Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

Trần Quang Nghĩa dịch
10. Đế chế phản công
Nửa đầu thập niên 80 là thời kỳ căng thẳng leo thang. Cuộc xâm lược Afghanistan của Liên Xô đã dẫn đến việc Hoa Kỳ và các nước khác tẩy chay Thế vận hội Moscow năm 1980, và khi cựu Thống đốc California Ronald Reagan đắc cử vào Nhà Trắng cuối năm đó, luận điệu chống Liên Xô lại càng được đẩy lên cao.
Trong bài phát biểu trước Hiệp hội Tin Lành Quốc gia tại Orlando, Florida, vào tháng 3 năm 1983, Reagan đã đề cập đến một ‘đế chế tà ác . . . chuyên rao giảng về quyền tối cao của nhà nước, tuyên bố về quyền lực bao trùm lên quyền tối thượng của con người và hiện thực hóa sự thống trị tối hậu của nó đối với tất cả các dân tộc trên Trái Đất. Họ là tâm điểm của cái tà ác trong thế giới hiện đại.’ Hãng thông tấn Liên Xô TASS đáp trả rằng Reagan ‘chỉ có thể đối đầu và chống cộng một cách điên cuồng, hiếu chiến’. Quân đội ở cả phương Tây và phương Đông đều được tăng cường. Cùng lúc với bài phát biểu về ‘đế chế tà ác’, Reagan đã phê chuẩn Sáng kiến Phòng thủ Chiến lược (SDI) (thường được gọi là ‘Chiến tranh giữa các Vì sao’ theo tên bộ phim của George Lucas), mà nhà lãnh đạo Liên Xô mới Yuri Andropov cho rằng ‘đã đặt toàn bộ thế giới vào vòng lâm nguy’.
Về mặt chính trị, Liên Xô đã trải qua những thay đổi lớn. Leonid Brezhnev qua đời năm 1982 và người kế nhiệm ông là Andropov, Giám đốc KGB, nhưng ông cũng qua đời khi đang tại nhiệm, chỉ hai năm sau đó. Konstantin Chernenko, bạn chí cốt của Brezhnev, lên kế vị sau đó một thời gian ngắn, rồi sau khi ông qua đời, Mikhail Gorbachev được bổ nhiệm vào tháng 3 năm 1985. Mặc dù lúc đó không ai nhận thức được rằng các chính sách của Gorbachev sẽ dẫn đến sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh.
Các cơ quan tình báo ở cả hai bên Bức màn sắt đều gặp nhiều khó khăn, khi CIA một lần nữa thay đổi chiến lược và tăng cường sử dụng HUMINT (tình báo con người) mà họ đang dựa vào (một phần là do những tổn thất về năng lực SIGINT sau khi Ronald Pelton đào tẩu năm 1980). Tuy nhiên, năm 1985 lại là một bước ngoặt trong hoạt động tình báo, với hàng loạt vụ tuyển dụng và phản bội từ cả hai phía.
Ronald Reagan đã bổ nhiệm một Giám đốc CIA mới khi ông nhậm chức: William J. Casey, người từng giữ chức vụ giám đốc tình báo mật tại châu Âu cho OSS trong Thế chiến II. Ông là giám đốc chiến dịch tranh cử của tổng thống, và
là Giám đốc CIA đầu tiên được bổ nhiệm làm thành viên Nội các tham gia đầy đủ. Ông và Reagan có chung quan điểm về mối đe dọa từ Liên Xô, và với tư cách là Giám đốc Tình báo Trung ương, Casey muốn tăng cường phân tích, khôi phục các hoạt động bí mật phục vụ chính sách đối ngoại, củng cố phản gián và an ninh, đồng thời cải thiện các hoạt động gián điệp bí mật. Ngân sách dành cho CIA đã tăng 50% trong ba ngân sách đầu tiên của chính quyền Reagan, và Casey đã chủ trì sự hồi sinh của HUMINT. Ông cũng đưa CIA vào những khu vực từng bị coi là nguy hiểm trong những năm 1970, với việc hỗ trợ các tổ chức nổi dậy chống Cộng sản ở các nước đang phát triển – dẫn đến vụ bê bối Iran-Contra, vốn sẽ chi phối nhiệm kỳ thứ hai của Reagan.
Một trong những thành công lớn nhất của thời kỳ Casey phụ trách CIA đến từ Chiến dịch CKTAW. Đây là một vụ nghe lén đường dây liên lạc ngầm giữa Bộ Quốc phòng Liên Xô ở Moscow và Viện Nghiên cứu Vũ khí Hạt nhân Krasnaya Pakhra, tại thành phố Troitsk, cách trung tâm thủ đô 40 km. Điện thoại, fax và tài liệu điện báo đều có thể được truy cập từ các đường cáp này.
Việc lắp đặt cáp đã được phát hiện bởi vệ tinh KH-11 vào năm 1976, và trong hai năm tiếp theo, các đặc vụ CIA tại Moscow đã xác định được một hố ga dọc theo Đại lộ Warsaw là điểm tiếp cận tốt nhất. Đồng thời, các nhà khoa học từ Văn phòng Phát triển và Kỹ thuật của CIA đã tạo ra một vòng cổ có thể được đặt xung quanh cáp để khai thác thông tin. Đến năm 1979, họ đã sẵn sàng xác định cáp nào là tốt nhất để tiếp cận bằng vòng cổ, và kỹ thuật viên Ken Seacrest của Văn phòng Dịch vụ Kỹ thuật được cử đến Moscow để xâm nhập hố ga. Điều này đòi hỏi anh phải tránh xa bất kỳ người theo dõi nào và phải đứng ngập đến đùi trong nước lạnh vài giờ dưới hố ga để thử nghiệm các loại cáp khác nhau. Sau khi xác định được đường dây từ Viện Nghiên cứu Vũ khí, thiết bị nghe lén cố định đã được lắp đặt, và hoạt động thành công cho đến mùa xuân năm 1985.
Điều này đã giúp bù đắp cho các nguồn tin tình báo tín hiệu (SIGINT) bị cựu điệp viên NSA Ronald Pelton tiết lộ cho Liên Xô khi y bước vào đại sứ quán Liên Xô ở Washington năm 1980, trong tình cảnh tuyệt vọng vì cần tiền để trang trải các khoản nợ ngày càng tăng. Ngoài việc tiết lộ chi tiết về Chiến dịch Ivy Bells, y còn nói với họ về các vệ tinh Vortex đang chặn các hệ thống chuyển tiếp vô tuyến vi sóng; lượng tài liệu đến từ một trạm nghe lén chung của NSA-CIA tại đại sứ quán Moscow, mật danh Broadside; và về bảy hoạt động tình báo tối mật mà NSA đang thực hiện. Y thậm chí còn tiết lộ sự tồn tại của những gốc cây giả chứa thiết bị nghe lén điện tử được các điệp viên CIA đặt gần các cơ sở quân sự của Liên Xô. Tệ hơn nữa, y còn cung cấp cho họ chi tiết về mọi máy mật mã của Nga mà NSA đã bẻ khóa được – dẫn đến việc Liên Xô phải thay đổi hệ thống của họ.
Bản thân CKTAW đã bị tiết lộ cho Liên Xô bởi một cựu nhân viên CIA, Edward Lee Howard, người đã bị sa thải khỏi CIA vào tháng 5 năm 1983 sau khi không vượt qua được bài kiểm tra nói dối trước khi nhận nhiệm vụ mới tại Moscow. Thật không may, vào thời điểm đó, y đã nắm được một lượng thông tin đáng kể về các hoạt động của CIA tại Nga, bao gồm cả CKTAW, một trong những lý do khiến y bị sa thải là vì y thừa nhận đã gian lận trong các bài tập về tiếp cận hố ga. Mùa hè năm đó, y đã viết thư cho Đại sứ quán Liên Xô tại Thụy Sĩ đề nghị gặp một sĩ quan KGB để trao đổi thông tin “thú vị”. KGB đã từ chối. Tháng 10 năm đó, y cân nhắc việc có nên tình nguyện cung cấp thông tin trực tiếp cho Liên Xô tại Đại sứ quán ở Washington hay không, nhưng cuối cùng đã quyết định không làm vậy. Y chuyển đến Santa Fe, New Mexico, nơi y tham gia vào một vụ ẩu đả lớn và bị quản chế 5 năm. Cũng trong khoảng thời gian đó, KGB xem xét lại đơn xin của y, và y được khuyên nên đến Vienna để gặp một người phụ trách. Bất chấp lệnh quản chế cấm rời khỏi Hoa Kỳ, y đã đến Châu Âu, nơi ông chuyển giao tài liệu và thông tin về các hoạt động của CIA vào tháng 9 năm 1984 và sau đó là vào tháng 4 năm 1985. Bản thân Howard cũng bị một kẻ đào tẩu từ Đông sang Tây, Vitaly Yurchenko, phản bội vào năm đó, nhưng y đã trốn thoát khỏi FBI, chạy trốn đến Moscow, nơi y qua đời vào năm 2002.
Howard cũng chịu trách nhiệm cho cái chết của một nhân viên CIA quan trọng tại Nga, nhà khoa học Adolf Tolkachev. Khác với sự nghiệp của kẻ phản bội mình, Tolkachev cũng đã cố gắng tiếp cận các cơ quan tình báo của phía bên kia nhưng không thành công trước khi được CIA trọng vọng. Tự nhận mình là một “kẻ bất đồng chính kiến tự thâm tâm” (đến mức có lúc ông đã thảo luận với CIA về khả năng chuyển một phần lương của mình từ CIA cho phong trào bất đồng chính kiến ở Nga), Tolkachev là một kỹ sư hệ thống tại Viện Nghiên cứu Khoa học.
của Đài Phát thanh, người được cấp phép tiếp cận tài liệu mật và quyết định cung cấp dịch vụ cho phe đối lập. Nỗ lực đầu tiên của ông vào tháng 1 năm 1977 – bỏ thư vào xe của một người Mỹ – đã thất bại vì tình cờ xe ông chọn là của người đứng đầu trạm CIA ở Moscow, và lời đề nghị của ông dường như quá tốt để có thể là sự thật. Ông đã thử thêm ba lần nữa, nhưng lần nào cũng bị phớt lờ. Tháng 12 năm đó, ông đã chuyển cho họ một ghi chú chứa một số chi tiết về máy bay Liên Xô; tấm danh thiếp đó tỏ ra hiệu quả, và vào tháng 2 năm 1978, các liên lạc đã được bắt đầu. Một cuộc gặp gỡ cá nhân đầy rủi ro giữa Tolkachev và người phụ trách CIA John Guilsher đã diễn ra vào ngày đầu năm mới 1979, và trong mười tám tháng tiếp theo, một hệ thống đã được thiết lập. Tolkachev được cung cấp một máy ảnh và có thể cung cấp hàng trăm cuộn phim 35mm cho các đầu mối liên lạc CIA của mình, đôi khi thậm chí mang tài liệu về nhà để chụp ảnh khi an ninh không nghiêm ngặt, những lúc khác lại tranh thủ quay phim chúng tại văn phòng của mình.
Bất chấp những nghi ngờ của KGB về việc rò rỉ thông tin từ Viện, Tolkachev vẫn từ chối dừng hoạt động, và sĩ quan phụ trách ông đã nhận xét: “Đây thực sự là một người đàn ông bị thúc đẩy phải tiết lộ, bằng bất cứ cách nào ông ta cho là cần thiết, cho đến tận cùng, ngay cả khi mục đích đó là cái chết của ông ta.” Đã hơn một lần, ông ta phải bỏ đi thiết bị gián điệp của mình vì KGB dường như đang tiến gần, nhưng sau đó ông ta lại trở lại làm việc bình thường. Vào tháng 1 năm 1985, ông ta có cuộc họp cuối cùng với những người phụ trách mình, trong đó ông nói rằng đó là thông tin về một máy bay chiến đấu mới của Liên Xô. Nhưng hình ảnh không thể đọc được. Các cuộc họp tiếp theo đã bị hủy bỏ vì bị giám sát, nhưng vào ngày 13 tháng 6, đặc vụ phụ trách đã đến cuộc họp và bị KGB bắt giữ. Tolkachev đã nằm trong tay họ kể từ tháng 4; ông bị hành quyết vào một thời điểm nào đó giữa lúc bị bắt và tháng 9 năm 1986.
Một bản ghi nhớ gửi cho Stansfield Turner, lúc đó là Giám đốc CIA, vào tháng 3 năm 1979 đã mô tả tài liệu của Tolkachev là “có giá trị vô giá”. Vào thời điểm ông qua đời, tờ Washington Post gọi ông là “một trong những tài sản quý giá nhất của CIA tại Liên Xô”. Có lẽ minh chứng rõ ràng nhất cho hiệu quả của ông trong vai trò điệp viên là phải mất năm năm sau khi ông qua đời, tất cả thông tin ông chuyển lại cho Langley mới được đánh giá đầy đủ.
Tolkachev không phải là điệp viên duy nhất trong KGB do tình báo phương Tây điều hành trong giai đoạn này. Mật danh “Tạm biệt”, Đại tá Vladimir Ippolitovich Vetrov, người từng tuyên bố rằng ông căm ghét giới lãnh đạo Liên Xô vì “sự thô tục, tham nhũng, tàn bạo, tự đề cao bản thân không ngừng và không giúp đỡ người dân Nga’, đã có thể cung cấp hơn 4.000 tài liệu cho tình báo Pháp trong mùa hè năm 1981. Điều này đã dẫn đến một trong những hoạt động phản gián khéo léo nhất của thập niên tám mươi.
Vetrov là một sĩ quan kỹ thuật của KGB, phụ trách đánh giá công nghệ phương Tây mà Phòng T thu thập được. Thông tin mà ông chuyển giao bao gồm tên các đặc vụ Liên Xô trong các phòng thí nghiệm, cơ quan chính phủ và nhà máy ở Mỹ và châu Âu, cũng như chi tiết về nhiều đặc vụ khác đang hoạt động. Hữu ích nhất cho phương Tây là danh sách các yêu cầu công nghệ mà các đặc vụ này đang tìm cách đáp ứng.
Tổng thống Pháp Mitterand đã chuyển thông tin chi tiết về Vetrov cho Tổng thống Reagan vào tháng 7 năm 1981 và Giám đốc CIA Casey đề xuất chuẩn bị các thiết bị bị lỗi mà các đặc vụ Liên Xô có thể lấy được. Một nỗ lực hợp tác giữa CIA và FBI đã gây ra những vấn đề nghiêm trọng cho Liên Xô với Đường ống dẫn dầu xuyên Siberia, dẫn đến một vụ nổ lớn, cũng như nhiều lỗi sai sót trong các dự án khác, chẳng hạn như máy bay tàng hình, phòng thủ không gian và máy bay chiến thuật. Ngay cả Tàu không gian Con thoi của Liên Xô cũng dựa trên một thiết kế NASA đã loại bỏ. Cuối cùng, sau khi thông tin giả đã được chuyển về Moscow, CIA thông báo cho các chính phủ liên quan về sự tồn tại của các đặc vụ, và hơn 200 người đã bị bắt giữ.
Bản thân Vetrov bị bắt vào tháng 2 năm 1982 sau khi đã giết một người lạ mặt trong công viên ở Moscow và âm mưu giết người tình của anh ta, một thư ký KGB. Hoạt động gián điệp của anh bị phát hiện trong quá trình điều tra, và anh đã bị bắt và bị xử tử.
Ronald Reagan không phải là nhà lãnh đạo mới duy nhất ở phương Tây. Tháng 5 năm 1979 chứng kiến sự xuất hiện của nữ thủ tướng đầu tiên của Anh, Margaret Thatcher, tại số 10 phố Downing. Một trong những cuộc chạm trán đầu tiên của bà với ngành công nghiệp tình báo là sự tiết lộ công khai về hành vi phản bội của Anthony Blunt. Blunt đã thú nhận vai trò của mình với MI5 vào năm 1964, nhưng được miễn truy tố và ngây thơ tin rằng mình sẽ không nghe thêm gì về chuyện này nữa. Có lẽ đã thiếu khôn ngoan khi y cố gắng ngăn chặn việc xuất bản cuốn sách “Xu thế Phản quốc” của Andrew Boyle, trong đó nêu chi tiết về các hoạt động của y dưới tên giả Maurice; tạp chí Private Eye đã tiết lộ hành động pháp lý của Blunt, và mười ngày sau, bà Thatcher đã đưa ra một tuyên bố trước Hạ viện, xác nhận hành vi phản bội của Blunt. Chỉ trong vòng vài phút sau thông báo, Blunt bị tước danh hiệu hiệp sĩ. Y qua đời năm 1983, một năm sau khi Oleg Gordievsky nói với người Anh rằng John Cairncross chính là “Người đàn ông thứ năm”, mặc dù thông tin này không được công khai cho đến khi cuốn sách lịch sử KGB của Gordievsky được xuất bản năm 1990.
Tầm quan trọng của Gordievsky vào đầu những năm 1980 không thể bị đánh giá thấp. Ông đã cung cấp thông tin cho MI6 từ năm 1974, đồng thời tiếp tục thăng tiến trong KGB. Ông đã suýt bị phát hiện vào năm 1978 khi Kim Philby được yêu cầu xem xét một hồ sơ liên quan đến vụ bắt giữ một đặc vụ KGB ở Na Uy, thư ký cao tuổi Gunvor Haavik, người mà Gordievsky đã kể cho M16 nghe khi còn làm việc tại Copenhagen. Philby phản ứng rằng chắc chắn có nội gián trong KGB, nhưng may mắn cho Gordievsky là chủ đề này đã không được theo đuổi.
Vào tháng 1 năm 1982, Liên Xô gửi yêu cầu xin cấp thị thực cho Gordievsky vào Anh với tư cách là một “cố vấn” tại đại sứ quán – thực tế, ông ta là một sĩ quan chính trị cấp cao của KGB tại trạm gián điệp Nga ở Anh. Khi đến Anh, ông ta được MI5 và MI6 cùng phụ trách chung, và có thể chuyển giao chi tiết về một chiến dịch chung mới của KGB-GRU do giám đốc KGB Yuri Andropov thành lập vào tháng 5 năm 1981, có mật danh là Ryan (bắt nguồn từ chữ viết tắt tiếng Nga của cụm từ “Tấn công Tên lửa Hạt nhân”). Bộ Chính trị Liên Xô tin chắc rằng Hoa Kỳ và NATO đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công hạt nhân bất ngờ đầu tiên vào Liên Xô, và Chiến dịch Ryan được thành lập để thu thập thông tin tình báo về các kế hoạch này. Theo Gordievsky, mặc dù nhiều đặc vụ Liên Xô ở phương Tây và sĩ quan KGB không tin rằng những kế hoạch như vậy tồn tại, nhưng họ không muốn nói nhiều với Moscow, vì vậy đã phóng đại tầm quan trọng cuả những sự kiện này, đến lượt nó, lại thúc đẩy nhu cầu tìm hiểu thêm thông tin. Những lời lẽ hoa mỹ của Thatcher và Reagan đã khiến Liên Xô càng thêm hoang tưởng. Tầm quan trọng mà Điện Kremlin dành cho các báo cáo Chiến dịch Ryan cho phép Gordievsky, và do đó phương Tây, thấy được Liên Xô cảm thấy bị đe dọa như thế nào vào bất kỳ thời điểm nào.
Nhờ tiếp cận được nhiều tài liệu liên quan đến hoạt động của trạm gián điệp thường trú tại London, Gordievsky đã có thể cung cấp thông tin về các đặc vụ KGB hiện tại ở Anh. Ông lưu ý rằng lãnh đạo công đoàn Jack Jones, người từng được Liên Xô coi là điệp viên trong giai đoạn 1964-1968, cũng như nghị sĩ Bob Edwards, giờ đây đều bị coi là không mấy quan trọng. KGB quan tâm đến việc hỗ trợ các phong trào hòa bình, chẳng hạn như Chiến dịch Giải trừ Vũ khí Hạt nhân và nỗ lực giành ảnh hưởng đối với Chiến dịch, nhưng các hoạt động của M15 trong vài năm tiếp theo đã chứng minh rằng, mặc dù rất muốn điều hành Chiến dịch, nhưng thực sự Liên Xô chỉ có thể tạo ra mối liên hệ tin cậy với nhà hoạt động hòa bình và nhà sáng lập Chiến dịch Giải trừ Quân bị Thế giới, đã 94 tuổi, Ngài Brockway, vốn không có khả năng cung cấp cho họ bất kỳ sự hỗ trợ thiết thực nào.
Tội phản quốc của cựu nhân viên GCHQ (Trụ sở Truyền thông Chính phủ, chuyên về tình báo tín hiệu của Anh, cùng với M15 và M16, là lực lượng an ninh và tình báo Anh), Geoffrey Prime, bị phơi bày vào năm 1982 khi y bị bắt vì tội lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên và vợ y đã giao nộp thiết bị do thám cho cảnh sát. Năm sau, Michael Bettany, một sĩ quan M15, bị bắt vì đã đưa một gói thông tin tuyệt mật qua cửa nhà của Arkadi Guk, một nhân viên KGB thường trú, vào Chủ nhật Phục sinh, ngày 3 tháng 4 năm 1983. Gói này có chứa thông tin giải thích chính xác lý do tại sao ba thành viên của đội ngũ nhân viên Liên Xô đã bị chính quyền Anh tuyên bố là persona non grata (người không được hoan nghênh) vào tháng trước (mặc dù không có gì ngạc nhiên khi tài liệu không đề cập đến việc Igor Titov đã bị trục xuất khỏi Anh khiến Gordievsky được thăng chức), cũng như một lời đề nghị sẽ cung cấp thêm bí mật. Guk, một kẻ nghiện rượu hoang tưởng được Gordievsky mô tả là “một gã to xác, đầu óc tầm thường nhưng lại có rất nhiều mưu mô hèn hạ”, tin rằng đây là một cái bẫy của MI5 và phớt lờ gói thư.
Vào tháng 6, trạm đặc vụ của Liên Xô ở Anh nhận được một tài liệu liệt kê danh sách nhân viên KGB và GRU tại London. Khi Gordievsky tiết lộ điều này với những đặc vụ phụ trách ông, họ nhận ra có một gián điệp trong MI5; trong khi Guk vẫn tin rằng đó là một âm mưu của MI5 và không có động thái nào nhắm vào Bettany. MI5 đã lập tức mở cuộc cuộc săn gián điệp mang mật danh ELMEN, nhanh chóng tập trung vào Bettany, người đang hành động ngày càng kỳ lạ. Chấp nhận rủi ro, vì họ không thể ngăn cản anh ta rời khỏi đất nước nếu anh ta từ chức khỏi Cơ quan An ninh, đội ELMEN đã đưa Bettany vào vòng thẩm vấn. Sau một ngày rưỡi thẩm vấn, Bettany đã cuối cùng chịu thú tội.
Tuy nhiên, không có nhiều thời gian để chúc mừng, vì Gordievsky đã báo cáo rằng Chiến dịch Ryan đang đạt đến đỉnh điểm. Vào tháng 2 năm 1983, nhân viên KGB đã được giao 20 nhiệm vụ để theo dõi công tác chuẩn bị của Anh, bao gồm việc liệu giá máu trả cho người hiến máu có tăng lên không (thực ra họ chưa hề được trả tiền), và có bao nhiêu đèn được bật sáng vào ban đêm trong các tòa nhà chính phủ. Vào tháng 8, thêm nhiều nhiệm vụ được bổ sung.
Mối quan hệ giữa Đông
và Tây lại suy yếu nghiêm trọng sau khi Liên Xô bắn hạ một máy bay dân sự 747, chuyến bay KAL 007 của hãng hàng không Korean Airlines, vào ngày 1 tháng 9 năm 1983, khiến toàn bộ 269 hành khách và phi hành đoàn trên máy bay thiệt mạng, bao gồm cả Nghị sĩ Hoa Kỳ Lawrence McDonald. Trạm vô tuyến của NSA tại Hokkaido, Nhật Bản, đã chặn được tín hiệu từ phi công chiến đấu Nga, Thiếu tá Osipovich, tuyên bố: “Tôi đã thực hiện vụ phóng… mục tiêu đã bị tiêu diệt.” Đoạn ghi âm này đã được công bố rộng rãi, càng làm tăng thêm sức ép.
Tuy nhiên, đoạn ghi âm này chỉ tiết lộ một phần câu chuyện. Khi xem lại toàn bộ cuộc trao đổi vô tuyến, người ta phát hiện rằng Liên Xô nghĩ là họ đang theo dõi máy bay trinh sát RC-135 của Mỹ chứ không phải một chiếc Boeing 747, và các phi công Hàn Quốc đã không phản ứng với những làn đạn vạch đường bắn ngay phía trước máy bay. Tổng thống Reagan đã lên truyền hình Mỹ vào ngày 5 tháng 9 để cáo buộc Liên Xô phạm tội ác chống lại loài người. Ngày hôm sau, Đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Jeanne Kirkpatrick, cáo buộc họ tội giết người hàng loạt. Tranh cãi này đã phủ bóng đen lên cuộc họp giữa các ngoại trưởng tại Madrid vào ngày 8 tháng 9, khi Andrei Gromyko nhận định “tình hình thế giới hiện đang trượt xuống một bờ vực rất nguy hiểm”. Ngày 28 tháng 9, Yuri Andropov đã có bài phát biểu trên giường bệnh, cáo buộc chính quyền Reagan “có tham vọng đế quốc” và tự hỏi “liệu Washington có bất kỳ rào cản nào ngăn họ vượt qua ranh giới mà bất kỳ người tỉnh táo nào cũng phải dừng lại hay không”.
Nỗi sợ hãi của họ càng tăng thêm khi NATO tiến hành cuộc tập trận ABLE ARCHER 83, diễn ra từ ngày 2 đến ngày 11 tháng 11. Mục đích được tuyên bố là thực hành các quy trình giải phóng vũ khí hạt nhân, nhưng Liên Xô thực sự tin rằng nó sẽ được dùng làm vỏ bọc cho một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu thực sự. Theo Sir Geoffrey Howe, lúc đó là Ngoại trưởng Anh, Gordievsky “không hề nghi ngờ gì về nỗi sợ hãi thực sự cùng cực của Nga về một cuộc tấn công hạt nhân thực sự”. Rõ ràng đã đến lúc phải hạ giọng: ngay lập tức những tín hiệu trấn an đã được Washington và London gửi đến Moscow. Cái chết của Yuri Andropov vào tháng 2 năm 1984 chắc chắn đã giúp giảm bớt căng thẳng (người kế nhiệm ông, Chernenko, không hoàn toàn hoang tưởng về một cuộc tấn công hạt nhân phủ đầu).
Việc Arkadi Guk, một nhân viên KGB thường trú, được biết đến rộng rãi sau phiên tòa xét xử Bettany năm 1984 đã tạo cho MI5 cái cớ để tuyên bố y là người không được hoan nghênh, và giúp Gordievsky thăng tiến hơn nữa (điều bất lợi là người đứng đầu trạm đặc vụ Anh tại Moscow đã bị trục xuất khỏi Liên Xô). Gordievsky tiếp tục chuyển thông tin cho MI6, hỗ trợ việc chuẩn bị của Margaret Thatcher cho chuyến thăm Anh của Mikhail Gorbachev vào cuối năm. Dường như Gordievsky vẫn còn đang tỏa sáng, đặc biệt là khi KGB quyết định bổ nhiệm ông làm người kế nhiệm Guk vào tháng 1 năm 1985. Tuy nhiên, vận may của ông sắp hết.
Trong khi phần lớn các cơ quan tình báo của thế giới tự do tập trung vào mức độ hoạt động ngày càng tăng của Liên Xô, Cơ quan Tình báo ASIS Úc lại một lần nữa trở thành chủ đề của một số sự việc không mong muốn.
Vào ngày 11 tháng 11 năm 1983, ngày cuối cùng của ABLE ARCHER 83, ASIS bắt đầu huấn luyện một biệt đội về nhiều kỹ năng khác nhau, bao gồm cận chiến, giám sát, kỹ năng y tế và các phương pháp xâm nhập trái phép. Trong khuôn khổ một cuộc tập trận, đội được chỉ thị thực hiện một cuộc giải cứu vũ trang cho một kẻ đóng vai vai đào ngũ, John và em trai Michael. Mọi chuyện diễn ra không như mong đợi, dẫn đến một chiến dịch được mô tả trong một báo cáo chính thức là “kém cỏi, thiếu chuẩn bị và thiếu phối hợp”.
Đầu tiên, súng bị lấy đi khỏi một kho vũ khí bí mật mà không được phép. Sau đó, các thực tập viên mất liên lạc với John và các nhân viên đóng vai đặc vụ nước ngoài mà anh đang tiếp xúc. Họ được bảo phải đến khách sạn Sheraton sang trọng ở Melbourne, tại đây họ đã làm quá trớn chỉ thị khi dùng búa tạ phá cửa phòng nơi John và các đồng nghiệp đang tụ họp.
Khi quản lý khách sạn, Nick Rice, đến nơi xem xét, trưởng nhóm thực tập viên đã đánh nhau với anh ta trong thang máy, và sau đó Rice đã gọi cảnh sát. Trưởng nhóm sau đó đã thả những đặc vụ nước ngoài đóng vai, vốn đã bị còng tay trong quá trình diễn tập, và chạy đến những người còn lại trong nhóm đang “bắt cóc” John khỏi khách sạn. Nhân viên Sheraton không mấy ấn tượng, và mặc dù các học viên và John khai rằng họ đến từ ASIS, các nhân viên vẫn lấy biển số xe và trình báo. Cảnh sát đã chặn xe và bắt giữ những người ngồi trong xe.
Sự việc này đã khiến tờ báo địa phương Sunday Age tiết lộ tên của năm đặc vụ liên quan trong bài báo có tiêu đề “The Sheraton Shambles“, dẫn đến một vụ kiện tụng về việc liệu chính phủ có quyền công bố tên của các đặc vụ hay không (về cơ bản, người ta cho rằng họ thực sự có quyền, nhưng không nên sử dụng quyền đó). Tổng Giám đốc ASIS, John Ryan, từ chối hợp tác với cuộc điều tra của cảnh sát, nhưng ông
đã từ chức sau khi bị Ủy ban Hoàng gia quy trách nhiệm việc cho phép hoạt động này. Cuối cùng, không có bất kỳ đặc vụ nào bị buộc tội. Chính phủ Liên bang đã chi trả hơn 300.000 đô la Úc để dàn xếp với Sheraton và nhân viên.
Người Úc không phải là những kẻ duy nhất làm hỏng việc trong thời gian này. Vụ Richard Miller một lần nữa chứng minh rằng không phải mọi thứ trong thế giới điệp viên đều diễn ra theo đúng kế hoạch.
Miller được vinh danh là điệp viên KGB đầu tiên bị bắt giữ trong FBI, và có lẽ là điệp viên kém cỏi nhất trong cả hai cơ quan. Y gia nhập FBI vào đầu những năm 1960, và nhanh chóng bị mang tiếng xấu, khi mua hàng tại các cửa hàng bằng cách trưng ra huy hiệu FBI của mình, và thậm chí còn đánh cắp và bán thông tin từ FBI cho một thám tử tư địa phương. Theo một bài viết công kích FBI trên tờ Washington Monthly năm 1989, đến năm 1982, Miller đã có “một hồ sơ nhân sự đầy rẫy những nghi ngờ về hiệu suất công việc của y. Một nhà tâm lý học đã kiểm tra Miller và nói với FBI rằng y không ổn định về mặt cảm xúc và nên được bố trí ở một vị trí vô hại nào đó cho đến khi nghỉ hưu.”
Vị trí vô hại này hóa ra lại thuộc về đơn vị phản gián ở Los Angeles, nơi vào năm 1984, y lọt vào mắt xanh của một đặc vụ KGB cấp thấp, Svetlana Ogorodnikova, một người Nga di cư. Miller bị dụ dỗ và yêu cầu tìm ra nơi ở của điệp viên Liên Xô đào tẩu Stanislav Levchenko. Y không thể làm được điều này, nhưng y đã đưa cho một cuốn sổ tay của FBI ghi rõ các loại thông tin tình báo mà Cục đang tìm kiếm. FBI biết Ogorodnikova, và họ bắt đầu theo dõi Miller để xem liệu có khả năng sử dụng y làm điệp viên hai mang hay không.
Tháng mười năm đó, Ogorodnikova muốn Miller đi cùng cô đến châu Âu để gặp cấp trên KGB của mình, và đúng lúc này Miller đến gặp cấp trên, nói rằng mình đang cố gắng xâm nhập mạng lưới tình báo Liên Xô. Cục tin rằng y chỉ làm vậy vì phát hiện ra việc mình bị giám sát, nên đã sa thải Miller rồi bắt giữ y vì tội gián điệp, cũng như Ogorodnikova và chồng cô. Họ đã nhận tội âm mưu làm gián điệp; Ogorodnikova bị kết án 18 năm tù, chồng cô 8 năm tù. Miller khai rằng y làm việc cho Cục để xâm nhập mạng lưới tình báo Liên Xô, bồi thẩm đoàn không tin và y lãnh hai án tù chung thân liên tiếp. Vụ án được tuyên bố là không đúng thủ tục pháp lý vì lý do kỹ thuật, và tại phiên tòa thứ hai vào năm 1990, y bị kết tội và bị tuyên án 20 năm tù, sau đó giảm xuống còn 13 năm. Ogorodnikova đã trải qua nhiều năm đấu tranh chống lại lệnh trục xuất về Nga trước khi trốn thoát sang Mexico với người chồng mới.
Mặc dù hành vi phản quốc quy mô nhỏ của Miller được coi là một vết nhơ trong hồ sơ của FBI, nhưng nó ngày càng trở nên không còn quan trọng khi các sự kiện năm 1985 đang diễn ra, một năm được báo chí Mỹ mô tả là ‘Năm của Điệp viên’.