tục; khi Zakharov phải đối mặt với cáo buộc làm gián điệp, và Daniloff cũng vậy.

Một phần của vấn đề là KGB thực sự có chút lo ngại về Daniloff. Một linh mục Chính thống giáo Nga bất đồng chính kiến đã chuyển cho anh ta một lá thư vào tháng 1 năm 1985 để chuyển tiếp cho Giám đốc CIA William Casey. Daniloff đã đưa nó cho Bí thư Thứ hai tại Đại sứ quán Hoa Kỳ. Theo KGB, đây là bằng chứng cho thấy anh ta đang làm việc với CIA.

Sau nhiều ngày thảo luận căng thẳng, trong đó hội nghị thượng đỉnh dự kiến được tổ chức tại Reykjavík vào giữa tháng 10 có vẻ như sẽ bị hủy bỏ nếu tình trạng bế tắc không được giải quyết, và Hoa Kỳ đe dọa sẽ trục xuất hai tá phái viên Liên Xô trong Liên Hiệp Quốc, cuối cùng Liên Xô đã đồng ý trả tự do cho Daniloff vào ngày 30 tháng 9. Cùng ngày, Zakharov được phép rời khỏi Mỹ, với cam kết không phản đối các cáo buộc. Trong khi hội nghị thượng đỉnh vẫn đang diễn ra, 25 đại biểu Liên Xô vẫn bị trục xuất; để trả đũa, vào ngày 19 tháng 10, Liên Xô đã trục xuất 5 nhà ngoại giao Hoa Kỳ. Hai ngày sau, Hoa Kỳ trục xuất thêm 55 nhà ngoại giao Liên Xô nữa, được cho là để cân bằng quy mô các phái bộ tương ứng tại các quốc gia. Một ngày sau, Liên Xô trục xuất thêm 5 người Mỹ.

Nhưng luật chơi đồng nghĩa với việc không ai thừa nhận sự thật về những gì đã xảy ra. Daniloff tin chắc rằng mình không bị tráo đổi vì theo anh, không thể so sánh hai tình huống. ‘Trong trường hợp của tôi, cuộc điều tra về ‘các cáo buộc chống lại tôi đã kết thúc’, anh tuyên bố thẳng thừng. ‘Không có phiên tòa nào, và tôi đã rời đi như một công dân Mỹ tự do bình thường. Trong trường hợp của Zakharov, đã có một phiên tòa, và ông ta đã nhận án. Tôi không tin rằng hai điều này tương đương nhau.’ Mặc dù một số người bất đồng chính kiến được trả tự do ở Liên Xô cùng lúc Zakharov rời Mỹ, nhưng tất cả những người quan sát trung lập đều thấy rõ rằng đây là một cuộc trao đổi giống như những cuộc bàn giao giữa KGB và CIA ở Berlin trong những năm 1960.

Cả John Walker và Jonathan Pollard đều nhắm vào Hải quân; các lực lượng khác của quân đội Hoa Kỳ cũng trở thành nạn nhân của đặc vụ Liên Xô vào cuối những năm 1980. Năm 1987, Trung sĩ Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ Clayton J. Lonetree là lính thủy quân lục chiến đầu tiên bị kết tội làm gián điệp chống lại Hoa Kỳ; hai năm sau, Chuẩn úy James W. Hall III, người tự mô tả mình là ‘một tên khốn phản bội, không phải là gián điệp thời Chiến tranh Lạnh’, đã bị kết tội tiết lộ hàng trăm tài liệu mật cho cả Stasi và KGB.

Khi viết thư ủng hộ việc giảm án tù 30 năm cho Lonetree, sĩ quan chỉ huy của ông, Tướng Alfred M. Gray Jr., đã viết rằng người lính thủy đánh bộ trẻ tuổi này không bị thúc đẩy bởi “lòng tham hay sự phản bội, mà là phản ứng si tình của một tên lính ngây thơ, trẻ trung, non nớt trong một môi trường cô đơn và thù địch”. Lonetree đã phải lòng Violetta Sanni, một cô gái Nga làm phiên dịch tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Moscow, nơi anh được cử làm lính gác. Bất chấp quy định cấm quan hệ tình cảm với người khác giới ở một quốc gia Cộng sản, họ đã bắt đầu một mối quan hệ ngoài luồng.

Lonetree đâm  đầu vào bẫy tình mật ngọt, và bắt đầu cung cấp cho “Chú Sasha” của Violetta (điệp viên KGB Alexei Yefimov) ảnh chụp và sơ đồ mặt bằng của đại sứ quán, cũng như thông tin chi tiết về các điệp viên Mỹ. Khi được điều động đến Vienna vào giữa năm 1986, anh vẫn tiếp tục cung cấp thông tin cho Chú Sasha một cách tự nguyện. Tuy nhiên, tháng 12 năm đó, anh đã suy nghĩ lại về hành động của mình và sau khi định tự tử, anh đã thú tội. Mặc dù lúc đó dường  như hành động của anh đã dẫn đến cái chết của khoảng 20 điệp viên CIA, nhưng sau này hóa ra những cái tên mà anh cung cấp đã được Aldrich Ames tiết lộ cho Liên Xô rồi. Bản án 30 năm tù của Lonetree được giảm xuống còn 15 năm và anh được ân xá vào năm 1996.

James W. Hall III lại là một trường hợp hoàn toàn khác. Sự nghiệp điệp viên của y cho cả Stasi và KGB đã kết thúc sau cuộc thẩm vấn một người Đông Đức đào thoát, Tiến sĩ Manfred Severin, ông ta đã đề cập đến một binh sĩ Mỹ cung cấp nhiều tài liệu. Hall đã thừa nhận tội lỗi của mình với Severin và một đặc vụ FBI đóng giả làm liên lạc viên Liên Xô vào tháng 12 năm 1988, chấm dứt sáu năm làm việc cho Cộng sản.

Hall được tuyển dụng vào Stasi năm 1982 bởi Huseyin Yildirim, một thợ máy ô tô tại Trạm Dã chiến Hoa Kỳ ở Berlin, mặc dù hắn ta đã liên lạc với KGB vài tuần trước đó. Sau này, hắn tuyên bố rằng động cơ của mình hoàn toàn là vì tiền: “Tôi không thiếu tiền lắm”, hắn nói với đặc vụ FBI đã bắt giữ mình. “Tôi chỉ quyết định mình không bao giờ phải lo lắng về việc đồng đô la tiếp theo của mình đến từ đâu. Tôi không phải là người chống Mỹ. Tôi vẫn vẫy cờ Hoa như bất kỳ ai khác.”

Trong thời gian ở Berlin, và sau đó là Frankfurt, Hall đã cung cấp tài liệu liên quan đến các hoạt động nghe lén điện tử do người Mỹ thực hiện với Yildirim hoặc các sĩ quan KGB, và được trả bằng đô la hoặc mark Đức. Vào thời điểm hắn bị bắt, người ta lo ngại rằng Yildirim có thể đã điều hành một đường dây gián điệp từ Trạm Dã chiến Berlin: “Chúng tôi đang xem xét khả năng – và cho đến nay vẫn chỉ là khả năng – rằng đây có thể là vụ án Walker của Quân đội”, một sĩ quan điều tra cho biết trong quá trình chuẩn bị cho phiên tòa xét xử Yildirim; các đánh giá hiện tại đồng ý rằng Hall đã gây ra nhiều thiệt hại trong 6 năm tại ngũ tương đương với Walker trong 18 năm.

Hall thừa nhận rằng mình đã chuyển giao từ 30 đến 60 tài liệu cho những người phụ trách mình, khiến một chương trình được thiết kế để khai thác lỗ hổng truyền thông của Liên Xô được phát hiện vào cuối những năm 70 trở nên vô dụng, cũng như các kế hoạch phá vỡ hệ thống điện tử chỉ huy và giám sát. “Không bình luận chi tiết, nhưng có vẻ như Hall đã gây ra thiệt hại rất nghiêm trọng”, Thượng nghị sĩ David Boren, chủ tịch Ủy ban Tình báo Thượng viện, phát biểu vào thời điểm đó. Một số tài liệu mà anh ta cung cấp, chẳng hạn như Danh sách Yêu cầu Tình báo Tín hiệu Quốc gia, đã cho phép điệp viên Markus Wolf của Stasi “áp dụng các biện pháp đối phó phù hợp” với các kế hoạch của Mỹ.

Hall bị đưa ra tòa án quân sự và bị kết án 40 năm tù; Yildirim nhận án chung thân, và FBI đã nói với luật sư của y vào năm 1997 rằng theo họ “việc hắn ta thối rữa trong tù không phải là không phù hợp. Họ nói rằng công việc của y có thể không gây ra tổn hại về thể chất cho người Mỹ, nhưng y  đã làm tổn thương rất nhiều người Mỹ bằng cách liên lạc với họ, khiến họ mất quyền tiếp cận thông tin an ninh và hủy hoại sự nghiệp của họ.” Tuy nhiên, y đã được trả tự do vào năm 2004, và khi trở về Thổ Nhĩ Kỳ, y khoe khoang về thành tích của mình trong thời gian hoạt động gián điệp.

Huseyin Yildirim không phải là điệp viên đầu tiên khoe khoang về sự nghiệp của mình sau khi nghỉ hưu hoặc bị buộc phải rời khỏi ngành. Robert Hanssen tuyên bố rằng mình được truyền cảm hứng từ khi còn nhỏ bởi góc nhìn thú vị của Kim Philby về sự nghiệp của ông ta trong cuốn sách “My Secret War” (Cuộc chiến Bí mật của Tôi) (mặc dù đây rõ ràng là một lời bịa đặt khác của Hanssen: thực ra y đã 24 tuổi khi cuốn sách của điệp viên KGB này được xuất bản). Một số hồi tưởng về sự nghiệp đã trở thành nguồn tư liệu đáng tin cậy về các sự kiện. Cuốn sách của Victor Cherkashin về cách phụ trách Ames và Hanssen cung cấp góc nhìn mà không ai khác có thể có; lời kể của Oleg Gordievsky về cuộc thẩm vấn anh cho thấy cách KGB hoạt động chống lại chính đồng nghiệp của họ.

Điệp viên khối Đông Âu đầu tiên bị bắt ở Anh sau khi trục xuất 25 người Liên Xô bất hợp pháp được Oleg Gordievsky nhận diện

chính là Erwin Van Haarlem, một người Hà Lan. Y chỉ bị phát hiện khi MI5 theo dõi một thành viên của Phái đoàn Thương mại Liên Xô, người mà họ (có lẽ đã nhầm lẫn) nghi ngờ là sĩ quan GRU và thấy y lén lút hành động trên bãi đất hoang Hampstead Heath trước khi vào một quán rượu địa phương. Nửa giờ sau, một người đàn ông thứ hai đã lục soát một khu vực trên bãi đất hoang trước khi vào cùng quán rượu đó. M15 đã theo dõi người này và xác định hắn là Van Haarlem, một người buôn tranh tự do, thực chất đang ở Anh làm việc cho cơ quan mật vụ Tiệp Khắc.

Nhánh Đặc biệt đã đột kích căn hộ của Van Haarlem vào ngày 2 tháng 4 năm 1988 và bắt quả tang hắn đang nhận điện tín từ Prague. Hắn thừa nhận mình là người Tiệp và xuất trình sổ mật mã cũ. Một trong những nhân chứng chính tại phiên tòa xét xử hắn là Stella Rimington, người sau này trở thành giám đốc MI5 (được gọi là  Cô J), giải thích rằng MI5 tin Van Haarlem là một điệp viên nằm vùng, sẵn sàng đảm nhiệm vai trò tuyến đầu trong thời chiến.

Hóa ra Van Haarlem không phải là tên thật của điệp viên, cho dù một Erwin Van Haarlem đã bị bỏ rơi ở Prague, lúc sáu tuần tuổi, vào năm 1944. Mẹ của đứa bé đã lần ra người đàn ông này bằng cái tên đó vào năm 1978 và hắn đã giả làm con trai bà. Tuy nhiên, xét nghiệm DNA đã chứng minh rằng họ thực sự không có quan hệ họ hàng: điệp viên đã lấy cái tên này trước khi rời Tiệp Khắc vào năm 1974.

Tại phiên tòa xét xử, nơi hắn bị kết tội thực hiện hành vi chuẩn bị cho hoạt động gián điệp, thẩm phán đã lưu ý, ‘Tôi gọi anh bằng cái tên Van Haarlem, mặc dù tôi tin chắc rằng đó không phải là tên khai sinh của anh,’ và nói thêm, ‘Tôi không hề nghi ngờ rằng anh là một điệp viên tận tụy, kỷ luật và tháo vát, và tôi cũng không hề nghi ngờ rằng nếu không bị bắt, trong những năm tới, anh sẽ làm bất cứ điều gì mà các kiểm soát viên người Tiệp yêu cầu, bất kể điều đó có gây hại đến lợi ích quốc gia của chúng tôi đến đâu. Chúng tôi phải ra sức bảo vệ những lợi ích và quyền tự do đó.’ Hắn bị kết án mười năm tù vào năm 1989, nhưng bị trục xuất về Prague sau khi thụ án năm năm. MI5 phát hiện ra tên thật của hắn là Václav Jelinek; Van Haarlem thật cuối cùng đã đoàn tụ với mẹ, không hề biết rằng danh tính của mình đã bị đánh cắp sau khi hắn đã đổi tên vài năm trước đó.

Đối với CIA, những năm 80 là kỷ nguyên của Giám đốc CIA William Casey và vụ Iran-Contra, một câu chuyện phức tạp về các thỏa thuận liên quan đến việc vận chuyển vũ khí tới Iran để đổi lấy việc thả con tin vốn thực sự tạo ra lợi nhuận – và sau đó bị lợi dụng bất hợp pháp để hỗ trợ phe Contra ở Nicaragua, vi phạm trực tiếp luật pháp. Giữa những tiết lộ chấn động về hoạt động của Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) và CIA, Thanh tra Casey được chẩn đoán mắc khối u não, khiến ông gần như bất lực vào thời điểm CIA cần một người lãnh đạo mạnh mẽ.

Các Ủy ban Quốc hội điều tra vụ việc đã chỉ ra vấn đề cơ bản cốt lõi của tình hình Iran-Contra: ‘Những thành tố chung của chính sách Iran và Contra là tính bí mật, lừa dối và coi thường luật pháp. Hoa Kỳ đồng thời theo đuổi hai chính sách đối ngoại mâu thuẫn nhau: một chính sách công khai và một chính sách bí mật.’

Năm 1979, đảng Sandanista lên nắm quyền ở Nicaragua, và mặc dù nhận được sự hỗ trợ từ Tổng thống Carter, chế độ này đã liên minh với khối Liên Xô thông qua Cuba, nhận được vũ khí và các vật chất khác từ những người Cộng sản. Lực lượng Dân chủ Nicaragua (còn gọi là Contras) được thành lập vào năm 1980, và khi Sandanistas bắt đầu hỗ trợ phiến quân ở El Salvador, Hoa Kỳ bắt đầu cung cấp sự hỗ trợ cho Contras, mặc dù hành động vũ trang bị tổng thống cấm. Khi Tổng thống Reagan nhậm chức vào năm 1981, ông đã cắt giảm mọi viện trợ cho Sandanistas, và vào ngày 1 tháng 12, đã ký một sắc lệnh cho phép CIA hỗ trợ Contras bằng vũ khí, thiết bị và tiền bạc. Hội đồng An ninh Quốc gia đã tổ chức các hoạt động tuyên truyền rầm rộ để đảm bảo có sự ủng hộ trong nước Mỹ nhằm tiếp tục viện trợ.

Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người trong Quốc hội đều ủng hộ sự tham gia của CIA, điều này dẫn đến Tu chính án thứ nhất của Dân biểu Massachusetts Edward P. Boland vào năm 1982, ngăn cấm “sử dụng tài trợ với mục đích lật đổ chính phủ Nicaragua hoặc kích động chiến tranh giữa Nicaragua và Honduras”. Điều này đã tạo ra một kẽ hở dễ dàng bị lợi dụng – cho phép huy động tiền từ bên thứ ba, và vẫn có thể cung cấp viện trợ tổng quát cho lực lượng Contras. CIA đã hỗ trợ các hoạt động bí mật ở Nicaragua, phá hủy các kho nhiên liệu và đặt mìn tại cảng. Sau khi vai trò của họ bị tờ Wall Street Journal phanh phui, Dân biểu Boland đã thúc đẩy Tu chính án thứ hai vào năm 1984:

Trong năm tài chính 1985, không có khoản tiền nào dành cho Cơ quan Tình báo Trung ương, Bộ Quốc phòng hoặc bất kỳ cơ quan hay thực thể nào khác của Hoa Kỳ tham gia vào các hoạt động tình báo có thể bị bắt buộc hoặc chi tiêu cho mục đích hoặc có tác dụng hỗ trợ, trực tiếp hoặc gián tiếp, các hoạt động quân sự hoặc bán quân sự ở Nicaragua bởi bất kỳ quốc gia, nhóm, tổ chức phong trào hoặc cá nhân nào.

Mặc dù điều này được thiết kế để ngăn chặn dòng tiền hỗ trợ, nhưng nó đã thất bại. Các khoản đóng góp của bên thứ ba vẫn có thể được huy động, và Hội đồng An ninh Quốc gia (NSC) có thể giám sát các hoạt động khác, vì về mặt kỹ thuật, chúng không nằm trong phạm vi xác định các cơ quan bị cấm theo Tu chính án. Đại tá Oliver North, được Thủy quân Lục chiến Mỹ cho NSC mượn, đã được giao vai trò phụ trách.

Cùng thời điểm đó, các cuộc đàm phán bí mật đang diễn ra với Iran. Chế độ Hồi giáo cực đoan lên nắm quyền vào tháng 1 năm 1979 đã nhiều lần bắt giữ con tin người Mỹ – nhưng cũng cần được hỗ trợ trong cuộc chiến chống Iraq, nên cần một quy cách nào đó để làm ăn với Đại Quỷ Satan (cách họ gọi nước Mỹ). Một kênh liên lạc đã được mở thông qua Israel vào tháng 7 năm 1985, nên mười ba ngày sau khi Tổng thống Reagan kịch liệt lên án bất kỳ ý tưởng nào về việc ban lợi ích cho những kẻ khủng bố như ở Iran – ông được thông báo về một kế hoạch bán 100 tên lửa chống tăng cho Iran để đổi lấy một số con tin người Mỹ đang bị giam giữ. (Có nhiều phiên bản trái ngược nhau về việc liệu ông biết bao nhiêu về việc này và chính xác là khi nào.) Các thỏa thuận bắt đầu được thực hiện, và lợi nhuận từ thỏa thuận thứ hai được chuyển cho một công ty bình phong, được gọi là Enterprise.

Thỏa thuận thứ hai này, diễn ra vào tháng 11 năm 1985, đã khiến CIA đau đầu, vì Đại tá Oliver North đã liên hệ với họ để hỗ trợ một số vấn đề hậu cần. Những gì CIA biết về bản chất chuyến bay và nội dung của lô hàng mà họ đang giúp cung cấp đã trở thành trọng tâm của các cuộc thảo luận. Hầu hết nhân viên CIA đều không biết rằng nó liên quan đến việc vận chuyển vũ khí (vào thời điểm đó là bất hợp pháp về mặt kỹ thuật).

Do những vấn đề của chuyến bay thứ hai, người ta quyết định rằng vũ khí sẽ được gửi trực tiếp từ Enterprise đến Iran, và Tổng thống Reagan đã ký Phán quyết Tổng thống cho phép các chuyến hàng như vậy vào ngày 17 tháng 1 năm 1986. Ngay sau đó, có người đã nảy ra ý tưởng chuyển lợi nhuận từ việc bán vũ khí cho phe Contra Nhiều người tin rằng kế hoạch này được Giám đốc CIA Casey nghĩ ra, những người khác cho rằng đó là ý tưởng của Oliver North – một bản ghi nhớ mà North đã viết vào ngày 4 tháng 4 năm 1986, mà ông đã quên tiêu hủy trong quá trình tiêu hủy hàng loạt tài liệu khi vụ việc Iran-Contra bị phanh phui vào cuối năm đó, nêu rõ rằng tiền sẽ được chuyển cho Contras. North khẳng định rằng ông tin Tổng thống Reagan đã biết về kế hoạch này và đã chấp thuận.

Mối lo ngại của CIA càng tăng lên khi chi tiết về việc chuyển tiền cho Contras được công khai vài ngày sau đó, vì William Casey không hề đề cập đến điều này trong lời khai trước Quốc hội. Có rất nhiều lời kêu gọi ông từ chức, nhưng trong một cuộc phỏng vấn có vẻ khá gay gắt với tạp chí Time vào đầu tháng 12 (những người có mặt cho rằng lúc này Giám đốc CIA thực sự đã rất yếu), Casey đã nói rõ rằng ông đã nói với Quốc hội tất cả những gì mình biết. Ông không biết gì về việc chuyển hướng ngân sách, và CIA chỉ đơn giản là hỗ trợ Hội đồng An ninh Quốc gia. “Nhiều người đang cố gắng đổ lên đầu chúng tôi những trách nhiệm mà chúng tôi không có”, ông kết luận. Lập trường này trái ngược với cuộc thảo luận giữa Casey và phóng viên Bob Woodward hai tháng sau đó, trong đó phóng viên này nói rằng Casey thừa nhận ông biết về âm mưu chuyển hướng ngân sách.

Vụ việc Iran-Contra kéo dài suốt năm 1987, với trọng tâm chuyển từ vai trò của CIA sang những gì Tổng thống Reagan biết về thỏa thuận. Cố vấn An ninh Quốc gia của ông lúc đó, Đô đốc Poindexter, tuyên bố rằng ông đã xé nát một văn bản do Reagan ký phê duyệt thỏa thuận. Oliver North viết: ‘Ronald Reagan biết và phê duyệt phần lớn những gì đang diễn ra’ với cả sáng kiến của Iran và những nỗ lực riêng tư vì lợi ích của Contras và ông đã nhận được các bản tóm tắt chi tiết, thường xuyên về cả hai vấn đề… Tôi không nghi ngờ gì rằng ông đã được thông báo về việc sử dụng số tiền còn lại cho Contras và ông đã chấp thuận điều đó. Một cách nhiệt tình.’

Giống như mười hai năm trước đó, sau vụ bê bối Watergate đầy tai tiếng, trong suốt thời gian còn lại của nhiệm kỳ Tổng thống Reagan, CIA đã trải qua một giai đoạn tinh giản nhằm khôi phục hình ảnh đã bị tổn hại. Cựu giám đốc FBI được nhiều người kính trọng, Thẩm phán William H. Webster, đã trở thành Giám đốc CIA, và kéo Richard F. Stoltz từ chỗ về hưu để đảm nhiệm vị trí người đứng đầu các hoạt động bí mật, thay thế Clair E. George, bị buộc phải từ chức sau khi chi tiết về vụ Iran-Contra được công khai. Trong khi đó, Aldrich Ames đang chuyển thông tin từ CIA cho KGB, trong khi Robert Hanssen cũng làm điều tương tự từ FBI.

CIA đã tham gia sâu rộng vào cuộc kháng chiến chống lại sự chiếm đóng của Liên Xô tại Afghanistan, được mô tả bi quan nhưng vô cùng chính xác là một Việt Nam của Nga. CIA đã hoạt động bí mật từ thủ đô Islamabad của Pakistan, được Tổng thống Reagan ủy nhiệm vào năm 1985, để hỗ trợ lực lượng kháng chiến Afghanistan đẩy lùi quân Liên Xô về Uzbekistan, sử dụng tên lửa Stinger mới. Đến năm sau, ngay cả một số thành viên Bộ Chính trị ở Moscow cũng bắt đầu đặt câu hỏi về sự can thiệp của Liên Xô, đặc biệt là sau khi lực lượng kháng chiến đạt được thành công vang dội, phá hủy một kho đạn dược tại Kharga, ngay ngoại ô Kabul, vào ngày 26 tháng 8 năm 1986, bằng thiết bị kỹ thuật do CIA cung cấp, rồi tiếp tục tấn công ba trực thăng tại Jalalabad vào tháng sau. Tại một cuộc họp vào tháng 11, Mikhail Gorbachev tuyên bố rõ ràng rằng quân đội Liên Xô phải rút khỏi Afghanistan trong vòng hai năm, và để lại một chế độ thân thiện với Moscow mà không cho phép người Mỹ xâm nhập. Các cuộc đàm phán bắt đầu tại Geneva, trong khi các điệp viên CIA trên thực địa tiếp tục hỗ trợ lực lượng kháng chiến để duy trì áp lực lên Liên Xô.

Sau những tổn thất trong Năm Gián Điệp do Ames và Hanssen gây ra, CIA rất muốn chiêu mộ thêm nhân sự mới ở bên kia Bức Màn Sắt. Vào tháng 5 năm 1987, sĩ quan KGB Aleksandr Zhomov, mật danh trong Cơ quan là Prologue, đã tiếp cận sĩ quan CIA Jack Downing trên chuyến tàu tốc hành Mũi Tên Đỏ – chuyến tàu đêm giữa Moscow và Leningrad – dường như đang cung cấp thông tin cho một chiến dịch phản gián mới của KGB được thiết kế để phá hoại hoạt động của CIA tại Moscow. Ông ta cũng cung cấp danh sách các điệp viên CIA đã bị bắt và hành quyết từ năm 1985, và tiết lộ tên của các điệp viên hai mang sắp sửa trá hình hợp tác với CIA.

Hiểu biết thông thường cho rằng KGB không sử dụng sĩ quan của mình theo cách này (một hoạt động được gọi là “nhử mồi”), nhưng rõ ràng Prologue thực sự quá tuyệt để có thể là sự thật. Khi cuối cùng đã đến lúc phải rút ông khỏi Liên Xô vào tháng 7 năm 1990, thì rõ ra là lòng trung thành của Zhomov vẫn dành cho Trung tâm Moscow suốt thời gian qua. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Zhomov trở thành người đứng đầu Bộ phận Hoa Kỳ của FSB, phiên bản Nga của KGB,

và theo cựu chiến binh CIA Milt Bearden, ông trở nên ám ảnh với việc tìm ra kẻ đã phanh phui Aldrich Ames và Robert Hanssen cho người Mỹ.

Hanssen chịu trách nhiệm phá vỡ kế hoạch bắt giữ một điệp viên hai mang khác vào năm 1989. Nhà ngoại giao Felix Bloch của Bộ Ngoại giao đã trở thành đối tượng bị chú ý sau khi y nhận được một cuộc gọi điện thoại vào tháng 4 từ Reino Gikman, một đặc vụ KGB bất hợp pháp tại Vienna. Bloch đã bị CIA nghi ngờ vì sở thích tình dục bạo dâm đắt đỏ với gái mại dâm, điều mà y không thể chi trả với mức lương của mình. Vì Bloch đang làm việc ở Mỹ, CIA đã chuyển vụ việc cho FBI. Khi Bloch bay đến Paris vào tháng 5, cơ quan phản gián Pháp đã đặt y dưới sự giám sát theo yêu cầu của FBI, và chụp ảnh Bloch và Gikman (người mà sau này Bloch tuyên bố là mình biết đến với cái tên Pierre Bart) gặp gỡ và trao đổi một chiếc túi. Tám ngày sau, Hanssen thông báo với KGB rằng Bart/Gikman và Bloch đang bị điều tra.

Gikman và Bloch gặp lại nhau tại Brussels vào cuối tháng 5, nhưng đầu tháng 6, Gikman biến mất khỏi Vienna, và vào ngày 22 tháng 6, Bloch nhận được một cuộc gọi từ một người mà sau này y xác định là Bart/Gikman. Anh ta nói với Bloch rằng anh ta gọi “thay mặt cho Pierre”, người không thể gặp y trong tương lai gần vì anh ta “ốm”, và nói thêm rằng “Nghi ngờ có một căn bệnh truyền nhiễm”. Anh ta cúp máy sau khi nói với Bloch: “Tôi lo cho anh. Anh phải tự chăm sóc bản thân”. FBI đã nghe lén điện thoại của Bloch, và theo họ, đây rõ ràng là một lời cảnh báo. Y bị FBI thẩm vấn và bị giám sát chặt chẽ hơn, tình hình càng trở nên nghiêm trọng hơn khi ABC News tiết lộ cuộc điều tra vào tháng 7, và công chúng bắt đầu gọi Bloch là “Ngài Gián điệp”. Tuy nhiên, việc theo dõi đã không mang lại kết quả: Bloch ngừng mọi hoạt động cho Liên Xô, và do đó FBI không thể tìm ra manh mối nào về người đã báo cho KGB để cảnh giác y. Bloch bị sa thải khỏi Bộ Ngoại giao và cuối cùng chuyển sang làm tài xế xe buýt.

Cuối năm đó, Hanssen lại tiết lộ một bí mật quan trọng khác cho  Liên Xô – Dự án Độc quyền, đó là một đường hầm được đào bên dưới đại sứ quán mới của họ ở Washington. Mặc dù nhiều người vẫn nghi ngờ sự tồn tại của đường hầm, nhưng dường như nó được xây dựng để cho phép NSA và FBI tiếp cận các bí mật của Liên Xô. Tuy nhiên, theo David Wise, người viết tiểu sử của Hanssen, vì các tòa nhà này chỉ được các gia đình sử dụng trong những năm 1980, nên thông tin hữu ích thu được rất ít.

Do tranh chấp liên quan đến các thiết bị nghe lén được phát hiện tại đại sứ quán Mỹ ở Moscow, tòa nhà ở thủ đô này không được sử dụng cho công việc  cho đến năm 1994, điều đó có nghĩa là, như ít nhất một quan chức cấp cao của FBI khẳng định, ‘Không có bất kỳ thông tin nào’ phát ra từ thiết bị đắt tiền đã được lắp đặt.

Vào thời điểm này, các sự kiện đằng sau Bức màn sắt đang dần phát triển theo đà riêng. Những binh lính Liên Xô cuối cùng rút khỏi Afghanistan vào tháng 2 năm 1989. Vào tháng 5, Gorbachev cho rằng vũ lực không còn là giải pháp khả thi để duy trì Hiệp ước Warsaw; cùng tháng đó, người Hungary bắt đầu phá bỏ một phần bức màn thép gai dọc biên giới Áo-Hung đã tồn tại suốt 43 năm. Vào tháng 6, họ tôn vinh Imre Nagy, người lãnh đạo cuộc nổi dậy năm 1956, là một

anh hùng dân tộc; cùng thời khắc đó Công đoàn Đoàn kết, công đoàn phi chính phủ của Ba Lan, do Lech Walesa lãnh đạo, đã giành được đa số trong quốc hội Ba Lan. Tháng 9 năm đó, một chính phủ phi Cộng sản đã được quốc hội Ba Lan phê chuẩn. Đảng Cộng sản Hungary cải tổ thành Đảng Xã hội vào tháng 10, với luật được ban hành vào cuối tháng đó dẫn đến việc thành lập Cộng hòa Hungary.

Vào mùa hè năm 1989, hàng ngàn người Đông Đức đã chạy trốn sang Hungary để tiếp cận phương Tây, trước khi các lệnh hạn chế đi lại được áp đặt. Bị cấm vào Hungary, họ sau đó di chuyển đến Tiệp Khắc, nơi một trại tị nạn khổng lồ mọc lên trong khuôn viên đại sứ quán Tây Đức ở Prague. Sau khi thủ tướng Đông Đức Erich Honecker bị phế truất vào tháng 10, nhà lãnh đạo mới Egon Krenz nhận thấy các cuộc biểu tình đang gia tăng áp lực lên báo chí và được thông báo rằng Moscow sẽ không hỗ trợ để duy trì quyền lực cho chế độ của ông. Người phát ngôn không chính thức của CHDC Đức, Günter Schabowski, dự kiến sẽ công bố các quy định mới về việc đi lại giữa Đông và Tây, lưu ý rằng các chuyến đi qua một quốc gia thứ ba có thể được cho phép, nhưng tại một cuộc họp báo ngày 9 tháng 11, vị ủy viên Bộ Chính trị này đã mắc một sai lầm lịch sử khi tuyên bố rằng người Đông Đức có thể đi thẳng đến Tây Đức – và những quy định mới này sẽ có hiệu lực ngay lập tức. Bức tường Berlin bắt đầu sụp đổ theo nghĩa bóng chỉ trong vài phút, khi các trạm kiểm soát biên giới được mở ra, và cuối cùng bị phá hủy trong những tháng tiếp theo.

Các cơ quan tình báo phương Tây phải tìm hiểu mọi thông tin về sự việc này từ kênh truyền hình tin tức CNN. Cơ quan Stasi của Markus Wolf đã rất hiệu quả trong việc định vị và loại bỏ bất kỳ tài sản tiềm năng nào mà CIA có thể tích lũy ở Cộng hòa Dân chủ Đức, vì vậy các nhà ngoại giao ở Washington, cố gắng theo kịp các sự kiện, đã buộc phải chuyển sang xem tivi thay vì nghe báo cáo tình báo.

Trong những tháng tiếp theo, CIA sẽ tìm cách thu phục càng nhiều cựu đặc vụ Đông Đức càng tốt – một thủ tục tương tự họ cũng sẽ thử ở Liên Xô, nhưng không mấy thành công, khi Liên Xô đang hướng đến sự tan rã. Không phải lúc nào cũng thành công: một số cựu sĩ quan Cộng sản cảm thấy rằng tất cả những gì họ còn lại là danh dự, và xin được để yên. Những người khác, như chính Markus Wolf, đã lịch sự lắng nghe, nhưng cuối cùng đã từ chối. Cuối cùng, có quá nhiều điệp viên đào tẩu đến nỗi CIA rốt cuộc phải yêu cầu một số người chỉ cần nộp đơn thông qua các kênh thông thường đi du lịch đến phương Tây.

Tuy nhiên, nhiều điệp viên mới đã giúp CIA và các cơ quan phương Tây khác tiếp cận được những tài liệu mà trước đây họ không thể ngờ tới, bao gồm cả tên lửa đất đối không (SAM) SA-19 mới mà Liên Xô đang phát triển. Dù sao thì những gì họ không thể có được vào thời điểm đó chính là hồ sơ của Stasi, mặc dù trụ sở an ninh Đông Đức ở Đông Berlin đã bị lục soát. Nhiều hồ sơ trong số đó thực tế đã được chuyển đến Moscow để bảo quản. Những kẻ thù cũ đã trở thành đồng minh, khi cơ quan tình báo Tiệp, StB, bắt đầu hợp tác với cả CIA và MI6.

Có những người trong CIA tin rằng KGB đang trở nên vô dụng, khi quyền lực của nhà nước Cộng sản suy yếu cùng với sự trỗi dậy của các phong trào độc lập ở các nước cộng hòa Liên Xô vào đầu năm 1991. Cựu giám đốc hoạt động tại Mỹ Oleg Kalugin đã công khai chỉ trích KGB vì hành vi của cơ quan này, lưu ý rằng các cải tổ của Gorbachev sẽ không bao giờ đạt được bất cứ điều gì cho đến khi quyền lực của KGB bị kiểm soát. KGB đã cố gắng kiềm chế phong trào độc lập ở Litva vào khoảng thời gian Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, khi Saddam Hussein xâm lược Kuwait và bị đẩy lùi, nhưng điều này đã gây ra sự phản đối ở Moscow và CIA bắt đầu nghe nói về khả năng triệu hồi một số sĩ quan Quân đội để bảo vệ Liên Xô. Vào ngày 18 tháng 8 năm 1991, hai tháng sau khi Boris Yeltsin được bầu làm Tổng thống Nga, và khi Gorbachev chuẩn bị ký Hiệp ước Liên bang Mới, mà một số người tin rằng sẽ đồng nghĩa với sự cáo chung của Liên Xô, KGB, do Vladimir Kryuchkov lãnh đạo, đã thực hiện động thái cuối cùng.

Mikhail Gorbachev bị cô lập khỏi thế giới bên ngoài tại nhà nghỉ dưỡng của mình, khi xe tăng bắt đầu xếp hàng trên đường phố Moscow. Người dân Nga vội vã đến tòa nhà quốc hội, Nhà Trắng, khi Boris Yeltsin tuyên bố một cuộc đảo chính đã diễn ra. Một số quân nhân ủng hộ Yeltsin và một cuộc đấu trí đã nổ ra, và Yeltsin chắc chắn là người chiến thắng cuối cùng. Cuộc đảo chính bị đánh bại, và Gorbachev, người đã bị gạt ra ngoài lề trong cuộc khủng hoảng, đã từ chức Tổng Bí thư Đảng Cộng sản, nhưng vẫn giữ chức Tổng thống cho đến ngày Giáng sinh. Trong một hành động có lẽ mang tính biểu tượng nhất, bức tượng Felix Dzerzhinsky, thủ lĩnh đầu tiên của lực lượng cảnh sát mật Cộng sản, đã bị kéo đổ trước trụ sở KGB tại Lubyanka. KGB tiếp tục tập tễnh thêm vài tuần nữa dưới sự chỉ huy của Tướng Vadim Bakatin, nhưng khi Liên Xô tan rã, thì quyền lực của KGB cũng sụp đổ. Những cơ quan kế nhiệm của nó ở nước Nga mới là Cục Tình báo Đối ngoại (SVR), Cục An ninh Liên bang Nga (FSB) và Cục Bảo vệ Liên bang (FSO).

Tại trụ sở CIA, tiệc Giáng sinh được xúc tiến bằng một băng rôn có dòng chữ “Tiệc đã tàn”. Và ở một mức độ nào đó, đúng là như vậy – nhưng sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh sẽ dẫn đến nhiều câu hỏi lớn cho tất cả các cơ quan tình báo trên thế giới, những câu hỏi chỉ thực sự nhận được câu trả lời đầy đủ khi hai chiếc máy bay đâm vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở Thành phố New York, và một chiếc vào mặt bên của Lầu Năm Góc, vào ngày 11 tháng 9 năm 2001.

 

13

 

KHÚC DẠO ĐẦU CỦA CHIẾN TRANH

Mặc dù “Cuộc chiến chống khủng bố” của Tổng thống Bush chỉ được chính thức tuyên bố sau sự kiện kinh hoàng 11/9, các cơ quan tình báo đã tham gia vào các hoạt động chống khủng bố trong nhiều năm. CIA và FBI đã quan tâm đến tổ chức al-Qaeda của Osama bin Laden kể từ khi nó được thành lập vào tháng 8 năm 1988, trong giai đoạn cuối của cuộc chiếm đóng Afghanistan của Liên Xô. Người Israel đã trả thù Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO) và các nhóm khủng bố khác. Người Anh tiếp tục tiến hành một cuộc chiến tranh không chính thức chống lại Quân đội Cộng hòa Ireland (IRA) và nhiều lực lượng khác ở Eire và Bắc Ireland, cũng như đối phó với khủng bố Trung Đông. Các nước Khối Đông Âu như Cộng hòa Dân chủ Đức đã do thám công dân của mình với lý do ngăn chặn các cuộc tấn công “khủng bố” của các thế lực tư bản. Tại Nam Phi, Cục An ninh Quốc gia (thường được gọi là BOSS) và cơ quan kế nhiệm là Cơ quan Tình báo Quốc gia (NIS) đã phải đối phó với các mối đe dọa được cho là đối với hiện trạng, và, giống như Stasi, thường tập trung sự chú ý có lẽ quá mức vào chính người dân của mình.

Trên trang web của mình, Cơ quan An ninh Nhà nước Nam Phi (SSA) mới giải thích nhiệm vụ của mình, định nghĩa khủng bố là ‘những nỗ lực cố ý và có chủ đích nhằm tạo ra khủng bố thông qua các hành động mang tính biểu tượng liên quan đến việc sử dụng hoặc đe dọa “vũ lực sát thương nhằm tạo ra những tác động tâm lý ảnh hưởng đến một nhóm hoặc cá nhân mục tiêu và chuyển hóa chúng thành kết quả chính trị hoặc vật chất”. Các đặc vụ chống khủng bố thường xuyên gặp phải những nỗ lực lật đổ, mà SSA gọi là “các hoạt động nhằm phá hoại bằng những hành vi bất hợp pháp ngấm ngầm hoặc nhằm mục đích cuối cùng là phá hủy hoặc lật đổ bằng bạo lực hệ thống chính phủ được thiết lập theo hiến pháp”. Cho dù động cơ của những kẻ khủng bố là tôn giáo (như những kẻ theo chủ nghĩa cực đoan của al-Qaeda), hay chính trị (như PLO), hay là sự pha trộn gần như của cả hai (IRA, với tín ngưỡng một phần dựa trên việc đưa người Anh ra khỏi Ireland, và một phần liên quan đến sự chia rẽ giữa Tin lành và Công giáo La Mã), thì các định nghĩa đều áp dụng như nhau.

Chủ nghĩa khủng bố như nó thường được gọi cho đến ngày nay đã chứng kiến sự trỗi dậy trở lại vào cuối những năm sáu mươi. Tại Ireland, IRA đã kết thúc chiến dịch trước đó vào năm 1962, với lý do là sự thờ ơ của công chúng. Tuy nhiên, rắc rối lại bùng phát ở Bắc Ireland vào mùa hè năm 1968. Một báo cáo của MI5 do Bộ trưởng Nội vụ James Callaghan ủy quyền đã chỉ ra rằng ‘Về cơ bản, vấn đề an ninh ở Bắc Ireland rất đơn giản. Nó xuất phát từ sự đối kháng của hai Cộng đồng có trí nhớ lâu đời và tính khí tương đối nóng nảy.’ Mặc dù về mặt lịch sử, IRA là trách nhiệm của Chi nhánh đặc biệt của Cảnh sát Hoàng gia Ulster (RUC) và Chi nhánh đặc biệt của Cảnh sát Thủ đô đối với các hành vi phạm tội xảy ra trên đất liền – MI5 bắt đầu đóng vai trò tích cực hơn, đặc biệt là sau khi chính phủ Anh đưa quân vào Ulster vào ngày 14 tháng 8 năm 1969.

Các vấn đề tình báo liên quan đến tỉnh vẫn còn hỗn loạn trong vài năm tiếp theo, với sự phân chia trách nhiệm kỳ quặc đôi khi dẫn đến những thất bại tốn kém. Cuộc tấn công của IRA Lâm thời vào trụ sở Trung đoàn Nhảy dù ở Aldershot, Surrey (cách London 33 dặm về phía tây nam), vào ngày 22 tháng 2 năm 1972 đã trực tiếp dẫn đến việc thành lập một Bộ phận Liên hợp Ireland (IJS) của MI5 và M16. Việc vận chuyển vũ khí cho IRA từ các quốc gia khác đã bị giám sát và ngăn chặn bất cứ khi nào có thể. Mặc dù vậy, IJS đã không thể cung cấp thông tin để đối phó với các cuộc tấn công tồi tệ nhất của IRA vào lục địa vào năm 1974, trong đó 44 người đã thiệt mạng. Tuy nhiên, họ đã đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập một kênh liên lạc bí mật giữa IRA và Văn phòng Bắc Ireland: điều này đã dẫn đến lệnh ngừng bắn vào Giáng sinh năm 1974 và sau đó kéo dài đến năm 1975. Vào thời điểm IRA chấm dứt lệnh ngừng bắn với một chiến dịch tiếp theo ở West End của London vào cuối năm đó, bộ phận chống khủng bố của các cơ quan tình báo đã hoạt động hiệu quả hơn nhiều, với việc tham mưu trưởng của IRA Joe Cahill sau đó thừa nhận rằng ‘Theo nhiều cách, chiến lược của người Anh đã có hiệu quả và phong trào đã bị phát hiện.’

Trong hai mươi năm tiếp theo, MI5 và MI6 đã điều hành nhiều điệp viên trong IRA, nhưng danh tính và các hoạt động thành công của họ vẫn được giữ bí mật: vẫn còn những kẻ sẽ hành động chống lại họ, bất chấp Hiệp định Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1998 đã mang lại hòa bình cho tỉnh này. Quân đội Anh và IJS cũng đã có thể thu phục nhiều thành viên IRA, mặc dù điều này tất yếu có nghĩa là, ở một mức độ nào đó, họ đã dung túng cho tội giết người, bởi vì những nhân vật cấp cao của IRA, chẳng hạn như Freddie Scappaticci, mật danh Stakeknife, cần phải duy trì vỏ bọc của họ. MI5 chịu trách nhiệm nhắm mục tiêu vào các nhóm bán quân sự trung thành, hỗ trợ bắt giữ nhiều thành viên của Hiệp hội Phòng thủ Ulster.

Tuy nhiên, vào cuối những năm 1970, IRA lại bắt đầu chiến dịch của mình; chúng tấn công một doanh trại ở Đức và đặt nhiều quả bom tại các thành phố Anh vào tháng 12 năm 1978. Một chiến dịch mới ở Anh dường như đang diễn ra nhưng lại thất bại. Nhưng rồi một nhóm Mácxit tách ra, Quân đội Giải phóng Quốc gia Ireland, đã thành công khi đánh bom ám sát nghị sĩ Đảng Bảo thủ Airey Neave khi ông này đang lái xe rời khỏi Hạ viện vào tháng 5 năm 1979. IRA cũng gây ra vụ ám sát tương tự với anh họ của Nữ hoàng, Lord Mountbatten, và ba người khác tại Sligo, tây bắc Eire, cũng như kích nổ bom giết chết 18 người lính vào ngày 27 tháng 8 năm 1979.

IRA tiếp tục là mối đe dọa an ninh trong suốt những năm 1980; IJS, hiện do MI5 điều hành, đã cung cấp thông tin tình báo giúp chống lại các hoạt động của họ. MI5 cũng hợp tác với FBI trong nỗ lực chống lại viện trợ tài chính của Mỹ cho IRA thông qua Ủy ban Viện trợ Miền Bắc Ireland (NORAID) và Clan na Gael, một tổ chức bí mật của Đảng Cộng hòa, ít được biết đến hơn. Năm 1984, IJS bị giải thể và các hoạt động của nó được chuyển hoàn toàn nội bộ sang MI5. Mặc dù lực lượng chống khủng bố đã đạt được một số thành công, nhưng họ đã không thể ngăn chặn các cú đánh ngoạn mục của IRA, chẳng hạn như vụ đánh bom Khách sạn Grand ở Brighton vào ngày 16 tháng 10 năm 1984, suýt cướp đi sinh mạng của Thủ tướng Margaret Thatcher.

M15 hỗ trợ theo dõi một Đơn vị Hoạt động Tích cực của IRA trên khắp Châu Âu vào năm 1988, đỉnh điểm là

cái chết của ba thành viên của tổ chức này tại Gibraltar vào ngày 6 tháng 3 (mặc dù tranh cãi sau đó trên phương tiện truyền thông về chính sách bắn hạ được cho là không có lợi cho bất kỳ cơ quan tình báo hay quân đội nào). Điều này cho thấy một chính sách toàn châu Âu chống lại IRA đang được tăng cường, do Cơ quan An ninh dẫn đầu, trong khi FBI đã hỗ trợ bắt giữ một chuyên gia điện tử tại Hoa Kỳ, người đã hỗ trợ IRA về các yêu cầu kỹ thuật của họ.

Khi biên giới châu Âu mở cửa vào năm 1990, IRA bắt đầu một chiến dịch mới, và vào tháng 2 năm 1991, họ đã bắn một quả bom cối vào Phòng Nội các tại số 10 phố Downing. Tháng 11 năm đó, Thủ tướng John Major đồng ý rằng MI5 giờ đây sẽ chịu trách nhiệm về tất cả các vấn đề chống khủng bố; quyết định đó đã chính thức có hiệu lực sáu tháng sau đó. Chiến dịch của IRA tại Anh vẫn tiếp tục không ngừng, với một thiết bị nổ tại Sàn giao dịch Baltic ở Thành phố London vào tháng 4 năm 1992 dẫn đến khoảng 800 triệu bảng Anh tiền yêu cầu bảo hiểm – mặc dù các kênh liên lạc bí mật giữa ban lãnh đạo IRA và Chính phủ Anh, cuối cùng dẫn đến thỏa thuận Thứ Sáu Tuần Thánh, đã được mở lại trong một thời gian.

Chiến dịch của IRA đã gặp phải một thất bại nặng nề khi các đặc vụ chủ chốt của họ là Rab Fryers và Hugh Jack bị bắt vào tháng 7 năm 1993, cùng với tài liệu chế tạo sáu quả bom xe. MI5 báo cáo rằng trong mười hai tháng tiếp theo, mười tám trong số ba mươi bốn chiến dịch của IRA trên đất liền đã bị phá sản. Một lệnh ngừng bắn được tuyên bố vào tháng 8 năm 1994 và kéo dài đến tháng 2 năm 1996; bom được đặt vào mùa xuân năm 1996 tại Canary Wharf và Trung tâm Arndale ở Manchester không đến nỗi thảm khốc như IRA mong đợi. Một Đơn vị Hoạt động Thường trực gồm một số thành viên ưu tú nhất của IRA đã bị MI5 giám sát và bắt giữ vào tháng 7 trước khi họ kịp phá hoại nguồn cung cấp điện của London.

Lệnh ngừng bắn có hiệu lực trở lại ba tuần sau chiến thắng bầu cử của Đảng Lao động tại Anh vào tháng 5 năm 1997; chưa đầy một năm sau, Thủ tướng Tony Blair cho biết đó không phải là ngày thích hợp để nói những lời sáo rỗng, nhưng ông cảm thấy “bàn tay của lịch sử trên vai mình” khi ông chuẩn bị ký Hiệp định Thứ Sáu Tuần Thánh.

Nước Mỹ cũng phải đối mặt với khủng bố trong nước. Mặc dù chống khủng bố không chính thức trở thành ưu tiên thứ tư của FBI cho đến năm 1982, nhưng trước đó họ đã xử lý nhiều vụ án nổi cộm. Trong số đó có vụ đánh bom tại Đại học Wisconsin Madigan vào ngày 24 tháng 8 năm 1970, trong đó một viện nghiên cứu của Quân đội, Trung tâm Nghiên cứu Toán học, đã bị tấn công bởi các sinh viên cực đoan phản đối Chiến tranh Việt Nam; và chiến dịch do Tổ chức Weather Underground (hay còn gọi là Weathermen) phát động. Bản tuyên ngôn của họ, Prairie Fire, tuyên bố vào năm 1974 rằng mục đích của họ là “phá hoại đế chế, vô hiệu hóa nó, gây áp lực lên các vết nứt”. Họ đã thực hiện hơn hai mươi vụ đánh bom, bao gồm một vụ tại Bộ Ngoại giao ở Washington D.C. vào tháng 1 năm 1975. Những kẻ chịu trách nhiệm đã bị FBI truy lùng trong nhiều năm và bị đưa ra xét xử.

FBI cũng đã cố gắng bắt giữ Unabomber (Kẻ chuyên đánh bom trường đại học và sân bay), Theodore Kaczynski, kẻ đã gửi các thiết bị nổ trong khoảng thời gian mười bảy năm kể từ năm 1978. Hắn chỉ bị bắt sau khi gửi một ‘tuyên ngôn’ cho FBI vào năm 1995 giải thích lý do tại sao hắn thực hiện các cuộc tấn công của mình; khi bản tuyên ngôn được in ra, anh trai của hắn là David đã đưa ra bằng chứng thuyết phục rằng Ted là người chịu trách nhiệm.

Cục đã dành năm năm truy lùng Eric Rudolph, kẻ chịu trách nhiệm cho vụ đánh bom tại Công viên Olympic Centennial ở Atlanta trong Thế vận hội Mùa hè năm 1996. Hắn đặt thêm nhiều thiết bị nổ trong vòng hai năm tại các phòng khám phá thai và các địa điểm gặp gỡ thân thiện với người đồng tính ở Alabama trước khi biến mất vào vùng hoang dã Appalachian và sống lang thang. Cuối cùng, hắn bị bắt khi đang tìm kiếm thức ăn trong một thùng rác.

Họ cũng khá nhanh chóng truy tìm kẻ đánh bom Oklahoma, cựu binh Timothy McVeigh, người đã sử dụng thiết bị tự chế để giết chết 168 người và làm bị thương hàng trăm người khác vào ngày 19 tháng 4 năm 1995, thực tế hắn đã bị bắt vì mang theo một vũ khí được giấu kín chỉ 90 phút sau vụ nổ. Gần một tỷ thông tin đã được xem xét để chuẩn bị cho phiên tòa xét xử McVeigh và đồng phạm. McVeigh bị hành quyết vào ngày 11 tháng 6 năm 2001. Những nghi vấn cho rằng hắn có liên hệ với các nhóm khủng bố Trung Đông chưa bao giờ được chứng minh.

Khi báo chí viết về khủng bố Trung Đông vào những năm 1940, họ thường đề cập đến những kẻ cực đoan theo chủ nghĩa phục quốc Do Thái đang tìm cách thành lập nhà nước Israel. Tuy nhiên, với sự xuất hiện của Mặt trận Bình dân Giải phóng Palestine (PFLP) vào năm 1968, vai chính đã chuyển sang người Ả Rập, và khi al-Qaeda bắt đầu nổi tiếng với nhiều vụ tấn công khủng bố trong những năm 1990, khu vực bất ổn này đã trở thành tâm điểm của các cơ quan tình báo trên toàn thế giới.

Ngoại trừ các cơ quan an ninh Israel, đặc biệt là cơ quan tình báo Mossad, hầu hết các cơ quan tình báo trên thế giới đều không mấy chủ động trong việc đối phó với các mối đe dọa khủng bố tiềm tàng xuất phát từ Trung Đông trong những năm 1970 và 1980. Những kẻ khủng bố thuộc PFLP, dưới sự chỉ đạo của Tiến sĩ Wadi Haddad, đã nghĩ ra một chiến lược mới: cướp máy bay. Vụ đầu tiên, vào tháng 7 năm 1968, là một chiếc Boeing 707 của hãng hàng không Israel El Al đang trên đường đến Tel Aviv (lần duy nhất một máy bay thuộc hãng hàng không quốc gia Israel bị cướp thành công. Mục đích của không tặc là trao đổi tù binh Palestine với các con tin Israel trên máy bay. Không có thương vong). Haddad cuối cùng được tuyển dụng làm điệp viên KGB, trao cho Liên Xô một phần quyền kiểm soát các hoạt động của PFLP. Hoạt động của nhóm khủng bố này leo thang, đỉnh điểm là nỗ lực cướp 4 máy bay vào ngày 6 tháng 9 năm 1970, được biết dưới tên Vụ Không tặc Dawson’s Field ở sa mạc Jordan, với vụ thứ năm thất bại xảy ra ba ngày sau đó. Trên máy bay thứ nhất, một trong hai tên bị bắn chết, tên còn lại là một phụ nữ tên Khaled bị trấn áp. Ba chiếc máy bay kia buộc phải đổi đường bay và cùng đáp xuống Dawson’s Field. Yêu cầu của bọn không tặc là thả Khaled và các tù bình Palestine. Sau khi dàn xếp xong thỏa thuận, họ thả 310 con tin và đánh bom ba máy bay, quay video và tung lên mạng. Sự cố này này đã dẫn đến việc Vua Hussein của Jordan phải sử dụng hành động bạo lực chống lại Tổ chức Giải phóng Palestine mới thành lập do Yasser Arafat lãnh đạo đang đóng quân ở phía Nam đất nước ông.

Trong khi hầu hết các cơ quan tình báo tập trung vào việc bảo vệ sân bay và máy bay, người Israel đã tiến xa hơn một bước. Khi một máy bay Sabena bị PFLP chuyển hướng đến sân bay Lod ở Israel vào tháng 5 năm 1972, họ đã điều động lực lượng đặc nhiệm cải trang thành nhân viên sân bay, tiếp cận và đột nhập máy bay, giết 2 tên và trấn áp 2 tên còn lại. Chỉ có 2 hành khách bị tử vong. Sự kiện này đã khiến tình hình leo thang. Ba tuần sau, 3 thành viên của Phái Hồng quân Nhật Bản cực tả, thân Cộng, hợp tác với PFLP, đã thảm sát 26 hành khách tại ga đến ở sân bay Lod. Và vào ngày 5 tháng 9, tổ chức Tháng Chín Đen, một tổ chức của PLO, đã sát hại hai vận động viên và bắt giữ chín con tin Israel tại Thế vận hội Munich. Bọn không tặc yêu cầu thả 234 tù binh Palestine và chở an toàn đến Ai Cập. Tại sân bay, một cuộc đấu súng ác liệt diễn ra, dẫn đến cái chết của tất cả các con tin và 5 trong số 8 tên khủng bố.

Với sự giúp đỡ của các nguồn lực có trong PLO, Mossad đã truy tìm những kẻ chịu trách nhiệm cho vụ tấn công và xử tử chúng (đáng tiếc là đã giết chết một số người vô tội trên đường đi, đáng chú ý là ở Lillehammer, Na Uy, vào tháng 7 năm 1973, khi Ahmed Bouchiki bị sát hại vì tin rằng anh ta là Ali Hassan Salemeh. Theo giám đốc Mossad Zvi Zamir:

Chúng tôi bị cáo buộc là bị dẫn dắt bởi lòng thù hận phải trả thù. Điều đó thật vô lý. Những gì chúng tôi đã làm là để ngăn chặn mạnh mẽ trong tương lai. Chúng tôi đã hành động chống lại những kẻ nghĩ rằng chúng có thể ngang nhiên tiếp tục thực hiện các hành vi khủng bố mà không bị trừng phạt . Tôi không nói rằng những kẻ tham gia vụ Munich không bị tử thần đánh dấu. Chúng chắc chắn đáng chết. Nhưng chúng tôi không chỉ giải quyết vấn đề quá khứ; chúng tôi còn tập trung vào tương lai.

Vụ cướp máy bay hãng hàng không Đức cuối cùng được PFLP thông báo đã dẫn đến việc lực lượng Tây Đức đột kích máy bay khi nó đang trên đường băng tại sân bay Mogadishu, Somali năm 1977. Các con tin phải trải qua 5 ngày căng thẳng khi, đáng lẽ máy bay đáp xuống Frankfurt (Tây Đức) theo lịch trình, bọn không tặc bắt đổi hướng, bay qua phi trường của 5 nước Trung Đông nhưng không có nước nào cho phép hạ cánh trừ trường hợp để tiếp nhiên liệu. Ba lần thương lượng vẫn bế tắc. Bọn không tặc đòi phóng thích 11 tù nhân của Nhóm Hồng quân,  15 triệu đô la tiền chuộc và chở an toàn đến một quốc gia Ả Rập. Cuối cùng phi trường Mogadishu ở Somalia cho phép nó đáp xuống. Đến đêm đội đặc nhiệm Tây Đức với sự hỗ trợ của người Anh và quân đội Somalia làm nhiệm vụ đánh lạc hướng, phá cửa xông vào từ mọi hướng. Sau màn đấu súng ác liệt, chỉ kéo dài trong 2 phút, 3 trong số 4 tên không tặc bị giết chết, một tên bị thương nặng. Tất cả hành khách đều được giải cứu an toàn.

Người Anh cũng có hành động mạnh mẽ tương tự khi bọn khủng bố bắt giữ con tin tại Đại sứ quán Iran ở London vào tháng 4 năm 1980. Khi thi thể một con tin bị đẩy qua cửa trước sau khi bọn khủng bố mất kiên nhẫn với chính quyền, Thủ tướng Margaret Thatcher đã cho phép SAS tấn công. Tất cả trừ một kẻ khủng bố đều bị tiêu diệt; tất cả các con tin còn lại  trừ một đều được giải thoát an toàn. Trong tất cả những tình huống tương tự như vậy, các cơ quan tình báo đã cung cấp thông tin về những kẻ không tặc và động cơ của chúng, đồng thời hỗ trợ lên kế hoạch cho các chiến dịch.

Libya, dưới thời Muammar Gaddafi, đã trở thành mối đe dọa ngày càng gia tăng đối với phương Tây trong những năm 1980, không chỉ đơn giản vì y hỗ trợ tài chính cho các tổ chức khủng bố. Những người chống đối chế độ của y bị coi là “lũ chó hoang” cần bị triệt hạ, Gaddafi đã phát động nhiều đợt ám sát nhắm vào người di cư, và các nhân viên trong Văn phòng Nhân dân của y đã cung cấp thông tin cho MI5 để ngăn chặn những âm mưu này. Tháng 4 năm 1984, Gaddafi đích thân ra lệnh cho người Libya trong Văn phòng London khai hỏa vào những người biểu tình bên ngoài (một thông tin mà MI5 biết được từ Oleg Gordievsky, người đã được Trung tâm Moscow chuyển tin), dẫn đến cái chết của WPC Yvonne Fletcher. Quan hệ ngoại giao với chế độ bị cắt đứt, và 60 đặc vụ của Gaddafi bị trục xuất khỏi Anh.

Nước Mỹ cũng gặp vấn đề tương tự với Gaddafi. Vào tháng 7 năm 1981, bất chấp lời cảnh báo của CIA không nên tiến hành, Tổng thống Reagan đã ra lệnh tập trận hải quân ở vùng Vịnh Sidra mà Libya coi là vùng lãnh hải của mình. NSA có thể đọc hầu hết các tin mã hóa ngoại giao và tình báo của Libya và chặn các cuộc gọi điện thoại cá nhân của Gaddafi, thấy được mức độ tức giận của nhà lãnh đạo Libya và hành động trả đũa mà ông ta ra lệnh chống lại người Mỹ.

Cuộc xung đột ở Lebanon, trong đó quân đội Mỹ cố gắng bảo vệ lệnh ngừng bắn giữa người Druze và các lực lượng dân quân Hồi giáo Shia với quân đội Lebanon, chủ yếu theo đạo Thiên chúa, đã chứng kiến hai thất bại lớn cho CIA. Vào tháng 4 năm 1983, một quả bom tại đại sứ quán ở Beirut đã giết chết hầu hết nhân viên CIA, bao gồm cả chuyên gia hàng đầu về Trung Đông của CIA, Robert Ames. Vài tháng sau, khi NSA chặn được một tin nhắn cho biết “một hành động ngoạn mục” sắp xảy ra chống lại thủy quân lục chiến Mỹ, họ đã gửi một cảnh báo khẩn cấp – nhưng nó đã bị phớt lờ. Trong một điềm báo khủng khiếp về tình hình hỗn loạn tình báo, sẽ chứng kiến những cảnh báo về sự kiện 11/9 không được chuyển đi vì không ai

kịp thời ghép các mảnh vụn lại với nhau, thông báo này hoặc đã không được coi trọng, hoặc bị xếp xó trong bộ máy hành chính. Ngày 23 tháng 10, một vụ nổ lớn tại Sân bay Quốc tế Beirut đã khiến 241 thủy quân lục chiến và thủy thủ thiệt mạng.

Năm 1986, Reagan tăng cường áp lực lên Libya của Gaddafi bằng các cuộc tập trận tiếp theo ở Vịnh Sidra. Sau khi Hải quân phá hủy một khẩu đội tên lửa đất đối không (SAM) và hai tàu tuần tra tên lửa dẫn đường của Libya, Gaddafi ra lệnh cho tất cả các văn phòng  nhắm mục tiêu vào quân nhân Mỹ. Ngày 5 tháng 4, một quả bom phát nổ tại một vũ trường ở Tây Berlin, khiến ba người thiệt mạng và 230 người bị thương, mà phía Libya tin rằng “không thể truy ra được nguồn gốc vụ việc từ cơ quan ngoại giao Libya ở Đông Berlin”. Có lẽ là thiếu khôn ngoan, hai ngày sau Reagan tiết lộ rằng họ có bằng chứng về sự tham gia của Libya trong vụ đánh bom; phía Libya ngay lập tức thay đổi tất cả bộ mã. Vào ngày 14 tháng 4, một cuộc tấn công lớn đã được phát động nhằm vào Tripoli và Benghazi mặc dù hầu hết thông tin về thành công của cuộc tấn công này đều đến từ CNN chứ không phải từ các điệp viên trên thực địa.

Chương trình chống khủng bố của FBI được hỗ trợ bởi Đạo luật An ninh Ngoại giao và Chống Khủng bố Toàn diện năm 1986, cho phép họ tiến hành điều tra tại một quốc gia nơi tội ác đã xảy ra chống lại công dân Mỹ, với sự cho phép của quốc gia đó. Người đầu tiên cảm nhận được tác động của đạo luật  này là tên khủng bố Hezbollah Fawaz Yunis, người chịu trách nhiệm cho vụ cướp máy bay Hoàng gia Jordan năm 1985 chở bốn người Mỹ. Năm 1987, Chiến dịch Goldenrod có hiệu lực, trong đó, theo hồ sơ tòa án, ‘Các đặc vụ FBI đã dụ Yunis lên một du thuyền ở phía đông Địa Trung Hải cùng với lời hứa về một vụ buôn bán ma túy, và bắt giữ y ngay khi con tàu tiến vào vùng biển quốc tế.’ Yunis bị kết án 30 năm tù, trong đó y đã thụ án 16 năm và sau đó bị trục xuất.

Vụ khủng bố kinh hoàng nhất trước ngày 11/9 là vụ đánh bom chuyến bay Pan Am 103, phát nổ trên bầu trời và rơi xuống làng Lockerbie của Scotland vào ngày 21 tháng 12 năm 1988. Tất cả 259 người trên máy bay đều thiệt mạng ngay lập tức và thêm 11 dân làng trên mặt đất.  Mặc dù đã có một cuộc điều tra quy mô lớn của tất cả các cơ quan tình báo khác nhau có liên quan, vẫn còn nhiều nghi ngờ về việc chính xác ai là người chủ mưu vụ việc này Abdelbaset Ali Mohmed al-Megrahi, một điệp viên của tình báo Libya, Tổ chức An ninh Jamahariya, đã bị kết tội vào năm 2000, nhưng cho đến khi qua đời vào năm 2012, ông vẫn kiên quyết khẳng định mình vô tội (ông chỉ rút đơn kháng cáo bản án để đổi lấy việc được trở về Libya vào năm 2009 khi ông ta được cho chỉ còn sống được vài tuần). Libya đã nhận trách nhiệm về vụ nổ vào năm 2003, nhưng đây có thể là một động thái để được cộng đồng quốc tế công nhận trở lại. Về tất cả những gì tòa án ở Hà Lan có thể nói chắc chắn là ‘nguyên nhân của thảm họa là vụ nổ của một thiết bị nổ tự chế, rằng thiết bị đó được chứa trong một radio cassette Toshiba trong một chiếc vali Samsonite màu nâu cùng với nhiều loại quần áo khác nhau, rằng số quần áo đó đã được mua tại Mary’s House, Sliema, Malta, và vụ nổ được kích hoạt bằng cách sử dụng bộ hẹn giờ MST-13’. Ngay cả một số kết luận đó sau này cũng bị nghi ngờ.

Các cuộc điều tra ban đầu tập trung vào PFLP và sự tham gia của Syria, đặc biệt là kể từ khi PFLP cảnh báo vào năm 1986 rằng ‘rằng sẽ không có sự an toàn cho bất kỳ hành khách nào trên máy bay chở khách của Israel hoặc Hoa Kỳ. Một trong những nhóm của chúng ở Đức đang chế tạo những quả bom tương tự mặc dù không giống hệt, và có khả năng là sau khi nhóm này bị bắt vào tháng 10 năm 1988, nhờ nỗ lực của một điệp viên Jordan đóng giả làm người chế tạo bom, các ông chủ PFLP đã giao thầu vụ đánh bom cho những người Libya theo cùng cách mà họ sử dụng Hồng quân Nhật Bản tại Lod. Cựu đặc vụ FBI Richard A. Marquise, Trưởng phòng Nghiên cứu và Phân tích Khủng bố tại trụ sở FBI vào những năm 80, đã lưu ý vào năm 2008: ‘Iran có ký hợp đồng với PFLP-GC không? Chắc chắn! Nhưng không thể chứng minh được tại tòa. Iran có nhờ Libya và [tên khủng bố Palestine] Abu Nidal không… Có lẽ vậy, nhưng điều đó cũng không thể chứng minh được và sẽ không bao giờ có thể chứng minh được trừ khi một hoặc hai nhân chứng đáng tin cậy đưa ra bằng chứng tài liệu.’

Tuy nhiên, mối đe dọa khủng bố lớn nhất trong 20 năm tiếp theo, cho đến khi tên thủ lĩnh bị ám sát vào tháng 5 năm 2011, chỉ vừa mới mạnh nha khi chiếc máy bay Pan Am 103 từ trên trời rơi xuống. Al-Qaeda được Osama bin Laden, người gốc Ả Rập Xê Út, thành lập vào khoảng năm 1988, từ các thành phần của các  lực lượng Hồi giáo quốc tế chống lại cuộc xâm lược Afghanistan năm 1979 của Liên Xô. Theo Ủy ban 11/9, cơ quan điều tra các vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới và Lầu Năm Góc, bin Laden “đã xây dựng trong suốt một thập kỷ một tổ chức năng động và nguy hiểm” với mục tiêu rất đơn giản: xóa bỏ ảnh hưởng của phương Tây khỏi các quốc gia Hồi giáo và loại bỏ những chế độ Hồi giáo mà họ coi là “tham nhũng”.

Bin Laden chưa bao giờ che giấu mục đích của mình: ‘Hoa Kỳ biết rằng tôi đã tấn công họ, nhờ ơn Allah, trong hơn 10 năm nay… Mối thù địch với nước Mỹ là một bổn phận tôn giáo, và chúng tôi hy vọng sẽ được Chúa ban thưởng vì điều đó,’ ông nói với tạp chí Time năm 1998. ‘Gọi chúng tôi là Kẻ thù số 1 hay số 2 chẳng làm hại gì chúng tôi. Osama bin Laden tin tưởng rằng quốc gia Hồi giáo sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình. Tôi tin rằng người Hồi giáo sẽ có thể chấm dứt huyền thoại về cái gọi là siêu cường quốc Mỹ.’

Đầu những năm 1990, sau khi bị trục xuất khỏi Ả Rập Xê Út, bin Laden chuyển đến Sudan, nơi hắn lập các trại huấn luyện cho các chiến binh trong một cuộc “thánh chiến”. Một trong những vụ tấn công đầu tiên liên quan đến nhóm này là vụ tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993, khi sáu người thiệt mạng và hơn một nghìn người bị thương bởi một quả bom nặng 500 kg được đặt trong bãi đậu xe. Đứng sau vụ tấn công đó là Ramzi Yousef, cháu trai của Khalid Sheikh Mohammed, người sau đó tự nhận là kẻ chủ mưu vụ 11/9.

(Một chuyên gia an ninh người Anh làm việc tại Trung tâm Thương mại Thế giới (WTC) , Rick Rescorla, hai năm trước đó, đã báo cáo rằng bãi đậu xe là mục tiêu hiển nhiên của bọn khủng bố; cảnh báo này đã bị bỏ qua, cũng như báo cáo sau đó của ông cho rằng WTC sẽ bị tấn công từ trên không. Rescorla đã hy sinh khi hộ tống mọi người ra khỏi Tháp Nam vào ngày 11/9.)

Al-Qaeda có liên quan đến vụ bắn hạ hai trực thăng Black Hawk ở Somalia năm 1993, cũng như vụ đánh bom tháng 6 năm 1996 tại Khobar Towers, một khu nhà ở quân sự của Mỹ gần Dhahran ở Ả Rập Xê Út, khiến 19 người Mỹ thiệt mạng. Ngay trước đó, bin Laden đã di chuyển từ Sudan sang Afghanistan và vào tháng 9 năm 1996, kêu gọi những người theo hắn “phát động một cuộc chiến tranh du kích chống lại lực lượng Mỹ và trục xuất những kẻ ngoại đạo khỏi Bán đảo Ả Rập”. Một fatwa khác (một giáo lệnh Hồi giáo) được ban hành vào ngày 22 tháng 2 năm 1998, bởi bin Laden và bốn cộng sự của ông ta nhân danh ‘Mặt trận Hồi giáo thế giới cho cuộc thánh chiến chống lại người Do Thái và những người theo đạo Thập tự chinh’, kêu gọi giết người Mỹ, nói rằng đó là ‘nghĩa vụ cá nhân mà mọi người Hồi giáo đều có thể làm được ở bất kỳ quốc gia nào có thể làm điều đó’. Sáu tháng sau, 225 người đã thiệt mạng và hơn 4.000 người bị thương khi những quả bom được lái vào các đại sứ quán Mỹ ở Kenya và Tanzania, dẫn đến các cuộc không kích của Hoa Kỳ vào các vị trí của al-Qaeda ở Afghanistan và Sudan. Bin Laden đã bị truy tố tại tòa án Hoa Kỳ vì những vụ tấn công này. Vào tháng 10 năm 2000, hai kẻ tấn công liều chết đã đâm một chiếc thuyền chở chất nổ vào tàu USS Cole gần cảng Aden của Yemen, giết chết 17 thủy thủ và làm bị thương 40 người khác.

Đó không phải là những cuộc tấn công duy nhất mà các cơ quan tình báo thế giới liên hệ đến al-Qaeda vào những năm 90. Vụ đánh bom Khách sạn Gold Mihor ở Aden năm 1992 và vụ thảm sát Luxor tháng 11 năm 1997 đều là các hoạt động do al-Qaeda tài trợ, trong khi một vụ đánh bom bộ ba được lên kế hoạch vào tháng 1 năm 2000 đã bị ngăn chặn nhờ việc bắt giữ tổ Jordan chịu trách nhiệm về một vụ; việc phá hủy một chiếc xuồng nhỏ được lên kế hoạch đánh chìm tàu USS The Sullivans ở Yemen; và bắt giữ kẻ đánh bom định kích nổ thiết bị tại Sân bay quốc tế Los Angeles.

Tất cả những điều này xảy ra vào thời điểm vai trò của các cơ quan tình báo trên toàn thế giới đang bị đặt dấu hỏi. Sự kết thúc đột ngột và đầy kịch tính của Chiến tranh Lạnh đã khiến nhiều người tự hỏi liệu các quốc gia có cần các cơ quan tình báo như CIA hay MI6 hay không. Tại Anh, người ta đã quyết định rằng sự tồn tại của MI6 sẽ được tiết lộ công khai, và như người đứng đầu cơ quan này lúc bấy giờ, Ngài Colin McColl đã chỉ ra, nhiều người tin rằng rồi đây M16 sẽ là khởi đầu của một “con dốc trơn trượt . . .  Công việc của chúng tôi là về sự tin cậy, tin cậy  giữa chính phủ và những người điều hành cơ quan; và giữa cơ quan và những người trên khắp thế giới làm việc cho nó”, ông nói trong một bộ phim tài liệu của BBC Radio kỷ niệm 100 năm thành lập MI6 vào năm 2009. Cuối cùng, Đạo luật Hoạt động Tình báo năm 1994 chỉ đơn giản xác nhận sự tồn tại của các cơ quan này, nhưng không đi sâu vào bất kỳ chi tiết hoạt động nào. Một nhóm cố vấn quản lý đã được đưa vào MI6, và họ đã làm tinh giản đáng kể bộ máy của cơ quan này.

Những sự kiện tương tự cũng diễn ra tại M15, với nữ Tổng Giám đốc đầu tiên, Stella Rimington, đảm nhận một vai trò công khai hơn nhiều. Năm 1994, người ta đã cân nhắc việc sáp nhập hai cơ quan này, nhưng điều này đã không được thực hiện. Một sĩ quan MI5 bất mãn, David

Shayler đã cố gắng bắt chước Peter Wright bằng cách tiết lộ về các hoạt động của cơ quan này (thậm chí còn xuất hiện trên chương trình giải trí nhẹ nhàng Have I Got News For You) nhưng giống như Wright, ông đã tiết lộ về những thiếu sót và lỗi lầm của chính mình nhiều hơn là của MI5.

Giám đốc Tình báo Quốc gia R. James Woolsey, người kế nhiệm Robert Gates, đã phát biểu tại phiên điều trần phê chuẩn năm 1992 rằng ông đang cân nhắc các hoạt động thay thế cho CIA, chẳng hạn như khả năng chia sẻ thông tin tình báo kinh doanh của họ với các công ty tư nhân. Như ông đã chỉ ra, phương Tây đã “giết một con rồng lớn”, nhưng vẫn sống “trong một khu rừng rậm rạp đầy rẫy những loài rắn độc khó hiểu”. Việc chia sẻ thông tin tình báo với các đối thủ cũ được tăng cường, đặc biệt là về các vấn đề như vị trí của tên lửa hạt nhân và các vũ khí khác có thể rơi vào tay bọn khủng bố sau khi Liên Xô tan rã. “Chúng ta giờ là đối tác”, Yuri Kobaladze, phát ngôn viên chính của FSB, Cơ quan Tình báo Đối ngoại Nga, phát biểu trong một cuộc phỏng vấn, “mặc dù sẽ mất một thời gian để tìm ra cách ứng xử phù hợp với nhau. Chúng ta có những vấn đề chung như phổ biến vũ khí hạt nhân và khủng bố quốc tế. Đây là kẻ thù của chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta phải hợp tác với Hoa Kỳ và phần còn lại của thế giới.”

Đối với điệp viên, các quy tắc cơ bản đã thay đổi. Trong Chiến tranh Lạnh, điệp viên hoạt động bí mật ở nước ngoài thường phải đối mặt với việc bị thẩm vấn, giam giữ và khả năng bị trao đổi (mặc dù tất nhiên vẫn luôn có nguy cơ bị hành quyết). Cựu Phó Tư lệnh Hải quân, Đô đốc Bobby Ray Inman, đã giải thích vào năm 1993 rằng những kẻ khủng bố và bọn buôn bán ma túy không tuân theo những quy tắc “quý ông” đó. “Khi bạn cố gắng xâm nhập và bị chúng nghi ngờ, chúng sẽ không bỏ tù bạn. Chúng sẽ bắn bạn.”

***

Tinh thần của CIA bị ảnh hưởng nặng nề bởi việc chính quyền khăng khăng cắt giảm chi phí – mặc dù kế hoạch chỉ là để CIA trở lại quy mô như thời tổng thống Carter, và thậm chí còn tệ hơn sau khi sự phản bội của Aldrich Ames bị phanh phui. Mặc dù KGB đã bị giải thể khi Liên Xô tan rã, Ames vẫn trung thành với những người trả lương cho y ở Nga, và y vui vẻ cung cấp tài liệu cho SVR.

CIA đã nghi ngờ có một gián điệp ngay từ năm 1986, và Jeanne Vertefeuille đã được giao phụ trách cuộc điều tra, mặc dù nó không được ưu tiên. Ames được điều động đến Rome từ năm 1986 đến năm 1989, và không có sự nghiệp nổi bật. Khi trở về, y được phân công đến trung tâm phản gián và do đó đã có thể chuyển cho Moscow tất cả các chi tiết về hoạt động của CIA chống lại KGB và sau đó là SVR. Những nghi ngờ về thói quen chi tiêu của y đã được nêu ra và cuối cùng một lực lượng đặc nhiệm chung đã được thành lập với FBI. Cục đã tiếp quản vụ án vào tháng 5 năm 1993 và bắt giữ Ames vào tháng 2 năm 1994. (Người quản lý của Ames, Victor Cherkashin, tin rằng Ames và sau đó là Robert Hanssen thực chất đã bị một điệp viên CIA cắm trong SVR lật tẩy.)

Giám đốc CIA mới James Woolsey đã phải chịu rất nhiều chỉ trích về thái độ của ông đối với khám phá này – mặc dù đã có những lời khiển trách bằng lời nói được đưa ra đối với 11 quan chức chủ chốt (một số đã nghỉ hưu), không ai bị sa thải vì vụ Ames. Tuy nhiên, Ủy ban Tình báo Thượng viện gọi phản ứng này đáng tiếc là ‘không đủ’ cho một ‘thảm họa có quy mô chưa từng có’. Woolsey đã từ chức vào tháng 12 năm 1994. Ông được thay thế bởi Thứ trưởng Quốc phòng John Deutch, người tiếp tục chính sách giải mật các tài liệu liên quan đến Chiến tranh Lạnh của Woolsey và cố gắng mở rộng cơ sở nhân sự của Cơ quan với nhiều phụ nữ và người thiểu số hơn (một vụ kiện tập thể đã được nhiều nhân viên nữ đệ đơn kiện Cơ quan trong thời gian Woolsey làm việc). Lần đầu tiên kể từ nhiệm kỳ của William Casey, Giám đốc CIA là thành viên của nội các, giúp ông tiếp cận nhiều hơn với tổng thống. Ông cũng đưa vào cách quản lý mới, trong nỗ lực dọn dẹp toàn bộ Cơ quan.

Hình ảnh công chúng của CIA bị tổn hại hơn nữa vào giữa những năm 90 khi người ta phát hiện ra rằng họ vẫn tiếp tục cung cấp viện trợ cho tình báo quân sự Guatemala, bất chấp chỉ thị vào năm 1992 là cắt đứt quan hệ, và có thể đã đồng lõa trong cái chết của hai người Mỹ; điều này được coi là sự tiếp nối các chính sách thời Chiến tranh Lạnh đã lỗi thời và là bằng chứng nữa cho thấy Cơ quan này không bắt kịp thời đại. Một cuộc điều tra nội bộ phát hiện ra rằng Cơ quan này thực sự đã che đậy những cái chết.

Các cuộc điều tra nội bộ khác do Deutch khởi xướng đã chỉ trích cách thức mà tài liệu do các điệp viên hai mang cung cấp được chuyển lên chuỗi chỉ huy, thường không kèm theo các cảnh báo liên quan. Cách làm này là điều gì đó sẽ trở thành nỗi ám ảnh các cơ quan tình báo vào năm 2003 khi thông tin sai lệch về vũ khí hủy diệt hàng loạt (WMD) của Saddam Hussein được tin tưởng hơn nhiều so với thực tế khi nó được đánh dấu chính xác. Các chiến dịch chống Saddam trước đó đã giáng thêm một đòn nữa vào CIA khi các điệp viên của họ ở miền Bắc Iraq, vốn đã cố gắng tập hợp phe bất đồng chính kiến người Kurd và Iraq chống lại Saddam, phải vội vã rút lui vào tháng 8 năm 1996, bỏ rơi lại phía sau nhiều người đã trót tin tưởng họ. “Có thể CIA đã thực sự nỗ lực hết sức để bảo vệ người của mình”, một chuyên gia hàng đầu về Iraq đã nói vào thời điểm đó, “nhưng người Iraq vẫn quan niệm rằng dính líu bất cứ việc gì đến người Mỹ đều nguy hiểm cho sức khỏe của bạn”.

Vào tháng 11 năm 1996, một điệp viên Nga khác đã được tìm thấy trong hàng ngũ CIA. Harold James Nicholson đang mang theo phim đã chụp và một đĩa máy tính chứa các tài liệu mật của Cơ quan khi bị FBI bắt giữ. Trong hai năm trước đó, y đã làm giáo viên tại Trại Perry, trung tâm đào tạo điệp viên mới của Cơ quan; trước đó, y đã được điều đến Kuala Lumpur, nơi y được một sĩ quan FSB (Cơ quan Tình báo Đối ngoại Nga), người mà Nicholson tuyên bố mình đang cố gắng thuyết phục làm việc cho CIA – trớ trêu thay, đúng vào khoảng thời gian Aldrich Ames bị bắt. Động cơ của Nicholson là tài chính – sau khi y bị phát hiện đang cố gắng vượt qua bài kiểm tra máy phát hiện nói dối tiêu chuẩn vào năm 1995, FBI bắt đầu điều tra tài chính của y và phát hiện ra một khoản tiền lớn. Cuối cùng, y bị buộc tội nhận 180.000 đô la từ người Nga và một cáo buộc gián điệp, mặc dù y

đã làm lộ vỏ bọc của các điệp viên đi qua Trại Perry trong thời gian y làm việc ở đó. Nicholson là một điệp viên được kính trọng và nhiều người tại Cơ quan tin rằng y đang trên đường trở thành “một điệp viên lớn” cho người Nga.

Vào khoảng thời gian này, FBI phát hiện ra rằng người của họ cũng bị lật tẩy cho người Nga – mặc dù việc lật tẩy không phải do Robert Hanssen. Earl Edwin Pitts, một điệp viên cấp cao, đã liên lạc với KGB vào năm 1987 khi đang làm việc tại New York, và trong năm năm tiếp theo đã chuyển tài liệu cho người phụ trách của mình, Rollan G. Dzheikiya. Không may cho Pitts, Dzheikiya đã đào tẩu sau khi Liên Xô sụp đổ, và tiếp tay cho chiến dịch do Cục Điều tra Liên bang (FBI) tiến hành để bắt giữ Pitts. Khi bị bắt vào tháng 12 năm 1996, người Mỹ này khai rằng mình bị thúc đẩy bởi nỗi tức giận với FBI, một phần vì mức lương thấp nhận được.

Một cuộc điều tra về hoạt động của Pitts khiến một số người nghi ngờ rằng người Nga hẳn phải có một nội gián khác trong Cục, vì họ chưa bao giờ yêu cầu Pitts làm bất cứ điều gì quan trọng. Chính Pitts cũng cho rằng Robert Hanssen có thể là gián điệp. Cả hai manh mối đều không được theo dõi kỹ lưỡng, và Hanssen vẫn không bị phát hiện.

Trong một cuộc biểu dương hiếm hoi về sự hợp tác giữa FBI và CIA, hai tổ chức đã cùng nhau thực hiện cuộc truy lùng Aimal Kansi kéo dài bốn năm, kẻ đã giết hai nhân viên CIA bên ngoài Langley vào năm 1993. Cuối cùng, hắn đã bị truy lùng đến Pakistan, nơi chính quyền sở tại đã cho phép các đặc vụ của lực lượng đặc nhiệm vào nước này để bắt hắn.

John Deutch từ chức giám đốc CIA vào tháng 12 năm 1996 và được thay thế bởi phó của ông, George Tenet, và thật là bất thường, Tenet vẫn giữ nguyên vị trí sau khi Tổng thống George W. Bush kế nhiệm Tổng thống Clinton vào năm 2000 – những thay đổi đảng phái tại Nhà Trắng thường dẫn đến một Giám đốc Tình báo Trung ương mới. Điều này tạo nên sự liên tục khi cần những thay đổi lớn sau sự kiện 11/9. Tenet và CIA bị cáo buộc thất bại trong công tác tình báo – và mặc dù những lời chỉ trích là chính đáng, nhưng CIA đã làm được nhiều hơn những gì người ta thường nghĩ trong giai đoạn chuẩn bị cho năm 2001. Nếu thông tin được chia sẻ đúng cách trong ba năm trước sự kiện 11/9, lịch sử thập kỷ đầu tiên của thế kỷ 21 hẳn đã rất khác.

Bình luận về bài viết này