Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

Trần Quang Nghĩa dịch
6 THÔNG TIN LỖI
Có nhiều cách khiến sự nghiệp đặc vụ đột ngột dừng lại: đôi khi họ bị bắt quả tang khi đang thực hiện nhiệm vụ do cấp trên giao; đôi khi, do lỗi nghiệp vụ, do chính họ hoặc do người khác gây ra, dẫn đến việc họ bị bắt. Nhưng có lẽ cách tệ nhất để bị loại khỏi cuộc chơi là do bị phản bội, đặc biệt là khi bị chính đồng đội phản bội.
KGB đã phải chịu một số thất bại như vậy vào cuối những năm 50 và đầu những năm 60 sau khi nhiều đặc vụ đào tẩu sang phương Tây.
Một khi FBI, MI5 hoặc các cơ quan phản gián phương Tây khác nắm được thông tin, họ sẽ lần theo mọi manh mối cho đến khi xác định được càng nhiều đặc vụ Liên Xô càng tốt. Đôi khi việc này sẽ mất thời gian. Trừ khi những kẻ đào tẩu ở vào những vị trí đặc biệt tốt, họ khó có thể nắm được thông tin chi tiết chính xác về từng đặc vụ cụ thể, nhưng thường thì họ cung cấp đủ manh mối để chính quyền có thể giám sát một nhóm và sau đó loại bỏ nhóm đó khỏi hoạt động.
Trung tá Ba Lan Mikhail Goleniewski tung hứng trong vai trò là điệp viên ba mang giữa năm 1959 và đào tẩu vào tháng 1 năm 1961, làm việc với tư cách là người đứng đầu Phòng Kỹ thuật và Khoa học của Cơ quan Mật vụ Ba Lan, báo cáo cho Moscow và cũng cung cấp thông tin đồng thời cho MI6 và CIA, được CIA mô tả là ‘Cấp 1 từ bên trong’. Người Mỹ gọi ông là ‘Xạ thủ’; người Anh biết ông dưới mật danh ‘Lavinia’. Ngay cả trước khi đào tẩu, ông đã thông báo với đặc vụ quản lý ông rằng ‘Người Nga có hai đặc vụ rất quan trọng ở Anh: một người trong Cơ quan Tình báo Anh, người kia ở đâu đó trong Hải quân’. Dựa trên các tài liệu mà Goleniewski đã xem, có mười nghi phạm tiềm năng trong MI6 (bao gồm cả ‘ngôi sao đang lên’ George Blake), nhưng khi điều tra, tất cả dường như đều trong sạch – nguồn tin khả dĩ nhất của các tài liệu, theo người Anh, là một vụ trộm tại trụ sở MI6 ở Brussels, và đó là những gì họ đã nói với người Mỹ.
Khi Goleniewski chuyển thêm một số thông tin về điệp viên hải quân vào tháng 3 năm 1960, đó chính là manh mối đã vạch trần toàn bộ mạng lưới gián điệp của Liên Xô, được gọi là Vòng Portland, theo tên căn cứ hải quân từ đó những bí mật đang được moi ra. ‘Xạ thủ’ nói rằng tên của điệp viên nghe giống như ‘Huiton’: điều này liên quan đến Harry Houghton, người lúc đó đang làm việc tại Cơ sở Vũ khí Dưới nước Portland, Dorset, và khớp với những thông tin khác được cung cấp. Những gì diễn ra sau đó là một ví dụ điển hình về hoạt động phản gián.
Houghton bị các đặc vụ MI5 (được gọi là Người Theo dõi) theo dõi trong chuyến thăm London hàng tháng cùng bạn gái Ethel Gee. Tại đây, họ theo dõi anh ta đưa một túi hàng để đổi lấy một phong bì. M15 bám theo gã đàn ông mà Houghton đã gặp, người mà họ tin là một sĩ quan tình báo Ba Lan, nhưng họ gặp trở ngại khi phát hiện ra chiếc xe y lái được đăng ký cho một nhà nhập khẩu máy hát tự động người Canada tên là Gordon Arnold Lonsdale. Tại cuộc gặp sau giữa Lonsdale và Houghton, các Người Theo Dõi tình cờ nghe được Lonsdale nói rằng y đang trên đường đến Mỹ công tác; trước khi rời đi, y đã gửi một bưu kiện tại Ngân hàng Midland. MI5 đã mở bưu kiện và phát hiện ra một kho báu: ‘Toàn bộ công cụ của một điệp viên chuyên nghiệp,’ theo lời của sĩ quan Peter Wright. Các tài liệu xác định Lonsdale là một điệp viên KGB.
Lonsdale bị theo dõi khi trở về Anh vào tháng 10, và M15 phát hiện ra y đang ở cùng một cặp vợ chồng người New Zealand, Peter và Helen Kroger, tại vùng ngoại ô Ruislip của London. Vợ chồng Kroger và Lonsdale đã bị theo dõi cho đến khi bị bắt vào tháng 1, ngay trước khi Goleniewski chuẩn bị đào tẩu.
Không phải là những người bán sách vô tội, vợ chồng Kroger thực chất là những đặc vụ lâu năm của Nga, khi đó có tên là Lona và Morris Cohen, đã tham gia sự xâm nhập của Liên Xô vào Dự án Manhattan. Họ đã chạy trốn sang Mexico khi vợ chồng Rosenberg bị bắt và sau đó thiết lập một vỏ bọc mới ở Anh vài năm sau đó. Khi MI5 đột kích nhà Kroger, họ tìm thấy mọi thứ, từ nhiều hộ chiếu đến một máy phát và thu sóng vô tuyến tốc độ cao.
Lonsdale, bí danh Konon Trofimovich Molody, đã gia nhập NKVD trong Thế chiến II, và đã lấy danh tính của Gordon Lonsdale quá cố vào năm 1954 khi ông ta nhập cảnh vào Canada. Không chỉ gửi hàng loạt tài liệu mật về Moscow từ các đặc vụ của mình, Lonsdale còn có đầu óc kinh doanh bẩm sinh, điều này đồng nghĩa với việc ông ta thực sự đang kiếm lời cho KGB!
Ngoài Houghton, Lonsdale còn điều hành một điệp viên bên trong Trung tâm Nghiên cứu Chiến tranh Vi trùng tại Porton Down (87 dặm về phía tây-nam London), cũng như Melita Norwood, một thư ký có vẻ vô tội làm việc tại Hiệp hội Nghiên cứu Kim loại Màu của Anh. Norwood đã cung cấp bí mật nguyên tử cho người Nga trong Thế chiến II và tiếp tục làm việc cho KGB cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1972. Được mệnh danh là ‘Điệp viên đến từ Hợp tác xã’, bà được ca ngợi là một trong những tài sản nữ quan trọng nhất của KGB và vẫn không bị phát hiện cho đến khi Vasili Mitrokhin đào tẩu sang phương Tây vào năm 1992.
Lonsdale bị kết án 25 năm tù, nhưng được trao đổi vào năm 1964 để lấy Greville Wynne; vợ chồng Kroger được trao đổi vào tháng 7 năm 1969 để lấy một chiến sĩ chống lật đổ người Anh bị KGB giam giữ. Houghton và Gee nhận án 15 năm tù, mặc dù họ được trả tự do vào năm 1970, và kết hôn vào năm sau đó.
Điệp viên KGB khác bị Goleniewski vạch trần thực chất là George Blake, người đã trốn tránh được sự nghi ngờ khi ‘Xạ thủ’ lần đầu tiên đề cập đến sự tồn tại của đặc vụ này. Blake, tên thật là George Behar, đã gia nhập MI6 vào năm 1948, sau khi học tiếng Nga tại Cambridge. Y được điều đến Seoul ở Hàn Quốc vào năm sau nhưng đã bị quân Bắc Triều Tiên xâm lược bắt giữ. Được tình báo Trung Quốc cho phép tiếp cận tù nhân chiến tranh, các sĩ quan MGB (Bộ An ninh Nhà nước Liên Xô) đã thẩm vấn y, và khi y được hồi hương về Anh vào cuối Chiến tranh Triều Tiên, y đã là một điệp viên Liên Xô. Việc y đổi phe vì bản thân phản đối hệ thống chính trị Anh hay vì y bị Trung Quốc tẩy não nên phản quốc vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi: năm 2007, y nói rằng mình không phải là kẻ phản bội: ‘Để phản bội, trước tiên bạn phải thuộc về.một tổ chức. Tôi chưa bao giờ thuộc về tổ chức nào.’
Tầm quan trọng của Blake đối với KGB có thể được đánh giá qua việc mặc dù y đã cảnh báo Moscow về việc mật vụ Mỹ nghe lén đường dây điện thoại ở Berlin trong Chiến dịch Vàng, họ vẫn để chiến dịch này tiếp tục thay vì mạo hiểm làm lộ vỏ bọc của y. Y được điều đến Berlin, nơi y có thể bóc trần nhiều đặc vụ Anh và Mỹ, cũng như giúp xác định danh tính Pyotr Popov, người của CIA cài vào GRU. Blake sau này thừa nhận rằng y không biết chính xác mình đã giao nộp những gì cho KGB “vì khối lượng quá lớn”.
Theo kết quả thẩm vấn của CIA đối với Goleniewski sau khi anh đào tẩu, rõ ràng Blake là đặc vụ Liên Xô, và y đã bị bắt vào tháng 4 năm 1961 khi được triệu tập trở lại London từ một khóa đào tạo ở Lebanon. Phản ứng của J. Edgar Hoover trước tin tức này là một sự thấu hiểu khác thường: ‘Rốt cuộc, chính Chúa Kitô đã tìm thấy một kẻ phản bội trong nhóm nhỏ gồm 12 tông đồ của Người.’ Bị kết án 42 năm tù, Blake đã trốn thoát khỏi nhà tù Wormwood Scrubs vào năm 1966 và chạy trốn sang Liên Xô, nơi y được cựu giám đốc KGB Vladimir Putin trao tặng Huân chương Hữu nghị vào năm 2007. Vào thời điểm đó, Blake vẫn đang đóng vai trò tích cực trong các hoạt động của cơ quan mật vụ, theo lời người đứng đầu SVR của Nga, cơ quan kế thừa KGB.
Lời khai của Goleniewski cũng là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Heinz Felfe trong BND; y bị bắt vào tháng 10 năm 1961 và cuối cùng bị kết án 15 năm lao động khổ sai. Tuy nhiên, di sản của Felfe là phần lớn hoạt động phản gián của Tây Đức trong thập kỷ trước đó phải bị coi là đáng ngờ, làm tổn hại đến danh tiếng mà Reinhard Gehlen đã dày công gầy dựng vì ủng hộ phán đoán của chính cơ quan này.
Bản thân kẻ đào tẩu cũng bắt đầu mất uy tín khi hắn ta bắt đầu khẳng định mình là Thái tử Sa hoàng Alexei Nikolaevich, người mà hầu hết đều tin rằng đã bị sát hại cùng với toàn bộ hoàng gia Nga vào năm 1917 tại Ekaterinburg. Goleniewski khẳng định hắn khai ngày sinh là 1922 để giải thích tại sao trông hắn trẻ như vậy (Thái tử sinh năm 1904) vì hắn mắc bệnh máu khó đông. Không có gì ngạc nhiên khi CIA đã loại hắn khỏi danh sách nhân viên vào năm 1964, một năm sau khi hắn bắt đầu công khai những tuyên bố này.
Trong khi KGB mất dần nhân sự, CIA dường như ngày càng hùng mạnh. Cái chết của nhà lãnh đạo Congo Patrice Lumumba vào tháng 1 năm 1961 chắc chắn đến vào thời điểm thuận lợi cho CIA, mặc dù họ không phải là người cuối cùng phải chịu trách nhiệm về cái chết của ông.
Lumumba là thủ tướng đầu tiên của Cộng hòa Congo độc lập sau khi nước này giành được độc lập từ Bỉ, nhưng bản chất hỗn loạn của chính quyền ông, cùng với cuộc nội chiến nhanh chóng nổ ra ở đó, đã gây ra sự hoảng loạn ở Washington. Giám đốc CIA Allen Dulles lưu ý rằng “Chúng ta đang đối mặt với một người giống Castro hoặc tệ hơn. Lumumba đã bị Cộng sản mua chuộc”, và trong một bản ghi nhớ đã viết, “Ở cấp cao, kết luận rõ ràng là nếu Lumumba tiếp tục nắm giữ chức vụ cao, hậu quả tất yếu sẽ gây ra những tác động thảm khốc… đối với lợi ích của thế giới tự do nói chung. Do đó, chúng tôi kết luận rằng việc loại bỏ ông ta phải là một mục tiêu cấp bách và hàng đầu.”
Trong khi CIA đang hỗ trợ phe của Joseph Mobutu trong cuộc nội chiến, thì khoa học gia cầm đầu của MKULTRA, Tiến sĩ Sidney Gottlieb, xuất hiện. Ông được cử đến Leopoldville với kế hoạch sắp xếp vụ ám sát Lumumba bằng kem đánh răng tẩm độc. Trưởng trạm CIA, Lawrence Devlin, tuyên bố rằng ông ta đã từ chối thực hiện chỉ thị và sau khi Lumumba bị lực lượng đối lập bắt giữ vào tháng 12, ông ta đã ném chất độc xuống sông Congo. Một số tài liệu được giải mật cho thấy các đặc vụ CIA đã hỗ trợ việc phi tang thi thể Lumumba sau khi ông bị hành quyết vào ngày 17 tháng 1 năm 1961 – thi thể của ông chắc chắn không bao giờ được tìm thấy – nhưng sau đó Devlin phủ nhận mọi sự liên quan của CIA, ngay cả sau khi người Bỉ thừa nhận vai trò của họ.
Những năm đầu của thập niên 60 bị chi phối bởi mối quan hệ giữa Tổng thống Hoa Kỳ mới đắc cử John F. Kennedy và người đồng cấp Liên Xô của ông, Nikita Khruschev, khi thế giới đang tiến gần đến bờ vực chiến tranh trong thời kỳ đó nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào kể từ năm 1945. Mặc dù xe tăng Nga và Mỹ đã đối đầu trực diện tại Trạm kiểm soát Charlie ở Berlin trong 16 giờ nguy hiểm vào ngày 22 tháng 10 năm 1961, ngay sau khi xây dựng bức tường chia cắt Đông và Tây Berlin, điểm nóng thực sự lại là Cuba.
Vấn đề ở đó bắt đầu khi Fidel Castro lên nắm quyền ở quốc đảo Caribe này vào năm 1959. Castro dường như là một sự cải thiện so với người lãnh đạo tiền nhiệm, nhà độc tài Fulgencio Batista. Ông cố gắng trấn an người Mỹ về thiện chí của mình: “Tôi biết thế giới nghĩ gì về chúng tôi, chúng tôi là những người Cộng sản, và dĩ nhiên tôi đã nói rất rõ ràng rằng chúng tôi không phải là những người Cộng sản; rất rõ ràng.” Tuy nhiên, người ta nhanh chóng nhận ra rằng ông sẽ rất dễ trở thành cái gai trong mắt nước Mỹ, đặc biệt là khi xét đến việc đất nước này ở sát bên bờ biển Hoa Kỳ.
KGB bắt đầu làm việc với giám đốc tình báo của Castro từ tháng 7 năm 1959, cử hơn một trăm cố vấn đến giúp cải tổ các cơ quan an ninh và tình báo. Cuối năm đó, Castro bắt đầu quốc hữu hóa các đồn điền của Mỹ cũng như đóng cửa các khu nhượng quyền hốt bạc do Mafia điều hành. Tháng 3 năm 1960, Tổng thống Eisenhower phê duyệt một chương trình hành động chống lại chính phủ Cuba, mục đích được nêu rõ là “thay thế chế độ Castro bằng một chế độ tận tụy hơn với lợi ích thực sự của nhân dân Cuba và được Hoa Kỳ chấp nhận hơn, theo cách thức tránh mọi hình thức can thiệp của Hoa Kỳ”. Những người Cuba chống Castro di tản đến Florida được chiêu mộ cho mục đích này và bắt đầu được huấn luyện.
Lãnh đạo Liên Xô bắt đầu công khai ủng hộ Castro: ‘Chúng tôi sẽ làm mọi cách để hỗ trợ Cuba trong cuộc đấu tranh của họ”, Khrushchev tuyên bố vào tháng 7 năm 1960, và nói thêm một cách đầy đe dọa, “Giờ đây, Hoa Kỳ không còn ở xa xôi như trước nữa”. Nghi ngờ người Mỹ có thể sớm bị trục xuất khỏi hòn đảo này, ba sĩ quan kỹ thuật của CIA đã được cử đến Cuba vào tháng 8 để cài thiết bị giám sát vào một đại sứ quán của kẻ thù, nhưng khi điều đó tỏ ra bất khả thi, họ đã bị bắt trong nỗ lực cài thiết bị nghe lén vào Thông tấn xã Trung Hoa Mới. Họ đã bị giam giữ trong các nhà tù Cuba trong suốt những sự kiện kịch tính của ba năm tiếp theo.
John F. Kennedy đã kế nhiệm Eisenhower vào tháng 1 năm 1961. Tổng thống mới được thông báo về âm mưu chống lại Castro và kế hoạch thúc đẩy thay đổi chế độ ở Cuba. Bản tóm tắt cho rằng “Moscow đã dựng lên một nhà cầm quyền bù nhìn… cổ súy cho bất đồng chính kiến ở Nicaragua, Haiti, Panama và Cộng hòa Dominica nhằm bao vây miền Nam Hoa Kỳ bằng các nước cộng sản vệ tinh. Được khích lệ bởi những thay đổi chế độ thành công trước đó ở Iran và Guatemala, CIA dự định đưa những người lưu vong được huấn luyện của họ đổ bộ gần Trinidad ở miền Nam Cuba, gần các nhóm chống Castro, và gây ra một cuộc nổi dậy.
Vị tổng thống mới không mấy mặn mà. Kennedy không muốn nhiệm kỳ của mình bắt đầu bằng một cuộc xâm lược do Mỹ bảo trợ, và ông khăng khăng yêu cầu những người lưu vong đổ bộ lên Vịnh Con Heo, cách mục tiêu ban đầu của họ 160 km. Ông cũng giảm bớt sự hỗ trợ trên không mà CIA dự định cung cấp, loại bỏ cuộc không kích đầu tiên và hoãn cuộc không kích thứ hai cho đến khi rõ ràng là cuộc xâm lược đã thành công. Phó Giám đốc CIA Richard Bissell cảm thấy điều này sẽ gây nguy hiểm nghiêm trọng cho kết quả, nhưng tay ông ta bị trói.
Bắt đầu vào ngày 17 tháng 4 năm 1961, cuộc xâm lược đã thất bại thảm hại, với hàng trăm người Cuba lưu vong bị giết hoặc bị bắt, và hàng ngàn người ở cả hai bên bị thương. Kennedy đã công khai nhận toàn bộ trách nhiệm: “Có một câu nói cũ rằng chiến thắng có một trăm người cha và thất bại là một đứa trẻ mồ côi… Điều quan trọng chỉ là một sự thật, tôi là viên chức chịu trách nhiệm của chính phủ.” Đằng sau hậu trường, ông đã chấp nhận đơn từ chức của Allen Dulles khỏi vị trí Giám đốc CIA, và Richard Bissell cũng từ chức sau khi bị giáng chức. Một báo cáo nội bộ của CIA đã chỉ trích Cơ quan này vì “vượt quá khả năng của mình trong việc phát triển dự án từ hỗ trợ du kích sang hành động vũ trang công khai mà không có bất kỳ sự phản biện hợp lý nào” và “không đánh giá thực tế các rủi ro và truyền đạt đầy đủ thông tin và quyết định trong nội bộ và với các người đứng đầu khác trong chính quyền.’
Điều này không có nghĩa là mong muốn của chính quyền Hoa Kỳ muốn lật đổ Castro khỏi quyền lực đã biến mất, và vào tháng 11 năm 1961, Kennedy đã phê duyệt Chiến dịch Mongoose, với mục tiêu “giúp Cuba lật đổ chế độ Cộng sản”, thông qua “một cuộc nổi dậy có thể diễn ra ở Cuba vào tháng 10 năm 1962”. Chiến dịch này được chỉ đạo bởi Bộ trưởng Tư pháp của chính quyền, Robert Kennedy, em trai của Kennedy.
Trong vài năm tiếp theo, CIA đã vạch ra nhiều kế hoạch ám sát Fidel Castro, phần lớn trong số đó tập trung vào những điếu xì gà đặc trưng của nhà độc tài. Có những lúc, họ cân nhắc việc tẩm thuốc gây ảo giác, thuốc độc, thuốc tẩy lông và thậm chí cả thuốc nổ vào xì gà! Để che giấu dấu vết, cơ quan này đã cân nhắc việc liên minh với Mafia: các tài liệu được giải mật vào năm 2007 kể lại các cuộc họp giữa một nhân viên CIA, Robert Maheu, và các trùm mafia Momo Salvatore Giancana và Santos Trafficante, với việc Giancana gợi ý rằng ‘một loại thuốc mạnh nào đó có thể bỏ vào đồ ăn hoặc đồ uống của Castro sẽ hiệu quả hơn nhiều’.
NSA đã tăng cường đáng kể hoạt động giám sát Cuba, tạo ra gần 6.000 báo cáo trong sáu tháng kể từ tháng 4 năm 1962. Tuy nhiên, như chính lịch sử của NSA đã chỉ ra, các sự kiện mùa thu năm đó “đánh dấu thất bại nghiêm trọng nhất của SIGINT trong việc cảnh báo các nhà lãnh đạo quốc gia kể từ Thế chiến II”. Tương tự, chúng cũng chứng minh rằng một người ở đúng vị trí có thể thay đổi đáng kể tiến trình lịch sử thế giới.
Người đó là Đại tá Oleg Vladimirovich Penkovsky, một sĩ quan GRU đã tích cực làm gián điệp chung cho CIA và MI6 từ mùa xuân năm 1961 cho đến khi ông bị bắt vào thời đỉnh điểm của Khủng hoảng Tên lửa Cuba vào tháng 10 năm 1962. Penkovsky đã tiếp cận các nhà chức trách Hoa Kỳ tại Moscow sau phiên tòa xét xử Powers, nhưng những lời đề nghị của ông đã bị từ chối. Penkovsky cuối cùng đã được một doanh nhân người Anh có liên hệ với MI6, Greville Wynne, đưa vào nhóm. Tài liệu mà Penkovsky có thể cung cấp đã giúp cả tình báo Anh và Hoa Kỳ hiểu rõ hơn về hoạt động của KGB và GRU, và mối quan hệ đôi khi căng thẳng giữa hai bên. Ông cũng đã chuyển thông tin kỹ thuật về cỗ máy chiến tranh của Liên Xô, đặc biệt là liên quan đến khả năng phóng tên lửa và rocket của họ, và cho rằng Thủ tướng Khruschev có thể không sẵn sàng đẩy thế giới đến chiến tranh hạt nhân như lời hùng biện của ông có thể gợi ý.
Penkovsky đã đến thăm London với một phái đoàn thương mại vào mùa hè năm 1961 và trở về Liên Xô vào mùa thu năm đó. KGB bắt đầu nghi ngờ có sự rò rỉ vào mùa xuân năm 1962 sau khi quan sát thấy Janet Chisholm, vợ của trưởng trạm Anh, nhận một gói hàng từ một người đàn ông không rõ danh tính. Một cuộc theo dõi tại các đại sứ quán phương Tây cho thấy Penkovsky đã đến dự một buổi tiếp tân của đại sứ quán Anh mà một trong những người bạn nhậu của Penkovsky, người đứng đầu GRU và cựu giám đốc KGB, Tướng Serov sau này đã cố gắng bào chữa. Sau đó, vào tháng 7, ông ta được nhìn thấy đang đến thăm Wynne trong phòng khách sạn của ông ta và thực hiện các biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn để tránh bị nghe lén (bật vòi nước và radio). Căn hộ của Penkovsky đã bị lục soát và gắn thiết bị nghe lén.
Vào thời điểm này, tình hình ở Cuba đã leo thang. Khruschev đã lợi dụng việc Kennedy không phản ứng trong cuộc khủng hoảng Vịnh con Heo, không gửi quân đến hỗ trợ phe Cuba lưu vong khi tình hình rõ ràng đang diễn biến xấu cho thấy ông ta thiếu một lý do vững chắc. Do đó, Khruschev quyết định Liên Xô sẽ lắp đặt tên lửa ở Cuba, và Kennedy sẽ phải chấp nhận điều đó như một sự đã rồi. Các nhà khoa học Liên Xô đã đến Cuba dưới vỏ bọc của một phái đoàn nông nghiệp và bắt đầu xây dựng các địa điểm.
Tân Giám đốc CIA John A. McCone nghi ngờ hoạt động của Liên Xô, vốn bị phát hiện qua việc nghe lén tín hiệu của NSA cũng như các đặc vụ trên thực địa. Điều này bao gồm báo cáo từ Thyraud de Vosjoli, trưởng trạm tình báo Pháp tại Washington, người đã đến thăm thủ đô Havana của Cuba, và lưu ý rằng từ bốn đến sáu nghìn quân nhân Liên Xô đã đến đó kể từ đầu tháng 7. Điều này đã thúc đẩy việc tiến hành một nhiệm vụ của U-2 xác nhận rằng Liên Xô đã đưa tên lửa đất đối không (SAM) đến hòn đảo này. Thật không may, việc Bộ Ngoại giao tiết lộ thông tin cho tờ Washington Post đã khiến Nga phải im lặng, làm suy yếu nghiêm trọng khả năng thu thập thêm thông tin của NSA về hoạt động của họ đồng nghĩa với việc NSA đã không phát hiện ra sự xuất hiện sắp tới của tên lửa đạn đạo hạt nhân trên các tàu buôn đang hướng về Cuba. Dựa trên thông tin họ có, họ tin rằng Khruschev đã nói sự thật: ‘Liên Xô đang cung cấp cho Cuba vũ khí phòng thủ hoàn toàn nhằm bảo vệ lợi ích của cách mạng Cuba’.
Tất cả đã thay đổi vào ngày 14 tháng 10 khi chuyến bay do thám đầu tiên qua hòn đảo sau sáu tuần cho thấy
sự hiện diện của tên lửa đạn đạo Liên Xô, vốn đã đến đây hơn một tháng trước đó. Tổng thống Kennedy đã được báo cáo tóm tắt vào sáng sớm hôm sau, và trong vài ngày tiếp theo, cuộc chơi tối thượng bên bờ vực chiến tranh giữa ông và Nikita Khruschev đã diễn ra. Thông tin mà Penkovsky cung cấp đã giúp xác định các địa điểm tên lửa và giúp hiểu rõ tính cách của Khrushchev.
Các đặc vụ khác cũng tham gia vào cuộc khủng hoảng. Một đặc vụ KGB ở Washington, nhà báo Georgi Bolshakov, đã xây dựng mối quan hệ với Tổng Chưởng lý Robert Kennedy, và điều này đã được Khruschev lợi dụng như một phần trong nỗ lực đánh úp người Mỹ. Tổng thống Kennedy đã liên lạc với Khrushchev qua đường dây nóng riêng, và cảm thấy mình đã bị phản bội khi sự thật về tên lửa được phơi bày.
Khi cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm, với việc Kennedy chuẩn bị cho một cuộc xâm lược Cuba, điều gần như chắc chắn sẽ dẫn đến chiến tranh hạt nhân nếu Liên Xô phản ứng quân sự, Đặc vụ ngoại giao KGB tại Washington, Aleksandr Feklisov, đã gọi cho một phóng viên của ABC, John Scali, người mà ông biết là có quyền tiếp cận Nhà Trắng. Ông đã truyền đạt một thông điệp: nếu Liên Xô gỡ bỏ tên lửa của họ, liệu Hoa Kỳ có cam kết không xâm lược Cuba không? Đó là động thái đầu tiên trong các cuộc đàm phán sẽ đưa cuộc khủng hoảng đến một giải pháp, với việc Khrushchev gửi một lá thư cá nhân ngay sau đó với những lời lẽ tương tự, chính thức bắt đầu ván cờ tàn (mặc dù là một ván cờ tàn còn rất gần một cách hiểm nghèo đến việc phạm sai lầm, khi một tên lửa đất đối không của Liên Xô bắn hạ một máy bay của Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ đã thả bom chìm một tàu ngầm Liên Xô đang mang theo một đầu đạn hạt nhân chiến thuật).
Penkovsky và Greville Wynne không chứng kiến việc giải quyết cuộc khủng hoảng như những con người tự do. Bị phát hiện đang xử lý một hộ chiếu giả tại căn hộ của mình, Penkovsky đã bị bắt; còn Wynne bị túm tại Budapest vài ngày sau đó. Cả hai đều bị đưa ra xét xử; Penkovsky bị bắn và Wynne cuối cùng được trao đổi với Gordon Lonsdale vào năm 1964. Bạn của Penkovsky, Tướng Serov, bị sa thải khỏi GRU và sau đó tự sát ngay sau đó.
Đỉnh điểm của vụ bê bối vào cuối năm 1962 là vụ bê bối dẫn đến việc Bộ trưởng Chiến tranh Anh John Profumo từ chức vào tháng 6 năm sau. Vụ việc liên quan đến tùy viên hải quân Liên Xô Yevgeny Ivanov, người đã có thời gian ngủ với cùng một cô ả gái gọi, Christine Keeler, như Profumo. Có những quan ngại là Tiến sĩ Stephen Ward, kẻ đóng vai trò là “môi giới” của Keeler, đã thao túng một tình huống khiến Profumo, sau khi chăn gói, có thể thủ thỉ về bí mật hạt nhân với Keeler, điều này có thể hữu ích cho Liên Xô. Khi bị chất vấn về điều này, Profumo ban đầu phủ nhận có bất kỳ sự không đúng mực nào trong mối quan hệ của mình với Keeler, nhưng sau đó thừa nhận đã nói dối Hạ viện, và theo quy tắc ứng xử phổ biến lúc bấy giờ, ông đã từ chức.
Tình hình trở nên phức tạp hơn bởi hành vi của Ward. Ban đầu có vẻ như y đang hành động cho Liên Xô, nhưng khi MI5 cảnh báo Profumo và Ivanov, và Profumo chấm dứt mối quan hệ với Keeler, Ward đã đề nghị sẽ cố gắng thuyết phục Ivanov đào thoát khỏi Liên Xô. Chắc chắn Ward đã được sử dụng làm kênh liên lạc bí mật giữa Bộ Ngoại giao Anh và Moscow thông qua Ivanov. Nhưng theo Keeler, Ward làm việc cho MI5, phát hiện những nhà ngoại giao nước ngoài có hành vi tình dục có thể khiến họ bị khai thác. Lịch sử chính thức của MI5 phủ nhận điều này.
Sau khi Profumo từ chức, Ward bị xét xử vì tội sống dựa vào thu nhập bất chính; y được tìm thấy bất tỉnh trong căn hộ trước khi bản án có tội được tuyên – những người theo thuyết âm mưu tin rằng y có thể đã bị sát hại bởi một trong những cơ quan tình báo mà y có thể tiết lộ bí mật để đổi lấy một bản án nhẹ hơn. Một nhóm công tác chung giữa MI5 và MI6 đã xem xét “khả năng Cơ quan Tình báo Nga đã nhúng tay vào việc dàn dựng Vụ án Profumo nhằm làm mất uy tín chính phủ của Nữ hoàng”. Vào thời điểm báo cáo phủ nhận việc này, Thủ tướng Harold Macmillan đã từ chức vì lý do sức khỏe.
Sự đào tẩu của Anatoliy Golitsyn vào tháng 12 năm 1961 ban đầu trông giống như thể là một kho báu cho lực lượng phản gián phương Tây, như lời khai của Mikhail Goleniewski hồi đầu năm đó. Chắc chắn ông ta đã cung cấp thông tin vạch trần đặc vụ KGB tại Pháp, Georges Pâques, và chấm dứt sự nghiệp của Elsie Mai, một người Phần Lan đã xâm nhập lãnh sự quán Anh tại Helsinki, và John Vassall, điệp viên trong Bộ Hải quân Anh. Ông ta cũng đưa ra thêm bằng chứng chứng minh sự liên quan của Kim Philby với tư cách là đặc vụ Liên Xô. Đối mặt với điều này, Philby cuối cùng đã đào tẩu sang Moscow vào năm 1963, nhưng vấn đề lớn nhất trong hầu hết các lời khẳng định của ông ta là, không giống như những người đào thoát trước đây, ông ta không mang theo bằng chứng có thể kiểm tra được. Thông thường, kiến thức của ông ta về các hoạt động rất mơ hồ – chẳng hạn như ở Pháp, nơi ông ta tuyên bố rằng có một mạng lưới điệp viên có mật danh Sapphire hoạt động trong
Cơ quan tình báo Pháp, SDECE, và ông dường như tin rằng ảnh hưởng của KGB đã lan rộng khắp mọi nơi, đến mức ông không tin tưởng bất kỳ người thẩm vấn nào có thể nói chuyện với ông bằng tiếng Nga, và khẳng định rằng Trung tâm Moscow có một điệp viên chủ chốt trong CIA.
KGB chắc chắn đã xem xét nghiêm túc việc đào thoát của ông: một tháng sau, họ gửi lệnh đến 54 trạm trên toàn thế giới về các hành động cần thiết để giảm thiểu thiệt hại, và vào tháng 11 năm 1962, lệnh ám sát ông đã được ban hành. Một số người trong CIA, bao gồm James Jesus Angleton, giám đốc phản gián đã thẩm vấn Golitsyn khi ông đến Hoa Kỳ, đã xem xét rất nghiêm túc những lời buộc tội của ông và gọi ông là “kẻ đào tẩu giá trị nhất từng đến được phương Tây”. Những người khác thì hoài nghi hơn nhiều.
Những giả thuyết của Golitsyn về hoạt động của KGB ngày càng trở nên hoang đường: ông cáo buộc lãnh đạo Đảng Lao động Anh, sau này là Thủ tướng, Harold Wilson, làm việc cho Trung tâm Moscow, và tuyên bố rằng người tiền nhiệm của ông, Hugh Gaitskell, đã bị KGB đầu độc để đảm bảo vị trí cho Wilson. Sĩ quan MI5 Peter Wright là một trong những người tin rằng những tuyên bố của Golitsyn về Wilson có phần đúng.
Tình hình liên quan đến Golitsyn trở nên phức tạp hơn bởi sự đào thoát của một người Nga khác, Yuri Nosenko, người đã làm việc cho Cơ quan An ninh Quốc gia Liên Xô từ năm 1953. Sau khi được điều động sang Anh, Nosenko bắt đầu nghĩ đến việc đầu thú, và vào năm 1960 đã cố gắng liên lạc với một sĩ quan tình báo phương Tây nhưng không thành công. Cuối cùng, vào năm 1962, anh được CIA tuyển dụng tại Geneva. Thông tin của anh cũng giúp xác định John Vassall và Robert Johnson là các đặc vụ KGB và anh đã cung cấp một số thông tin về số phận của Pyotr Popov, cũng như tiết lộ sự tồn tại của nhiều thiết bị nghe lén được cài vào Đại sứ quán Hoa Kỳ trong quá trình xây dựng tòa nhà này vào năm 1953.
Nosenko đào thoát vào tháng 2 năm 1964 vì lo sợ bị tình nghi. Không may cho anh, thông tin của anh không khớp với thông tin của Golitsyn. Kẻ đào thoát trước đó đã nói rằng KGB sẽ cử những kẻ đào thoát giả mạo sang để cố gắng làm mất uy tín lời khai của anh, và đó chắc chắn là điều Nosenko đang làm. Nosenko kiên quyết rằng KGB không có nội gián trong CIA, bất kể Golitsyn có nói gì đi nữa.
Tổng thống Kennedy đã bị ám sát vào tháng 11 năm 1963, và một số người trong CIA tin rằng Liên Xô có liên quan nhưng Nosenko nói rõ rằng Lee Harvey Oswald, kẻ hầu hết tin tưởng là sát thủ, có thể đã đi đến Nga và bị điều tra trong thời gian ở đó, nhưng hắn không phải là điệp viên KGB. Điều này có thể đã dẫn đến sự đối xử khắc nghiệt mà Nosenko phải chịu, như Robert Baer, sĩ quan CIA phụ trách vụ án, đã nhận xét: “Khi Nosenko đưa ra một phiên bản về Lee Harvey Oswald và vụ ám sát Kennedy không phù hợp với quan điểm của CIA, anh đã bị biệt giam tại trại trong ba năm.” Sự đối xử này khắc nghiệt đến mức sau này, Giám đốc CIA Stansfield Turner, đã phải công khai xin lỗi vào năm 1978: “Sự đối xử quá khắc nghiệt đối với Nosenko đã vượt quá giới hạn của sự đúng mực hay phán đoán đúng đắn.”
Nosenko đã bị thẩm vấn trong ba năm và đã trượt hai bài kiểm tra máy phát hiện nói dối trong thời gian này (mặc dù anh khẳng định rằng một bác sĩ đã đưa một ngón tay vào hậu môn của anh để kích thích huyết áp của mình trước lần kiểm tra thứ hai để đưa ra kết quả đo sai). Tuy nhiên, sau khi thay đổi người thẩm vấn, anh được thả vào tháng 4 năm 1969.
Hậu quả của hai vụ đào thoát là cả hai người đều không được tin tưởng hoàn toàn. Cả hai đều đã cung cấp thông tin quan trọng về các đặc vụ Liên Xô ở phương Tây, nhưng vẫn còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp. Một trong những giải pháp cho vấn đề này là việc thành lập Ủy ban Thông suốt. Đây là một nhóm gồm các sĩ quan MI5 và MI6, được thành lập vào tháng 11 năm 1964 để điều tra tất cả các cáo buộc xâm nhập vào các cơ quan an ninh Anh. Ủy ban đã họp trong bảy năm và đưa ra danh sách 200 trường hợp có thể có sự xâm nhập của Liên Xô. Trong số này có Dick Ellis, một nhân viên của M16, người đã bị tình nghi sau khi Burgess và Maclean đào tẩu và nghỉ hưu với tư cách là một đặc vụ tích cực vào năm 1953. Các bằng chứng được phát hiện dường như chỉ ra rằng Ellis từng là điệp viên cho tình báo Đức Quốc xã trong Thế chiến thứ hai, cho GRU và sau đó là KGB. Ellis cuối cùng thừa nhận đã làm gián điệp cho cả hai cơ quan này vào đầu chiến tranh, nhưng sau đó lại nói dối về mối liên hệ của mình với Kim Philby, khiến ủy ban kết luận rằng ông từng là đặc vụ Liên Xô trong khoảng ba mươi năm.
Peter Wright là chủ tịch Ủy ban Thông suốt và dành cả cuộc đời để theo dõi Roger Hollis, Tổng Giám đốc MI5 từ năm 1956 đến năm 1965, người mà ông tin là một điệp viên Liên Xô. Ban đầu, Wright kết luận rằng Phó Tổng Giám đốc Graham Mitchell là đặc vụ Liên Xô, dựa trên những bằng chứng gián tiếp như việc bỏ bụi vào ngăn kéo bàn làm việc của ông ta. CIA và FBI, cũng như
Cảnh sát Hoàng gia Canada (cơ quan xử lý tình báo ở Canada trước khi thành lập CSIS) đều bày tỏ sự nghi ngờ, và cuối cùng Mitchell đã được minh oan vào năm 1970.
Tuy nhiên, hành động của Roger Hollis khiến ông bị nghi ngờ: ông đã ngăn cản cuộc điều tra về John Vassall; các báo cáo của ông trong vụ Profumo không được biên soạn đầy đủ. Năm 1964, Anthony Blunt cuối cùng đã thú nhận vai trò của mình trong đường dây gián điệp Philby/Burgess/Maclean để đổi lấy quyền miễn trừ truy tố, và Wright tin rằng có Người Thứ Năm đã bảo vệ những người khác. (Danh tính của Người Thứ Năm là John Cairncross mãi đến năm 1990 mới được tiết lộ.) Wright đã khiến mình trở nên cực kỳ thù ghét với những cáo buộc, thừa nhận rằng “Người ta đã bàn tán ủy ban này là Gestapo”.
Sau khi ông nghỉ hưu ở MI5, Wright đã viết cuốn tự truyện Spycatcher, trong đó ông công khai những cáo buộc của mình về Hollis. Wright tuyên bố rằng khi Hollis được cử đi thẩm vấn Igor Gouzenko vào năm 1945, ông đã cải trang để phòng trường hợp Gouzenko nhận ra ông là đặc vụ Liên Xô, và Hollis sau đó đã cố gắng thuyết phục Gouzenko không đưa ra thêm cáo buộc nào nữa. Dựa trên bằng chứng không chắc chắn này, ông tuyên bố Hollis là kẻ phản quốc.
Giờ đây, với quyền truy cập vào hồ sơ KGB, nhờ Oleg Gordievsky, kẻ đào tẩu, chúng ta biết rằng George Blake là điệp viên chủ chốt cuối cùng mà Trung tâm Moscow có trong M15 hoặc MI6, nhưng vào thời điểm đó, điều có thể được coi là sự bất tài đã được coi là một thứ tồi tệ hơn nhiều. Ủy ban Trend, do Lord Trend đứng đầu, đã điều tra Hollis và sự xâm nhập của Liên Xô vào MI5 trong những năm 1970, và báo cáo rằng cáo buộc chống lại Hollis là không thuyết phục. Một báo cáo nội bộ của MI5 năm 1988 lưu ý rằng niềm tin vào một kẻ phản bội đã tồn tại quá lâu như vậy là do “sự thiếu chính xác về mặt trí tuệ ở một số điều tra viên hàng đầu… sự thiếu trung thực về phần Wright, người đã không ngần ngại bịa ra bằng chứng khi không có bằng chứng nào tồn tại và ảnh hưởng tai hại của Golitsyn, người đã nhìn nhận vào năm 1963 rằng mình đã khai tất cả những gì mình biết và bắt đầu phát triển lý thuyết về sự lừa dối quy mô lớn và có tổ chức của Liên Xô (“thông tin sai lệch”) được hỗ trợ bởi sự thâm nhập cấp cao vào tất cả các cơ quan tình báo và an ninh phương Tây.” Kết hợp điều đó với niềm tin mạnh mẽ rằng Trung tâm Moscow hiệu quả hơn nhiều so với thực tế, và sân khấu đã được dựng lên cho các cuộc săn lùng phù thủy. Như Allen Dulles đã viết vào năm 1963: “Tình báo Liên Xô quá tự tin, quá phức tạp và được đánh giá quá cao.”
7
THỐI NÁT CỦA QUYỀN LỰC
Cuộc xâm lược Iraq năm 2003 không phải là lần đầu tiên Hoa Kỳ tham chiến dựa trên thông tin không chính xác do các cơ quan tình báo cung cấp cho chính quyền. Đôi khi, các cơ quan tình báo chọn cách không gửi cho Nhà Trắng những thông tin mà họ biết sẽ khiến tổng thống tức giận. Sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã không diễn ra theo cách ban đầu được trình bày với Tổng thống Johnson, mà dựa vào đó ông đã đưa ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ ngày 7 tháng 8 năm 1964.
Từ năm 1960 đến tháng 7 năm 1962, CIA đã cố gắng gửi các đội đặc vụ miền Nam được huấn luyện vào miền Bắc; nhưng đều không thành công. Sau đó, trách nhiệm chống lại Bắc Việt được chuyển giao cho Bộ Quốc phòng, nơi bắt đầu Chiến dịch OPLAN 34-63, một loạt các cuộc tấn công vào bờ biển Bắc Việt vào mùa thu năm 1963, và sau đó được tinh chỉnh thành Chiến dịch OPLAN 34A vào tháng 12 năm đó (mặc dù dường như không ai nghĩ đến việc thông báo cho bộ phận châu Á của NSA về chiến dịch này).
Tàu USS Maddox được trang bị cho nhiệm vụ tình báo tín hiệu và được điều đến Vịnh Bắc Bộ vào ngày 28 tháng 7 năm 1964, sau khi được chỉ huy nhóm tình báo tín hiệu tại Đài Loan trấn an rằng tàu của họ sẽ không gặp nguy hiểm. Tuy nhiên, một cuộc đột kích OPLAN34A diễn ra vào ngày 31 tháng 7 đã gây khó chịu nghiêm trọng cho Bắc Việt – và họ đã đáp trả bằng cách gửi ba tàu phóng lôi theo sau tàu Maddox. Tàu Maddox đã được NSA cảnh báo về cuộc giao tranh sắp xảy ra thông qua việc chặn bắt các lệnh của Bắc Việt; khi các tàu này đến gần, tàu Mỹ đã bắn cảnh cáo trước khi phía Bắc Việt nổ súng. Kết thúc trận chiến, một tàu phóng lôi bị đánh chìm, và hai tàu còn lại bị hư hại.
Tổng thống Johnson được báo cáo tóm tắt về cuộc tấn công vào ngày hôm sau, và quyết định giữ bình tĩnh: ông ra lệnh cho tàu Maddox tiếp tục làm nhiệm vụ, mặc dù được bảo vệ bởi một tàu khu trục, Turner Joy, và yểm trợ trên không. Các cuộc tấn công OPLAN34A tiếp theo diễn ra vào ngày hôm sau, và SIGINT cho rằng Bắc Việt Nam sẽ lại đáp trả.
Vào ngày 4 tháng 8, mọi thứ dường như chỉ ra rằng tàu Maddox sắp bị tấn công lần nữa. Các tàu tuần tra của Bắc Việt đã bám theo họ trong một thời gian.
Vào lúc 9 giờ 30 tối hôm đó, họ tin rằng mình đang bị theo dõi bởi hai tàu mặt nước và ba phi cơ. Turner Joy và Maddox đã nổ súng vào một tín hiệu radar lúc 9 giờ 30 tối hôm đó, và dường như họ đã giao chiến ác liệt với khoảng sáu tàu tuần tra.
Nhưng trong khi tin tức đó làm Washington phấn khích và các cuộc không kích được chuẩn bị, thì tại Vịnh Bắc Bộ, các thuyền trưởng trên tàu Turner Joy và Maddox đang xem xét lại diễn biến trận đánh và nhận ra rằng, như thuyền trưởng Herrick đã nói, “Chắc chắn cuộc phục kích ban đầu [ngày 2 tháng 8] là có thật. Chi tiết về diễn biến tiếp theo lại cho thấy một bức tranh khó hiểu.” Tại Washington, Robert McNamara, Bộ trưởng Quốc phòng, và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã kết luận rằng một cuộc tấn công đã diễn ra dựa trên hai thông tin tình báo bị NSA chặn lại, một thông tin cho biết một tàu Bắc Việt đã bắn vào máy bay Mỹ; thông tin kia cho biết hai máy bay bị bắn rơi, và hai tàu Bắc Việt Nam bị chìm. Như chính lịch sử của NSA đã giải thích, ‘Việc dựa vào SIGINT thậm chí còn đi đến mức bác bỏ cả vị chỉ huy tại hiện trường. Đối với Tổng thống và các cố vấn của ông rõ ràng là đã có một cuộc tấn công thực sự – họ có các thông điệp của Bắc Việt để chứng minh điều đó.’ Tuy nhiên, có một vấn đề nghiêm trọng. Các thông điệp được ghi nhận tại thời điểm giữa chính ‘trận chiến’ – nhưng lại đề cập đến phản ứng của Bắc Việt đối với kết cục của nó. Vậy là đủ để bắt đầu có xung đột. (Sau khi xem xét lại, McNamara thừa nhận rằng bằng chứng không đủ mạnh, và cuộc tấn công đã không xảy ra; dựa trên một số bình luận ông đưa ra, Tổng thống Johnson cũng đã nghi ngờ ngay từ đầu.)
Tuy nhiên, có thể điều này là sự lạm dụng của các hoạt động gián điệp, nhưng rõ ràng là chính quyền Johnson cũng đang tìm kiếm một ngòi nổ để bắt đầu cuộc chiến, và như chính NSA đã chỉ ra, ‘Nếu sự cố ngày 4 tháng 8 không xảy ra, thì cũng sẽ có chuyện khác xảy ra.’
Nửa cuối thập niên 1960, phần lớn, là thời kỳ các đặc vụ tham gia Chiến tranh Lạnh tiếp tục công việc của mình. Không có nhiều sự kiện gây ra những thay đổi lớn trong cách thức hoạt động gián điệp đến mức nhiều sử liệu thời kỳ này chỉ đề cập đến Chiến tranh Việt Nam, và những cuộc săn lùng nội gián liên tục trong các cơ quan an ninh như Golitsyn đã tiết lộ, nhưng ít đề cập những việc khác.
Điều này có phần mỉa mai, vì đây là thời đại mà điệp viên đang đi đầu trong văn hóa đại chúng: các bộ phim James Bond, ngày càng dựa trên các tiểu thuyết có
bố cục càng ngày càng lỏng lẻo của Ian Fleming, được phát hành hầu như hàng năm vào thập niên 60.
KGB đã hỗ trợ việc phế truất Nikita Khruschev vào năm 1964 và đưa Leonid Brehznev lên nắm quyền. Shelyepin thấy mình bị gạt ra ngoài lề, với việc Yuri Andropov được thăng chức trùm KGB vào năm 1967. Đối với họ, những năm 1960 là thời kỳ củng cố lại hệ thống, để bù đắp cho việc mất các đường dây gián điệp do những kẻ đào thoát gây ra.
Mặc dù không thể cài đặc vụ vào M15 hay MI6, KGB vẫn hoạt động mạnh mẽ ở Anh trong suốt thập kỷ đó. Một trong những nhân viên hữu ích nhất của họ là Sirioj Husein Abdoolcader, người từng làm thư ký tại phòng cấp phép xe cơ giới của Hội đồng Đại London. Được tuyển dụng vào năm 1967, Abdoolcader có quyền truy cập vào biển số xe của tất cả các xe MI5 và xe của Bộ phận Đặc nhiệm, do đó, bất kỳ hoạt động giám sát nào do cơ quan an ninh thực hiện đối với nhân viên thường trú tại London đều bị vô hiệu hóa ngay lập tức.
Tiếp nối thành công trong việc thâm nhập Dự án Manhattan hai thập kỷ trước, Trung tâm Moscow đã nhắm vào một lực lượng nhân sự mới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, thành lập “Ban giám đốc T” chuyên phụ trách lĩnh vực tình báo mới. Một số đặc vụ có thể đã may mắn thoát nạn nhờ những khó khăn mà cơ quan an ninh gặp phải trong việc chứng minh vụ việc. Tiến sĩ Guiseppe Martelli, người từng làm việc tại Cơ quan Năng lượng Nguyên tử, đã bị bắt vào năm 1963, nhưng mặc dù bị phát hiện mang theo sổ tay ghi chép mã đệm dùng một lần và các công cụ gián điệp khác, MI5 vẫn không thể kết tội, vì họ không thể cung cấp bằng chứng cho thấy ông ta đã liên lạc với những người có thẩm quyền truy cập vào thông tin mật. Hai công nhân tại nhà máy Kodak bị buộc tội bán vật liệu tráng phim cho cơ quan tình báo Đông Đức, HVA, cũng đã được tha bổng vào năm 1965. Có vẻ như một số vụ án tương tự đã không được đưa ra tòa – theo Oleg Gordievsky, hồ sơ của Cục T cho thấy những vụ án bị kết án chỉ là “phần nổi của tảng băng chìm”.
Hai vụ án đã được truy tố thành công trong thập kỷ này tại Anh. Frank Bossard, một quản lý dự án tại Bộ Hàng không, được GRU tuyển dụng vào khoảng thời gian y được chuyển sang làm việc về vũ khí dẫn đường vào năm 1960. Cho đến khi y bị lật mặt bởi lời khai của sĩ quan GRU và là đặc vụ của CIA, Dimitri Polyakov vào năm 1965, y thường xuyên để lại phim chụp các tài liệu mật trong các hộp thư chết để đổi lấy tiền mặt.
Douglas Britten, được Ủy ban An ninh Anh mô tả là “một diễn viên giỏi và một kẻ nói dối lão luyện” sau khi bị kết án, cũng đã tiết lộ bí mật để lấy tiền. Được tuyển dụng vào năm 1962, y đã cố gắng cắt đứt liên lạc trong thời gian công tác tại các trạm nghe lén ở đảo Síp năm 1966, nhưng sau đó bị cấp trên KGB ép buộc phải hoạt động tiếp bằng một bức ảnh cho thấy y nhận tiền từ Liên Xô. Y bị điều chuyển trở lại Căn cứ Không quân Hoàng gia Digby ở Lancashire, nơi KGB gây áp lực buộc ông phải cung cấp thêm thông tin. Britten bị chụp ảnh khi đang đến thăm lãnh sự quán Liên Xô, bị bắt giữ, và mặc dù hợp tác khai báoi với MI5, y vẫn bị kết án 21 năm tù.
Nicholas Praeger cũng đã tận tụy làm việc cho khối Đông Âu trong những năm 1960, mặc dù được cơ quan tình báo Tiệp Khắc, Státní Bezpeènost (StB), thu phục và khai thác. Là một đảng viên Cộng sản trung thành, Praeger là một kỹ thuật viên radar hàng đầu, có quyền truy cập vào tài liệu mật vào thời điểm y được StB tuyển dụng vào năm 1959. Giá trị của y đối với StB tăng lên sau khi y rời Không quân Hoàng gia Anh (RAF) và gia nhập Công ty Điện lực Anh, nơi đang nghiên cứu thiết bị gây nhiễu radar trên máy bay ném bom hạt nhân tấn công của Anh. Moscow mô tả thông tin của y là “thông tin tình báo tốt nhất mà StB cung cấp”. Khi sĩ quan StB Josef Frolik đào tẩu sang phương Tây vào năm 1969 sau cuộc xâm lược Tiệp Khắc của Liên Xô vào năm trước đó (rời khỏi khu nghỉ dưỡng bí mật ở Bulgaria dành cho đặc vụ!), ông đã cung cấp cho các thẩm vấn viên đủ thông tin để giúp xác định Praeger, cuối cùng đã bị bắt và kết án vào năm 1971.
StB cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu phục những nhân vật quan trọng trong các ngành nghề khác: họ nhận thấy các chính trị gia và công đoàn Anh dễ bị thao túng bởi cách tiếp cận thân thiện của người Tiệp Khắc hơn là người Nga, thường cho rằng mối ngờ vực giữa London và Praha là không có cơ sở. Một khi họ nhận được thù lao cho các bài viết thúc đẩy các mối quan hệ mới, họ đã trở thành thành viên của StB.
Một đặc vụ chủ chốt là chính trị gia Đảng Lao động Will Owen, người mà sau này nghị sĩ đồng nghiệp Abse đã bình luận: ‘Owen chắc chắn đã cố gắng hết sức để xâm hại đất nước quê hương mình’. Được tuyển dụng vào năm 1954, ông ta bị các kiểm soát viên StB gọi là ‘Tên khốn tham lam’, chỉ quan tâm đến thù lao và những kỳ nghỉ miễn phí ở Tiệp Khắc mà ông ta có thể có được. Owen đã chuyển giao những tài liệu cực kỳ bí mật về Quân đội Anh đóng ở vùng sông Rhine và lực lượng Anh trong NATO cho đến khi ông ta cũng bị Frolik tiết lộ.
John Stonehouse, nghị sĩ Đảng Lao động nổi tiếng vì giả vờ tự tử vào năm 1974, đã làm việc cho StB trong một thời gian dài, mặc dù ông ta đã phủ nhận mình là điệp viên khi bị MI5 buộc tội, sau khi Frolik đào tẩu. Frolik tuyên bố rằng Stonehouse “đã đưa StB vào vị trí nắm được nhiều thông tin về một số hoạt động quân sự và phản gián của Anh”, nhưng vào thời điểm đó, đó là bằng chứng thực sự duy nhất chống lại ông ta. Một người đào thoát sau này, có mật danh là Affirm, đã xác nhận vào năm 1980 rằng Stonehouse đã làm việc cho người Tiệp, nhưng StB đã thất vọng trước lượng thông tin tình báo mà ông ta có thể cung cấp sau khi trở thành bộ trưởng.
StB bù đầu với công việc từ thông tin của Tom Driberg, một điệp viên hai mang, ba mang, cũng làm việc cho MI5 và KGB. Là một nghị sĩ từ năm 1945, và thậm chí là chủ tịch đảng Lao động trong một năm, Driberg đã có thể cung cấp cho các ông chủ của mình thông tin về thói quen của các nghị sĩ, có thể được sử dụng để khai thác họ. Được mệnh danh là “Chúa tể của các điệp viên”, khi được thăng hàm quý tộc vào năm 1975, ông ta tuyên bố với MI5 rằng mình chỉ chuyển những thông tin vô hại cho các mối liên hệ cộng sản của mình.
Một nghị sĩ thứ tư, được StB đặt mật danh là Gustav, chưa bao giờ được xác định danh tính chính xác; một số người cho rằng mô tả của Frolik trùng khớp với Sir Barnett Stross, người đã mất năm 1967, nhưng người ta chỉ ra rằng bất kỳ thông tin nào mà ông có thể tiết lộ cũng có thể dễ dàng được lấy một cách công khai từ trụ sở Công đoàn Công nhân Vận tải & Tổng hợp tại London.
Vào tháng 6 năm 2012, khi cuốn sách này đang được viết, sự nghiệp đóng góp cho StB của Bộ trưởng Bảo thủ Raymond Mawby trong suốt những năm 1960 đã bị phanh phui: mật danh Laval lần đầu tiên được liên lạc vào năm 1960 tại một bữa tiệc cocktail ở đại sứ quán Tiệp Khắc. Điểm yếu của ông ta là tiền bạc: “Ông ta dành thời gian rảnh rỗi ở các quán bar… và cũng thích cờ bạc”, một đặc vụ Tiệp nhận xét. “Trong khi chơi roulette và các trò chơi khác, ông ta sẵn sàng chấp nhận một khoản “vay” tiền đã bị lấy lãi hai lần”. Mawby là nghị sĩ Bảo thủ duy nhất được biết là làm việc cho khối Đông Âu, tuồn thông tin chi tiết về các thành viên chủ chốt trong đảng cũng như sơ đồ mặt bằng chính thức và viết tay của các văn phòng tại Hạ viện. Mối quan hệ này chỉ kết thúc vào năm 1971 sau khi một số điệp viên khối Đông Âu bị trục xuất khỏi Vương quốc Anh: “Xét đến điều kiện hoạt động ngày càng tồi tệ ở Anh và sau khi đánh giá các tín hiệu nguy hiểm . . . chúng tôi cấm mọi liên lạc với ông ta,’ một ghi chú trong hồ sơ của ông viết.
StB không chỉ giới hạn hoạt động ở Vương quốc Anh. Vào tháng 10 năm 1968, một loạt vụ tự tử xảy ra ở Tây Đức dường như liên quan đến việc phát hiện ra một đường dây gián điệp do cơ quan an ninh Tiệp điều hành. Ngày 8 tháng 10, Thiếu tướng Horst Wendland, Phó Giám đốc BND, đã tự sát tại văn phòng; sau đó được xác nhận là đã làm việc cho StB. Cùng ngày, người bạn của ông, Chuẩn Đô đốc Hermann Lüdke, Phó Giám đốc Bộ phận Hậu cần của NATO, được phát hiện đã chết tại một khu đất săn bắn tư nhân, ngay sau khi phát hiện ra những bức ảnh chụp các tài liệu tuyệt mật do ông chụp bằng máy ảnh Minox, loại máy ảnh được các cơ quan của Khối Đông Âu sử dụng. Thật khó tin, chúng đã được tìm thấy bởi một trợ lý phòng tối bên cạnh những bức ảnh chụp kỳ nghỉ mà Lüdke đang tráng phim. Chỉ trong vòng vài ngày, Đại tá Johannes Grimm, đang làm việc tại Bộ Quốc phòng Đức, được phát hiện đã bị bắn chết; Gerald Bohm, cũng làm việc tại Bộ Quốc phòng, được tìm thấy chết đuối trên sông Rhine; Edeltraud Grapentin, một đường dây liên lạc với Bộ Thông tin, đã chết vì dùng thuốc ngủ quá liều; và Hans-Heinrich Schenk, một nhà nghiên cứu tại Bộ Kinh tế, được tìm thấy đã treo cổ trong một căn hộ ở Cologne.
StB cũng không phải là cơ quan duy nhất ngoài KGB điều hành các đặc vụ ở phương Tây. Markus Johannes Wolf, người đứng đầu HVA Đông Đức (còn được gọi là Stasi) là một chuyên gia trong việc do thám chính người dân của mình trong Cộng hòa Dân chủ Đức, nhưng nổi tiếng với chương trình thâm nhập mà ông ta điều hành trong hơn một thế hệ ở Tây Đức. Theo một người đào tẩu vào năm 1958, Wolf đã có từ hai đến ba nghìn đặc vụ thâm nhập vào thời điểm đó. Một chiến thuật đặc biệt thành công là sử dụng đặc vụ quyến rũ các thư ký ở các vị trí chủ chốt: vào giữa những năm 50, Irmgard Römer, nữ nhân viên tại Bộ Ngoại giao Bonn, đã chuyển các bản sao điện tín đến các đại sứ quán cho tên đặc vụ quyến rũ cô, Carl Helmers. Năm 1967, Leonore Sütterlein, một thư ký khác tại Bộ Ngoại giao, đã bị kết tội chuyển hơn 3.000 tài liệu mật cho chồng mình, người thực ra là một sĩ quan KGB; Sütterlein đã tự tử khi biết anh ta đã cưới cô chỉ để lợi dụng. Các thư ký khác tại Bộ Khoa học và tại đại sứ quán ở Warsaw đã bị kết án, nhưng nhiều đặc vụ giỏi nhất của Wolf đã không bị phát hiện.
Chiến công quan trọng nhất của điệp viên vĩ đại nhất của Wolf diễn ra sau khi Willy Brandt được bầu làm thủ tướng Tây Đức năm 1969. Vài năm trước đó, điệp viên Stasi Günter Guillaume dường như đã đào tẩu khỏi miền Đông và xây dựng một vỏ bọc thành công, làm việc cho Đảng Dân chủ Xã hội. Ông được bầu vào hội đồng thành phố Frankfurt năm 1968, và khi Brandt lên nắm quyền, Guillaume đã đến làm việc cho văn phòng của Brandt. Chỉ trong vòng vài năm, ông đã trở thành trợ lý đáng tin cậy nhất của Brandt – và có thể chuyển về cho Moscow những chi tiết quan trọng về kế hoạch tương lai của Cộng hòa Liên bang Đức thông qua Wolf.
KGB đã đóng vai trò của mình trong việc giải quyết tình trạng bất ổn ‘nội bộ’ trong khối Liên Xô, đặc biệt là trong Mùa xuân Praha năm 1968, khi quá trình tự do hóa ở Tiệp Khắc (cái gọi là ‘chủ nghĩa xã hội với bộ mặt người’) được coi là mối đe dọa đối với Liên Xô. Trong khi các cuộc đàm phán và thảo luận diễn ra giữa Leonid Brezhnev và Alexander Dubček, nhà lãnh đạo Tiệp Khắc, KGB của Andropov đang mở đường cho một cuộc tiếp quản của Liên Xô. Mặc dù cuối cùng điều này mang tính chất quân sự, vào tháng 6 năm 1968, sĩ quan dự bị KGB Mikhail Sagatelyan đã đưa ra nhiều khuyến nghị khác nhau cho Điện Kremlin dựa trên chuyến thăm mà y đã thực hiện tới đất nước này vào tháng trước. Đặc biệt, y đề xuất thành lập ‘phe thân Liên Xô’ một ban lãnh đạo Tiệp Khắc, phe này sẽ lật đổ Dubček (‘một điều ít tệ hại hơn một cuộc xâm lược quân sự,’ theo Sagatelyan).
KGB đã tăng cường sự hiện diện của họ ở Tiệp Khắc, và hiện đang thực hiện hai chiến dịch: Tiến bộ và Khodoki. Tiến bộ chứng kiến các đặc vụ KGB, bao gồm cả anh trai của điệp viên CIA tương lai Oleg Gordievsky, đóng giả là người phương Tây đang liên lạc với các nhóm đối lập ở Tiệp Khắc; Khodoki liên quan đến các đặc vụ tạo ra bằng chứng giả rằng phe đối lập đang lên kế hoạch đảo chính vũ trang, qua đó tạo cho Liên Xô cái cớ để hỗ trợ chính quyền.
Andropov thực sự tin rằng các cơ quan phương Tây đang cố gắng thúc đẩy những thay đổi chính trị mà Dubček đề xuất. Ông thậm chí còn bác bỏ một báo cáo từ Oleg Kalugin, người được ông tin cậy nằm vùng tại Washington, trong đó nêu rõ rằng CIA không liên quan dựa trên các tài liệu mà y đã tiếp cận. Khi không có bằng chứng xác thực, KGB đã bịa ra, sử dụng các đặc vụ của mình “phát hiện” các kho vũ khí và kích động tình hình bất ổn.
Hồng quân, được hỗ trợ bởi các đơn vị từ các nước khác trong Khối Hiệp ước Warsaw, tiến hành xâm lược Tiệp Khắc vào đêm 20 tháng 8 năm 1968, lật đổ Dubček. Đáng tiếc là sức phản đối đối với các chính sách của Dubček không hề mạnh mẽ như Điện Kremlin mong đợi, và cuối cùng ông đã trở lại nắm quyền, mặc dù bị Moskva kiểm soát rất chặt chẽ, với sự hiện diện dày đặc của KGB trong nước để theo dõi các dấu hiệu bất ổn.
Kết cục của Mùa xuân Praha đã gây ra hai tác động lớn trong giới tình báo: Học thuyết Brezhnev, được chính thức công bố vào tháng 9 năm 1968, lưu ý rằng mặc dù mỗi quốc gia có quyền “đi theo con đường riêng của mình để tiến lên chủ nghĩa xã hội”, nhưng chính sách của họ không được gây tổn hại đến chủ nghĩa xã hội ở chính quốc gia mình, hoặc bất kỳ nơi nào khác. Nếu thiệt hại đó xảy ra, Liên Xô có “nghĩa vụ quốc tế” là “hành động kiên quyết chống lại các thế lực chống chủ nghĩa xã hội”. Học thuyết này sẽ khiến cho KGB bận rộn suốt 20 năm tiếp theo. Một hệ quả khác là tác động cá nhân của nó lên Oleg Gordievsky; cách Moscow xử lý Mùa xuân Praha là một yếu tố thúc đẩy ông quyết định hợp tác với CIA.
☆ ☆ ☆
Mặc dù hoạt động chủ yếu của CIA trong nửa sau thập niên 1960 liên quan đến cuộc xung đột ở Đông Nam Á, họ cũng tiếp tục các nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo chống lại các nước Cộng sản. Thập kỷ này chứng kiến một số tiến bộ công nghệ, với những cải tiến về chất lượng thiết bị nghe lén và các thiết bị gián điệp khác.
Một đặc vụ khá truyền thống đã làm việc cho CIA gần 25 năm và được nhiều thành viên cấp cao của cơ quan này mô tả là một viên ngọc quý. Dimitri Fedorovich Polyakov là một điệp viên GRU, từng làm việc với tư cách là thành viên phái bộ Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc, và đã đưa các đặc vụ bất hợp pháp vào Tây Đức trong một nhiệm vụ ở Berlin.
Ban đầu cung cấp dịch vụ của mình cho FBI với tư cách là nguồn tin phản gián trong nhiệm kỳ thứ hai của mình tại Liên Hiệp Quốc năm 1961 và làm việc với họ trong một năm, ông được bàn giao cho CIA trước khi trở về Nga vào năm 1962. Polyakov dường như không bị thúc đẩy bởi tiền bạc: ông nhận không quá 3.000 đô la một năm và chủ yếu nhận số tiền đó dưới dạng dụng cụ, thiết bị câu cá hoặc súng săn. Theo một sĩ quan CIA đã làm việc với ông trong 15 năm, Polyakov ‘đã nói lên cảm nghĩ của mình rằng ông phải giúp chúng tôi nếu không Liên Xô sẽ thắng trong Chiến tranh Lạnh, và ông không thể chịu đựng được điều đó. Ông cảm thấy chúng tôi rất ngây thơ và chúng tôi sẽ bị đánh bại.’ Người ta cũng cho rằng ông cảm thấy vỡ mộng khi bị từ chối cho phép con trai mình vào một bệnh viện ở New York để điều trị cứu cấp và cậu bé đã chết.
Polyakov được điều đến Rangoon, Miến Điện và có thể hỗ trợ nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam bằng cách tiết lộ thông tin chi tiết của GRU về lực lượng quân sự Trung Quốc và Bắc Việt, cũng như tiết lộ danh tính đặc vụ GRU trong Bộ Hàng không Anh, Frank Bossard. Tài liệu của ông tiếp tục ảnh hưởng đến chính sách của Mỹ trong thập kỷ tiếp theo, đặc biệt là những hiểu biết sâu sắc về mối quan hệ giữa Nga và Trung Quốc, vốn đã xấu đi trong những năm 1960.
☆ ☆ ☆
Những cuộc thảo luận về vai trò của quân đội Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam thường chuyển sang những gam màu đen tối hơn, chẳng hạn như vụ thảm sát thường dân miền Nam do lính Mỹ thực hiện tại Mỹ Lai. Uy tín của CIA không hề được cải thiện khi công chúng Mỹ biết đến những vụ lạm dụng được thực hiện dưới danh nghĩa Chiến dịch Phượng Hoàng, mặc dù không phải tất cả đều là tiêu cực. Nhiều quân nhân Hoa Kỳ và gia đình họ vô cùng biết ơn CIA vì những nỗ lực của họ trong việc thiết lập mối liên lạc giữa tù binh chiến tranh và gia đình của họ.
Mục đích của Chiến dịch Phượng Hoàng là nhằm triệt hạ lực lượng vũ trang Việt Cộng, hay còn gọi là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Việt Cộng muốn “lật đổ chế độ thực dân trá hình của đế quốc Mỹ”, và trên thực tế là thực hiện ý đồ của chính quyền miền Bắc tại Hà Nội. Họ đã tiến hành các hành vi bạo lực và khủng bố nhắm vào các viên chức chính phủ miền Nam và bất kỳ ai hỗ trợ những người mà họ coi là kẻ thù, đôi khi có thể bao gồm cả đội ngũ nhân viên y tế, cán bộ xây dựng nông thôn miền Nam.
Việt Cộng đã thực hiện cái được gọi là cuộc Tổng công kích Tết Mậu Thân vào đầu năm 1968, tấn công hơn một trăm thị trấn khắp miền Nam. Họ thậm chí còn tiến hành một cuộc đột kích của lực lượng biệt kích vào Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn. Họ hy vọng một cuộc tổng nổi dậy của nhân dân ở đô thị sẽ diễn ra sau đó, nhưng điều đó đã không xảy ra, và khoảng 40.000 (ước tính của Hoa Kỳ) đến 75.000 (con số của chính Việt Cộng) quân của họ đã thiệt mạng, so với khoảng 6.000 quân Mỹ và Nam Việt Nam. Mặc dù điều này được báo chí phản chiến ở Hoa Kỳ mô tả là một thất bại lớn đối với người Mỹ, nhưng nó cũng tàn khốc không kém đối với Việt Cộng, với cơ sở hạ tầng bị suy yếu và quân số bị tiêu hao đến mức không thể tập hợp lại hoàn toàn: ‘Chúng tôi đã không chiếm được một số mục tiêu chính. Chúng tôi cũng đã không giữ được các khu vực bị chiếm đóng. Về mặt chính trị, chúng tôi đã không huy động được nhân dân nổi dậy,’ chính Việt Cộng cũng thừa nhận. Tuy nhiên, như Richard Nixon đã chỉ ra: ‘Mặc dù đó là một
chiến thắng áp đảo của miền Nam và Hoa Kỳ, chủ đề gần như phổ biến của giới truyền thông là chúng ta đã phải chịu đựng một thất bại thảm hại. Nhịp trống liên hồi của các câu chuyện không chính xác
đã thuyết phục được hàng triệu người Mỹ cho rằng chúng ta đã thua một trận chiến lớn.’
Chiến dịch Phượng Hoàng đã tồn tại trước Tết Mậu Thân, nhưng được đẩy mạnh sau đó. Được thành lập với tên gọi Chương trình Phối hợp và Khai thác Tình báo, một bộ phận của cơ quan Hỗ trợ Phát triển Cách mạng và Hoạt động Dân sự (CORDS), chiến dịch này nhanh chóng được đổi tên thành Phoenix (Phượng Hoàng trong tiếng Việt). Chỉ thị 381-41 của MACV ngày 9 tháng 7 năm 1967 đã thiết lập chiến dịch này với mục tiêu tấn công bằng “súng trường thay vì súng ngắn” nhằm vào các thủ lĩnh chính trị chủ chốt, các phần tử chỉ huy/kiểm soát và các tên hoạt động trong cơ sở hạ tầng Việt Cộng’. Về bản chất, nó tương tự như các hoạt động trước đây của CIA, một cuộc đấu tranh giành trái tim và khối óc của người miền Nam, khiến họ chọn lựa lập trường chống lại Cộng sản. Do đó, hoạt động này cần phải được thực hiện bởi chính người miền Nam.
Các ủy ban giám sát hoạt động ở cấp quốc gia, quân đoàn và quận lị đã thống nhất khuôn khổ hoạt động của các đội Phượng Hoàng và đặt ra hạn ngạch. Ở cấp tỉnh, các biệt đội, thường bao gồm những người lính miền Nam được huấn luyện, có nhiệm vụ xác định những ai có liên quan đến Việt Cộng và “vô hiệu hóa” họ. Điều này không nhất thiết có nghĩa là tiêu diệt họ: người ta nhận thấy rằng kiểu hoạt động mạnh tay như vậy có thể phản tác dụng, và dĩ nhiên, những phần tử Việt Cộng đã chết không thể cung cấp thông tin tình báo hữu ích. Theo một báo cáo của CIA năm 1969:
Chương trình Đơn vị Trinh sát Tỉnh (PRU) tại Nam Việt Nam là một cuộc tấn công điều tra và bán quân sự vào bộ máy cộng sản nằm vùng ở Nam Việt Nam. Các đội PRU, hiện có tổng cộng khoảng 4.200 người, hoạt động tại 44 tỉnh của Nam Việt Nam. PRU đóng quân tại địa phương và hoạt động theo nhóm từ 15-20 người. Hiện tại, họ được cố vấn và hỗ trợ bởi 101 cố vấn quân sự Hoa Kỳ và 7 nhân viên CIA. CIA tài trợ cho PRU và giữ toàn quyền kiểm soát hành chính dự án cho Chính phủ Hoa Kỳ.
Nhiệm vụ chính thức của Phoenix là:
. . .. thu thập thông tin tình báo để xác định các phần tử này; thuyết phục họ hồi phục chánh, tức từ bỏ lòng trung thành với VC và quay về với chính quyền miền Nam; bắt giữ hoặc giam giữ họ để đưa họ ra xét xử trước các ủy ban an ninh tỉnh hoặc tòa án quân sự để tuyên án hợp pháp; và như một biện pháp cuối cùng, sử dụng vũ lực hợp lý nếu họ chống lại việc bắt giữ hoặc bắt giữ nếu việc không sử dụng vũ lực sẽ dẫn đến việc phần tử nghi can VC trốn thoát hoặc sẽ dẫn đến mối đe dọa gây thương tích nghiêm trọng cho một hoặc nhiều thành viên của nhóm bắt giữ.
Vấn đề là đã có nhiều thành viên Phượng Hoàng đã lạm dụng quyền hạn của mình, dẫn đến quan điểm cho rằng Phượng Hoàng chỉ là vỏ bọc cho hoạt động ám sát (mặc dù rõ ràng tồn tại một vùng xám giữa các vụ ám sát và tiêu diệt có chủ đích các phần tử Việt Cộng.) Các cuộc thẩm vấn có thể rất tàn khốc – K. Barton Osborn, người có liên hệ với Phượng Hoàng năm 1968, đã mô tả các kỹ thuật này một cách chi tiết và sinh động trước một tiểu ban của Quốc hội vào năm 1971 và gọi Phượng Hoàng là ‘một chương trình giết người vô cùng phi nhân tính… Tôi chưa hề biết một cá nhân nào bị giam giữ như một nghi phạm VC mà lại sống sót sau một cuộc thẩm vấn.’
CIA muốn rút khỏi chương trình và giao lại vào tay người miền Nam ngay từ năm 1969, một phần vì nó không còn phù hợp với nhiệm vụ thu thập thông tin tình báo của họ nữa. Chương trình được điều hành bởi William Colby, người từng là Trưởng Trạm CIA ở Sài Gòn; nhiệm kỳ của ông chính thức kết thúc ngay sau khi ông trở về Washington với tư cách Giám đốc Điều hành CIA vào năm 1971 và Quốc hội bắt đầu điều tra những vụ lạm dụng. Đối với Colby, cho dù ông thừa nhận các vấn đề đã xảy ra, chương trình vẫn là một thành công; như ông đã giải thích trong một cuộc phỏng vấn trên truyền hình năm 1981: ‘Tôi đã nghe nhiều người cộng sản miền Bắc lẫn miền Nam kể lại, họ nói rằng trong suy nghĩ của họ, giai đoạn khó khăn nhất mà họ phải đối mặt trong toàn bộ cuộc chiến từ năm 1960 đến năm 1975 là giai đoạn từ năm 1968 đến năm 1972, khi Chương trình Phượng Hoàng được triển khai.’
CIA đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về các tù binh chiến tranh bị giam giữ trong Chiến tranh Việt Nam. Ứng cử viên Phó Tổng thống tương lai James Bond Stockdale (vâng, đúng là tên như vậy) bị bắn rơi vào tháng 9 năm 1965 và bị giam giữ bảy năm tiếp theo. Trong thời gian đó, ông đã phát triển một mật mã mà ông sử dụng trong các lá thư gửi về nhà cho vợ, giúp tiết lộ danh tính của một số người bị giam giữ cùng ông. Tình báo Hải quân Hoa Kỳ ban đầu xử lý việc liên lạc với Stockdale, sử dụng một lá thư từ vợ ông để bí mật gửi cho ông một tờ giấy than vô hình, mặc dù họ đã cảnh báo ông rằng nếu bị bắt, ông sẽ bị đối xử như một gián điệp.
Stockdale đã có thể gửi lại danh sách các mục tiêu tiềm năng, tù nhân bị giam giữ và thông tin về vị trí trại giam, nhưng khi các sĩ quan cấp cao quyết định rút lui khỏi dự án, lưu ý rằng các tù binh chiến tranh “đã sống đủ căng rồi. . . Cùng lắm chúng ta mới phải biến họ thành gián điệp”, Hải quân quay sang nhờ đến CIA. Bruce Rounds thuộc Bộ phận Dịch vụ Kỹ thuật đưa ra một mã mới mà vợ của Stockdale đã sử dụng cho một lá thư vào tháng 5 năm 1967.
Mặc dù những cuộc trao đổi thông tin này sẽ dẫn đến việc Stockdale bị tra tấn dã man, chúng vẫn tiếp tục với các tù binh chiến tranh khác, cho phép gia đình họ biết được số phận của người thân. Đặc vụ Brian Lipton của Bộ phận Dịch vụ Kỹ thuật làm việc vào ban đêm cho dự án này, một dự án được giữ bí mật với hầu hết mọi người, ngoại trừ một số rất ít tại CIA: nó vẫn còn tuyệt mật ngay cả sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, khi Lipton thuyết phục Stockdale, giờ đây là Chuẩn Đô đốc, không nên tiết lộ tất cả bí mật trong cuốn tự truyện của mình. Cuối cùng, nó đã được tiết lộ trong một cuốn lịch sử của Bộ phận Dịch vụ Kỹ thuật được xuất bản năm 2008, ba năm sau khi Stockdale qua đời.
Yếu tố then chốt khác trong sự can dự của CIA vào Đông Nam Á là Air America, hãng hàng không dân dụng thuộc sở hữu của CIA. Hãng này đã thực hiện nhiều hoạt động hỗ trợ các nhóm bộ lạc, được gọi là người Thượng, sống ở vùng cao nguyên giữa Việt Nam và Lào, cũng như thực hiện các nhiệm vụ giải cứu phi công Mỹ bị bắn rơi ở miền Bắc Việt Nam. Từ năm 1962 đến năm 1975, Air America đã hỗ trợ Quân đội Hoàng gia Lào và được sử dụng để vận chuyển mọi thứ cần thiết tiếp tế quanh khu vực, từ lợn và bò sống trong nạn đói, cho đến cả Richard Nixon. Theo một số phi công của hãng, Air America cũng tham gia vào hoạt động buôn bán thuốc phiện (một cáo buộc đã được chứng minh trong một bộ phim được phát hành vào năm 1990); chắc chắn Air America biết về hoạt động buôn bán ma túy, nhưng vai trò của hãng là hỗ trợ chiến đấu chống lại những người cộng sản, chứ không phải kiểm soát hoạt động buôn bán ma túy.
Lịch sử của Air America chỉ ra rằng phi hành đoàn của hãng đã tham gia vào nhiều loại nhiệm vụ khác nhau:
Họ đã vận chuyển hàng chục ngàn binh sĩ và dân tị nạn, thực hiện các nhiệm vụ vận chuyển y tế khẩn cấp và giải cứu các phi công bị bắn rơi trên khắp đất Lào, đưa vào và rút ra các đội tuần tra đường bộ, thực hiện các nhiệm vụ thả hàng bằng đường hàng không vào ban đêm trên Đường mòn Hồ Chí Minh, giám sát các cảm biến dọc theo các tuyến đường xâm nhập, tiến hành một chương trình trinh sát ảnh cực kỳ thành công và tham gia vào nhiều nhiệm vụ bí mật bằng kính nhìn ban đêm và thiết bị điện tử hiện đại.
Khi cục diện chiến tranh ở Lào bất lợi cho Mỹ, Air America đã gánh chịu tổn thất nặng nề. Giám đốc CIA Richard Helms quyết định chấm dứt hoạt động này vào năm 1972 sau khi chiến tranh kết thúc, nhưng trong hai năm cuối cùng hoạt động, 23 nhân viên Air America đã thiệt mạng. Mặc dù danh tiếng của chiến dịch đã bị chỉ trích, CIA vẫn coi đây là một trong những chiến dịch xuất sắc nhất. Một tấm bảng tưởng niệm những người đã phục vụ được khánh thành tại Trụ sở CIA ở Langley vào năm 1988: ‘Phi hành đoàn, những kỹ năng bảo trì, và các kỹ năng hàng không chuyên môn khác mà họ đã vận dụng vì lợi ích chúng ta thật là phi thường. Nhưng trên hết, họ đã mang đến lòng tận tụy cho sứ mệnh của chúng ta và chuẩn mực của lòng quả cảm cao cả nhất trong quá trình thực hiện sứ mệnh đó.’