Lược Sử về Điệp Viên (Bài 2)

Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

PAUL SIMPSON

Trần Quang Nghĩa dịch

2 MỘT NỀN CHÍNH TRỊ THỰC TẾ MỚI 

“Thậm chí đến hôm nay tôi có thể nói rằng tôi không nghĩ sẽ có bất kỳ bất đồng nào không thể giải quyết được giữa Nga, Anh và Hoa Kỳ”, Tổng thống Roosevelt đã phát biểu với người dân Mỹ trong “buổi mạn đàm bên lò sưởi” được phát sóng trên toàn thế giới vào đêm Giáng sinh năm 1943, sau các cuộc gặp với những người đồng cấp là Thủ tướng Anh Winston Churchill, nhà lãnh đạo Liên Xô Josef Stalin và Tổng tư lệnh Trung Quốc Tưởng Giới Thạch – tại Cairo và Tehran. Ông tiếp tục nói:

Trong những hội nghị này, chúng tôi quan tâm đến các nguyên tắc cơ bản liên quan đến an ninh, phúc lợi và mức sống của con người ở các quốc gia lớn và nhỏ.

 

Nói theo kiểu Mỹ và hơi kém ngữ pháp, tôi có thể nói rằng tôi “rất hợp gu” với Nguyên soái Stalin. Ông ấy là một người kết hợp giữa quyết tâm sắt đá, bền bỉ với khiếu hài hước sống động. Tôi tin rằng ông ấy thực sự đại diện cho trái tim và tâm hồn của nước Nga; và tôi tin rằng chúng ta sẽ rất hợp với ông ấy và nhân dân Nga – thực sự rất hợp…

 

Học thuyết cho rằng kẻ mạnh sẽ thống trị kẻ yếu là học thuyết của kẻ thù chúng ta – và chúng ta bác bỏ học thuyết này.

Roosevelt chắc chắn đã sẵn sàng chấp nhận lời đảm bảo của Stalin rằng người dân các nước Baltic (Litva, Latvia và Estonia) sẽ được tự do lựa chọn có tiếp tục nằm dưới sự thống trị của Liên Xô hay không. Mặc dù Stalin đã nói rõ rằng ông muốn một đường biên giới xa về phía tây cho Ba Lan, đặt phần lớn đất nước này dưới sự kiểm soát của Liên Xô, nhưng cuộc thảo luận đã bị hoãn lại.

Tuy nhiên, nỗi khao khát của Stalin muốn tăng cường bá quyền của Liên Xô đã được Cố vấn của Roosevelt, Charles Bohlen, lưu ý. Ông này đã nói với đại sứ Hoa Kỳ tại Liên Xô “Liên Xô sẽ là lực lượng quân sự và chính trị quan trọng duy nhất trên lục địa châu Âu. Phần còn lại của châu Âu sẽ bị suy giảm xuống mức bất lực về quân sự và chính trị”. Có ý kiến cho rằng Roosevelt đã đồng ý với các kế hoạch của Stalin để đổi lấy sự ủng hộ của nhà lãnh đạo Liên Xô đối với việc thành lập Liên Hiệp Quốc. (Điều đáng chú ý là NKVD đã cài thiết bị nghe lén vào tài sản của phái đoàn Hoa Kỳ, và Liên Xô coi một cố vấn khác của Roosevelt, Harry Hopkins, gần như là một trong những người của họ – Hopkins không phải là một tín đồ Cộng sản, nhưng ông chấp nhận quan điểm rằng Liên Xô chắc chắn sẽ là cường quốc thống trị ở châu Âu sau khi chiến tranh kết thúc và đã khuyên tổng thống một cách tương ứng.)

Khi các nhà lãnh đạo gặp nhau tại Yalta năm 1945, sau cuộc đổ bộ thành công vào Ngày D, chiến tranh gần như đã kết thúc. Quân đội Nga và Đồng minh gần như đã có mặt tại Berlin, và phần lớn Đông Âu giờ đây trên thực tế nằm dưới sự cai quản của Moskva. Như Bernard Baruch, một trong những cố vấn của Roosevelt, đã chỉ ra, sẽ là vô ích nếu “đòi hỏi Nga những gì mình cần và phần lớn những thứ họ đang sở hữu”. Ba Lan sẽ nằm dưới sự cai trị của Liên Xô, mặc dù Stalin đã hứa sẽ tổ chức bầu cử. Đức sẽ bị chia cắt thành bốn vùng, với Berlin bị chia cắt, một hòn đảo nằm trong vùng lãnh thổ của Liên Xô.

Charles Bohlen cảm thấy Stalin đang lừa dối tổng thống. ‘Điều Roosevelt không hiểu là sự thù địch của Stalin xuất phát từ niềm tin ý thức hệ sâu sắc,’

Ông viết. ‘Sự tồn tại một khoảng cách giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, một khoảng cách không thể san lấp, chưa bao giờ được Franklin Roosevelt nhận thức đầy đủ.’ Chính Roosevelt đã nói, ‘Tôi nghĩ rằng nếu tôi cho ông ấy mọi thứ tôi có thể và không đòi hỏi gì từ ông ấy, thì ông ấy sẽ không tìm cách thôn tính bất cứ thứ gì thêm và sẽ nỗ lực vì một thế giới dân chủ và hòa bình.’

Nhưng Stalin không có ý định thực hiện lời hứa của mình. Roosevelt nói với Quốc hội rằng ông hy vọng thỏa thuận Yalta sẽ “đánh dấu sự kết thúc của hệ thống hành động đơn phương, các liên minh độc quyền, các phạm vi ảnh hưởng, cán cân quyền lực, và tất cả những phương sách khác từng được thử nghiệm trong nhiều thế kỷ và luôn thất bại”. Xét cho cùng, đó là một quan điểm ngây thơ. Stalin từ chối cho phép các quan sát viên phương Tây tham gia cuộc bầu cử, và Roosevelt nhận ra, chưa đầy ba tuần trước khi qua đời, rằng: ‘Chúng ta không thể làm ăn với Stalin. Ông ta đã phá vỡ mọi lời hứa đã đưa ra tại Yalta.’

Ngày 12 tháng 4 năm 1945, Roosevelt qua đời vì xuất huyết não. Người kế nhiệm ông, Harry S. Truman, thẳng thắn hơn Roosevelt rất nhiều: khi Ngoại trưởng Liên Xô phàn nàn rằng mình chưa bao giờ bị đối xử như vậy, sau khi bị tổng thống khiển trách, Truman đáp: “Hãy thực hiện các thỏa thuận của ông đi, rồi ông sẽ không bị đối xử như thế nữa.” Chính Truman đã ngồi lại với Churchill – Thủ tướng Anh lúc bấy giờ là Clement Atlee, người mà Đảng Lao động của ông đã nắm quyền trong cuộc bầu cử hậu chiến diễn ra giữa hội nghị – và với Stalin tại Potsdam, một vùng ngoại ô ở phía tây nam Berlin, và phát hiện ra rằng hầu hết các quyết định quan trọng đã được đưa ra và Stalin không có ý định chấp nhận bất kỳ quyết định nào không trực tiếp mang lại lợi ích cho các kế hoạch của Liên Xô. Ưu tiên ban đầu của Truman là cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn ở Viễn Đông và giành được sự ủng hộ của Liên Xô cho mục tiêu đó. Tuy nhiên, cuối cùng, việc sử dụng bom nguyên tử, đầu tiên là ở Hiroshima và sau đó là Nagasaki, đã thúc đẩy Nhật Bản đầu hàng, và Truman có thể tập trung vào sự hai mặt của Liên Xô mà ông đã chứng kiến. Sự hai mặt này sẽ bị phơi bày chi tiết khi một nhân viên mật mã tại đại sứ quán Liên Xô ở Ottawa, Canada, đào tẩu sang phương Tây vào tháng 9 năm đó.

Cũng giống như giám đốc điều hành thu âm đã từ chối ký hợp đồng với Beatles (ban nhạc trẻ đầu tiên lừng danh thế giới) đã đi vào lịch sử như là người đã bỏ lỡ một trong những cơ hội lớn của thế kỷ XX, về mặt gián điệp, biên tập viên đêm tại tòa soạn  Ottawa Journal cũng đã không chú ý đầy đủ về một người Nga bồn chồn có mặt trong văn phòng vào tối ngày 5 tháng 9 năm 1945.

Igor Gouzenko đã quyết định đào thoát khỏi vị trí của mình tại Đại sứ quán Liên Xô ở Ottawa. Mặc dù chính thức được tuyển dụng làm nhân viên mật mã, nhưng thực chất anh là một trung úy trong cơ quan tình báo Quân đội Liên Xô (GRU), và quyết tâm xin tị nạn khi biết mình và gia đình sắp phải trở về Liên Xô. Anh hiểu rõ rằng bất kỳ ai phục vụ ở nước ngoài đều bị mật vụ Liên Xô nghi ngờ, và ông biết rằng cuộc sống ở Canada, ngay cả với chính sách thắt lưng buộc bụng không thể tránh khỏi sau chiến tranh, vẫn còn tốt hơn ở quê nhà. Để đảm bảo người Canada sẽ cho phép mình ở lại, thay vì chỉ đơn giản trả anh về đại sứ quán, anh đã lấy cắp một túi chứa hơn một trăm thông điệp đã giải mã cung cấp thông tin chi tiết về hoạt động gián điệp gần đây của Liên Xô chống lại cả Canada và Hoa Kỳ.

Gouzenko đã hết sức thu hút sự chú ý của cả tờ Ottawa Journal và Bộ Tư pháp Canada vào câu chuyện của mình, nhưng không ai lắng nghe. Cuối cùng, người hàng xóm của anh, một sĩ quan Không quân Canada, đã thương hại anh và cho phép Gouzenko ẩn náu trong nhà mình. Sau đó, anh ta liên lạc với Cảnh sát Hoàng gia Canada (RCMP), đang theo dõi từ Công viên Dundonald khi các đặc vụ NKVD lục soát căn hộ của Gouzenko, tuyệt vọng tìm kiếm kẻ đào thoát.

Tài liệu mà Gouzenko mang theo đúng là bom. Mặc dù tài liệu gọi các đặc vụ bằng mật danh, nhưng cũng đủ bằng ngôn ngữ dễ hiểu để tiết lộ một đường dây người đưa tin  Liên Xô ở khắp mọi nơi. “Điều đáng kinh ngạc”, Thủ tướng Canada Mackenzie King đã viết trong nhật ký của mình sau khi được tóm tắt thông tin mà Gouzenko cung cấp, ‘là có biết bao cuộc tiếp xúc thành công với những thành viên giữ các vị trí quan trọng trong chính phủ và giới công nghiệp.’

Trong lịch sử chính thức của mình, Cơ quan Tình báo An ninh Canada (CSIS) ghi nhận những tiết lộ của Gouzenko:

. . . đã mở ra kỷ nguyên hiện đại của tình báo an ninh Canada. Trước đây, chính quyền coi “mối đe dọa cộng sản” là mối đe dọa đối với phong trào lao động. Thông tin của Gouzenko cho thấy Liên Xô thời đó không chỉ quan tâm đến việc nuôi dưỡng tình cảm những người lao động bất mãn: họ còn quyết tâm thu thập thông tin quân sự, khoa học và công nghệ bằng mọi cách có thể. Kiến thức đó đã trở thành chìa khóa cho sự tiến bộ, và Liên Xô quyết tâm tiến lên.

Thông tin anh cung cấp đã dẫn đến một cuộc điều tra toàn diện và bắt giữ theo Đạo luật Biện pháp Thời chiến của Canada. 11 trong số 21 người Canada bị bắt đã bị kết án, bao gồm cả nghị sĩ Fred Rose, đảng viên Cộng sản duy nhất từng được bầu vào cơ quan chính quyền Canada.

Người Anh và người Mỹ, dĩ nhiên, muốn biết thêm về những tiết lộ của Gouzenko, đặc biệt là vì nó được “hỗ trợ bởi các bằng chứng tài liệu thuyết phục về hoạt động gián điệp chính trị và khoa học”, theo báo cáo chính thức. Đặc vụ Roger Hollis của MI5 được cử đến hỗ trợ việc thẩm vấn và chuyển thông tin về London, mặc dù một trong những liên lạc viên ở đó là điệp viên Liên Xô Kim Philby, nên Trung tâm Moscow đã được cập nhật thông tin về những tiết lộ này và có thể cố gắng giảm thiểu thiệt hại.

Tuy nhiên, họ chẳng thể làm gì được. Tài liệu của Gouzenko đã tiết lộ một trong những điệp viên chủ chốt của Liên Xô có liên quan đến nỗ lực của Trung tâm Moscow nhằm thu thập thông tin về chương trình nguyên tử của Hoa Kỳ – điều mà Liên Xô đã quan tâm trong một thời gian dài.

Igor Gouzenko

Các tài liệu của Gouzenko đặc biệt xác định nhà khoa học Alan Nunn May là một trong những điệp viên của Dự án Manhattan, mật danh cho kế hoạch phát triển bom nguyên tử. Là đảng viên Đảng Cộng sản Anh từ những năm 1930, Nunn May đã cung cấp thông tin cho Liên Xô về khả năng chế tạo một quả bom hạt nhân “bẩn” vào năm 1941. Khi được cử đến Canada vào tháng 1 năm 1943 để làm việc cho Dự án Manhattan, y đã trở thành một phần của mạng lưới GRU do Đại tá Nikolai Zabotin điều hành từ Đại sứ quán Ottawa, và đã chuyển cả thông tin lẫn mẫu Uranium-235 cho Liên Xô, dường như để đổi lấy hai chai rượu whisky và 700 đô la, mà Nunn May nói mình đã đốt bỏ. Khi trở về Anh, cuối cùng y bị MI5 bắt giữ và đã thú tội. Sau đó, y bị kết án mười năm tù, bất chấp lập luận của luật sư cho rằng vào thời điểm y chuyển giao tài liệu, Liên Xô là đồng minh của Anh. Một gián điệp chủ chốt khác của Liên Xô trong Dự án Manhattan vẫn được an toàn thêm một thời gian nữa.

Trong khi RCMP và MI5 đang điều tra những bí mật của Gouzenko, FBI cũng đang phải ráo riết giải quyết những phát hiện của riêng mình khi một trong những đặc vụ Liên Xô lâu năm nhất trên đất Mỹ tự nguyện trình báo và bắt đầu tiết lộ nhiều hoạt động tình báo của Liên Xô.

Elizabeth Bentley, sau này được gọi là Nữ hoàng Gián Điệp Đỏ, đã gia nhập đảng Cộng sản Mỹ vào năm 1935, và khi cô nhận được công việc trong Thư viện Thông tin Ý – một cơ quan tuyên truyền của chế độ Phát xít Ý,  có trụ sở tại New York. Ba năm sau, cô tình nguyện làm đặc vụ. Đặc vụ NKVD Jacob Golos trở thành người kiểm soát cô, mặc dù Bentley khẳng định cô không hề biết mình đã làm việc cho Trung tâm Moscow trong ít nhất hai năm. Năm 1940, khi Golos bị buộc phải đăng ký theo Đạo luật Đăng ký Người nước ngoài, Bentley đã trở thành trung gian với mạng lưới điệp viên của mình và phụ trách các hoạt động che đậy của Golos, Tập đoàn Dịch vụ và Vận tải Hoa Kỳ. Trong chiến tranh, cô điều hành nhóm Silvermaster, một mạng lưới xoay quanh Nathan Gregory Silvermaster, một nhà kinh tế học thuộc Ban Sản xuất Chiến tranh, nơi chuyển thông tin về sức mạnh quân sự của Đức và sản xuất đạn dược của Mỹ, cũng như các tài liệu hữu ích khác, trở về Moscow.

Khi Golos qua đời vì một cơn đau tim vào năm 1943, Bentley, được Moscow đặt mật danh là Umnitsa (Cô Thông Thái), tiếp tục các hoạt động gián điệp của mình, giờ đây báo cáo cho Iskhak Akhmerov, điệp viên NKVD hàng đầu tại Hoa Kỳ. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Hoa Kỳ Earl Browder ủng hộ mong muốn của cô là giữ cho các điệp viên báo cáo thông qua bà, thay vì trực tiếp cho Akhmerov, nhưng vào tháng 6 năm 1944, Browder đã thay đổi ý định. “Lúc đó tôi phát hiện ra Earl Browder chỉ là một con rối, rằng có ai đó đang giật dây ở Moscow”, Bentley sau này nói, ám chỉ rằng đây chính là lý do khiến cô đào tẩu.

Tình báo Liên Xô bắt đầu nghi ngờ Bentley khi cô bắt đầu hẹn hò với Peter Heller, người mà họ nghi ngờ làm việc cho FBI. Họ đề nghị cô di cư sang Liên Xô, nhưng Bentley từ chối. Thay vào đó, cô đến thăm một văn phòng FBI vào tháng 8 năm 1945, nhưng đã không đào tẩu vào thời điểm đó. Sau một cuộc cãi vã với người quản lý mới của mình, Anatoly Gorsky (người đã chuyển sang làm việc với các đài truyền hình Mỹ sau thành công của ông với Philby và các thành viên khác của Ngũ Tuyệt ở London từ năm 1940 trở đi), cô nhận ra mình đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng từ Trung tâm Moscow và Gorsky thực sự đã đề nghị họ loại bỏ cô. Khi biết Louis Budenz, một trong những nguồn tin của mình, đã đào thoát, bà đã quyết định.

Elizabeth Bentley bắt đầu kể câu chuyện của mình cho FBI vào ngày 7 tháng 11 năm 1945, và kể từ đó, bà đã cung cấp hàng loạt thông tin hé lộ mức độ xâm nhập của Liên Xô vào mọi tầng lớp xã hội Mỹ. Bà đã nêu tên khoảng 150đặc vụ làm việc cho Liên Xô, bao gồm 37 nhân viên liên bang, và thông báo với FBI rằng “người Nga đang rất quan tâm đến việc đưa ai đó vào làm việc cho FBI, đặc biệt với tư cách là một đặc vụ… Người Nga đã cố gắng trong hai năm để đưa ai đó vào làm việc cho FBI, nhưng không thành công… FBI là cơ quan chính phủ duy nhất mà họ không thể đột phá và tiền không phải là vấn đề để thực hiện việc này.’

Có lẽ được tiếp thêm sức mạnh bởi thông tin người Nga coi họ là bất khả xâm phạm, FBI nghĩ rằng họ sắp tóm gọn nhiều đường dây gián điệp, đặc biệt là khi thông tin Bentley cung cấp trùng khớp với tài liệu từ Igor Gouzenko. Nhưng một lần nữa, Trung tâm Moscow dường như đã biết trước mọi thứ, và các điệp viên khác nhau không còn được các đặc vụ kiểm soát của Nga liên lạc nữa. Lý do là gì? Một lần nữa, trong vai trò của mình tại MI6, Kim Philby đã được cập nhật thông tin – và đã chuyển tin xấu đến Moscow, và từ đây điện tín gửi cho các điệp viên Mỹ lệnh cho họ ‘chấm dứt ngay lập tức mối liên hệ với tất cả những người mà Bentley biết đến trong công việc của chúng ta và cảnh báo các điệp viên về sự phản bội của Bentley’.

Mặc dù những tiết lộ này có thể không dẫn đến các chiến tích phi thường như FBI đã hy vọng, nhưng những tiết lộ của Elizabeth Bentley đã giáng một đòn mạnh vào Trung tâm Moscow. Không chỉ làm lộ bí mật của nhiều nguồn tin hữu ích, lời khai dài 107 trang của bà còn liệt kê tất cả các khía cạnh về hoạt động và mánh khóe của Liên Xô tại Hoa Kỳ. Cùng với tài liệu của Igor Gouzenko, và việc mất đột ngột toàn bộ điệp viên của họ bên trong OSS khi tổ chức này đột ngột bị giải tán vào đầu tháng 10 năm 1945, tình hình có vẻ không mấy khả quan cho Liên Xô. Tuy nhiên, họ vẫn còn con át chủ bài – Kim Philby, và các thành viên khác của nhóm Ngũ Tuyệt. Nhưng ngay cả thời gian của nhóm này cũng sắp hết.

“Nữ hoàng đỏ” Elizabeth Bentley trong một cuộc họp báo

Lời khai và thông tin của Igor Gouzenko và Elizabeth Bentley có thể khiến các tổ chức phản gián Mỹ và Anh phải suy ngẫm, nhưng một trong những nguồn thông tin quan trọng nhất về hoạt động của Liên Xô ở phương Tây, nguồn dẫn trực tiếp đến việc vạch trần đường dây gián điệp của Kim Philby, lại đến từ chính người Nga. Mặc dù phần lớn thông tin tình báo thu thập được từ đó được phát hiện trong vài năm đầu của Chiến tranh Lạnh, nhưng sự tồn tại của nó, cùng với những hiểu biết mà nó mang lại về các hoạt động của Liên Xô chống lại phương Tây, chính là những yếu tố dẫn đến sự bùng nổ của cuộc xung đột kéo dài hàng thập kỷ, và là nguyên nhân dẫn đến quyết định của Tổng thống Truman trong việc chủ động đối phó với Liên Xô.

Ngày 1 tháng 2 năm 1943, hoạt động liên lạc ngoại giao Liên Xô trở nên bị giám sát chặt chẽ hơn trước, khi Cục Tình báo Tín hiệu của Quân đội Hoa Kỳ bắt đầu dự án sau này có mật danh là Venona. Đặt trụ sở tại Arlington Hall ở Virginia, chương trình giải mã này cuối cùng cũng quan trọng đối với những người chống lại sự xâm nhập của Liên Xô như công trình tại Bletchley Park về cỗ máy Enigma đối với quân Đồng minh trong Thế chiến thứ hai.

Nói một cách đơn giản, các chuyên gia giải mã ở Venona đã xem xét hàng ngàn thông điệp được gửi đi gửi lại giữa Moscow và các phái bộ ngoại giao của họ trên khắp thế giới. Họ nhận ra rằng ngoài các mệnh lệnh và báo cáo cho các phái đoàn thương mại và nhà ngoại giao tại các phái bộ, còn có các chỉ thị được gửi đến đại diện của các nhóm tình báo Liên Xô khác nhau: NKVD, GRU và GRU-Naval (cơ quan tình báo hải quân Liên Xô).

Quá trình giải mã rất công phu và tiến độ chậm chạp. Một điểm yếu trong hệ thống mật mã của Liên Xô đã được phát hiện chỉ một năm sau khi Venona ra đời, và những đột phá tiếp theo diễn ra vào năm 1944, nhưng mãi đến năm 1946, chuyên gia mật mã Meredith Gardner mới có thể đọc được một phần thông điệp của NKVD. Như William P. Crowell đã giải thích khi dự án Venona được giải mật vào năm 1995:

Hệ thống mật mã Venona không thể đọc được. Chúng bao gồm một sổ mã, trong đó các chữ cái, từ và cụm từ được quy đổi thành số. Vì vậy, một nhân viên mã hóa sẽ lấy một tin nhắn văn bản thuần túy và mã hóa tin nhắn bằng các số từ sổ mật mã. Bản thân việc này sẽ đặt ra một thách thức đáng kể tùy thuộc vào thời gian sử dụng sổ mật mã. Tuy nhiên, các tin nhắn đã được chỉnh sửa thêm, nói cách khác là mã hóa gấp đôi  bằng cách sử dụng một cụm mã đệm dùng một lần. Việc sử dụng cụm mã đệm dùng một lần thực sự là mã hóa ngẫu nhiên và khiến nó không thể đọc được. Chìa khóa thành công của Venona là những sai sót trong quá trình xây dựng và sử dụng cụm mã đệm dùng một lần – một sự kiện chỉ được phát hiện thông qua phương pháp tấn công brute force và phân tích lưu lượng tin nhắn.

Theo cuốn sách về lịch sử KGB của Oleg Gordievsky, số lượng tin nhắn được trao đổi giữa Liên Xô và các phái bộ khác nhau trên toàn thế giới lớn đến mức vào cuối Thế chiến thứ hai, Trung tâm Moscow đôi khi lại gửi đi cùng một cụm mã đệm “dùng một lần” thêm lần nữa. (Viên sĩ quan mật mã phụ trách việc này hẳn đã bị bắn.)

Khi công trình giải mã tiếp tục, ngày càng nhiều mật danh của các điệp viên Liên Xô được tiết lộ – củng cố thông tin do Gouzenko và Bentley cung cấp – và nhóm tại Arlington Hall được bổ sung bởi các nhà phân tích Anh cũng như đại diện của FBI.

Không phải tất cả các thông điệp đều được giải mã, nhưng cũng đủ để các nhà điều tra lần theo manh mối. Một cuốn sổ mật mã bị cháy, được tìm thấy trên chiến trường vào cuối cuộc chiến, cuối cùng đã tỏ ra hữu ích khi một số nội dung của nó tương quan với Venona, nhưng điều này chỉ được đưa ra ánh sáng gần một thập kỷ sau khi nó được phát hiện.

Không có gì ngạc nhiên khi Liên Xô tỏ ra lo ngại về công trình này. Elizabeth Bentley đã đề cập trong một cuộc thẩm vấn rằng Moscow đã biết ở một mức độ nào đó về công trình đang diễn ra ở đó ngay từ năm 1944. Năm 1945, họ đã xoay sở cài được một điệp viên, Bill Weisband, vào Arlington Hall, nhưng trớ trêu thay, danh tính của người này đã bị phát hiện khi các chỉ thị liên quan được ghi lại trong một tài liệu được Venona giải mã. Tuy nhiên, ngay cả sau khi hành vi phản bội của y bị phát hiện vào năm 1950, Weisband vẫn chưa bao giờ bị truy tố vì tội gián điệp vì cả người Anh và người Mỹ đều đồng ý rằng dự án Venona quá có giá trị để được đề cập ngay cả trong phiên điều trần kín.

Liên Xô không thể làm gì nhiều với Venona: họ không biết các nhà mật mã của Arlington Hall có thể đọc được những thông điệp nào, vì vậy, như Gordievsky đã nói, ‘Rõ ràng là Venona đại diện cho một loạt quả bom hẹn giờ có sức tàn phá khủng khiếp đối với mạng lưới điệp viên của Nga.’

Bí mật lớn nhất mà Moscow muốn giữ kín là việc tiếp cận thông tin nghiên cứu bom nguyên tử của Mỹ và Anh. Một trong những thông điệp tình báo đầu tiên từ năm 1944 được giải mã vào tháng 12 năm 1946, liên quan đến mật danh ENORMOZ – Dự án Manhattan – cung cấp cho Liên Xô danh sách tên các nhà khoa học hàng đầu đang nghiên cứu bom nguyên tử. Các tin nhắn khác cung cấp thông tin chi tiết cụ thể về tiến độ phát triển của thiết bị mà các điệp viên Liên Xô cài vào căn cứ tuyệt mật Los Alamos ở New Mexico với hy vọng sẽ giúp các đối tác khoa học của họ duy trì được sự ngang bằng với dự án của Hoa Kỳ.

Điệp viên Liên Xô chính là Tiến sĩ Klaus Fuchs, một đảng viên Đảng Cộng sản Đức đã chuyển đến Anh vào năm 1933. Ông được đưa vào dự án bom nguyên tử của Anh dưới sự chỉ đạo của Giáo sư Rudolf Peierls vào năm 1941. MI5 ban đầu ngần ngại cấp thông quan an ninh cho Fuchs, nhưng cuối cùng ông cũng được duyệt cấp – và nhờ đó ngay lập tức ông đến London để tìm cách hỗ trợ người Nga! Sau này, ông tuyên bố rằng mình không biết đang làm việc cho GRU hay NKGB, và chống chế rằng mình không biết là có nhiều hơn một nhánh tình báo của Liên Xô.

Fuchs được điều sang Mỹ vào tháng 12 năm 1943, và được chuyển giao cho một điệp viên Nga chủ chốt khác, Harry Gold, và ông này sau đó đã chuyển giao về Moscow nhiều chi tiết về quả bom, bổ sung cho tài liệu mà một điệp viên Nga khác, David Greenglass, đang cung cấp. Điều này tiếp tục diễn ra trong suốt thời gian còn lại của Thế chiến thứ hai, với việc Greenglass rời khỏi trụ sở Los Alamos vào tháng 2 năm 1946, và Fuchs đến Cơ sở Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Anh tại Harwell, Oxfordshire, bốn tháng sau đó. Tuy nhiên, gần như cùng lúc người Nga được hưởng lợi từ sự phản bội của Fuchs khi cho nổ quả bom nguyên tử của chính mình, các bản ghi chép của Venona cũng đã cung cấp manh mối về danh tính của cả Fuchs và Greenglass. Fuchs bị bắt và thú tội vào tháng 1, năm 1950, trong khi Greenglass thừa nhận vai trò của mình vào tháng 6 năm đó. Thông tin mà Greenglass cung cấp đã chứng minh là rất quan trọng trong việc phá vỡ mạng lưới Liên Xô do Julius và Ethel Rosenberg điều hành (xem chương 4).

Ngoài việc cắt đứt đường dây xâm nhập của Liên Xô vào cơ quan nguyên tử, Venona còn làm tê liệt một trong những hoạt động chính của họ tại Úc. Từ năm 1943, NKVD thường trú tại Canberra đã thành công lớn trong việc xâm nhập Bộ Ngoại giao Úc, nhờ đó tiếp cận được nhiều bí mật của Anh. Jim Hill và Ian Milner, hai đặc vụ Liên Xô giỏi nhất tại đó, đã bị phát hiện bởi các thông tin từ Venona. Đầu năm 1948, M15 đã cử Tổng Giám đốc, Ngài Percy Sillitoe, cùng đi có Roger Hollis, tiến hành một cuộc điều tra với câu chuyện vỏ bọc là có một điệp viên Anh trong tình báo Liên Xô đã tiết lộ thông tin về các đặc vụ này, thay vì mạo hiểm làm tổn hại đến Venona. Việc mất đi các đặc vụ này là một đòn giáng mạnh vào Trung tâm Moscow đến nỗi cho đến khi điệp viên KGB Vladimiri Petrov đào thoát vào năm 1954, họ vẫn chưa thể đạt được gì ngoài những vụ đột nhập nhỏ đối với an ninh Úc.

Tuy nhiên, có lẽ khám phá của nguồn tin Venona  gây tổn hại nhất cho Liên Xô là một chi tiết tưởng chừng như tầm thường: một đặc vụ Nga, mật danh Gomer (Homer trong tiếng Anh), đã đi từ Washington đến New York vào năm 1944 để thăm người vợ đang mang thai. Khi chi tiết cuối cùng này được đưa vào khai thác, điều đó có nghĩa là Homer chỉ có thể là một người: Donald Maclean. Và cùng với Maclean sẽ là toàn bộ nhóm Ngũ Tuyệt.

Kim Philby vẫn ở lại MI6 sau khi chiến tranh kết thúc, trở thành trưởng Trạm Mật vụ ở Thổ Nhĩ Kỳ từ năm 1947 đến năm 1949 (lợi dụng chức vụ này để lột mặt bất kỳ điệp viên Anh nào tìm cách sử dụng cửa khẩu biên giới Thổ Nhĩ Kỳ để tiếp cận Liên Xô), và sau đó được cử làm đại diện MI6 tại Washington từ năm 1949, trong thời gian đó ông được tiếp cận hồ sơ mật của cả Mỹ và Anh. Không lâu trước khi bị triệu hồi vào năm 1951, ông đã chuyển thông tin về ba nhóm, mỗi nhóm sáu đặc vụ, nhảy dù xuống Ukraine và đưa họ đến chỗ chết. Ông ghi trong nhật ký: “Tôi có thể đưa ra dự đoán có cơ sở” về số phận của họ.

Trong cùng thời gian đó, Guy Burgess và Donald Maclean đã có thể chuyển giao hàng đống thông tin từ Bộ Ngoại giao, đôi khi Burgess nhận được hỗ trợ từ Anthony Blunt. Mặc dù Burgess dần trở nên phóng đãng hơn, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi rượu hoặc ma túy, y vẫn có thể dẫn dụ  moi thông tin từ những đồng nghiệp nhẹ dạ như khi y làm ở Ban Viễn Đông trong Bộ Ngoại giao trước khi được điều động đến Washington vào năm 1950. Maclean được điều động đến Cairo vào năm 1948, nhưng việc say sưa của y cũng trượt dài ngoài vòng kiểm soát, cũng như những khía cạnh khác trong hành vi của y. Theo Gordievsky, Trung tâm Moscow đổ lỗi cho cả y và Burgess về những hành vi thái quá của họ, mà thông tin Venona có thể gây bất lợi cho họ. Sau một vụ quậy trong cơn say xỉn ở Cairo vào năm 1950, Maclean được điều trở lại Anh, nơi y dường như đã lấy lại được bình tĩnh – và có thể cung cấp cho người Nga những thông tin tình báo hữu ích về sự phát động của Chiến tranh Triều Tiên.

Là người liên lạc của MI6 với các cơ quan tình báo và phản gián Hoa Kỳ, Kim Philby rất nhanh chóng nhận ra ai thực sự là người có mật danh Homer, nhưng phải mất 18 tháng sau, những lần giải mã tiếp theo mới cung cấp đủ manh mối để FBI có đủ bằng chứng chống lại Maclean. Danh sách nghi phạm thu hẹp xuống còn 35 vào cuối năm 1950, và chỉ còn 9 vào tháng 4 năm 1951. Philby đã ra sức đánh lạc hướng sự chú ý vào Maclean, nhưng một mẩu bằng chứng quan trọng chẳng những bác bỏ nghi can mà Philby gợi ý mà còn trở thành bằng chứng chí mạng đối với Maclean. Tuy nhiên, vì cả FBI lẫn MI5 đều không muốn tiết lộ sự tồn tại của Venona trước tòa (Fuchs và Greenglass đã thú nhận, nên điều đó không cần thiết trong các vụ án của họ), nên đã có một khoảng thời gian MI5 cố gắng thu thập bằng chứng mới về sự phản bội của Maclean.

Guy Burgess đã được điều đến Washington và ở lại với Philby (điều này sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến Philby sau khi Burgess đào thoát). Tuy nhiên, y đang dần dần mất kiểm soát, và Philby đã lợi dụng việc Burgess bị triệu hồi về Anh để gửi tin nhắn cho Maclean, vốn nhận ra rằng quyền tiếp cận các tài liệu tuyệt mật của mình đang bị hạn chế, và do đó có thể chính mình đang bị theo dõi. Khi Burgess đến London, y nhận được một lá thư từ Philby nói rằng, ‘Trời đang nóng lên ở đây.’ Burgess thấy khó lòng đối phó với tình hình, và Yuro Modin, đặc vụ KGB kiểm soát y, đã gây áp lực buộc y phải đào thoát cùng với Maclean. Trước khi MI5 có thể đưa Maclean vào vòng thẩm vấn, Burgess và Maclean đã biến mất, đi qua eo biển Manche rồi đến lục địa trước khi đến Moscow vài tuần sau đó.

Tin tức về sự ra đi của cả hai người đã khiến cộng đồng tình báo náo động. Anthony Blunt không bị nghi ngờ và có thể đột nhập vào căn hộ của Burgess, nơi y đã tiêu hủy một lượng lớn tài liệu có thể buộc tội (mặc dù y đã vô tình để lại một số ghi chú viết tay, dẫn trực tiếp đến việc vạch mặt John Cairncross). Modin đã cố gắng thuyết phục Blunt tham gia bỏ trốn cùng Burgess và Maclean nhưng Blunt từ chối. (Cuối cùng y đã thú tội vào năm 1964, nhưng được miễn truy tố.) Mặt khác, Kim Philby quyết định làm điều gì đó táo bạo – nhưng CIA lại có những ý tưởng khác.

 

3 CHIẾN TRANH LẠNH BẮT ĐẦU

Đến cuối năm 1945, Tổng thống Truman đã đi đến kết luận rằng Liên Xô không đáng tin cậy, nhưng ông vẫn hy vọng rằng bằng cách nào đó hòa bình có thể được duy trì. Mặc dù có bằng chứng rõ ràng về các mạng lưới của Liên Xô hoạt động tại Mỹ, nhờ lời khai của Oleg Gouzenko và Elizabeth Bentley, cùng với những tài liệu mới được công bố từ Venona, ông vẫn ngần ngại công khai vạch trần chúng. Tuy nhiên, những sự kiện trong vài tuần đầu năm 1946 đã bắt đầu cho người dân Mỹ thấy rằng liên minh thời chiến với Liên Xô sẽ không tiếp tục hoạt động sau khi xung đột kết thúc.

Tại Liên Xô, Stalin đã thể hiện rõ ràng việc mình nhìn nhận con đường phía trước rất khác so với các đồng minh cũ của mình. Tháng 2 năm 1946, trong bài phát biểu trước cử tri Moscow, ông đổ lỗi cho “chủ nghĩa tư bản độc quyền” về sự bùng nổ của Chiến tranh Thế giới Thứ hai và tiếp tục nói: “Có lẽ những cuộc chiến tranh thảm khốc có thể tránh được nếu có thể định kỳ phân phối lại nguyên liệu thô và thị trường giữa các quốc gia tương ứng theo sức mạnh kinh tế của họ thông qua các quyết định thống nhất và hòa bình. Nhưng điều này là không thể trong điều kiện phát triển kinh tế thế giới theo chủ nghĩa tư bản hiện nay.”

Một tuần sau, tin tức về vụ bắt giữ ở Canada dựa trên thông tin của Gouzenko đã được công bố ở Mỹ và vài ngày sau đó, cố vấn chính trị George F. Kennan đã gửi một bức điện tóm tắt từ Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Moscow, bức điện này sẽ định hình chính sách đối ngoại của Mỹ trong phần lớn 45 năm tiếp theo. Bức điện trình bày mối tin tưởng của ông rằng “Liên Xô vẫn cho rằng mình đang sống trong ‘vòng vây tư bản’ thù địch, mà về lâu dài sẽ không thể có sự chung sống hòa bình lâu dài”; rằng “Người Nga sẽ chính thức tham gia vào các tổ chức quốc tế khi họ thấy cơ hội mở rộng quyền lực của Liên Xô hoặc ngăn chặn hoặc làm suy yếu quyền lực của các nước khác”; và rằng “ở đây chúng ta có một lực lượng chính trị cuồng tín tin rằng sẽ không thể có modus vivendi (cụm từ tiếng Latin có nghĩa là “lối sống”, nhất là lối sống chung hòa bình giữa các cường quốc thù địch) vĩnh viễn với Hoa Kỳ, rằng điều họ mong muốn và cho là cần thiết là sự hòa hợp nội bộ của xã hội chúng ta bị đứt gãy, lối sống truyền thống của chúng ta bị phá vỡ, và quyền lực quốc tế của nhà nước chúng ta bị hủy hoại nếu muốn đảm bảo quyền lực của Liên Xô.’

Vào ngày 5 tháng 3, chính khách đáng kính Winston Churchill đã có bài phát biểu tại Đại học Westminster, Fulton, Missouri. Cùng với Tổng thống Truman, Churchill bày tỏ niềm tin rằng thế giới đã thay đổi không thể đảo ngược, và đã đặt ra một câu nói tiêu biểu cho chế độ do Liên Xô thống trị. Ông nói với khán giả sinh viên:

Từ Stettin ở Baltic đến Trieste ở Adriatic, một bức màn sắt đã buông xuống khắp Lục địa. Đằng sau bức màn ấy là tất cả thủ đô của các quốc gia cổ đại ở Trung và Đông Âu. Warsaw, Berlin, Prague, Vienna, Budapest, Belgrade, Bucharest và Sofia; tất cả những thành phố nổi tiếng này cùng dân số xung quanh đều nằm trong cái mà tôi phải gọi là phạm vi Xô Viết, và tất cả đều chịu sự chi phối, dưới hình thức này hay hình thức khác, không chỉ dưới ảnh hưởng của Liên Xô mà còn chịu sự kiểm soát rất mạnh mẽ, và trong một số trường hợp, ngày càng tăng, từ Moscow.

 

Ở nhiều quốc gia, xa biên giới Nga và trên khắp thế giới, các lực lượng thứ năm Cộng sản đã được thành lập và hoạt động trong sự thống nhất hoàn toàn và tuyệt đối tuân theo chỉ đạo từ trung tâm Cộng sản. Ngoại trừ ở Khối Thịnh vượng chung Anh và Hoa Kỳ, nơi chủ nghĩa Cộng sản còn đang ở giai đoạn trứng nước, các đảng Cộng sản hay lực lượng thứ năm đang tạo nên một thách thức và mối hiểm họa Nga ngày càng tăng đối với nền văn minh Cơ đốc giáo… Tôi không tin rằng nước  Xô Viết mong muốn chiến tranh. Điều họ mong muốn là thành quả của chiến tranh và sự bành trướng vô hạn định quyền lực và học thuyết của họ.

Cục Tình báo Trung ương (CIA) được thành lập theo Đạo luật An ninh Quốc gia do Quốc hội thông qua ngày 26 tháng 7 năm 1947 và bắt đầu hoạt động vào tháng 9, thay thế cho Nhóm Tình báo Trung ương được thành lập vào tháng 1 năm 1946, sau khi Truman nhận ra rằng việc phối hợp các nguồn dữ liệu tình báo khác nhau là rất quan trọng. Đô đốc Sidney Souers, Tướng Hoyt Vandenburg và sau đó là Đô đốc Roscoe Hillenkoetter lần lượt là Giám đốc trong những năm nhóm Tình báo Trung ương nắm quyền, rồi Hillenkoetter chuyển giao cho CIA sau khi cơ quan này được thành lập.

Có thể nói rằng CIA không thành công ngay lập tức. Theo một số báo cáo, họ đơn giản là không đủ khả năng. Có một câu chuyện vẫn được lưu truyền ở Berlin về những ngày đầu CIA can thiệp vào đây: các mạng lưới điệp viên được thiết lập bí mật hoạt động trong khu vực Liên Xô, theo các nguyên tắc gián điệp thông thường, nhưng sau đó tất cả những đặc vụ liên quan đều được mời đến dự tiệc cocktail tại căn cứ của Mỹ. Điều này rất tốt trong việc nâng cao tinh thần cho các điệp viên – nhưng điều đó có nghĩa là Stasi, hay NKVD, chỉ cần bắt giữ một người, là họ có thể xác định danh tính không chỉ của một hoặc hai đầu mối liên lạc, mà có thể là cả một loạt đặc vụ.

Một sai lầm tương tự trong phán đoán đã gây ra sự mất mát của nhiều đội trong Chiến tranh Triều Tiên: các đặc vụ sắc tộc được thả dù xuống Trung Quốc đại lục được huấn luyện và sống cùng nhau, và chắc chắn sẽ chia sẻ thông tin về nhiệm vụ của mình. Việc bại lộ của một đội sẽ dẫn đến sự bại lộ của những đội khác. 

Chắc chắn đã xảy ra một chuổi các sự kiện thế giới trọng đại mà cơ quan non trẻ này không thể dự đoán được, đã được nêu bật trong một bài báo trên tờ New York Herald Tribune vào tháng 8 năm 1950. Phần lớn công việc này được thực hiện bởi Văn phòng Báo cáo và Dự toán (ORE), nơi sẽ phải trả giá cho những thất bại khác nhau khi Cục được tổ chức lại vào cuối năm 1950.

Điều này bắt đầu với việc Liên Xô tiếp quản Tiệp Khắc vào mùa xuân năm 1948. Đảng Cộng sản đã trở thành đảng chính trị lớn nhất ở Tiệp Khắc trong cuộc bầu cử được tổ chức vào năm 1946, với Klement Gottwald nhậm chức thủ tướng dưới thời Tổng thống Edvard Beneš. Mặc dù Beneš hy vọng duy trì mối quan hệ ngoại giao với phương Tây, nhưng Đảng Cộng sản đã nắm quyền kiểm soát các bộ chủ chốt và bắt đầu một cuộc vận động hướng tới quyền lực toàn trị. Vào tháng 9 năm 1947, Cominform (Cục Thông tin Cộng sản, một tổ chức gồm các thành viên từ các đảng Cộng sản trên toàn thế giới với mục tiêu truyền bá học thuyết cộng sản ra toàn thế giới) mới thành lập đã lưu ý rằng Tiệp Khắc là quốc gia Đông Âu duy nhất mà “chiến thắng hoàn toàn của giai cấp công nhân trước giai cấp tư sản” vẫn chưa đạt được.

Các hành động chống lại các bộ trưởng không theo chủ nghĩa cộng sản được tăng cường, dẫn đến việc từ chức hàng loạt của 21 bộ trưởng vào tháng 2 năm 1948.

Beneš bị dồn vào chân tường, không thể ủng hộ phe không theo chủ nghĩa cộng sản vì sợ Hồng quân sử dụng cuộc nổi dậy do cộng sản hậu thuẫn làm một cái cớ để xâm lược. Gottwald đe dọa tổng đình công trừ khi Beneš thành lập một chính phủ do cộng sản lãnh đạo – về mặt kỹ thuật vẫn là một liên minh, vì nó bao gồm Đảng Cộng sản và Đảng Dân chủ Xã hội (thân Moscow). Điều đó có nghĩa là Tiệp Khắc giờ đã nằm trong tay Liên Xô, và cuộc bầu cử tháng Năm được tổ chức chỉ mang tính hình thức.

CIA không ngờ mọi chuyện lại diễn biến nhanh đến vậy – một điệp khúc thường được nhắc đến dưới thời Giám đốc CIA Hillenkoetter –  và họ đã hiểu sai trầm trọng ý định đằng sau những hành động này. “Thời điểm đảo chính ở Tiệp Khắc đã bị Điện Kremlin ép buộc khi phe phi Cộng sản hành động, gây nguy hiểm cho quyền kiểm soát cảnh sát của Cộng sản. Chiến thắng của Cộng sản trong cuộc bầu cử tháng năm sẽ là điều không thể nếu không có sự kiểm soát đó”, Hillenkoetter đã nói với Truman trong một lá thư vào ngày 2 tháng 3, trong khi vào ngày 10 tháng 3, một báo cáo cho rằng ‘cuộc đảo chính của Tiệp Khắc và các yêu cầu của Liên Xô đối với Phần Lan [về một ‘hiệp ước tương trợ’ – mở đầu cho một cuộc tiếp quản] không loại trừ khả năng Liên Xô nỗ lực tạo ra sự hòa giải với phương Tây’.

Ba tháng sau, chính phủ Mỹ bàng hoàng trước thông cáo do Cominform ban hành ngày 28 tháng 6, trục xuất Nam Tư khỏi hàng ngũ. Thông cáo nêu rõ: “Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Nam Tư đã theo đuổi một đường lối sai lầm về các vấn đề cốt lõi của chính sách đối nội và đối ngoại, một đường lối đi ngược lại chủ nghĩa Marx-Lenin”. Đảng Cộng sản Nam Tư đã tự đặt mình “ra khỏi gia đình các Đảng Cộng sản anh em, ra khỏi mặt trận Cộng sản thống nhất và do đó nằm ngoài hàng ngũ của Cục Thông tin Cộng sản (Cominform). CIA đã không tập hợp các thông tin tình báo khác nhau để dự đoán Stalin sẽ cắt đứt với một người từng được coi là một đồng minh trung thành nhất của ông, Thủ tướng Nam Tư, Nguyên soái Josip Tito.

Trên thực tế, mối quan hệ giữa hai người đã có lúc sóng gió, bất chấp một số dấu hiệu bề ngoài cho thấy sự tin tưởng lẫn nhau, chẳng hạn như việc Cominform đặt trụ sở tại Belgrade. Tito có những ý tưởng rất rõ ràng về mức độ đất nước mình nằm dưới sự thống trị của Liên Xô. Ông sẵn sàng hợp tác với Nga và noi theo những khái niệm như Kế hoạch 5 năm (những kế hoạch kinh tế tập trung hoành tráng của Stalin), nhưng chúng sẽ được thực hiện theo cách phù hợp với Nam Tư, chứ không phải Liên Xô. Đã có những căng thẳng về việc Tito sử dụng quân đội ở Albania, và kế hoạch của ông về một Liên bang Balkan Nam Tư-Bulgaria chung, mà Stalin ban đầu lên án, rồi đột nhiên yêu cầu phải đẩy nhanh (có thể để ông ta có thể đưa những người Bulgaria thân Moscow vào các vị trí vững chắc trong tổ chức chung). Thư từ được gửi đi liên tục giữa Moscow và Belgrade, và Tito cuối cùng đã chỉ ra rằng “Dù mỗi chúng ta đều yêu đất nước Xã hội chủ nghĩa Liên Xô đến đâu, thì cũng không thể nào yêu đất nước mình ít hơn, vốn cũng đang xây dựng Chủ nghĩa Xã hội.” Moscow tuyên bố vào ngày 12 tháng 6 rằng Belgrade sẽ không còn là nơi đăng cai hội nghị hàng hải Danube nữa, với lý do thành phố sẽ “gặp khó khăn trong việc cung cấp các cơ sở vật chất cần thiết”, một cáo buộc mà Nam Tư phủ nhận. Sự chia rẽ diễn ra hai tuần sau đó – và sẽ dẫn đến việc Nam Tư đi theo một con đường khác với các nước Cộng sản khác trong nhiều năm. tới.

Mặc dù CIA đã ghi nhận những diễn biến, họ vẫn bị chỉ trích vì không dự đoán được bản chất nghiêm trọng của sự chia rẽ, cũng như tiềm năng thay đổi trong các quốc gia do Liên Xô thống trị. Trong bài trả lời bằng văn bản gửi Tổng thống Truman sau bài báo trên Herald Tribune, Giám đốc CIA Hillenkoetter đã chỉ ra:

CIA nhận thấy Tito đang thực hiện các bước đi mạnh mẽ để thanh trừng những kẻ theo chủ nghĩa phân tán trong Đảng Cộng sản Nam Tư, và vào ngày 10 tháng 6, báo cáo rằng chính phủ Nam Tư đang tìm kiếm một chính sách biến họ thành “mũi nhọn Balkan của chủ nghĩa cộng sản truyền giáo và bành trướng”. Khi Nam Tư thách thức Liên Xô vào ngày 20 tháng 6 bằng cách khăng khăng đòi tổ chức Hội nghị Danube tại Belgrade, CIA ước tính rằng Điện Kremlin đang gặp phải một vấn đề nghiêm trọng trong việc hòa giải mâu thuẫn giữa lợi ích quốc gia và chủ nghĩa cộng sản quốc tế trong nội bộ các quốc gia vệ tinh.

Nói cách khác, đúng vậy, họ đã phát hiện ra điều gì đó đang diễn ra, nhưng không ai có thể đoán được rằng nó sẽ nghiêm trọng thế này

Sự chia rẽ giữa Nam Tư và Liên Xô đã bị lu mờ bởi sự khởi đầu của một rạn nứt lớn khác giữa Nga và các đồng minh thời chiến cũ, với cuộc phong tỏa các khu vực không thuộc Liên Xô tại Berlin bắt đầu vào ngày 24 tháng 6 năm 1948. Tuy nhiên, trong trường hợp này, lời cáo buộc rằng CIA đã không đưa ra cảnh báo đầy đủ về điều này không chỉ là không công bằng mà còn hoàn toàn sai lầm.

Theo Hiệp ước Potsdam, chia nước Đức thành bốn phần do Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô quản lý, bản thân Berlin cũng bị chia cắt tương tự. Đây là một cái gai thường trực trong mắt Stalin: nó cung cấp một trạm trung chuyển cho tình báo Mỹ và Anh nằm sâu trong lòng Đông Đức Xô Viết; những công dân bất mãn và miễn cưỡng có thể tìm thấy nơi ẩn náu khỏi chủ nghĩa Cộng sản bằng cách xin tị nạn và đó là một lời nhắc nhở rằng Stalin đã không đạt được mọi điều ông ta mong muốn sau khi chiến tranh kết thúc. Các khu vực phương Tây phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của Liên Xô, và khi Stalin bất bình với cách Anh, Pháp và Mỹ đang tiến triển với nền dân chủ và một loại tiền tệ mới trong lòng nước Đức bị chiếm đóng, ông quyết định muốn các đồng minh rút khỏi Berlin. Áp lực lên những gì ông coi là điểm yếu của liên minh cũng có thể dẫn đến sự chia rẽ vĩnh viễn giữa các quốc gia khác nhau.

Khu vực bé tí trong vùng màu đỏ do Liên Xô kiểm soát là thành phố Berlin, cũng chia thành 4 tiểu khu vực thuộc quyền kiểm soát của 4 cường quốc Mỹ, Anh, Pháp và Liên Xô.

Một chính sách quấy rối bắt đầu: các chuyến tàu hỏa di chuyển giữa các vùng không thuộc Liên Xô của Đức và Berlin bị chặn lại và khám xét; vào ngày 5 tháng 4, 1948, máy bay chở khách DC-3 của Anh bay theo lịch trình thường lệ từ Northolt (Vương quốcAnh) đến to Berlin, theo hành lang không phận được chấp thuận thì gặp một chiến đấu cơ Xô Viết Yak-9 tiến đến quá gần một cách hăm dọa.  Chiếc Yak-9 va chạm với chiếc DC-3, khiến chiếc máy bay chở khách rơi xuống gần Hồ Linow, giết chết tất cả 10 người trên máy bay. Ngày 19 tháng 6 năm 1948, người Nga đã chặn toàn bộ tuyến đường sắt vào thành phố; bốn ngày sau, giao thông đường bộ và xà lan cũng bị đình trệ. Sau đó, họ cắt nguồn cung cấp điện cho Tây Berlin. Điều này có thể là một màn dạo đầu cho chiến tranh, nhưng tất cả các phân tích đều chỉ ra rằng nếu các cường quốc phương Tây kiên quyết, Stalin cuối cùng sẽ phải nhượng bộ. Một chiến công hậu cần đáng kinh ngạc đã đảm bảo rằng việc phong tỏa Berlin, mặc dù vẫn ảnh hưởng đáng kể đến tất cả mọi người trong thành phố, nhưng không bao giờ khiến các cường quốc phương Tây phải đầu hàng. Trong mười tháng, một dòng máy bay vận tải liên tục vận chuyển hàng tiếp tế dọc theo các hành lang hàng không được quốc tế công nhận trên bầu trời Đông Đức, giúp người dân Berlin sống sót.

Ba tháng trước khi cuộc phong tỏa bắt đầu, vào thời điểm Liên Xô đang tiến hành các cuộc tập trận quân sự và bắt đầu quấy rối, Giám đốc CIA Hillenkoetter đã báo cáo với Tổng thống Truman:

Liên Xô không thể trông đợi Hoa Kỳ và các cường quốc phương Tây khác tự nguyện rút khỏi Berlin. Do đó, Liên Xô có thể sẽ sử dụng mọi biện pháp trừ vũ lực để buộc những thế lực này rời khỏi thành phố.

 

Những mưu mô này có thể bao gồm cả việc cản trở thêm việc vận chuyển và đi lại đến và trong thành phố, ‘làm gián đoạn’ các dịch vụ như cung cấp điện, cắt giảm một phần nguồn cung cấp lương thực đến từ Khu vực Liên Xô. Những diễn biến hàng ngày trong tương lai gần sẽ thử thách lòng kiên định, kiên nhẫn và kỷ luật của toàn bộ nhân viên Hoa Kỳ tại Berlin.

Là một dự đoán về cuộc khủng hoảng kéo dài gần một năm, nó thực sự không thể nào tốt hơn được. Dường như Stalin không nhận được thông tin tình báo đáng tin cậy từ người của mình ở Berlin, bởi vì ông ta đã đánh giá thấp quyết tâm của liên minh, và không còn lựa chọn nào khác ngoài việc nhượng bộ và cuối cùng mở lại biên giới.

Chiến tranh Lạnh không phải là mối quan tâm duy nhất của CIA vào năm 1948. Các sự kiện ở Trung Đông mới là tâm điểm đáng chú ý, khi lực lượng Do Thái chiến đấu hết mình để thành lập một nhà nước Israel độc lập. Nhiều lần trong năm đó, dường như lực lượng Ả Rập sẽ giáng một đòn quyết định vào nhà nước non trẻ này, được tuyên bố thành lập vào ngày 14 tháng 5 năm 1948 và được Hoa Kỳ và Liên Xô công nhận. Tuy nhiên, sự kiên cường của người Do Thái cùng với sự hỗ trợ từ các nước ngoài, đôi khi vi phạm trực tiếp các tuyên bố của Liên Hợp Quốc, đã đảm bảo sự tồn tại của họ. Hillenkoetter đã đáp trả những lời chỉ trích rằng CIA đã không dự đoán được kết quả bằng cách chỉ ra rằng không ai có thể lường trước được lượng viện trợ nước ngoài mà Israel sẽ nhận được.

Một trong những sai lầm lớn nhất mà CIA mắc phải trong thời kỳ đầu liên quan đến chương trình hạt nhân của Liên Xô. Cả CIA lẫn FBI đều không nhận thức đầy đủ về quy mô của các mạng lưới gián điệp được thiết lập trong Thế chiến II để khai thác thông tin – mặc dù Alan Nunn May đã bị bắt sau những tiết lộ của Gouzenko, nhưng về sau anh vẫn tự hào rằng mình chưa bao giờ phản bội bất kỳ đồng nghiệp nào cho lực lượng an ninh. Biên bản ghi chép vụ Venona cho thấy có những người khác liên quan, nhưng không có bằng chứng rõ ràng về việc ai là người bị tình nghi, và nếu không có thông tin đó, không thể đánh giá được những gì đã được chuyển giao.

Mặc dù các đồng minh phương Tây đã cố gắng ngăn chặn việc các nhà khoa học nguyên tử Đức được tuyển dụng vào chương trình của Liên Xô vào cuối chiến tranh, họ biết rằng một số nhân sự chủ chốt của Đức, bao gồm Tiến sĩ Nicolaus Riehl của Công ty Auer, Giáo sư Gustav Hertz và Giáo sư Adolf Thiessen, đang nằm trong tay người Nga. Các báo cáo tình báo kết luận rằng nhà chế tạo máy gia tốc cyclotron hàng đầu của Đức, đồng thời là một chuyên gia về vật lý sinh học phóng xạ, cũng đang làm việc cho họ. Bốn nhà khoa học Đông Đức đào tẩu sang phương Tây năm 1947 đã giúp lấp đầy một số lỗ hổng, và bằng chứng do các điệp viên CIA bí mật thu thập được cho thấy việc sản xuất plutonium đang diễn ra tại Elektrostal, một thị trấn nhỏ cách Moscow khoảng sáu mươi dặm về phía đông, sử dụng vật liệu được sản xuất tại nhà máy IG Farben gần Berlin.

Thật không may, các nhà phân tích của CIA đã không mấy chú ý đến thông tin đó, mà thay vào đó lại dựa vào các phân tích địa chất trước chiến tranh, cho rằng Liên Xô sẽ không thể đe dọa vị thế gần như độc quyền của Mỹ về quặng phù hợp. Vào tháng 10 năm 1946, Văn phòng Báo cáo và Ước tính của CIA cho rằng “Khả năng phát triển vũ khí dựa trên năng lượng nguyên tử của Liên Xô có thể sẽ bị giới hạn ở mức có thể phát triển một quả bom hạt nhân đến giai đoạn sản xuất tại mốc thời gian nào đó giữa năm 1950 và 1953. Với giả định này, một lượng bom như vậy có thể được sản xuất và dự trữ vào năm 1956. ORE thừa nhận rằng các dự đoán của họ là “phỏng đoán có căn cứ” nhưng dựa trên “ước tính hiện tại về năng lực khoa học và công nghiệp hiện có của Liên Xô, có tính đến thành tích trước đây của các nhà khoa học và kỹ thuật viên Liên Xô và Đức do Liên Xô kiểm soát, kinh nghiệm trước đây của chúng ta và ước tính về năng lực phát triển và sản xuất trong tương lai của chúng ta”. Mặc dù thông tin nhận được về tiến độ của Liên Xô đã đưa ngày dự kiến lên sớm hơn một chút, nhưng ngày sớm nhất có thể vẫn được đưa ra là “giữa năm 1950” với giữa năm 1953 là có khả năng xảy ra nhất. Báo cáo đó được lập chỉ năm ngày trước khi Liên Xô cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên của họ, có biệt danh Joe-1, tại Semipalatinsk, một địa điểm ở đông bắc Kazakhstan, vào ngày 29 tháng 8 năm 1949. Trong nội bộ CIA, việc không dự đoán được thời điểm thử nghiệm đã được trợ lý giám đốc Willard Machie mô tả là “một thất bại gần như hoàn toàn về tình báo thông thường”. Được triệu tập trước Ủy ban Liên hiệp về Năng lượng Nguyên tử vào ngày 17 tháng 10, Hillenkoetter khẳng định rằng “Tôi không nghĩ chúng tôi bị bất ngờ” – một lời khẳng định không được các thành viên ủy ban chấp nhận.

Hillenkoetter cho biết: ‘Ước tính của chúng tôi không quá cách biệt’, giải thích là CIA cho rằng người Nga chỉ bắt đầu thực hiện chương trình hạt nhân cho đến sau vụ nổ ở Hiroshima vào tháng 8 năm 1945, nhưng giờ đây rõ ràng là họ đã bắt đầu vào năm 1943 nên ước tính của ORE là năm năm kể từ lức bắt đầu đến kết quả cuối cùng vẫn chính xác. Ông cũng lưu ý rằng giờ đây người Nga đã cho nổ một quả bom, điều đó có nghĩa là họ có thể liên kết mối tương quan tốt hơn các mẩu thông tin khác nhau mà họ có. (Một Thượng nghị sĩ chỉ ra rằng ngay cả “chính người Nga cũng không biết họ có bom cho đến khi nó phát nổ”, vô tình gợi lại mối lo ngại của các bộ trưởng Liên Xô lúc bấy giờ, những người đã cố tự trấn an khi nhìn thấy có đám mây hình nấm đặc trưng trước khi báo cáo với Stalin.)

Ít nhất một Thượng nghị sĩ có mặt đã nắm bắt được tâm trạng này: ‘Chúng ta chưa có một tổ chức đủ năng lực để biết những gì đang diễn ra trong quá khứ và Giám đốc CIA không đảm bảo với tôi rằng chúng ta sẽ có một tổ chức như vậy trong tương lai.’

Không dự đoán được sự trỗi dậy của Đảng Cộng sản và tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là một cáo buộc khác của Herald Tribune chống lại Hillenkoetter. Một lần nữa, điều này cũng không chính xác: Cơ quan CIA đã nhiều lần chỉ ra rằng các lực lượng dân tộc chủ nghĩa ở Trung Quốc do Tưởng Giới Thạch cầm đầu đang tan rã, và sự trỗi dậy của Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch Đông là hệ quả tất yếu của điều đó.

Theo lời một phó giám đốc DDI sau này tại CIA, John Gannon:

Có một quan niệm phổ biến nhưng sai lầm rằng công việc của các sĩ quan tình báo là dự đoán tương lai. Điều đó không đúng. Chỉ có Chúa mới toàn năng, và chỉ có Giáo hoàng mới không thể sai lầm; các sĩ quan tình báo quá hiểu biết để cạnh tranh trong lĩnh vực đó. Thay vào đó, chức năng của tình báo là giúp các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ hiểu rõ hơn về các lực lượng đang hoạt động trong mọi tình huống, quan điểm của đối phương, cũng như các cơ hội và hậu quả của bất kỳ hành động nào để các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ có thể đưa ra quyết định sáng suốt.

Công việc của Hillenkoetter tại CIA trở nên khó khăn hơn nhiều do ông không nhận được sự hợp tác từ các cơ quan tình báo khác. Khi ông bảo với Tổng thống Truman, ‘Các cơ quan quân sự che giấu CIA các thông tin về kế hoạch và hoạt động và điều này cản trở CIA hoàn thành nhiệm vụ của mình.’ FBI có thể gây cản trở, và các bộ phận quân sự đã đánh giá quá cao năng lực của Liên Xô trong lĩnh vực của họ để đảm bảo các bộ phận của mình luôn nhận được sự hỗ trợ cần thiết.

Không phải tất cả đều là tin xấu: CIA đã ngăn chặn được chiến thắng của Đảng Cộng sản trong cuộc bầu cử ở Ý năm 1948. Đây không phải là công việc gián điệp của Thế chiến II, lén lút sau chiến tuyến của kẻ thù. Tuy nhiên, đối với một chính phủ Mỹ đang thực sự lo lắng về sự lan rộng của chủ nghĩa Cộng sản, điều này cũng quan trọng không kém, và đối với các đặc vụ tích cực tham gia vào việc chuyển tiền cho các đầu mối liên lạc và các hoạt động bí mật khác, thực tế cũng không khác biệt là bao.

Cựu đặc vụ CIA F. Mark Wyatt là một trong những người tham gia vào hình thức gián điệp mới này. Như ông đã nói với CNN năm 1995:

Nhân viên bình thường trong [CIA] hy vọng rằng chúng tôi có thể tham gia vào một hoạt động bí mật. Các đồng nghiệp của tôi ở CIA, vào năm 1946-47, khi tôi tham gia, đã rất năng nổ. Chúng tôi đã tham chiến; chúng tôi không chất vấn chính quyền – ‘Chúng ta có nên làm theo cách này không?’ Chúng tôi chắc chắn biết rằng đế chế Liên Xô, như Reagan đã nói, là Đế chế Tà ác, và đó là tất cả. Và khi chúng tôi đóng quân ở nước ngoài… dù chúng tôi ở Sri Lanka hay Iceland, chúng tôi biết mục tiêu của mình là gì: đó là mục tiêu Liên Xô. Chúng tôi quan tâm đến những gì đang diễn ra ở quốc gia đó và mối liên hệ của quốc gia đó với thế lực bành trướng của Liên Xô.

Giám đốc CIA Hillenkoetter không tin rằng CIA có thẩm quyền đóng vai trò tích cực trong cuộc bầu cử ở Ý và được cố vấn trưởng của CIA, Lawrence Houston, khuyên rằng ông cần một mệnh lệnh cụ thể. Ông nhận được mệnh lệnh này từ Hội đồng An ninh Quốc gia trong chỉ thị NSC 4a, yêu cầu CIA “phải khởi động các bước hướng tới việc tiến hành các hoạt động tâm lý bí mật nhằm chống lại các hoạt động của Liên Xô và các hoạt động do Liên Xô hậu thuẫn”. Nhóm Thủ tục Đặc biệt (SPG) được giao nhiệm vụ tìm cách thực hiện điều này.

Trên thực tế, điều này có nghĩa là hợp tác với Đảng Dân chủ Cơ đốc giáo để đánh bại Mặt trận Dân chủ Nhân dân, một liên minh do Đảng Cộng sản và Đảng Xã hội Ý thành lập. Ngoài các chiến dịch kêu gọi người Mỹ gốc Ý viết thư gửi các người thân ở quê nhà, các chương trình tuyên truyền của Đài Tiếng nói Hoa Kỳ cảnh báo về nguy cơ tái diễn sự sụp đổ của Tiệp Khắc vào tay chủ nghĩa Cộng sản, và viện trợ lương thực và ngũ cốc, SPG còn thực hiện nhiều hoạt động bí mật hơn. Như Wyatt nhớ lại:

Chúng tôi có những túi tiền mà chúng tôi phải trao cho các chính trị gia được chọn, để trang trải chi phí chính trị của họ, chi phí chiến dịch của họ, cho áp phích, cho tờ rơi . . .  Và chúng tôi đã làm nhiều việc để hỗ trợ những người được chọn thuộc Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo, Đảng Cộng hòa và các đảng khác hoàn toàn đáng tin cậy có thể giữ bí mật về nguồn gốc tiền của họ. Họ đã được các chuyên gia CIA nói chuyện: ‘Các bạn sẽ nói gì nếu đột nhiên các bạn thực hiện ở Turin một buổi tuyên truyền hoành tráng nhất? Ai trả tiền cho việc đó? Tập đoàn Fiat trả tiền cho nó, hay ai khác? Các bạn phải có lý do nào đó cho sự hào phóng của mình vào lúc này, và chúng tôi không muốn có dấu hiệu cho thấy đó là những người Mỹ trẻ tuổi đang chuyển tiền cho các bạn… trong những chiếc túi đen.

Điều này có nghĩa là đào tạo các chính trị gia Ý về mánh khóe để tiền có thể được chuyển đi một cách lén lút, nhưng, có lẽ trước sự ngạc nhiên của một số đặc vụ liên quan, nhiệm vụ đã đạt thắng lợi. Đảng Dân chủ Thiên chúa giáo đã giành chiến thắng áp đảo – 48% so với 31% của Mặt trận Dân chủ Nhân dân. Có bao nhiêu phần trong thắng lợi lớn lao này là nhờ vào sự đóng góp của CIA đã trở thành một câu hỏi trong nhiều năm qua, nhưng đó là một chiến thắng hiếm hoi mà các đặc vụ đầu tiên của CIA phải ăn mừng.

Bình luận về bài viết này