Lược Sử về Điệp Viên (Bài 3)

Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

PAUL SIMPSON

Trần Quang Nghĩa dịch

4 TIẾN HÀNH CHIẾN TRANH LẠNH TRÊN MẶT TRẬN MỚI

Với việc Liên Xô chứng minh họ sở hữu bom nguyên tử vào tháng 8 năm 1949, rõ ràng là sự leo thang giữa hai lực lượng đối địch có thể dẫn đến Thế chiến thứ ba, và những năm 1950 sẽ chứng kiến nhiều cuộc xung đột ủy nhiệm giữa phương Tây và phương Đông. Đông Âu và Trung Quốc nằm dưới quyền kiểm soát của Đảng Cộng sản – cho dù tất cả những kẻ nắm quyền ở các nước này không nhất thiết phải cúi đầu trước Josef Stalin, họ vẫn có cùng ý thức hệ, và đối với các cơ quan tình báo phương Tây, họ cũng là kẻ thù.

Cả ba cơ quan chính tham gia vào cuộc xung đột đó – MI6 của Anh, CIA của Mỹ và KGB của Nga – đều trải qua quá trình tái cơ cấu lớn vào những năm đầu thập kỷ. Người Anh đã phải đánh giá lại toàn bộ hệ thống của mình sau khi Donald Maclean và Guy Burgess đào tẩu sang Nga – và MI5 tin chắc rằng Kim Philby chính là “Người Thứ Ba” đã thuyết phục họ rời đi. (Philby tiếp tục là một vấn đề đối với MI6 cho đến khi y rời đi Nga vào năm 1963.) Cái chết của Stalin năm 1953 đã trực tiếp dẫn đến việc tái cấu trúc Cơ quan An ninh Quốc gia Liên Xô thành hình thức mà nó được biết đến nhiều nhất. Và CIA lại phải đối mặt với một thất bại nữa trong việc thu thập thông tin tình báo.

Sự thiếu tin tưởng vào các báo cáo đến từ Văn phòng Báo cáo và Ước tính của CIA đã được được thể hiện sớm nhất vào mùa xuân năm 1949, và bị chỉ trích nặng nề vì không tổng hợp các thông tin liên quan đến vụ thử hạt nhân của Liên Xô.

Tuy nhiên, chính việc không dự đoán được cuộc xâm lược Hàn Quốc của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950 và sự tham gia của Quân đội Nhân dân Trung Quốc vào tháng 10 năm đó đã dẫn đến sự ra đi của Hillenkoetter.

Vào tháng 1 năm 1950, CIA đã báo cáo phân tích của họ về hoạt động di chuyển quân đội ở Bắc Triều Tiên:

Việc Quân đội Nhân dân Triều Tiên đang liên tục mở rộng lực lượng di chuyển về phía nam hướng tới biên giới tại vĩ tuyến 38 có thể là một biện pháp phòng thủ để chống lại sức mạnh ngày càng tăng của Quân đội Hàn Quốc có tư tưởng tấn công… Mặc dù sức mạnh quân sự của Triều Tiên tăng lên, nhưng khả năng xâm lược Hàn Quốc là không có khả năng trừ khi lực lượng Triều Tiên có thể phát triển được ưu thế rõ ràng so với Quân đội Hàn Quốc ngày càng hiệu quả.

Họ tin rằng cuộc xâm lược sẽ phải do Nga ra lệnh: ‘CHDCND Triều Tiên là một vệ tinh do Liên Xô kiểm soát chặt chẽ, không có sáng kiến độc lập và hoàn toàn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của Liên Xô để tồn tại’, CIA tuyên bố vào ngày 19 tháng 6, sáu ngày trước khi Triều Tiên thực sự hành động độc lập.

Khi chiến tranh nổ ra, CIA tin rằng Trung Quốc sẽ không can thiệp vào tình hình, bất chấp nhiều cảnh báo công khai và được mã hóa từ chính quyền Trung Quốc. Chính quyền Bắc Kinh đã tuyên bố rõ ràng rằng họ sẽ hành động khi thấy cần thiết để bảo vệ đất nước trước việc Tướng MacArthur và quân đội của ông đẩy lùi Quân đội CHDCND Triều Tiên về phía vĩ tuyến 38, rồi vượt qua vĩ tuyến này, tiến vào lãnh thổ Bắc Triều Tiên vào ngày 1 tháng 10. ‘Trong khi sự can thiệp toàn diện của Đảng Cộng sản Trung Quốc vào Triều Tiên

phải được coi là một khả năng tiếp theo, việc xem xét tất cả các yếu tố đã biết dẫn đến kết luận rằng trừ khi Liên Xô quyết định phát động chiến tranh toàn cầu, hành động như vậy là không thể xảy ra vào năm 1950′, báo cáo của CIA ngày 12 tháng 10 nêu rõ. Ngày hôm sau, quân đội Cộng sản Trung Quốc tiến vào Bắc Triều Tiên. Đến giữa tháng 11, họ đã hoạt động hết công suất.

Trước những sai lầm này – và thậm chí trước khi việc Trung Quốc tham gia vào Chiến tranh Triều Tiên được xác nhận – vào tháng 10 năm 1950, Tổng thống Truman đã bổ nhiệm Tướng Walter Bedell Smith vào vị trí Giám đốc CIA với chỉ thị cải tổ cơ quan ba năm tuổi này và làm cho nó phù hợp với mục đích.

Smith đã thành lập ba phòng – phòng tình báo (CDI); phòng kế hoạch (DP); và phong hành chính (DA), và Chiến tranh Triều Tiên đã trở thành phép thử lửa cho CIA mới được tổ chức lại.

Những cuộc chiến giành địa bàn giữa họ và các đơn vị tình báo của Lục quân vẫn tiếp diễn, lên đến tận Tổng thống, người ủng hộ CIA, mặc dù ông yêu cầu họ phải liên lạc với Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Cơ quan này đã thực hiện một số chiến dịch thành công. Cả CIA và Lục quân đều thành lập các đơn vị tác chiến đặc biệt, và CIA đã huấn luyện hàng nghìn người Triều Tiên xâm nhập vào CHDCND Triều Tiên để thu thập thông tin tình báo và phá hoại, cũng như thiết lập các mạng lưới đào tẩu và lẩn tránh. Các nhiệm vụ, chẳng hạn như Chiến dịch Bluebell, được điều hành bởi một nhánh tác chiến được gọi tắt là JACK (Ủy ban Cố vấn Liên hợp, Hàn Quốc), và mặc dù CIA thừa nhận rằng một số người Triều Tiên và Trung Quốc tình nguyện nhập ngũ chỉ đơn giản lợi dụng nhiệm vụ làm phương tiện di chuyển về nhà, nhưng nhiều người đã cung cấp thông tin tình báo giúp ích cho nỗ lực chiến tranh.

Ngoài ra, CIA còn cố gắng tiếp tục sứ mệnh lật đổ chủ nghĩa Cộng sản bằng cách thực hiện các nhiệm vụ ở Trung Quốc. Cơ quan này đã tạo ra một hãng hàng không vỏ bọc, Công ty Vận tải Hàng không Dân dụng (CAT), được sử dụng để thả đặc vụ và hàng tiếp tế vào Trung Quốc, nhưng không phải lúc nào cũng thành công. Mỹ vẫn chính thức ủng hộ chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc, vốn đã bị Cộng sản thay thế vào năm 1949 và chuyển đến Đài Loan, và Chiến dịch Paper của CIA đã hỗ trợ các nỗ lực xâm lược từ Miến Điện của Quốc Dân đảng, với hy vọng có thể thu hút một số lực lượng khỏi cuộc xung đột Triều Tiên.

Không phải nhiệm vụ nào cũng thành công, và những phán đoán sai lầm có thể dẫn đến hậu quả thảm khốc. Một tình huống như vậy xảy ra khi các đặc vụ John T. Downey và Richard G. Fecteau bị bắn hạ ngay trong nhiệm vụ đầu tiên của họ trên không phận miền bắc Trung Quốc năm 1952, nhưng chi tiết về sự kiện chỉ được thông báo theo Đạo luật Tự do Thông tin năm 2011. Tin rằng mình đang làm nhiệm vụ giải cứu một đặc vụ ngầm, họ thực sự đã bước vào một cái bẫy giăng sẵn. Máy bay của họ bị bắn hạ, và cả hai người đều bị bắt sống, bị tra tấn và bị đưa ra xét xử bởi người Trung Quốc, và sau đó bị giam giữ trong 20 năm tiếp theo. Mặc dù ban đầu CIA đã nói với gia đình họ rằng họ đã mất tích trong một vụ tai nạn máy bay CAT, nhưng ngoại giao hậu trường cuối cùng đã dẫn đến việc họ được thả. Jack Downey từ chối quay trở lại làm việc cho Cơ quan, chỉ ra rằng, ‘Tôi không nghĩ mình phù hợp với công việc này!’ Cả hai đều có thể nghỉ hưu với lương hưu đầy đủ từ CIA và được trao Huân chương của Giám đốc vì Lòng trung thành Phi thường tại một buổi lễ đặc biệt tại Trụ sở chính CIA vào năm 1998.

Trong khi CIA đang tập trung vào cuộc xung đột ở Đông Nam Á, FBI thành công hơn trong việc triệt phá các mạng lưới của Nga. Việc bắt giữ nhà khoa học nguyên tử Klaus Fuchs tại Anh do liên quan đến dự án Venona đã dẫn đến việc nhiều điệp viên khác bị lộ tẩy. Bị James Skardon của MI5 thẩm vấn, Fuchs đã cố gắng che giấu danh tính của các đầu mối liên lạc, nhưng Skardon đã biết về một người đưa tin tên là ‘Raymond’, người mà Fuchs đã chuyển thông tin tuyệt mật về bom nguyên tử vào tháng 6 năm 1945, trên cây cầu Castillo Street bắc qua sông ở thị trấn nhỏ Santa Fe gần căn cứ Las Alamos. ‘Raymond’ đã liên lạc với Fuchs thông qua em gái của nhà khoa học này, và những mô tả của cô ấy và Fuchs trùng khớp với một người mà FBI đã thẩm vấn trước đây dựa trên lời khai của Elizabeth Bentley: Harry Gold. Đối mặt với bằng chứng được tìm thấy tại căn hộ của chính mình cho thấy hắn có đến Santa Fe (nơi hắn phủ nhận đã đến thăm), Gold đã thú nhận.

Tuy nhiên, một số phần trong câu chuyện của Gold không khớp với thực tế, đặc biệt là lý do tại sao hắn ta dừng chân ở Albuquerque trong một chuyến đi đến Santa Fe. Cuối cùng, hắn  thừa nhận đã đến thăm một người lính và được người này đưa cho bản vẽ kỹ thuật từ Los Alamos, và người này hóa ra là đồng nghiệp của Fuchs, David Greenglass. Đến lượt mình, Greenglass đã chịu khuất phục trước cuộc thẩm vấn và thú nhận rằng vợ y, Ruth, và anh rễ Julius Rosenberg, là gián điệp. Điều này trùng khớp với các bản ghi chép khác của Venona, xác định Rosenberg là một điệp viên chủ chốt được gọi là ‘Antenna’ hoặc ‘Liberal’, David Greenglass là ‘Kalibr’, và vợ y là ‘Osa’. Một điệp viên khác, kỹ sư vô tuyến Morton Sobell, cũng bị bắt giữ tại Mexico khi anh ta cố gắng chạy trốn.

Julius Rosenberg và vợ Ethel bị bắt và bị buộc tội gián điệp, nhưng không giống như những thành viên khác trong đường dây gián điệp của họ, họ từ chối nhận tội. Theo đó, họ, cùng với Sobell, bị đưa ra xét xử, nơi FBI phải dựa vào lời khai của David Greenglass, bao gồm chi tiết về cách các mảnh ghép bên thành một hộp thạch Jell-O được sử dụng làm phương tiện nhận dạng giữa các đặc vụ Harry Gold và Elizabeth Bentley. Sobell bị kết án 30 năm tù. Vợ chồng Rosenberg bị kết án tử hình. Họ bị hành quyết tại Nhà tù Sing Sing vào tháng 6 năm 1953, sau nhiều lần kháng cáo và xin khoan hồng.

Vợ chồng gián điệp Rosenberg

Tổng thống Dwight D. Eisenhower, người kế nhiệm Harry S. Truman vào tháng 1 năm 1953, đã tóm tắt sự phẫn nộ của công chúng đối với các hoạt động của vợ chồng Rosenberg:

Hai cá nhân này đã bị thử thách và bị kết án về một tội ác nghiêm trọng nhất chống lại nhân dân Hoa Kỳ. Họ bị kết tội âm mưu có ý định và lý lẽ để tin rằng việc cung cấp cho các điệp viên của thế lực nước ngoài một số thông tin nguyên tử tối mật liên quan đến quốc phòng Hoa Kỳ sẽ mang lại lợi ích cho một thế lực nước ngoài. Bản chất của tội ác mà họ bị kết tội và bị tuyên án vượt xa tội ác tước đoạt mạng sống của một công dân khác; nó liên quan đến sự phản bội cố ý đối với toàn thể quốc gia và rất có thể dẫn đến cái chết của hàng ngàn công dân vô tội. Bằng hành động của mình, hai cá nhân này thực sự đã phản bội lý tưởng tự do mà những người yêu tự do đang chiến đấu và hy sinh ngay lúc này.

Phiên tòa xét xử vợ chồng Rosenberg kết thúc vào tháng 4 năm 1951; một tháng sau, Guy Burgess và Donald Maclean đào tẩu sang Liên Xô. Người ta đặt câu hỏi về mức độ hiệu quả của việc thẩm tra an ninh đang diễn ra của người Anh: Fuchs đã được MI5 chấp thuận; Maclean và Burgess cũng đã được thông qua. Có nhiều lời bàn tán về một “người thứ ba” trong hệ thống tình báo Anh đã cảnh báo Burgess và Maclean, và nhiều người trong MI5 tin chắc đó là Kim Philby. Tuy nhiên, sự ngờ vực không ngăn cản hai nước hợp tác.

Hai trong số những chiến dịch chung quan trọng nhất đã diễn ra ở lục địa châu Âu: Chiến dịch Bạc (Operation Silver) đóng tại Vienna, và Chiến dịch Vàng (Operation Gold) tương đương tại Berlin. Người Nga ngày càng sử dụng đường dây để gọi điện thoại và liên lạc bằng máy viễn ký. Điều này đặt ra một vấn đề cho việc thu thập thông tin tình báo, vì không còn là tình huống giám sát tần số vô tuyến nữa.

Giống như Berlin, Vienna đã bị chia cắt thành nhiều khu vực khác nhau trong giai đoạn ngay sau chiến tranh, và Chiến dịch Silver là ý tưởng của người đứng đầu trạm MI6 vào năm 1949, Peter Lunn, người nhận ra rằng họ đang ở vị trí có thể nghe lén đường dây điện thoại cố định của Liên Xô. Một đường hầm được đào từ một ngôi nhà cách đường dây 70 bộ, và để che chắn cho dự án, MI6 đã mở một cửa hàng bán vải Harris Tweed làm vỏ bọc – và hóa ra lại rất sinh lợi!

CIA cũng quan tâm đến việc tiếp cận đường điện thoại cố định của Liên Xô, đặc biệt là sau khi họ nhận ra rằng máy mã hóa của Moscow có một lỗi khiến một tiếng vọng mờ nhạt của tin nhắn chưa được mã hóa phát kèm với bản đã mã hóa. Khi Carl Nelson của CIA đến Vienna, ông tình cờ biết đến hoạt động của MI6, và hai bên đã hợp tác, mặc dù có vẻ như Nelson không chia sẻ thông tin về các phiên bản rõ ràng với các đồng minh của mình.

Dự án Vienna là nguồn cảm hứng cho một hoạt động tương tự ở Berlin, cuối cùng sẽ tạo ra hơn 40.000 giờ đàm thoại qua điện thoại và sáu triệu giờ giao dịch máy viễn ký. Trớ trêu thay, Chiến dịch Vàng lại được biết đến nhiều nhất vì bị Liên Xô khám phá ra nó.

Đường hầm Berlin được coi là “một trong những dự án giá trị và táo bạo nhất” do Giám đốc Cơ quan CIA lúc đó Allen Dulles thực hiện, người đã bật đèn xanh cho việc đào hầm cùng với người Anh vào tháng 12 năm 1953. Đường hầm là một kỳ công kỹ thuật lớn, đi xa gần 450 mét dưới lòng đất để đến một sợi cáp chỉ cách mặt đất 72 cm. Vị trí của sợi cáp được một đặc vụ bên trong bưu điện Đông Berlin cung cấp, và việc xây dựng một trạm radar và nhà kho của Không quân được sử dụng làm vỏ bọc cho công trình bắt đầu vào tháng 2 năm 1954. Bản thân đường hầm được hoàn thành vào tháng 2 năm 1955, và việc nghe lén được đưa vào hoạt động cho đến tháng 4 năm sau khi nó bị phát hiện, và Liên Xô sau đó đã ra sức thực hiện một chiến dịch tuyên truyền rùm beng. (Điều này đã phản tác dụng: Tạp chí Time bình luận rằng ‘Đây là chiến dịch quảng cáo tốt nhất mà Hoa Kỳ có được ở Berlin trong một thời gian dài.’)

Đối với CIA vào thời điểm đó, “Phân tích tất cả các bằng chứng hiện có cho thấy việc Liên Xô phát hiện ra Đường hầm là hoàn toàn tình cờ và không phải là kết quả của việc xâm nhập các cơ quan liên quan, vi phạm an ninh, hay việc kiểm tra đường dây của Liên Xô hay Đông Đức.” Dường như Liên Xô đã gặp may – nhưng thực tế, họ đã biết về đường hầm mọi lúc, nhờ một điệp viên KGB khác trong hàng ngũ MI6, lần này là George Blake (xem chương 5), người đã có mặt tại cuộc họp đầu tiên vào tháng 10 năm 1953, hai tháng trước khi Dulles phê duyệt dự án. Tuy nhiên, dường như KGB quan tâm đến việc bảo vệ Blake hơn là giữ gìn những bí mật có thể bị tiết lộ qua máy nghe lén, nên đã không hành động sớm hơn.

Sự tham gia thành công của CIA vào cuộc bầu cử Ý năm 1948 chỉ là bước khởi đầu cho sự can thiệp của họ vào công việc của các quốc gia khác. Đôi khi, việc này được thực hiện theo lời mời của một số bên liên quan – chẳng hạn như ở Trung Quốc, nơi chính phủ dân tộc chủ nghĩa của Tưởng Giới Thạch hoan nghênh sự hỗ trợ của CIA – nhưng điều này không phải lúc nào cũng xảy ra.

Chiến dịch Ajax là một ví dụ điển hình. Các hành động của CIA ở Iran đã giúp vị Shah duy trì quyền lực cho đến cuộc đảo chính năm 1979, nhưng như Kermit Roosevelt, người khởi xướng chiến dịch này, sau này đã lưu ý: “Nếu chúng tôi, CIA, định thử một điều gì đó tương tự như thế này một lần nữa, chúng tôi phải hoàn toàn chắc chắn rằng người dân và quân đội cũng muốn những gì chúng tôi muốn. Nếu không, tốt hơn hết là bạn nên gọi thủy quân lục chiến đến.’ Vấn đề là: CIA đã hành động trái với những gì mà một chính phủ được bầu cử dân chủ đã quyết định.

Vấn đề nảy sinh khi thỏa thuận nhượng quyền khai thác dầu mỏ tại Iran cho Công ty Dầu mỏ Anh-Iran (AIOC) do Anh điều hành được đưa ra xem xét lại vào năm 1950. Quốc hội Iran, Majlis, đã yêu cầu đàm phán lại các điều khoản để chúng không còn có lợi cho AIOC nữa. Một thành viên của Majlis, Mohammed Mossadegh, một luật sư được đào tạo tại châu Âu, ngoài 70 tuổi, đã trở thành tiêu điểm của sự chống đối, và vào tháng 3 năm 1951, các tài sản của AIOC đã bị quốc hữu hóa. Mossadegh sau đó được bầu làm thủ tướng vào ngày 29 tháng 4. Người Anh không hài lòng với điều này: họ mô tả đó là “một loạt hành động vô cảm”, họ tuyên bố rằng “Nếu điều này không được ngăn chặn kịp thời, toàn bộ thế giới tự do sẽ nghèo đi và yếu đi rất nhiều, bao gồm cả người dân Iran bị lừa dối. Tuy nhiên, chính người dân Iran lại coi Mossadegh là một anh hùng vì đã đứng lên chống lại người Anh.

Mặc dù ban đầu người Mỹ không muốn hỗ trợ người Anh lật đổ Mossadegh, nhưng việc ông không muốn đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Đảng Cộng sản đã khiến ông trở thành mục tiêu nhắm đến của CIA như một kẻ thù tiềm tàng, và vì vậy Dự án Ajax đã ra đời. Vào tháng 3 năm 1953, một vị tướng quân đội Iran đã tiếp cận người Mỹ về việc hỗ trợ cuộc đảo chính do Quân đội lãnh đạo, và có lo ngại rằng Đảng Cộng sản sẽ can thiệp thừa dịp cuộc hỗn loạn. Giám đốc CIA Allen Dulles đã phê duyệt chiến dịch “gây ra sự sụp đổ của Mossadegh” vào ngày 4 tháng 4. Tướng Zahedi được coi là người đứng đầu bù nhìn lý tưởng cho chế độ mới, và các điệp viên CIA và MI6 đã thảo luận về cách tốt nhất để điều hành hoạt động (với việc CIA không tin tưởng người Anh đối với những thông tin chi tiết về tài sản riêng của họ bên trong đất nước).

Chiến dịch suýt sụp đổ do sự yếu kém của Quốc vương Iran, người có vai trò bãi nhiệm Mossadegh và bổ nhiệm Zahedi. Sau nhiều lần do dự, cuối cùng ông đã làm như vậy vào ngày 13 tháng 8, nhưng cuộc đảo chính gần như là một thảm họa. Đã hơn một lần, Roosevelt được khuyên nên rời khỏi Tehran, chiến dịch đã thất bại, nhưng, chủ yếu là do may mắn hơn là do phán đoán, cuối cùng nó đã thành công.

Lịch sử chính thức của CIA về dự án – bị rò rỉ cho tờ New York Times – mô tả ngày cuối cùng của cuộc đảo chính là ‘một ngày lẽ ra đã không kết thúc vì nó mang theo cảm giác phấn khích, thỏa mãn và hân hoan đến mức ‘người ta nghi ngờ liệu có điều gì khác có thể đạt được điều đó’. Nó sẽ dẫn đến một chiến dịch có mục tiêu tương tự ở Guatemala vào năm sau; nó cũng có thể được coi là tiền thân của chiến dịch thảm khốc mà CIA đã thảm bại tại Vịnh Con Heo ở Cuba năm 1961.

Theo các sử gia nội bộ của CIA, chiến dịch của họ ở Guatemala, được đặt mật danh một cách tự tin là Thành công, là “một chiến dịch tâm lý và bán quân sự chuyên sâu nhằm thay thế một chính phủ dân cử được lòng dân bằng một thực thể chính trị vô danh. Về phương pháp, quy mô và khái niệm, nó không có tiền lệ, và chiến thắng của nó đã khẳng định niềm tin của nhiều người trong chính quyền Eisenhower rằng các hoạt động bí mật là một giải pháp thay thế an toàn, ít tốn kém cho lực lượng vũ trang trong việc chống lại sự xâm nhập của Cộng sản vào Thế giới Thứ ba.” Những âm mưu ám sát, chiến tranh kinh tế và bán quân sự, các kỹ thuật khiêu khích, hoạt động tâm lý, chiến dịch tung tin đồn và phá hoại đều góp phần lật đổ Jacobo Árbenz Guzmán, vị tổng thống thứ hai được bầu hợp pháp trong lịch sử Guatemala và thay thế ông bằng Đại tá Carlos Castillo Armas.

Árbenz có thái độ khoan dung với những người Cộng sản bản địa, khiến ông được người Mỹ coi là “bạn đồng hành với người Cộng sản” và có thể  chính ông cũng là một người Cộng sản. Khi Luật Cải cách Ruộng đất ông đưa ra dẫn đến việc phân phối lại đất đai đang thuộc về Công ty United Fruit của Mỹ, điều này khiến một số người trong chính quyền Hoa Kỳ tin rằng Cộng sản hiện đã thiết lập được bàn đạp ở Mỹ Latinh thông qua Árbenz.

CIA cảm thấy rằng quân đội là ‘yếu tố có tổ chức duy nhất ở Guatemala có khả năng nhanh chóng “thay đổi quyết định tình hình chính trị”, nhưng lực lượng này nhận thức được rằng mình sẽ cần sự khích lệ đáng kể để đưa ra quyết định đúng đắn. Tranh vẽ tường, tờ rơi chính trị, bôi nhọ danh tiếng và việc gửi hàng ngày các giấy báo tử giả cho Árbenz và các thành viên trong nội các của ông đều góp phần chuẩn bị cho cuộc xâm nhập sắp đến.

Cuối cùng, quân đội đã quay lưng lại với Árbenz, và ông ta buộc phải từ chức – nhưng họ hành động có lẽ xuất phát từ nỗi lo sợ rằng người Mỹ sẽ xâm lược nếu Guzman vẫn nắm quyền, hơn là vì họ sợ Đại tá Armas vốn yếu đuối và lực lượng giải phóng nhỏ nhoi của ông ta. Dulles trình bày kết quả của Chiến dịch Thành công với Tổng thống Eisenhower như một cuộc đảo chính gần như không đổ máu, mặc dù ông ta biết rằng hơn bốn chục người thực sự đã bị giết.

Sau khi mất quá nhiều đặc vụ chủ chốt ở phương Tây do các vụ đào ngũ và bại lộ khác nhau từ bản phân tích của Venona, KGB cần phải xây dựng lại mạng lưới của mình. Ngoài việc cài George Blake vào MI6, họ còn nhắm vào tình báo Pháp và tổ chức Tây Đức mới thành lập. Nhiều đặc vụ trong số này chưa bao giờ bị phát hiện, không giống như một trong những điệp viên giỏi nhất của họ (theo quan điểm của chính y) Georges Pâques, người từng là Chánh Văn phòng Nội các và cố vấn cho một số bộ trưởng Pháp trong thời kỳ hậu chiến trước khi trở thành một điệp viên chủ chốt trong chính quyền de Gaulle năm 1958.

Cựu đại úy SS Hans Clemens, khi đó đang làm việc cho Moscow, đã được cơ quan tình báo Tây Đức tuyển dụng và vào năm 1951 có thể sắp xếp một cựu sĩ quan SS khác là Heinze Felfe, người đã gây được sự chú ý trong mắt phương Tây khi được cho là đã thành lập được một

mạng lưới gián điệp ở Moscow – tất cả ‘thông tin’ của họ đều được Trung tâm Moscow chuẩn bị cẩn thận, vì biết rõ là thông tin đó sẽ đến tay Thủ tướng Tây Đức Konrad Adenauer.

Tại Na Uy vào năm 1949, KGB đã chiêu mộ được Gunvor Galtung Haavik, một nhân viên tại đại sứ quán Na Uy ở Moscow, bằng cách đe dọa sẽ gửi người tình Nga của cô ta đến Siberia. Được triệu hồi trở lại Oslo vào năm 1955, cô trở thành một nguồn tin quan trọng cho KGB tại vị trí mới của mình ở Bộ Ngoại giao Na Uy trong 20 năm tiếp theo, cho đến khi vỏ bọc của cô bị đặc vụ Anh Oleg Gordievsky vạch trần vào năm 1977.

Gunvor Galtung Haavik

 

Tuy nhiên, nhiều hoạt động của An ninh Nhà nước Xô viết, nếu không muốn nói là nhiều hơn, được nhắm vào nội bộ. Stalin tin rằng sự chia rẽ giữa Nga và Nam Tư chỉ đơn giản là một phần của một âm mưu chủ nghĩa đế quốc rộng lớn nhằm phá hoại khối quyền lực Liên Xô, và các đặc vụ  đang truy lùng bọn chủ mưu. Bộ trưởng Nội vụ Hungary, László Rajk, bị cáo buộc tham gia vào một âm mưu lớn của phe Tito chống lại Liên Xô và đã bị đưa ra xét xử tại Budapest năm 1949. Một cuộc săn lùng phù thủy bài Do Thái bắt đầu sau khi Stalin nhận thấy mối liên hệ giữa nhà nước Israel mới thành lập và Hoa Kỳ, và chuyển sự ủng hộ của mình  sang các kẻ thù Ả Rập của Israel. Đây là cuộc thanh trừng lớn cuối cùng trong cuộc đời Stalin, với tất cả các sĩ quan Do Thái (trừ một số người được gọi là ‘người Do Thái ẩn náu’, giấu mình giữa các nhóm dân tộc khác) bị loại khỏi các vị trí quyền lực và khỏi MGB (Bộ An ninh Nhà nước). Một âm mưu được cho là chống lại nhà nước của các bác sĩ đã chứng kiến cơn thịnh nộ của nhà độc tài trút lên những kẻ ‘giẫm đạp lên ngọn cờ thiêng liêng của khoa học’ – các đặc vụ Anh và Mỹ hoạt động thông qua ‘một tổ chức dân tộc chủ nghĩa tư sản Do Thái đồi bại.

Josef Stalin qua đời vào tháng 3 năm 1953, và trong cuộc tranh giành quyền lực không thể tránh khỏi ở Điện Kremlin, Beria đã mở rộng quyền lực của các cơ quan an ninh nhà nước dưới quyền kiểm soát của mình, sáp nhập MGB vào Bộ Nội vụ (MVD). Có lẽ là thiếu khôn ngoan, ông đã ra lệnh tái tổ chức mạng lưới MVD ở Đông Đức, và do sự vắng mặt của gần một nghìn sĩ quan, một cuộc nổi loạn đã xảy ra mà vị tướng mới được thăng chức Fadeykin đã không thể xử lý đúng cách.

Beria đã quá tay, và vào ngày 26 tháng 6, y bị Đoàn Chủ tịch cầm quyền cáo buộc là “điệp viên đế quốc”. Y bị xét xử, kết án và hành quyết vì làm việc cho tình báo Anh, được cho là từ khi y làm việc ở Baku vào năm 1919, khi khu vực này còn nằm dưới quyền kiểm soát của Anh.

Trong khi MGB vẫn là một phần của MVD, một nhiệm vụ ám sát nước ngoài đã thất bại thảm hại. Chiến dịch Rhine được thiết kế để tiêu diệt Georgi Sergeevich Okolovich, một người Ukraine di cư đang sống ở Tây Đức. Tuy nhiên, thay vì giết chết ông ta, sát thủ Nikolai Kholkov đã đào tẩu sang phương Tây; hắn là một trong năm đặc vụ đã chuyển đổi lòng trung thành trong vài tháng đầu năm 1954, với những lần đào tẩu khỏi các cơ sở lưu trú ở Tokyo và Vienna, cùng với hai lần đào tẩu ở Canberra vào tháng 4 năm 1954.

Vào thời điểm đó, KGB đã được tái cơ cấu lần cuối. Bị loại khỏi Bộ Nội vụ, nhưng bị hạ cấp xuống thành ủy ban, KGB được sáp nhập vào Hội đồng Bộ trưởng để duy trì một hình thức kiểm soát nào đó. Giới lãnh đạo hậu Stalin quyết tâm rằng KGB sẽ không bao giờ có được quyền lực vô hạn như những thời tiền nhiệm. Điều đó sẽ không ngăn cản nó trở thành một trong những cơ quan tình báo tàn nhẫn nhất thế giới.

5

 

MÈO VÀ CHUỘT

Trên báo chí, tại Quốc hội, tại Liên Hiệp Quốc, trên bục giảng, người ta không ngừng nói về pháp quyền, quan hệ văn minh giữa các quốc gia, sự lan rộng của các tiến trình dân chủ, quyền tự quyết và chủ quyền quốc gia, sự tôn trọng quyền con người và nhân phẩm.

 

Thực tế, tất cả chúng ta đều biết rõ, lại hoàn toàn ngược lại, bao gồm sự lan tràn ngày càng gia tăng của tình trạng vô luật pháp, coi thường hợp đồng giữa con người, sự tàn ác và tham nhũng. Bế tắc hạt nhân cũng đi kèm với bế tắc đạo đức.

 

Chính đặc vụ đã được kêu gọi để khắc phục tình hình do sự thiếu sót của các bộ trưởng, nhà ngoại giao, tướng lĩnh và linh mục gây ra.

 

Tâm trí của con người tất nhiên được hình thành bởi môi trường của họ và chúng tôi, những đặc vụ, mặc dù mang tính bí ẩn nghề nghiệp, có lẽ sống gần gũi với thực tế và sự thật trần trụi của quan hệ quốc tế hơn những viên chức chính phủ khác. Chúng tôi tương đối thoát khỏi những vấn đề về địa vị, tiền lệ, thái độ hành chính và sự trốn tránh trách nhiệm cá nhân, những thứ tạo nên khuôn mẫu hình thức. Chúng tôi không cần phải phát triển, giống như các Nghị sĩ Quốc hội bị quy định hóa trong suốt cuộc đời, những kỹ năng đưa ra những cụm từ sẵn sàng, những câu trả lời thông minh và những nụ cười rạng rỡ. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi ngày nay, đặc vụ lại trở thành người bảo vệ chính cho sự liêm chính trí tuệ.

Đó chính là cách MI6 nhìn nhận công việc của đặc vụ  vào cuối những năm 1950, trong thông tư này của George Young, người tham gia chiến dịch chung giữa MI6 và CIA nhằm loại bỏ Mossadegh khỏi Iran, cũng như cuộc đảo chính bất thành chống lại Tổng thống Ai Cập Nasser, và sau này trở thành Phó Tổng cục trưởng. Đó chính là bối cảnh mà Ian Fleming đã xây dựng nên điệp viên bậc thầy James Bond. Đó không phải là một thế giới hào nhoáng hay huyền bí, mà chỉ là những người làm công việc của mình để đạt được thông tin cần thiết nhằm duy trì sự cân bằng của thế giới.

Không chỉ người phương Tây mới nhìn nhận vấn đề theo cách đó. Khi được CNN phỏng vấn năm 1998, sau khi chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, giám đốc tình báo Đông Đức Markus Wolf đã chỉ ra:

Vào giai đoạn đó của lịch sử châu Âu thế kỷ XX, những diễn biến đôi khi gần như tiến tới một cuộc chiến tranh nóng, và đó là lý do tại sao tôi nghĩ rằng nếu có điều gì tích cực có thể nói về công việc của các cơ quan tình báo, thì đó là thông qua công việc của họ, họ có thể đã tránh được việc vượt qua ngưỡng cửa của một cuộc chiến tranh nóng…

 

Tôi khá chắc chắn rằng các cơ quan tình báo nói chung và các điệp viên ở cả phương Đông và phương Tây đều có xu hướng đánh giá thực tế hơn về cán cân quyền lực so với các chính trị gia và lãnh đạo quân sự; do đó, các hành động, hoặc thậm chí là các hành động mạo hiểm có thể dễ dàng dẫn đến leo thang căng thẳng hoặc thậm chí là chiến tranh, sẽ bị ngăn chặn.

CIA vẫn quyết tâm ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở bất cứ nơi nào họ nghĩ rằng nó có thể có chỗ đứng. Dựa trên những thành công ở Ý, Iran và Guatemala, họ tìm cách nắm giữ vai trò dẫn đầu ở Việt Nam, sau nghị quyết năm 1954 của Liên Hiệp Quốc chia cắt đất nước này để chuẩn bị cho cuộc bầu cử quốc gia năm 1956. Sự khác biệt giữa các hoạt động trước đây của họ và hoạt động ở Việt Nam chủ yếu xuất phát từ bản chất của đất nước. Như chính lịch sử của CIA đã chỉ ra: ‘Ở vùng lãnh thổ phía nam vĩ tuyến 17, mà người Mỹ ban đầu gọi là Việt Nam Tự do, không hề tồn tại ý thức về quốc gia hay một chính quyền bản địa… Vĩ tuyến 17 chỉ định một đường ranh giới đình chiến, không phải là một ranh giới quốc tế, và thực thể hoàn toàn tạm thời nằm ở phía nam của nó được cho là sẽ biến mất sau cuộc bầu cử quốc gia năm 1956.’ Trên thực tế, thay vì ủng hộ một bên chống lại bên kia, họ đang cố gắng tạo ra một quốc gia.

CIA đã hoạt động ở Việt Nam từ năm 1950, cố gắng thúc đẩy các nỗ lực của Pháp chống lại tổ chức nổi dậy của Cộng sản, Việt Minh, và giờ đây họ đưa Đại tá Edward Lansdale vào vai trò “người kiến tạo vua”, gần giống như vai trò ông đã đảm nhiệm ở Philippines, nơi hành động của ông đã giúp ngăn chặn phong trào chính trị Cộng sản, Hukbalahap, lên nắm quyền. Lansdale nói với Giám đốc CIA Allan Dulles rằng mục tiêu của ông là xây dựng một “căn cứ chính trị” ở Đông Dương, nếu thành công, sẽ “trao cho CIA quyền kiểm soát chính phủ và thay đổi toàn bộ bầu không khí”. Điều này sẽ tập trung vào Ngô Đình Diệm, một người Công giáo chống Cộng được chứng nhận, đã sống ở New York từ năm 1951 đến năm 1953.

CIA đã nỗ lực rất nhiều để ủng hộ Ngô Đình Diệm, người trở thành thủ tướng vào năm 1954. Lansdale đã giúp huấn luyện Quân đội Quốc gia Việt Nam và tiến hành một chiến dịch tuyên truyền để khuyến khích cộng đồng Công giáo La Mã của đất nước di chuyển đến vùng do Diệm kiểm soát ở miền Nam, sử dụng khẩu hiệu ‘Chúa đã vào Nam’.

Diệm đã kêu gọi một cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1955, một chiến dịch vận động đầy rẫy những thủ đoạn bẩn thỉu. Mặc dù các cố vấn của ông ta tin chắc rằng Diệm sẽ thắng dễ dàng và lật đổ nguyên thủ quốc gia đương nhiệm, cựu Hoàng đế Bảo Đại, nhưng vẫn có gian lận bầu cử nghiêm trọng, với việc Diệm giành được 133% số phiếu bầu tại Sài Gòn. (Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã chúc mừng ông ta vì đã điều hành cuộc trưng cầu dân ý ‘một cách có trật tự và hiệu quả’!) Diệm sau đó tự xưng là tổng thống Việt Nam Cộng hòa – và, ít nhất là ban đầu, có vẻ như đây lại là một việc làm tốt nữa của CIA.

Mọi thứ không diễn ra tốt đẹp ngay tại trung tâm của chủ nghĩa cộng sản. Không có một sĩ quan CIA nào đồn trú tại đại sứ quán Hoa Kỳ tại Moscow trong sáu năm đầu tiên của CIA, và khi Bộ Ngoại giao cuối cùng miễn cưỡng đồng ý cho một đặc vụ thường trú vào năm 1953, trạm trưởng đầu tiên, Edward Ellis Smith, đã bị cô giúp việc người Nga của mình thuộc MGB (Bộ An ninh Nhà nước) dụ dỗ. (Anh ta không được đồng nghiệp đánh giá cao, ‘công việc của anh ta không chỉ vô giá trị mà còn bịa đặt nhiều thứ’, giám đốc hoạt động của CIA tại bộ phận khối Xô Viết sau này đã bình luận.) Theo KGB, hàng chục nhân viên đại sứ quán đã thừa nhận sa vào mỹ nhân kế của ‘những con én’ thuộc An ninh Nhà nước Nga trước khi bị trục xuất về nước trong nhục nhã vài năm sau đó. Dù sao thì KGB cũng không cần phải lo lắng nhiều về hoạt động của người Mỹ: trong quá trình xây dựng đại sứ quán Mỹ mới vào năm 1953, các phòng quan trọng đã bị đặt thiết bị nghe lén vào ban đêm khi không có lính gác  Mỹ nào canh gác công trường xây dựng.

CIA đã đạt được một thành công đáng chú ý trong khối Liên Xô vào thời gian này, sau khi một sĩ quan GRU, Pyotr Semyonovich Popov, lén nhét một tờ giấy vào xe của một nhà ngoại giao Mỹ tại Vienna vào tháng 1 năm 1953, ghi rằng: “Tôi là một sĩ quan Liên Xô. Tôi muốn gặp một sĩ quan Mỹ với mục đích cung cấp một số dịch vụ nhất định.” Với George Kisevalter giàu kinh nghiệm làm sĩ quan phụ trách đầu tiên ở Áo và sau đó là ở Berlin, Popov đã chứng tỏ là một nhân tố cực kỳ hiệu quả cho cơ quan non trẻ này, cung cấp cho CIA thông tin chi tiết về tổ chức bộ chỉ huy quân sự Liên Xô, cơ cấu của GRU, cũng như tên tuổi và hoạt động của các đặc vụ tình báo Liên Xô ở châu Âu. Anh cũng có thể cảnh báo CIA về các điệp viên xâm nhập vào Hoa Kỳ, và chính sau khi FBI khiến một trong những điệp viên này hoảng sợ phải trốn chạy, Popov mới bị nghi ngờ, vì anh là một trong số ít người bên phía Liên Xô biết được kế hoạch di chuyển của điệp viên bất hợp pháp này. Popov được triệu hồi về Moscow vào tháng 11 năm 1958 – mặc dù CIA đã cố gắng thuyết phục anh ta đừng đi – nhưng từ Moscow anh có thể chuyển một thông điệp mã hóa về cho CIA, nói rằng mặc dù mình vẫn an toàn, nhưng đã bị chuyển khỏi GRU và không thể rời khỏi Liên Xô.

Qua những tài liệu bình thường mà Popov chuyển giao khi trở về Moscow, rõ ràng là anh đã bị KGB lật tẩy. Mặc dù có thời gian người ta tin rằng Popov đã bị đặc vụ KGB George Blake lật mặt, nhưng cũng có thông tin cho rằng một đặc vụ Nga nằm vùng trong CIA đã chuyển giao thông tin, và rằng nghiệp vụ kém cỏi của trạm CIA ở Moscow đã để một thông điệp gửi cho Popov đến tay KGB. Vào tháng 9 năm 1959, Popov đã bí mật chuyển một thông điệp cho Russell Langelle, đặc vụ CIA phụ trách anh tại Moscow, xác nhận rằng giờ đây mình là một điệp viên hai mang, và nói rằng mình hy vọng sẽ được điều động đến Berlin một lần nữa, từ đó có thể trốn sang phương Tây. Bức thư kết thúc bằng: ‘Anh có thể yêu cầu Tổng thống Eisenhower nhân từ của anh xem xét liệu ông ấy có thể bồi thường cho gia đình và cuộc sống của tôi hay không?’

Thật không may cho anh, KGB đã quyết định kết thúc chiến dịch trước khi Popov có thể bị chuyển đi, bắt giữ và trục xuất Langelle. Popov bị xét xử và hành quyết vào năm sau.

Một khía cạnh trong các hoạt động của CIA bắt đầu vào những năm 50 mà nhiều người đã viết, phần lớn là giật gân, là Dự án MKULTRA, chương trình tuyệt mật của CIA nhằm nghiên cứu hành vi của con người.. Mọi thứ, từ vụ ám sát Tổng thống John F. Kennedy đến cái chết của ca sĩ John Lennon, đều bị đổ lỗi cho các đối tượng thí nghiệm bị CIA điều khiển, hoặc đang vật lộn để đối phó với hậu quả.

MKULTRA được thành lập nhằm đối phó với niềm tin rằng các quốc gia Cộng sản đang có những bước tiến lớn trong lĩnh vực tẩy não và kiểm soát tâm trí, bằng chứng là lời khai “tự nguyện” của những người lính Mỹ bị bắt trong Chiến tranh Triều Tiên. Quan điểm này cho rằng các điệp viên và binh lính phương Tây do đó nên được chuẩn bị để đối phó với những tác động của những kỹ thuật như vậy.

Các nhân viên Dịch vụ Kỹ thuật tại CIA được phép khởi động MKULTRA vào tháng 4 năm 1953; dự án này sau đó được chuyển giao cho Ban Hóa học, do Tiến sĩ Sidney Gottlieb đứng đầu. Theo một báo cáo nội bộ của CIA năm 1963, MKULTRA “liên quan đến việc nghiên cứu và phát triển các vật liệu hóa học, sinh học và phóng xạ có khả năng sử dụng trong các hoạt động bí mật nhằm kiểm soát hành vi con người”. Dự án có mục tiêu rộng lớn, từ việc tìm cách tăng hoặc giảm hiệu quả của rượu, tùy theo nhu cầu, đến việc tạo ra các loại thuốc gây mê tác dụng tức thì, cho đến việc tìm ra các chất giúp con người chống lại việc tẩy não.

Dự án đã thử nhiều phương pháp khác nhau để đạt được mục tiêu. Ban đầu, thôi miên đã được thử nghiệm. Vào tháng 2 năm 1954, Gottlieb đã có thể cài cắm một gợi ý của mình vào một phụ nữ sau khi bị thôi miên,  bình thường cô vốn rất ngại cầm vũ khí. Dưới mệnh lệnh ban ra, cô được yêu cầu cố gắng đánh thức một phụ nữ khác bằng mọi cách có thể, và ‘nếu không thành công, cô sẽ nhặt một khẩu súng lục gần đó và bắn’. Theo báo cáo đã được giải mật, cô ‘thực hiện tất cả những gợi ý này một cách chính xác, bao gồm cả việc bắn khẩu súng lục (súng hơi không có đạn) rồi chìm vào giấc ngủ sâu. . . Khi tỉnh dậy cô ấy hoàn toàn phủ nhận những gì  đã xảy ra.’

Chất mà MKULTRA quan tâm nhiều nhất là lysergic acid diethylamide, hay còn gọi là LSD. Ban đầu, các đối tượng tham gia thí nghiệm đã được cho biết trước và đồng ý, nhưng Gottlieb cần biết trong trường hợp những người không biết mình bị đánh thuốc sẽ phản ứng thế nào. Điều này sẽ dẫn đến quyền con người bị vi phạm, và trong một số trường hợp nghiêm trọng, cái chết –  trường hợp đáng chú ý nhất là nhà khoa học quân đội, Tiến sĩ Frank Olson, bị cho uống LSD pha trong rượu vào tháng 11 năm 1953 mà ông không hề hay biết hoặc đồng ý và cuối cùng đã nhảy từ phòng khách sạn ở tầng 10 xuống đất dẫn đến cái chết vài ngày sau đó. Cùng  với thôi miên, các nhà khoa học MKULTRA đã bác bỏ LSD vì kết quả của nó quá khó đoán nhưng chỉ sau khi nhiều người Mỹ đã được thử nghiệm, bao gồm cả tác giả Ken Kesey, người sau này sẽ trở thành một trong những kẻ tuyên truyền vĩ đại cho nền văn hóa ma túy.

Ít được biết đến hơn là một số sản phẩm phụ của nghiên cứu MKULTRA bao gồm các cuộc điều tra về ma thuật của CIA. Tất cả đều rất tốt khi nghĩ ra những loại thuốc bí mật có tác dụng như mong muốn, nhưng sẽ vô nghĩa nếu không có cách nào để đưa chúng vào cơ thể của mục tiêu đã chọn. John Mulholland, một trong những pháp sư người Mỹ được kính trọng nhất thời bấy giờ, đã được đưa vào cuộc và áp dụng những bí quyết khéo léo của bàn tay vào vấn đề này. Bài báo năm 1954 của ông có tựa đề ‘Một số ứng dụng hoạt động của nghệ thuật lừa dối’ đã hình thành nền tảng cho một sổ tay đào tạo dành cho các đặc vụ, và cơ quan này đã lựa chọn những bộ não của mình để nghiên cứu các phương pháp tiềm năng để truyền tín hiệu bí mật.

Những ngày tháng của MKULTRA đã được đếm khi người giám sát nội bộ của CIA, Tổng Thanh tra, báo cáo vào năm 1963 rằng các biện pháp kiểm soát đối với hoạt động của cơ quan này là không đầy đủ và những tác động về đạo đức và luân lý là quá lớn. Dù đến nay vẫn còn nhiều người tiếp tục tin rằng nhiệm vụ của CIA nhằm tạo ra một sát thủ vô tình hoàn hảo thường được gọi là Ứng cử viên Mãn Châu, theo tên cuốn tiểu thuyết năm 1959 của Richard Condon, kể về một chiến binh được Cộng sản lập trình để ám sát, nhưng MKULTRA đã bị giải tán vào cuối những năm 60. Tuy nhiên, việc tiết lộ sự tồn tại của nó sẽ có tác động nghiêm trọng đến CIA vào những năm 70; có lẽ văn bia hay nhất về nó đến từ Thượng nghị sĩ Edward Kennedy vào năm 1977: ‘Bản thân Cơ quan cũng thừa nhận rằng những thử nghiệm này không có ý nghĩa khoa học.’

Việc hạ cấp các cơ quan An ninh Nhà nước ở Liên Xô từ Bộ xuống Ủy ban khi KGB được thành lập vào năm 1954 không có nghĩa là quyền lực của tổ chức này sẽ kém hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện rõ ràng qua lập trường cực kỳ chủ động của người lãnh đạo họ trong Cách mạng Hungary năm 1956, thử thách lớn đầu tiên của KGB – với ông trùm Ivan Aleksandrovich Serov, bản thân cũng hoạt động trong bí mật.

Giống như người Mỹ lo âu bảo vệ bất kỳ khu vực nào mà Chủ nghĩa Cộng sản có thể lan rộng đến, Điện Kremlin cũng muốn đảm bảo rằng tất cả các vùng lãnh thổ trong khối Xô Viết đều phải răm rắp tuân theo đường lối của đảng. Sau việc cắt đứt với Nam Tư (vốn không lành lại sau cái chết của Stalin) và sự trỗi dậy ở Đông Berlin năm 1953, giới lãnh đạo Liên Xô muốn dập tắt mọi hoạt động chống đối tiềm năng từ trong trứng nước. Rắc rối bắt đầu nảy sinh ở Hungary, sau bài phát biểu của nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khruschev tố cáo tệ sùng bái cá nhân của Stalin, và những người như Bí thư thứ nhất Hungary Mátyás Rákosi, người đã theo bước Stalin. Rákosi bị áp lực phải từ chức nhưng được thay thế bởi một người theo đường lối cứng rắn, thay vì bởi Imre Nagy nổi tiếng. Cuộc cách mạng bắt đầu vào ngày 23 tháng 10 khi một đám đông biểu tình bên ngoài Đài phát thanh đã bị lực lượng AVH (An ninh Nhà nước Hungary khai hỏa.

Trùm Serov bay tới Budapest nhưng chỉ được giới thiệu với người Hungary là cố vấn mới của Liên Xô chứ không phải là ông trùm KGB. Ông có mặt khi tình hình trở nên tồi tệ – Nagy được bổ nhiệm làm Thủ tướng, nhưng điều này không ngăn được cuộc nổi dậy của quần chúng, khi các công nhân đoàn kết với sinh viên chống lại chính phủ do Liên Xô hậu thuẫn. Nó đạt đến cao trào vào ngày 30 tháng 10, một ngày sau khi AVH bị giải tán, và các đại diện của Điện Kremlin đồng ý rút quân đội Liên Xô về nước, và Nagy tuyên bố ông đang thành lập một chính phủ đa đảng.

Đại sứ Liên Xô Yuri Andropov, sau này trở thành giám đốc KGB và lãnh đạo Liên Xô, chịu trách nhiệm chống lại cuộc phản cách mạng này. Ông ta ra lệnh các đơn vị Hồng quân mới tiến vào Hungary, đồng thời trấn an Nagy rằng họ chỉ ở đó để bảo vệ an ninh cho các đơn vị được cho là sẽ rời đi. Vào ngày 3 tháng 11, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hungary được mời đến trụ sở quân đội Liên Xô – và vào lúc nửa đêm, ông cùng với những người còn lại trong phái đoàn, đã bị Serov và một nhóm sĩ quan KGB bắt giữ. Khi Hồng quân mở cuộc tấn công vào ngày hôm sau, Nagy đã tuyệt vọng cầu xin sự giúp đỡ trước khi xin tị nạn tại đại sứ quán Nam Tư. Tại thời điểm này, Serov nói rõ nhân thân của với cảnh sát trưởng Budapest, Sándor Kopácsi, người lúc đầu đã đứng ra chống lại ông ta, giờ phải nhận tội công khai về hoạt động này. Không có gì đáng ngạc nhiên, khi Nagy và các bộ sậu của ông rời đại sứ quán Nam Tư với niềm tin mình được đảm bảo an toàn mà chính phủ mới do Liên Xô hậu thuẫn hứa hẹn, nhưng họ bị KGB bắt giữ và đưa ra xét xử. Hai người trong số họ đã chết hoặc bị giết trong quá trình thẩm vấn; các đồng nghiệp khác của Nagy đã bị bắn. Bản thân Nagy bị đưa sang Romania, sau đó trở về Hungary và bị xét xử bí mật. Ông bị treo cổ vào tháng 6 năm 1958.

Không lâu trước Cách mạng Hungary, KGB cũng đạt được một thành công khác ở châu Âu, mặc dù lần này ít đổ máu hơn đáng kể và nhận ít dư luận tiêu cực hơn ở thế giới bên ngoài. Theo chính đánh giá của KGB, một trong những cuộc đảo chính nước ngoài thắng lợi nhất của họ là việc đưa được chính trị gia Phần Lan Urho Kaleva Kekkonen lên nắm quyền, người trở thành Tổng thống Phần Lan vào năm 1956, một chức vụ mà ông giữ cho đến năm 1981. Mặc dù không còn nghi ngờ gì nữa, Kekkonen có quan hệ tốt với KGB và thường hành động theo cách mang lại lợi ích cho Liên Xô, có vẻ như nhiều khả năng thay vì là một đặc vụ tích cực của Liên Xô, ông ta là một người rất thực dụng và coi mối quan hệ với Moscow là cách hiệu quả để duy trì một Phần Lan độc lập. Liên Xô chắc chắn đã hỗ trợ ông bằng cách gây áp lực cho các ứng cử viên khác rút khỏi cuộc bầu cử chống lại Kekkonen, nhưng số lượng đặc vụ KGB và GRU bị Cảnh sát An ninh Phần Lan bắt mà không có sự can thiệp của Kekkonen cho thấy rằng, lần đầu tiên, chính KGB đang bị thao túng.

Các cuộc mưu tính chống Liên Xô đã gây ra hậu quả lớn cho Cơ quan Tình báo Mật vụ Anh vào năm 1956, khi nhiệm vụ do thám tàu tuần dương Ordzhonikidze của Liên Xô đang neo đậu tại Cảng Portsmouth gặp sai sót nghiêm trọng. Người ta thường đổ lỗi sự cố này dẫn đến việc người đứng đầu MI6 từ chức vào cuối năm đó, mặc dù lịch sử chính thức của MI5 lưu ý rằng quyết định để Ngài John Sinclair từ chức vào thời điểm này đã được đưa ra hai năm trước đó.

Sự tình là Hải quân Anh muốn biết thêm thông tin về thiết kế cánh quạt của tàu tuần dương Liên Xô đã chở Khruschev trong chuyến viếng thăm chính thức tới Vương quốc Anh. Sĩ quan MI6 Nicholas Elliott đã thuê một người nhái hành nghề tự do, Thiếu tá Lionel ‘Buster’ Crabb, thực hiện nhiệm vụ này. Thủ tướng, Ngài Anthony Eden, mong muốn thúc đẩy quan hệ hữu nghị với Liên Xô, đã ra lệnh cho MI5 và MI6 không được thực hiện bất cứ hoạt động nào chống lại Liên Xô trong chuyến thăm, vì vậy ông ta vô cùng bối rối khi các thủy thủ Liên Xô báo cáo đã nhìn thấy một người nhái mặc bộ đồ lặn vờn quanh tàu vào ngày 19 tháng 4 năm 1956. Đó chính là Crabb, không còn nghi ngờ gì nữa nhưng sau đó người ta không bao giờ nhìn thấy anh ta nữa.

Liên Xô đã thu được số vốn chính trị từ vụ việc, khi Khruschev đề cập đến “các vấn đề bên dưới mặt nước” trong một cuộc họp báo. Bất chấp những nỗ lực của các cơ quan an ninh nhằm đánh lạc hướng các phóng viên bằng cách tuyên bố rằng Crabb đang lặn cách đó ba dặm, cuối cùng Eden đã phải thẳng thắn: ‘Như đã được thông báo công khai, Thiếu tá Crabb đã tham gia vào một cuộc lặn thử nghiệm và được cho là đã tử vong trong khi đang lặn,’ công hàm chính thức từ Bộ Ngoại giao cho biết. ‘Người thợ lặn, như đã nêu trong công hàm của Liên Xô, đã

được quan sát thấy, từ các tàu chiến Liên Xô, đang bơi giữa các tàu khu trục Liên Xô, có lẽ là Thiếu tá Crabb. Việc ông tiếp cận các tàu khu trục là hoàn toàn trái phép và Chính phủ Hoàng gia mong muốn bày tỏ sự hối tiếc về vụ việc.’ Eden nói thêm tại Hạ viện, ‘Sẽ không có lợi cho công luận nếu tiết lộ tình huống Thiếu tá được cho là đã gặp sự cố tử vong.’

Việc tiết lộ chuyện gì đã xảy ra có thể không có lợi đối với công luận, nhưng trên thực tế không ai biết chắc chắn chính xác chuyện gì đã xảy ra. Một thi thể không đầu, không tay được xác định là Crabb vào tháng 6 năm 1957 và được chôn cất tại quê nhà, nhưng chuyên giá nhận dạng thừa nhận sau đó rằng anh ta đã bị cơ quan an ninh ép buộc. Crabb có thể đã bị bắt đưa lên tàu Ordzhonikidze và chết trong bệnh xá trên tàu. Có tin đồn là ông đã được đưa đến Nga và làm việc trong Hải quân Liên Xô.

Ngay cả khi các tài liệu được công bố theo Đạo luật Tự do Thông tin cho rằng có một thợ lặn thứ hai đi cùng Crabb, chúng cũng không làm sáng tỏ thêm bí ẩn nào.

CIA không phải là cơ quan tình báo duy nhất ủng hộ việc chủ động thay đổi chế độ trong thời gian này. Cuộc khủng hoảng Suez, dẫn đến sự sụp đổ của Thủ tướng Anthony Eden, và gây ra những khó khăn lớn cho mối quan hệ Anh-Mỹ trong nhiều năm, đã chứng tỏ rằng những kế hoạch như vậy không phải lúc nào cũng thành công.

Các miêu tả thông thường về cuộc khủng hoảng ghi nhận rằng nó được thúc đẩy bởi việc Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser quốc hữu hóa kênh đào Suez vào tháng 7 năm 1956. Eden coi đây là hành động của một nhà độc tài phát xít và như ông đã tuyên bố vào thời điểm đó, ‘tất cả chúng ta đều nhớ rất rõ cái giá phải trả khi chúng ta nhượng bộ chủ nghĩa phát xít’. Ba tháng sau, Israel xâm lược Ai Cập qua bán đảo Sinai; điều này dẫn đến việc quân đội Pháp và Anh đổ bộ, dường như để chia tách các bên tham chiến – nhưng đồng thời nhằm mục đích thành lập lực lượng gìn giữ hòa bình quanh kênh đào Suez, giành lại nó khỏi tay Nasser. Tuy nhiên, sau áp lực từ cả Hoa Kỳ và Liên Xô tại Liên Hiệp Quốc, một lệnh ngừng bắn đã được tuyên bố và quân đội nước ngoài phải rời đi. Nasser đã sống sót.

Tuy nhiên, như một bản ghi nhớ của CIA hồi tháng tư về việc quốc hữu hóa kênh đào cho thấy, MI6 muốn có hành động quyết liệt hơn nhiều đối với Nasser từ rất sớm, vì ông ta đã ‘chấp nhận việc hợp tác toàn diện với Liên Xô. Nasser hiện đã chủ động mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô ở Syria, Libya và Bắc Phi thuộc Pháp. Do đó, Nasser phải được coi là một công cụ tuyệt đối của Liên Xô. MI6 khẳng định rằng giờ đây quan điểm của chính quyền  Anh là lợi ích của phương Tây ở Trung Đông, đặc biệt là dầu mỏ, phải được bảo vệ khỏi mối đe dọa từ Ai Cập-Liên Xô bằng mọi giá.’

Kế hoạch của họ nhằm đạt được điều này gồm ba phần:

Giai đoạn một – thay đổi hoàn toàn chính phủ Syria. MI6 tin rằng họ có thể tự mình tiến hành chiến dịch này, nhưng nếu cần thiết sẽ phối hợp hành động với Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ và có thể là Israel. Giai đoạn hai – Ả Rập Xê Út. Tin rằng MI6 đã chuẩn bị các nỗ lực nhằm lợi dụng sự chia rẽ trong Hoàng gia và có thể đẩy nhanh sự sụp đổ của Vua Saud. Giai đoạn ba – được thực hiện trong trường hợp có phản ứng dữ dội của Ai Cập đối với giai đoạn một và hai. Điều này bao gồm các lệnh trừng phạt, được tính toán để cô lập Nasser, đến việc sử dụng vũ lực, cả Anh và Israel, để lật đổ chính phủ Ai Cập. Khả năng cực đoan sẽ bao gồm các hoạt động đặc biệt của Israel nhằm vào các kho tiếp tế của Ai Cập và máy bay, xe tăng mới mua, cũng như tấn công trực diện vào Gaza hoặc các khu vực biên giới khác của Israel.

Bộ Ngoại giao không đồng tình với quan điểm của MI6 cho rằng sẽ có một nhóm người Ai Cập nổi dậy chống lại Nasser, và quả thực khi cuộc xâm lược diễn ra – cùng lúc với việc người Nga đang đối phó với cuộc nổi dậy ở Hungary – cuộc nổi dậy nội bộ được mong đợi đã không thành hiện thực. Kế hoạch ám sát Nasser bằng khí độc thần kinh của MI6 đã không bao giờ được thực hiện. Và khi Tổng thống Eisenhower, vốn có khuynh hướng ủng hộ CIA thay đổi chế độ  ở những nơi khác trên thế giới, có lẽ hơi đạo đức giả khi tuyên bố rằng “Chúng tôi tin  những hành động này là sai lầm, vì chúng tôi không chấp nhận việc sử dụng vũ lực như một công cụ khôn ngoan hay phù hợp để giải quyết các tranh chấp quốc tế”, thì rõ ràng nỗ lực giành lại kênh đào, chứ đừng nói đến việc lật đổ Nasser, đã kết thúc.

Năm 1957 chứng kiến việc mất mát một tài sản khác của KGB tại Hoa Kỳ, Đại tá Rudolf Invanovich Abel – mặc dù y được biết đến với nhiều tên gọi, bao gồm tên khai sinh William Fisher, Emil Goldfus và Martin Collins. Việc FBI bắt giữ y vào tháng 6 năm đó, và việc họ phát hiện ra “cả một kho lưu trữ thực sự về các thiết bị gián điệp hiện đại” tại nơi làm việc và phòng khách sạn của y, “chứa máy phát sóng ngắn, sổ mật mã, máy ảnh và phim để tạo vi phim, chổi cạo râu rỗng ruột, khuy măng sét và nhiều vật chứa bí mật khác” đã dẫn đến việc y bị kết tội âm mưu thu thập và truyền đi thông tin quốc phòng cho Liên Xô.

Việc khai với FBI cái tên Abel trong quá trình bị thẩm vấn có lẽ là một động thái nhằm cho những người kiểm soát y trong KGB biết tình hình của mình, một hành động điển hình của đặc vụ kỳ cựu này, người từng dành nhiều năm trong ngành tình báo Liên Xô trước Thế chiến II trước khi nhập cảnh vào Hoa Kỳ năm 1948, với mật danh Mark. Y tham gia vào mạng lưới tình nguyện viên gián điệp nguyên tử hoạt động bên ngoài New York, nhưng đã phải co cụm hoạt động lại sau khi Julius và Ethel Rosenberg bị bắt. Sự xuất hiện của một trợ lý mới, Reino Häyhänen, vào tháng 10 năm 1952, được cho là sẽ đánh dấu một giai đoạn mới trong sự nghiệp của y, nhưng thực tế lại dẫn đến thảm họa cho Abel. Ngay cả Häyhänen cũng không phải là một đặc vụ giỏi, hắn đã lạm dụng tiền quỹ của KGB, làm mất các báo cáo quan trọng và làm thất lạc một trong những đồng xu rỗng chứa tài liệu. Đồng xu này đã rơi vào tay FBI, vốn đã bỏ ra nhiều năm để giải mã thông điệp bên trong.

Vào đầu năm 1957, Abel yêu cầu KGB triệu hồi Häyhänen về Moscow, nhưng trợ lý của y lại quyết định đầu thú. Lo sợ cho tính mạng của mình nếu trở về Liên Xô, hắn đã xin tị nạn tại Đại sứ quán ở Paris, tuyên bố: “Tôi là sĩ quan tình báo Liên Xô. Trong năm năm qua, tôi đã hoạt động ở Hoa Kỳ. Giờ tôi cần sự giúp đỡ của các anh.” Các sĩ quan CIA nghĩ rằng hắn say rượu hoặc bị ảo tưởng, nhưng cuối cùng đã chuyển hắn cho FBI thẩm vấn. Khám xét nhà Häyhänen còn tìm thấy một đồng xu rỗng khác, và viên sĩ quan KGB này đã cung cấp đủ thông tin cho các thẩm vấn viên để giải mã thông điệp gốc từ năm 1953.

Häyhänen cũng cung cấp cho FBI đủ thông tin để xác định một số đặc vụ Liên Xô nằm vùng, bao gồm Trung sĩ Lục quân Roy Rhodes, mật danh Quebec; đại biểu Liên Hiệp Quốc Mikhail Nikolaevich Svirin, người đã trở về Liên Xô; và Rudolf Abel, mật danh Mark. Abel đã bị bắt vào ngày 21 tháng 6, nhưng ban đầu đã từ chối cung cấp bất kỳ thông tin nào cho những kẻ bắt giữ mình, cuối cùng chỉ cung cấp tên ‘thật’ của mình và yêu cầu được trục xuất.

Abel chỉ thụ án 5 năm trong tổng số 30 năm tù; năm 1962, y được trao đổi với Francis Gary Powers, phi công lái máy bay do thám U-2 của Mỹ bị bắn hạ trên bầu trời Nga năm 1960. Mặc dù y ođã giảng bài về công tác tình báo cho học sinh Nga và làm một số công việc tại Cục Tuyển dụng và Đào tạo Đặc vụ Nằm vùng Nước ngoài, Abel đã trở nên vỡ mộng trong những năm trước khi qua đời vào năm 1971 – có lẽ vì y nhận ra rằng mặc dù y có giá trị tuyên truyền đối với KGB vì không cung khai khi bị thẩm vấn, nhưng y đã làm rất ít để xiển dương sự nghiệp. Hồ sơ của KGB chỉ ra rằng thời gian chín năm y ở New York không có nhiều hiệu quả thực tế, vì y đã không thiết lập được một mạng lưới mới.

***

Một số đặc vụ KGB đã thành công, gần như bất đắc dĩ. Một trong số đó là Robert Lee Johnson, một trung sĩ quân đội Mỹ kiêm ma cô bán thời gian, y đã cố gắng vượt biên sang Đông Berlin vào năm 1953 để xin tị nạn cho mình và vị hôn thê là gái mại dâm. KGB đã thuyết phục y ở lại Quân đội Hoa Kỳ, và trong ba năm, y đã cung cấp cho họ các thông tin mật. Năm 1956, y rời quân đội, cắt đứt quan hệ với Moscow và cố gắng kiếm tiền ở Las Vegas. Việc này không thành công, và vào tháng 1 năm 1957, KGB đã tái kích hoạt y, trao cho y 500 đô la và yêu cầu y nhập ngũ vào Không quân Hoa Kỳ. Johnson bị Không quân từ chối, nhưng y có thể tái đăng ký vào Quân đội Hoa Kỳ. Trong vài năm tiếp theo, y đã chuyển giao ảnh, kế hoạch và tài liệu, và khi được chuyển đến Trung tâm Chuyển phát nhanh Lực lượng Vũ trang tại Sân bay Orly ở Pháp, y đã có thể mở một két sắt ba lớp khóa. Phương pháp của y trông giống như trong phim James Bond: Johnson dùng bản sao chìa khóa cho ổ khóa đầu tiên lấy từ dấu sáp; y tìm thấy bản sao mã khóa cho ổ khóa thứ hai trong sọt rác; và KGB cung cấp cho y một thiết bị chụp X-quang cầm tay cho phép y bẻ khóa ổ khóa thứ ba. Nhờ đó, y có thể tiết lộ hệ thống mật mã, vị trí các đầu đạn hạt nhân ở châu Âu và kế hoạch phòng thủ của cả Mỹ và NATO. Cuối cùng, y bị bắt sau lời khai của đặc vụ đầu thú Yuri Nosenko.

Vào cuối những năm 50, nhiều đặc vụ Liên Xô khác đã chuyển đến những vị trí quan trọng hơn trên khắp châu Âu: tại Pháp từ năm 1958 trở đi, Georges Pâques đã có quyền truy cập vào các tài liệu quốc phòng bao gồm toàn bộ kế hoạch phòng thủ của NATO cho Tây Âu; y tiếp tục cung cấp thông tin cho đến năm 1963.

Nhà kinh tế học người Canada Hugh Hambleton cũng làm việc cho người Nga bên trong NATO từ năm 1957 đến năm 1961, và đã cung cấp nhiều tài liệu đến mức KGB phải cung cấp một chiếc xe tải màu đen trang bị phòng tối để có thể sao chép nhanh chóng. Hambleton, được tuyển dụng vào năm 1951, cuối cùng đã làm việc cho Moscow trong 30 năm trước khi bị bắt.

Ở Tây Đức, đặc vụ Liên Xô Heinz Felfe trở thành người đứng đầu bộ phận phản gián Xô Viết của BND (Cơ quan Tình báo Tây Đức), một vai trò tương tự như vai trò của Kim Philby ở Anh một thập kỷ trước đó. Các cuộc điều tra từ CIA và các cơ quan khác về thông tin mà BND nắm giữ đã giúp Felfe, và do đó là cả Moscow, có được cái nhìn sâu sắc về hoạt động của họ. Thiệt hại mà ông ta gây ra là đáng kể (mặc dù có lẽ không lớn như những gì ông ta huênh hoang trong cuốn tự truyện của mình, phát hành vào giữa những năm tám mươi): ‘Mười năm báo cáo của đặc vụ bí mật phải được đánh giá lại: những báo cáo do phía bên kia bịa đặt, những báo cáo thiên vị tinh vi, những báo cáo từ các nguồn hoàn toàn huyễn hoặc,’ một sĩ quan CIA chỉ ra.

Thư ký hải quân Anh John Vassall đã xâm nhập vào Bộ Hải quân Anh sau khi bị hăm dọa buộc phải làm việc cho KGB vì đã tham dự một bữa tiệc đồng tính do Trung tâm Moscow tổ chức. Khi trở về Anh, y đã cung cấp cho đặc vụ quản lý mình hàng ngàn tài liệu mật về chính sách hải quân và phát triển vũ khí. Y tiếp tục làm việc cho Liên Xô trong 5 năm cho đến khi lối sống của y gây nghi ngờ và y bị bắt vì tội gián điệp.

Không phải mọi thứ đều diễn ra theo đúng kế hoạch của KGB. Sau thất bại do Nikolai Kholkov không giết được Okolovich và tên sát thủ sau đó đào tẩu vào năm 1954, một âm mưu ám sát Vladimir Poremsky, người Ukraine, cũng bất thành vào năm sau khi tên sát thủ tiềm năng ra đầu thú với cảnh sát Tây Đức về nhiệm vụ của mình. KGB thậm chí còn không thể hạ sát được tên phản bội Kholkov; một âm mưu ám sát anh ta bằng chất phóng xạ thallium đã thất bại.

Một sát thủ làm việc cho bộ phận “hoạt động ướt” (tiếng lóng chỉ hoạt động ám sát, thủ tiêu) của KGB, Phòng 13, đã đạt được một số thành công. Bogdan Stashinsky đã sử dụng súng phun khí xyanua để ám sát hai người Ukraine di cư, Lev Rebet vào tháng 10 năm 1957 và Stepan Bandera, hai năm sau đó. Tuy nhiên, người vợ gốc Đức của Stashinsky đã thuyết phục anh ta đổi phe và họ đào tẩu sang phương Tây tại Berlin, một ngày trước khi Bức tường Berlin được dựng lên vào tháng 8 năm 1961. Anh ta bị xét xử vì các vụ giết người, nhưng, như giám đốc BND Reinhard Gehlen đã giải thích trong cuốn tự truyện của mình: “Tòa án đã xác định ông trùm vô đạo của Stashinsky [Giám đốc KGB Alexasandr] Shelepin] mới là người chịu trách nhiệm chính cho những vụ giết người ghê tởm này, và bị cáo – người đã đưa ra lời khai rất đáng tin cậy về áp lực cực độ mà KGB gây ra cho y để hành động như vậy – đã nhận một bản án tương đối nhẹ. Do sự đào tẩu của Stashinsky và phiên tòa xét xử công khai, Điện Kremlin đã xem xét lại việc sử dụng phương tiện ám sát làm vũ khí. Trái với sự tin tưởng của các nhà văn viết truyện gián điệp ly kỳ, ‘các vụ việc ướt át’ đã trở thành phương sách cuối cùng mà Điện Kremlin dùng đến vào đầu những năm 1960, thay vì là một quy trình hoạt động tiêu chuẩn.

Trong khi các đặc vụ nằm vùng tiếp tục đóng góp quý giá cho các hoạt động gián điệp của cộng đồng tình báo Hoa Kỳ vào cuối những năm 50, công việc của họ được bổ sung bởi hai nguồn khác – sự ra đời của chương trình máy bay do thám và việc sử dụng mật mã ngày càng tăng nhờ sự hỗ trợ của Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA) mới thành lập.

Đầu những năm 1950 chứng kiến nỗi lo sợ về hiện trạng “Đảng Cộng sản dưới gầm giường”, do Thượng nghị sĩ Joseph McCarthy khơi mào, và cho dù sau khi ông mất chức, vẫn có nhiều người tin rằng Liên Xô mạnh hơn thực tế rất nhiều. Tất cả các cơ quan khác nhau đều phải đưa ra ước tính, và chắc chắn sẽ sử dụng những kịch bản tồi tệ nhất làm cơ sở cho những ước tính này. Việc năm 1957 Nga phóng thành công vệ tinh Sputnik, vệ tinh đầu tiên của con người, càng làm bốc cao nỗi lo sợ đó: người Nga không chỉ có thể phóng tên lửa vào Mỹ từ nhiều lãnh thổ khác nhau trên thế giới, mà giờ đây họ còn có thể làm điều đó từ không gian.

Dự án Aquatone của CIA đã đi một chặng đường dài trong việc giải quyết các câu hỏi do nhiều cơ quan khác nhau đặt ra. Như một báo cáo của CIA viết vài ngày sau khi hoạt động ban đầu chỉ ra, ‘Năm sứ mạng hoạt động đã chứng minh rằng nhiều dự đoán của chúng ta về các chủ đề quan trọng có thể sai sót nghiêm trọng, rằng các ước tính tạo thành cơ sở cho chính sách quốc gia có thể là từ những dự đoán sai lầm và hậu quả là chính sách của chúng ta thực sự có thể bị phá sản.’

Dự án Aquatone bao gồm một phi công bay ở độ cao 70.000 feet (khoảng 21.200 mét) trên không phận Liên Xô, chụp ảnh mọi thứ anh ta nhìn thấy bên dưới. Sau khi Tổng thống Eishenhower bật đèn xanh vào tháng 11 năm 1954, một chiếc máy bay đặc chủng, U-2, đã được kỹ sư Clarence Kelly Johnson của Lockheed thiết kế, và vào tháng 7 năm 1955, nó đã trở thành chiếc đầu tiên được thử nghiệm tại cơ sở Groom Lake ở Nevada, nay được biết đến nhiều hơn với tên gọi Khu vực 51 đầy thuyết âm mưu. Một thiết bị chụp ảnh mới đã được phát triển bởi James Baker và Edwin Land, người sáng tạo ra máy ảnh Polaroid có độ phân giải cần thiết để thu thập thông tin chi tiết mặt đất từ trên không.

Chuyến bay đầu tiên cất cánh từ Wiesbaden, Tây Đức, vào ngày 4 tháng 7 năm 1956, và mặc dù Khruschev đã ra lệnh bắn hạ nó, nó đã hoàn thành năm trong số bảy nhiệm vụ được giao phó, cung cấp thông tin về các xưởng đóng tàu Leningrad của Hải quân Liên Xô, đồng thời khiến các lực lượng vũ trang phải điều chỉnh ráo riết các ước tính của họ về sức mạnh máy bay ném bom và tình trạng sẵn sàng chiến đấu của quân đội Liên Xô. Trong suốt phần còn lại của thập kỷ, CIA vẫn giữ vỏ bọc cho rằng các nhiệm vụ này hoàn toàn mang tính khoa học, đồng thời cải thiện khả năng của U-2 và phát triển một máy bay mới, Dự án Oxcart, có thể thay thế nó.

Mặc dù U-2 sẽ tiếp tục phục vụ tích cực trong năm mươi năm nữa – và vẫn được lực lượng vũ trang Hoa Kỳ sử dụng đến tận ngày nay, chương trình bay do thám qua Liên Xô đã đột ngột dừng lại vào ngày 1 tháng 5 năm 1960, khi phi vụ thứ 24 do Đại úy Francis Gary Powers điều khiển bị bắn hạ. Xác máy bay được người Nga trưng bày, và Powers bị đưa ra xét xử. Anh chỉ thụ án hai năm tù trước khi được trao đổi với Đại tá KGB Rudolf Abel.

Theo Giám đốc CIA Allen Dulles, dự án U-2 “là một trong những hoạt động thu thập thông tin tình báo giá trị nhất mà bất kỳ quốc gia nào từng thực hiện, và nó rất quan trọng đối với an ninh quốc gia của chúng ta”. Nó cũng có thêm lợi ích là “khiến Liên Xô bớt tự mãn về khả năng đối phó với những gì chúng ta có thể gây ra cho họ”.

Chương trình U-2 đã trở thành công khai sau vụ tai nạn của Powers, nhưng một khía cạnh khác của cộng đồng tình báo ngày càng trở nên giá trị sẽ được giữ bí mật lâu hơn đáng kể: Cơ quan An ninh Quốc gia (NSA), đặt trụ sở từ năm 1956 trở đi tại Fort Meade, gần Washington D.C. Trong khi ngày nay địa chỉ và số điện thoại của NSA hiện ra khi tìm kiếm trên Google, thì vào những năm 1950, cơ quan tình báo tín hiệu được tài trợ mạnh mẽ này lại bí mật đến mức những người trong cuộc biết đến nó thường nói đùa rằng từ viết tắt NSA của nó có nghĩa là “No Such Agency” (Không có Cơ quan nào như vậy).

Mặc dù các chuyên gia giải mã SIGINT (tình báo tín hiệu) của Anh và Mỹ đã đạt được một số thành công trong những năm ngay sau Thế chiến thứ hai trong việc đọc các mã của Liên Xô hiện hành, nhưng quyết định của Điện Kremlin vào thứ sáu ngày 20 tháng 10 năm 1948 về việc thay đổi tất cả các mật mã và máy giải mã của họ đã tạo ra cái được mô tả “có lẽ là tổn thất tình báo quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ”. Thứ Sáu Đen, như cách gọi nhanh chóng được phổ biến, đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn tám năm khi hầu như không có thông tin gì về những gì đang diễn ra bên trong Liên Xô, chỉ được cải thiện nhờ các phi vụ U-2. Các chuyên gia giải mã đã có thể giải mã các tín hiệu của Triều Tiên trong chiến tranh ở đó, cung cấp thông tin vô giá giúp cứu sống nhiều người trong giai đoạn đầu của cuộc xung đột, nhưng rõ ràng là có quá nhiều cơ quan khác nhau, mỗi cơ quan đều thực hiện các hoạt động giải mã của riêng mình. Tổng thống Truman đã thành lập NSA vào năm 1952 để điều phối việc thu thập và xử lý thông tin tình báo truyền thông, với Bộ trưởng Quốc phòng là đặc vụ điều hành mọi hoạt động SIGINT, đưa cơ quan mới ra khỏi phạm vi thẩm quyền của CIA.

Ảnh hưởng của Thứ Sáu Đen tiếp tục được cảm nhận trong những năm đầu của NSA, khi cơ quan này không nắm bắt được thông tin về cái chết của Stalin hay cuộc nổi dậy sau đó ở Đông Berlin vào mùa xuân năm 1953. Đến năm 1955, việc thiếu khả năng giải mã các mật mã cấp cao nhất của Nga đã gây ra mối lo ngại nghiêm trọng. Tuy nhiên, khi Cách mạng Hungary và Khủng hoảng Suez nổ ra đồng thời, NSA đã có thể cung cấp đủ thông tin để Tổng thống Eisenhower hành động nhằm xoa dịu tình hình và không phản ứng thái quá – họ biết về các hoạt động di chuyển xe tăng của Liên Xô trên biên giới Hungary, và kế hoạch Israel/Anh/Pháp liên quan đến Ai Cập.

NSA đã hợp tác với CIA trong các nhiệm vụ U-2, giám sát Liên Xô sử dụng các thông tin liên lạc phòng không, và thậm chí cả việc chặn bắt thông tin từ các nhân viên điều khiển radar đang theo dõi các máy bay do thám của mình, cung cấp cho CIA thông tin thời gian thực về tiến độ nhiệm vụ. Họ cũng có thể suy ra quy mô của không quân Liên Xô từ bản chất của lực lượng được cử đến để chặn máy bay do thám. Mối quan hệ trở nên lạnh nhạt hơn sau vụ bắn hạ máy bay của Đại úy Powers: NSA khăng khăng rằng Powers bay thấp hơn nhiều so với những gì anh ta khai, mặc dù báo cáo chính thức ủng hộ lời khai của Powers, điều này khiến NSA rất khó chịu.

Không có gì ngạc nhiên khi NSA trở thành mục tiêu hàng đầu của KGB. Mặc dù tất cả các hoạt động tình báo của Liên Xô đều lợi dụng những người “tại chỗ” (những kẻ tình nguyện phương Tây sẵn sàng phản bội đất nước, thay vì các đặc vụ được cài cắm vào vị trí), NSA đã trở thành mục tiêu của một kế hoạch lớn bởi giám đốc KGB Alexsandr Shelyepin, ông trùm này đã thiết lập sự phối hợp hiệu quả hơn giữa các ban giám đốc có liên quan với cơ quan An ninh và thành lập một Phòng ban Đặc biệt có mục tiêu chính là thu thập thông tin tình báo về các hệ thống mật mã mà các nhà phân tích mã Liên Xô đặc biệt quan tâm.

Đến năm 1960, ba đặc vụ NSA đang làm việc cho Moscow, nhưng sau đó hai chuyên viên mật mã, William Hamilton Martin và Bernon F. Mitchell, vốn làm việc tại NSA được bốn năm, đã đào tẩu trong kỳ nghỉ phép thường niên vào tháng 6. Khi đến Moscow vào tháng 9 năm đó, họ đã tổ chức một cuộc họp báo tiết lộ nhiều thông tin quan trọng về hoạt động của NSA, bao gồm cả một tiết lộ gây lúng túng cho rằng cơ quan này không chỉ tập trung theo dõi kẻ thù, mà cả Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Pháp, Nam Tư, Cộng hòa Ả Rập Thống nhất, Indonesia và Uruguay cũng đều được Martin đề cập cụ thể. Mọi người đều công nhận rằng hai gã này có quan hệ đồng tính, khiến họ dễ bị khai thác. Sự cố này dẫn đến một cuộc săn lùng phù thủy trong nội bộ NSA và kết quả là buộc hơn 20 sĩ quan bị cho là “lệch lạc giới tính” phải từ chức, Kỳ lạ thay, các cuộc điều tra nội bộ của chính NSA, mặc dù lưu ý rằng “Không còn nghi ngờ gì nữa, không có sự kiện nào khác đã  từng gây ra, hoặc có khả năng sẽ gây ra trong tương lai, môt tác động to lớn hơn đến chương trình an ninh của Cơ quan”, lại tin rằng việc họ đào ngũ là do bốc đồng, chứ không phải do bị khai thác vì khuynh hướng tình dục.

KGB vẫn còn một đặc vụ khác tại chỗ: Trung sĩ Jack Dunlap, tài xế của tham mưu trưởng tại Fort Meade, người đã tình nguyện phục vụ cho đại sứ quán Liên Xô tại Washington vào năm 1960. Hắn đã trở thành nguồn cung cấp tài liệu hướng dẫn, sổ tay hướng dẫn và thiết kế khái niệm và kỹ thuật cho máy mã hóa, nhưng hắn thấy bế tắc khi phải đối phó với cuộc sống hai mặt nên đã tự tử vào tháng 7 năm 1963. Sự phản bội của hắn chỉ bị phát hiện một tháng sau khi qua đời.

Vào lúc đó, KGB lại phải giải quyết những vấn đề khác vì sự nghiệp của một số đặc vụ phục vụ lâu năm nhất của họ đã kết thúc vào đầu những năm 1960.

Bình luận về bài viết này