Lược Sử về Điệp Viên (Bài 1)

Hoạt động Gián điệp Hiện đại từ Chiến tranh Lạnh đến Cuộc chiến Chống Khủng bố

PAUL SIMPSON

Trần Quang Nghĩa dịch

LỜI NÓI ĐẦU

Có thể gây ngạc nhiên cho những ai trong chúng ta lớn lên với sách vở và phim ảnh về điệp viên, nhưng vào cuối Thế chiến Thứ hai, hầu hết các cơ quan chính phủ có tên viết tắt và tên gọi quen thuộc đều không tồn tại như chúng ta biết ngày nay. CIA chưa ra đời. KGB cũng không gieo rắc nỗi kinh hoàng như từ những năm 1950 trở đi. Nhà nước Israel chưa ra đời, nên các tổ chức tình báo Mossad và Shin Bet cũng không tồn tại. Nhóm gián điệp Nam Phi có biệt danh BOSS cũng không tồn tại. Nước Đức thời tiền Cộng sản không có Stasi.

 

Những thay đổi địa chính trị vào cuối cuộc chiến, được nêu trong các thỏa thuận giữa các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô tại Yalta và Potsdam năm 1945, có nghĩa là các cộng đồng tình báo đang phải đối phó với một bối cảnh rất khác so với bối cảnh giữa hai cuộc Chiến tranh Thế giới và trong suốt cuộc xung đột.

 

Thể hiện sự hoang tưởng đúng như người ta vẫn nhớ, nhà lãnh đạo Liên Xô Josef Stalin đã theo dõi các đồng minh của mình. Phản ứng lặng lẽ của ông trước những lời bóng gió của Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman về bom nguyên tử cho thấy với nhiều người, Stalin đã nhận thức rõ về tiến trình phát minh quả bom nguyên tử của Mỹ, và thậm chí có thể còn biết nhiều hơn cả người đồng cấp. Các điệp viên Liên Xô đã nằm vùng trong hệ thống cấp bậc tình báo Anh, và hiện diện tại các địa điểm chiến lược trên toàn cầu.

 

Truman đã nhận ra rằng Liên Xô không đáng tin cậy, và dưới thời ông, cộng đồng tình báo Mỹ đã tái cấu trúc để đối phó với mối đe dọa khi Chiến tranh Lạnh ngày càng trở nên lạnh hơn. Cơ quan Tình báo Bí mật Anh (thường được gọi là MI6, một tên gọi được sử dụng trong cuốn sách này để tránh sự mơ hồ) cũng tập trung sự chú ý vào Nga và các nước vệ tinh của nước này. Chiến tranh Lạnh nóng lên rồi lại nguội lạnh qua các chế độ kế tiếp nhau, với các cuộc chiến tranh ủy nhiệm diễn ra trên khắp thế giới.

 

Tất nhiên, mối đe dọa từ Liên Xô không phải là mối nguy hiểm duy nhất mà các cơ quan tình báo phương Tây phải đối phó, và giới tư bản Mỹ và Anh cũng không phải là kẻ thù duy nhất của Nga. Nhiều quốc gia phải đối mặt với kẻ thù nội địa: người Anh ở Ireland; người Nam Phi chống lại phe phản đối chế độ phân biệt chủng tộc. Việc lập quốc của Israel đã làm tăng thêm sự bất ổn ở Trung Đông, khi người Israel, không có gì ngạc nhiên, chờ đợi cuộc tấn công từ những lực lượng phản đối kịch liệt việc người Do Thái trở về quê hương của tổ tiên họ: Mossad nổi tiếng về sự hung hãn và quyết liệt khiến người ta vẫn luôn sợ hãi.

 

Nhưng khi phong trào glasnost xuất hiện, Bức tường Berlin sụp đổ, và cuộc thử nghiệm Cộng sản hóa ra lại thất bại, giới tình báo dần nhận ra những mối đe dọa toàn cầu mới. Vụ đánh bom Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993, và sau đó, kịch tính nhất, là sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 (mãi mãi về sau được gọi đơn giản là sự kiện 11/9) đồng nghĩa với việc kẻ thù không còn dễ dàng bị nhận diện nữa, mặc dù, như việc trục xuất điệp viên Nga Anna Chapman và các điệp viên khác làm việc cho SVR, cơ quan kế nhiệm của KGB, vào năm 2010 đã chứng tỏ, một số kẻ thù cũ có thể không chết, chỉ đơn giản đang ẩn mình …

 

1 MỌI THỨ ĐỀU THAY ĐỔI

 

Chiến tranh Thế giới thứ hai kết thúc đánh dấu một bước ngoặt lớn đối với các cơ quan tình báo trên thế giới. Ở một số quốc gia, chẳng hạn như Hoa Kỳ, điều này dẫn đến một cuộc tái cấu trúc lớn về cách thức hoạt động của họ; ở những quốc gia khác, bao gồm cả Liên Xô, điều này đồng nghĩa với việc một số hoạt động, vốn trong thời chiến tranh chống Hitler ít quan trọng hơn, giờ đây chiếm ưu tiên hơn, khi các đồng minh thời chiến trước đây trở thành kẻ thù.

 

Ở Vương quốc Anh, những người phụ trách M16, Cơ quan Tình báo Bí mật (SIS), đã thấy việc kết thúc chiến tranh như một cơ hội để nâng hoạt động này lên một vị thế tốt hơn, tương tự như cách mà các đồng nghiệp của họ tại Cơ quan An ninh, MI5, đã cần phải làm vào đầu cuộc chiến.

 

Hoạt động thu thập thông tin tình báo có tổ chức đã diễn ra ở nhà nước Anh kể từ thời Tudor: Thomas Cromwell, bộ trưởng chính của Henry VIII, phụ trách bộ phận các điệp viên báo cáo từ khắp châu Âu, và trong thời gian con gái Henry, Elizabeth I, lên ngôi, thư ký riêng của bà, Sir Frances Walsingham, điều hành một mạng lưới gồm 50 điệp viên và phát triển một hệ thống chặn bắt cực kỳ hiệu quả, tiền thân của cả MI5 và MI6 ngày nay.

 

Mối đe dọa từ Đức vào những năm đầu thế kỷ XX đã dẫn đến việc thành lập Cục Mật vụ bởi Ủy ban Quốc phòng Đế chế vào năm 1909. Có nhiều báo cáo về các điệp viên Đức hoạt động tại Anh, thường được các tờ báo thời đó đưa tin giật gân. Như trang web MI5 thuật lại, tờ Weekly News đã đề nghị trả 10 bảng Anh cho độc giả nào cung cấp thông tin về các điệp viên Đức cho “Biên tập viên mục Gián điệp” của mình; tờ báo nhanh chóng tràn ngập thư từ! Việc Hoàng đế Wilhelm II mở rộng bộ máy quân sự Đức cũng không phải là bí mật. Do đó, Cục được chỉ thị chống lại hoạt động gián điệp nước ngoài tại Anh (Ban Nội vụ) và thu thập thông tin tình báo mật ở nước ngoài về các kẻ thù tiềm tàng của Anh (Ban Ngoại vụ). Ban Nội chính do Đại úy Lục quân Vernon G.W. Kell chỉ huy, trong khi Ban Ngoại vụ ban đầu do Trung tá Mansfield Smith-Cumming, RN, cầm đầu.

 

Khi được Chính phủ yêu cầu điều tra sự phát triển của Hải quân Đế quốc Đức, Kell và Cumming đã đồng ý chia Cục thành hai tổ chức riêng biệt: Bộ phận Nội vụ trở thành Cơ quan An ninh (được gọi là MI5 từ năm 1916 trở đi) và Bộ phận Ngoại vụ trở thành Cơ quan Tình báo Bí mật (MI6). Trong khi MI5 hoạt động chống lại các điệp viên Đức ở Anh – bắt giữ hơn 20 điệp viên trước khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất bùng nổ vào tháng 8 năm 1914, MI6 đã thiết lập các mạng lưới ở Pháp và Bỉ, những mạng lưới sau này trở nên vô cùng quan trọng trong cuộc xung đột kéo dài bốn năm của Thế chiến I.

 

Với mối đe dọa của Đức dường như đã bị gạt bỏ sau Hiệp ước Versailles, chấm dứt thế chiến, MI6 chuyển hướng chú ý sang một diễn biến đáng lo ngại: sự trỗi dậy của một tín điều chính trị mới sau Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 – chủ nghĩa Cộng sản. Cumming coi sự trỗi dậy của chủ nghĩa cộng sản quốc tế là mối đe dọa lớn đối với an ninh của Vương quốc Anh, và phần lớn sự chú ý của MI6 trong những năm 1920 và 1930 tập trung vào Comintern, tổ chức Quốc tế Cộng sản do Liên Xô thống trị. Quốc tế Cộng sản được thành lập năm 1919 để hoạt động bằng mọi phương tiện có thể, kể cả vũ trang, nhằm lật đổ giai cấp tư sản quốc tế và thành lập một nước cộng hòa Xô viết quốc tế như một giai đoạn chuyển tiếp để xóa bỏ hoàn toàn Nhà nước. (Liên Xô cũng nhắm vào MI6 để đáp trả, cài cắm một trong những điệp viên quan trọng nhất của họ, Kim Philby, vào quân đội Anh: y đã chứng tỏ mình là một trong những tài sản quý giá nhất của họ trong giai đoạn ngay sau Thế chiến thứ hai.)

 

MI5 được đổi tên thành Cơ quan An ninh Quốc phòng vào năm 1929, bỏ chữ “Quốc phòng” khỏi tên gọi vào năm 1931. Cũng trong khoảng thời gian này, cơ quan được giao trách nhiệm đánh giá tất cả các mối đe dọa đối với an ninh của Vương quốc Anh, ngoại trừ những kẻ khủng bố và vô chính phủ người Ireland, vốn vẫn thuộc thẩm quyền của cảnh sát. (Bản thân cơ quan này đã tiếp tục, và hiện vẫn đang tiếp tục, tự gọi tắt là MI5, một quy ước được nhìn nhận trong sách này.) Trong giai đoạn trước Thế chiến thứ hai, mặc dù nhân sự hạn chế, họ đã phải đối phó với ổ gián điệp do nhà báo cánh tả William Norman Ewer tạo ra (dẫn đến việc sa thải nhiều cảm tình viên tại Sở Cảnh sát London Scotland Yard), và ổ gián điệp của Percy Glading,   lãnh đạo  Đảng Cộng sản Anh. và quan chức của Liên đoàn Chống Chủ nghĩa Đế quốc, có căn cứ tại Kho vũ khí hoàng gia Woolwich ở đông nam London, nơi đã gửi những bản thiết kế cho Liên Xô.

 

Sự trỗi dậy của chủ nghĩa Quốc xã tất nhiên trở thành một phần quan trọng trong nhiệm vụ của cả hai cơ quan trong những năm 1930, với việc MI5 luôn theo dõi sát sao bọn phát xít Anh, bao gồm Sir Oswald Mosley và tổ chức áo đen của ông ta, Liên minh Phát xít Anh. MI5 đã trải qua một cuộc tái tổ chức quy mô lớn vào tháng 4 năm 1941 dưới sự lãnh đạo của Sir David Petrie. Mặc dù sau chiến tranh, người ta phát hiện ra rằng chỉ có 115 đặc vụ được chế độ Quốc xã sử dụng cho mục tiêu chống lại Anh (tất cả, trừ một người tự tử, đều bị MI5 bắt giữ), nhưng vẫn có hàng ngàn yêu cầu thẩm tra được gửi đến cơ quan này, cũng như tất cả các báo cáo về những cảm tình viên tiềm năng của ‘Đội quân thứ năm’ có thể hỗ trợ cuộc xâm lược dự kiến của Đức.

 

MI6 cũng đã phải trải qua một số thay đổi lớn. Nhiều mạng lưới điệp viên của cơ quan này đã bị mất trong thời kỳ Đức Quốc xã thống trị Tây Âu sau khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ, nhưng sau đó, nhiều thường dân đã tình nguyện hợp tác với cơ quan này, cung cấp thông tin vô giá cho lực lượng Đồng minh. Trong giai đoạn này, cơ quan này chính thức được gọi là MI6 (trước đây là MI1(c) trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, nhưng đã bỏ tên gọi này sau chiến tranh), một phần vì sự tiện lợi, một phần để nhấn mạnh mối liên hệ với M15.

 

Cơ quan mật vụ cũng chịu trách nhiệm về công việc phá mã cực kỳ quan trọng được thực hiện tại Trường Mật mã và Mã hóa Chính phủ ở Park Bletchley, cách London 40km về phía bắc. Người Đức khoe khoang cỗ máy mật mã Enigma của mình tạo ra những tín hiệu mà không ai có thể đọc được nếu không có bản sao của thiết bị, nhưng thực ra, các chuyên gia tại Bletchley Park đã có thể làm được điều đó và cung cấp thông tin có tên mã là ULTRA, vô cùng quý giá cho hoạt động chiến tranh.

 

Một tổ chức thứ ba tham gia vào các nhiệm vụ bí mật (và không quá bí mật) trong chiến tranh: Cục Điều hành Hoạt động Đặc biệt (SOE) thực hiện các hoạt động phá hoại, ném bom và lật đổ sau lưng địch. Trong khi MI6 cung cấp thông tin tình báo thô sơ về các hoạt động di chuyển quân đội, SOE lại tích cực công kích kẻ thù. Giám đốc MI6, Ngài Stewart Menzies, coi họ là “nghiệp dư, nguy hiểm và dỏm”, nhưng vì đó là sản phẩm trí tuệ của Thủ tướng Winston Churchill nên các hoạt động của họ vẫn tiếp tục. Một số hoạt động của họ đã dẫn đến việc trả thù khủng khiếp của Đức Quốc xã: vụ ám sát Reinhard Heydrich, phó chỉ huy SS, đã dẫn đến việc thảm sát 5.000 người vô tội như một hành động trả thù. Tuổi thọ của một điệp viên có thể được ước tính bằng tuần, nhưng họ đã trở thành nỗi khiếp sợ cho các lực lượng chiếm đóng Châu Âu. Tướng Eisenhower thậm chí còn nhận xét rằng: “Việc các lực lượng Kháng chiến có tổ chức làm gián đoạn liên lạc đường sắt của kẻ thù, quấy rối các tuyến đường bộ của Đức và gây áp lực liên tục và ngày càng tăng lên các cơ quan an ninh Đức trên khắp Châu Âu bị chiếm đóng đã đóng một vai trò rất đáng kể trong chiến thắng hoàn toàn và cuối cùng của chúng ta.”

 

Khi cục diện chiến tranh bắt đầu chuyển biến theo hướng có lợi cho phe Đồng minh, Bộ Ngoại giao bắt đầu xem xét các kế hoạch hậu chiến. Một đề xuất vào năm 1943 là một Cơ quan Mật vụ thống nhất có thể được thành lập, hợp nhất M15, M16 và SOE thành một tổ chức, với các chi nhánh phụ trách Thông tin, An ninh và Tác chiến. Churchill không tán thành điều này, và sau nhiều cuộc thảo luận giữa các bên liên quan, Báo cáo Bland, có tên chính thức là ‘Tổ chức Tương lai của SIS’, đã đề xuất rằng cơ quan mật vụ ‘phải bắt đầu xây dựng một tổ chức thực sự bí mật đằng sau vẻ ngoài hiện tại, vốn đã quá nổi tiếng’.

 

Báo cáo Bland đề cập đến mọi khía cạnh của hoạt động, bao gồm cả tuyển dụng (‘Nếu… SIS không thành công trong việc thu hút đúng người, thì không thể có kết quả hạng nhất’), và tuyên bố thẳng thừng rằng nhiệm vụ chính là ‘thu thập bằng các biện pháp bí mật thông tin tình báo mà Chính phủ Hoàng gia không thể hoặc không muốn tìm kiếm bằng các biện pháp công khai’. Báo cáo cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải làm rõ việc phân chia trách nhiệm giữa MI5 và MI6, và đề xuất giải thể SOE và giao lại các hoạt động cho MI6 xử lý. (SOE không được cho biết về điều này, vì rõ ràng là họ đã hình dung ra một vai trò cho mình ở châu Âu thời bình.)

 

Bản thảo Báo cáo Bland có đề xuất rằng MI6 “không nên tập trung năng lượng vào việc điều tra hoạt động của các tổ chức chính trị, ví dụ như đảng Cộng sản, phong trào Vô chính phủ, v.v.”, nhưng Ngài Stewart Menzies chỉ ra rằng họ đã xử lý loại công việc này rồi và thực sự đã thành lập một bộ phận, Phòng IX, chuyên trách việc này. “Những mong muốn” của Bộ Ngoại giao liên quan đến châu Âu (những nguyên tắc chỉ đạo mà cơ quan này hoạt động) đã nêu rõ rằng trong khi việc  vẫn theo dõi mọi nỗ lực khôi phục của Đức là ưu tiên hàng đầu, việc quan sát “các hoạt động của Nga và hoạt động của các đảng phái hoặc nhóm quốc gia ở các quốc gia khác nhau đang tìm kiếm sự lãnh đạo hoặc hỗ trợ từ Moscow” là ưu tiên thứ hai. Sau khi thảo luận thêm, bản chất phi chính trị của MI6 đã được nhấn mạnh trong phiên bản cuối cùng: cơ quan này không điều tra mọi người “vì hệ tư tưởng chính trị của họ” mà chỉ khi có “bằng chứng rõ ràng cho thấy tổ chức đang được đề cập có thể được sử dụng làm công cụ gián điệp, hoặc nếu không, khi được yêu cầu cụ thể, hãy luôn tìm kiếm hướng dẫn từ Bộ Ngoại giao về các đảng phái chính trị nào ở nước ngoài cần được theo dõi đặc biệt và trong bao lâu.”

 

Và điều trở nên rất rõ ràng là các quốc gia cần được theo dõi đặc biệt là các quốc gia từ Khối Xô Viết.

 

Trong những năm trước khi Chiến tranh Lạnh nổ ra, các cơ quan tình báo của Liên Xô quan tâm đến việc do thám người dân của mình cũng như hoạt động gián điệp chống lại các điệp viên nước ngoài. Điều này tiếp tục diễn ra trong suốt thế kỷ 20 cho đến khi Liên Xô tan rã, và thực tế không có gì mới mẻ ở nước Nga.

 

Lực lượng cảnh sát chính trị đầu tiên của đất nước, Oprichnina, được Ivan Bạo Chúa thành lập năm 1565 và chịu trách nhiệm cho các vụ thảm sát trong nhiều thành phố trước khi bị bãi bỏ bảy năm sau. Sau đó, Peter Đại đế đã bí mật thành lập Preobrazhensky Prikaz, đến nỗi ngay cả sử sách của KGB cũng không chắc chắn về thời điểm chính xác mà nó được thành lập vào cuối thế kỷ XVII. Nó cũng không kéo dài lâu, nhưng Phòng 3 thuộc Phủ Thủ tướng Hoàng gia của Sa hoàng Nicholas I, được thành lập năm 1826, đã tồn tại hơn 50 năm, hoạt động như lực lượng mật vụ của chế độ Sa hoàng. Mặc dù cuối cùng bị mất uy tín sau vụ Sa hoàng Alexander II bị ám sát, nhung  các hoạt động của Phòng 3 chống lại những người cách mạng vẫn được tiến hành từ năm 1880 bởi Okhrana, biệt danh của Nha Cảnh sát Quốc gia và các đơn vị an ninh khu vực của nó.

 

Okhrana thực sự hoạt động bên ngoài biên giới nước Nga. Cục Ngoại vụ của nó đã thành lập một trung tâm để theo dõi người Nga lưu vong tại Paris và được cảnh sát Pháp, Sûreté, hoan nghênh. Họ thậm chí còn ghi nhận trong một báo cáo ngay trước Thế chiến thứ nhất rằng “Không thể, dựa trên bất kỳ đánh giá khách quan nào, phủ nhận tính hữu ích của việc có một lực lượng cảnh sát Nga hoạt động tại Paris, dù chính thức hay không.”

 

Khi trung tâm buộc phải đóng cửa (ít nhất là công khai), Sûreté đã nhanh chóng phàn nàn rằng ‘Chính phủ Pháp sẽ không còn có thể biết chính xác những gì mà người nước ngoài nguy hiểm  tị nạn ở Pháp đang làm như trước đây nữa.’

 

Các nhà lãnh đạo cuộc Cách mạng Nga sau này hẳn đã lo ngại về Okhrana và phạm vi hoạt động của nó. Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga, sau này chia thành Bolshevik và Menshevik vào năm 1903, đầy rẫy điệp viên Okhrana. Bốn trong số năm thành viên của Ủy ban St. Petersburg của Đảng Bolshevik trong giai đoạn 1908-1909 làm việc cho cơ quan an ninh. Roman Malinovsky, một thành viên của Ủy ban Trung ương, là đặc vụ Okhrana – và đã bị bắn vì tội liều lĩnh trở về Nga vào năm 1918, một năm sau Cách mạng.

 

Tổ chức An ninh Nhà nước Liên Xô đã trải qua nhiều lần đổi tên trong giai đoạn dẫn đến Chiến tranh Lạnh. Cheka (Ủy ban Đặc biệt Toàn Nga về Chống Phản Cách mạng và Phá hoại) hoạt động từ tháng 12 năm 1917 đến tháng 2 năm 1922, thì được sáp nhập vào NKVD (Dân Ủy Nội vụ Liên Xô) dưới tên gọi là GPU (Tổng cục Chính trị Nhà nước). Từ tháng 7 năm 1923 đến tháng 7 năm 1934, nó được gọi là OGPU (Tổng cục Chính trị Nhà nước Thống nhất) trước khi được sáp nhập trở lại NKVD, lần này dưới tên là GUGB (Cơ quan Quản trị An ninh Liên Xô). Trong năm tháng của năm 1941, nó được gọi là NKGB (Dân Ủy An ninh Quốc gia) trước khi trở lại NKVD. Tuy nhiên, không giống như MI6, nơi các điệp viên từng phục vụ trong Thế chiến thứ nhất vẫn hoạt động vào đầu Thế chiến thứ hai, rất khó ít khả năng có ai sống sót sau tất cả những lần đổi tên này. Nhiều sai sót của các điệp viên Liên Xô trong giai đoạn này –  không cảnh báo về các cuộc nổi dậy vũ trang ở Trung Quốc, việc MI5 phát hiện ra ổ gián điệp Liên Xô ở Anh – đã dẫn đến việc tổ chức lại Cơ quan An ninh Nhà nước thường xuyên. Việc thanh trừng những cá nhân mà nhà lãnh đạo hoang tưởng Josef Stalin không tin tưởng đồng nghĩa với việc nhiều sĩ quan NKVD đã trở thành nạn nhân của chính tổ chức của mình, đặc biệt là khi nó nằm dưới sự kiểm soát của thủ lĩnh đáng sợ nhất, Lavrenti Beria, y lên nắm quyền với tư cách là người đứng đầu cấp phó của Nicolai Yezkov ở NKVD từ năm 1936 trước khi tiếp quản vào ngày 25 tháng 11 năm 1938, triệt hạ các cấp trên cũ của mình với cáo buộc gián điệp, phản quốc và đồng tính luyến ái.

 

Dưới thời Beria, NKVD hoạt động rộng rãi ở nước ngoài, trong đó một điệp viên, Ramón Mercader đã ám sát Leon Trotsky, đối thủ lớn của Stalin, tại Mexico vào tháng 8 năm 1940. Quy mô các hoạt động của họ chống lại các đồng minh thời chiến chỉ trở nên rõ ràng sau Thế chiến thứ hai. Nhiều đặc vụ đã bị phát hiện hoặc phản bội, và họ đã bố trí rất nhiều đặc vụ tại chỗ để báo cáo về các động thái của phe Trục. Một trong những đặc vụ xuất sắc nhất của họ, Richard Sorge, cuối cùng đã trở thành tùy viên báo chí của Đại sứ quán Đức tại Nhật Bản, và đã gửi chi tiết về Chiến dịch Barbarossa của Hitler, cuộc xâm lược Nga – về Moscow, đầy đủ có cả  ngày phát động là 22 tháng 6 năm 1941. Trước sự kinh ngạc của Sorge, Stalin đã phớt lờ các báo cáo, cho đến khi cuộc xâm lược thực sự nổ ra, lúc đó nhà lãnh đạo bắt đầu tin tưởng hơn vào thông tin của Sorge. Khi Sorge cho biết Nhật Bản không có ý định tấn công Siberia, Stalin đã điều động quân đội dưới quyền Nguyên soái Zukhov từ Siberia ra tiền tuyến, lúc này gần như đã trong tầm nhìn Điện Kremlin. Họ đã kịp thời đánh tan quân Đức xâm lược. (Sorge bị bắt ngay sau đó và bị treo cổ vào năm 1944.)

 

Sorge không phải là điệp viên Nga duy nhất cảnh báo về Barbarossa: theo hồ sơ KGB, đã có 84 nỗ lực riêng biệt nhằm thuyết phục Stalin hành động. Nhà báo Đức Rudolf Rössler, mật danh Lucy, có một nguồn tin dường như nằm sâu trong bộ tư lệnh tối cao Đức. Werther, tên nguồn tin này, đã cung cấp ngày bắt đầu của Chiến dịch Barbarossa, và sau đó, khi chiến dịch diễn ra, đã cung cấp chi tiết về vị trí yếu kém nhất của quân đội Đức, dẫn đến cuộc bao vây Stalingrad. Y cũng cảnh báo trước cho Stalin về cuộc xâm lược của Đức có mật danh là Chiến dịch Thành trì năm 1943, cho phép quân đội Nga chuẩn bị trận địa tại Kursk và mở cuộc tấn công phủ đầu vào quân Đức. Mặc dù Rössler chưa bao giờ tiết lộ lai lịch của Werther, nhưng một số người tin rằng đó có thể là phó tướng của Hitler, Martin Bormann, người được nhìn thấy chính thức lần cuối tại Berlin vào tháng 5 năm 1945, hoặc có thể là Đô đốc Canaris, người đã bị bắn sau vụ Đại tá von Stauffenberg ám sát hụt Hitler vào ngày 20 tháng 7 năm 1944.

 

Chiến tranh Thế giới thứ hai cũng chứng kiến sự ra đời của bộ phận phản gián thuộc NKVD, được gọi là SMERSH, viết tắt của tên tiếng Nga Smert’ Shpionam (Tử thần cho bọn gián điệp). SMERSH, tất nhiên, trở nên nổi tiếng trong những năm hậu chiến nhờ vai trò nổi bật của nó trong các tiểu thuyết James Bond đầu tiên của Ian Fleming, mặc dù trên thực tế, nó đã bị giải tán từ rất lâu trước khi 007 được cấp phép giết người. (Khi những câu chuyện được chuyển thể lên màn ảnh vào năm 1962, SMERSH đã được thay thế bởi vai phản diện SPECTRE, một tổ chức khủng bố được tạo ra cho bộ phim đầu tiên, James Bond của Cơ quan Mật vụ, và sau đó được sử dụng trong các tiểu thuyết.) Được thành lập chính thức vào tháng 4 năm 1943, SMERSH hoạt động trong ba năm, vừa xâm nhập vào cơ quan mật vụ Đức, vừa duy trì trật tự trong Hồng quân: binh sĩ bỏ chạy trước sự tiến công của kẻ thù sẽ bị chính phe mình bắn, và để địch bắt là bị ghép tội phản quốc. Họ đã sử dụng mọi phương tiện cần thiết – người đưa tin, trò chơi phát thanh, thông tin sai lệch –  để đảm bảo lòng trung thành của cả quân nhân và người dân, và được Stalin, người mà họ báo cáo trực tiếp, đánh giá rất cao. Họ được giao nhiệm vụ tìm kiếm thi thể của Hitler vào cuối chiến tranh, và, theo một số nguồn tin, thậm chí giải ông đến Nga (dẫn đến tuyên bố không thể tránh khỏi rằng các điệp viên SMERSH đã bắt sống Hitler và đưa ông ta về Moscow để thẩm vấn và hành quyết).

 

Có một hoạt động khác của Trung tâm Moscow, bắt đầu trước Thế chiến thứ hai, tiếp tục trong suốt chiến tranh và vẫn hiệu quả trong những năm đầu quan trọng của Chiến tranh Lạnh. Được KGB ca ngợi là nhóm điệp viên nước ngoài tài giỏi nhất mà họ từng tuyển dụng, bộ năm điệp viên này được đặt biệt danh là ‘Ngũ Tuyệt’. Nhóm điệp viên gồm Kim Philby, Guy Burgess, Donald Maclean, Anthony Blunt và John Cairncross đã cung cấp thông tin vô giá trong suốt chiến tranh và một thời gian sau đó.

 

Một số đặc vụ được thúc đẩy bởi lòng tham, những người khác bởi ý thức hệ.

Nhóm Ngũ Tuyệt đều được tuyển dụng vào những năm 30 khi, như Anthony Blunt giải thích sau khi việc y phản bội được công khai  vào năm 1979, ‘Đối với tôi và nhiều người cùng thời với tôi, dường như Đảng Cộng sản và nước Nga là thành trì vững chắc duy nhất chống lại chủ nghĩa phát xít, vì các nền dân chủ phương Tây lúc đó đang có thái độ thiếu dứt khoát và chuộng thỏa hiệp đối với nước Đức.’ Thỏa thuận của lãnh đạo Đảng Lao động Anh Ramsay MacDonald về việc đứng đầu Chính phủ Quốc gia vào năm 1931 bị Bộ Ngũ Tuyệt coi là hành động bán đứng và mô hình của Nga dường như là con đường duy nhất để tiến về phía trước.

 

Người khởi xướng ban đầu là Guy Burgess, một cựu học sinh trường Eton danh giá, mà khuynh hướng cộng sản nhiệt thành của y được thổi bùng hơn nữa bởi cuốn sách Hitler thống trị châu Âu? của Ernst Henri, cuốn sách đã truyền bá cách sử dụng các ổ gián điệp có năm thành viên (Fünfergruppen, tên gọi của chúng trong tiếng Đức) nhằm mục đích thúc đẩy phong trào chống phát xít. Henri thực chất là điệp viên Semyon Nikolayevich Rostovsky của OGPU, một chuyên gia tuyển dụng quan trọng cho Trung tâm Moscow, chuyên tìm kiếm tài năng ở Cambridge trong những năm 1930. Burgess bắt đầu tạo ra “vòng tròn năm người màu xanh nhạt” của riêng mình.

 

Cùng thời gian đó, một người bạn của y, cựu sinh viên Cambridge Harold ‘Kim’ Philby, đã đăng ký vào Cơ quan Tình báo Liên Xô. Philby tốt nghiệp năm 1933 với “niềm tin rằng cuộc đời tôi phải cống hiến cho Chủ nghĩa Cộng sản”. Y du hành khắp châu Âu, và tại Vienna, y đã gặp và kết hôn với Litzi Friedmann, một điệp viên Quốc tế Cộng sản, và thu hút sự chú ý của OGPU vì những hoạt động của y cho đảng. Y được Teodor Maly tuyển dụng, và theo Philby, vào thời điểm đó, “được giao nhiệm vụ thâm nhập tình báo Anh. . .  không quan tâm đến việc mất bao lâu để hoàn thành nhiệm vụ. Y được cử trở lại Anh vào tháng 5 năm 1934 cùng với một chỉ huy mới, Arnold Deutsch, mật danh là Otto.

 

Deutsch được chỉ thị làm việc với cả Philby và Burgess, nhưng khi Philby cố gắng gia nhập giới công chức nhưng không thành công (y bị từ chối vì những người duyệt xét y nghi ngờ về “ý thức lệch lạc chính trị” của y), Deutsch ra lệnh cho Philby phải kiên nhẫn. Do đó, Philby công khai tuyên bố đã thay đổi định hướng chính trị của mình và bắt đầu trở thành thành viên của tổ chức, làm việc cho nguyệt san Review of Reviews theo chủ nghĩa tự do.

 

Burgess rất bận rộn, tập hợp nhóm năm người của mình. Trong số đó có nhà toán học Anthony Blunt và học giả ngôn ngữ Donald Maclean, cả hai đều là người tình của Burgess vào những thời điểm khác nhau. Y cũng tuyển dụng một sinh viên ngôn ngữ học hiện đại khác, John Cairncross vào ổ gián điệp của Quốc tế Cộng sản.

 

Khi Burgess được Deutsch chính thức tuyển dụng, ông trùm này cho rằng ý tưởng thành lập một nhóm có lẽ không phải là giải pháp tốt nhất. Tuy nhiên, Burgess vẫn duy trì mối quan hệ hữu nghị giữa năm thanh viên này trong suốt vài năm sau đó, điều gần như gây ra thảm họa cho Kim Philby do mối quan hệ với Maclean, và Burgess khi họ buộc phải đào tẩu sang Nga vào năm 1951.

 

Theo chỉ dẫn của Deutsch, Maclean và Cairncross đều cắt đứt quan hệ với Đảng Cộng sản và nộp đơn xin gia nhập khối công chức. Burgess trở thành trợ lý riêng cho nghị sĩ Jack Macnamara; Maclean được nhận vào Bộ Ngoại giao vào tháng 10 năm 1935, và Cairncross cũng đến đó một năm sau đó.

Trong khi Maclean, một người dễ gần, giỏi kết bạn và bắt đầu thu thập được những thông tin hữu ích, thì việc tiếp cận của Cairncross lại kém hiệu quả hơn, và cuối cùng Deutsch đề nghị y nộp đơn xin việc tại Bộ Tài chính. Burgess trở thành một nhà sản xuất nổi tiếng cho Đài Phát thanh Truyền hình Anh (BBC), thiết lập nhiều mối quan hệ, bao gồm cả phó giám đốc M16 David Footman, chính ông ta sau này đã giới thiệu Burgess vào một vị trí trong cơ quan mật vụ vào năm 1938, làm việc cho Đơn vị D mới của MI6, chuyên phát sóng tuyên truyền đến Đức Quốc xã. Blunt vẫn ở lại Cambridge, tìm kiếm tân binh cho NKVD, bao gồm Leo Long, sau này trở thành một nhân tố quan trọng trong Thế chiến thứ hai.

 

Trong khi đó, Philby đang tham gia vào loại nhiệm vụ thường thấy trong các bộ truyện gay cấn đương đại chứ không phải những công việc sao chép bí mật và đưa tin tầm thường hơn của các đặc vụ Cambridge khác. Nội chiến Tây Ban Nha nổ ra vào năm 1936, và đầu năm sau, Philby được cử đi dưới vỏ bọc báo chí để thâm nhập vào đoàn tùy tùng của Tướng Franco và giúp tổ chức ám sát ông ta. Nhiệm vụ cụ thể đó đã bị hủy bỏ vào mùa hè năm đó để tập trung vào việc thu thập thông tin về các cơ quan tình báo khác đang hoạt động ở Tây Ban Nha. Mùa xuân năm sau, Philby trở thành anh hùng Tây Ban Nha khi chiếc xe y đang đi bị trúng đạn pháo và y là người duy nhất sống sót; huy chương y nhận được do chính Franco gắn lên ngực!

 

Tuy nhiên, nhóm Ngũ Tuyệt chẳng bao lâu sau thấy mình không còn người chỉ huy. Sau cuộc thanh trừng lớn của NKVD năm 1937, cả Maly, người từng làm việc cùng với Philby, và Deutsch được triệu hồi về Moscow. Maly đối mặt với án tử hình, trong khi Deutsch sống sót đến những năm chiến tranh trước khi bị SS hành quyết trong cuộc kháng chiến chống Đức Quốc xã ở Vienna.

 

Khi chiến tranh nổ ra, Ngũ Tuyệt tranh thủ các vị trí đắc địa để hỗ trợ các ông chủ Liên Xô trả lương của mình. Cairncross trở thành thư ký riêng của Ngài Hankey, Bộ trưởng của Công quốc Lancaster, người chủ trì nhiều ủy ban bí mật và thậm chí còn giám sát các cơ quan tình báo. Điều này có nghĩa là Cairncross có thể chuyển giao “hàng tấn tài liệu theo nghĩa đen” cho NKVD, bao gồm các cảnh báo về Chiến dịch Barbarossa, và những phát hiện của Ủy ban Cố vấn Khoa học và Ủy ban Maud liên quan đến triển vọng chế tạo vũ khí sử dụng Uranium-235 – khiến y trở thành một trong những điệp viên nguyên tử đầu tiên của Liên Xô. Khi Hankey bị sa thải khỏi Chính phủ vào năm 1942, Cairncross chuyển sự chú ý sang Bletchley Park, nơi đặt trụ sở của các chuyên gia giải mã Engima.

 

Burgess đã có chân trong MI6 khi chiến tranh nổ ra, và y đã hỗ trợ Kim Philby dễ dàng gia nhập tổ chức. Philby và Burgess cùng làm giảng viên tại một trường đào tạo cho Phân khu IX (còn gọi là Phân khu D, viết tắt của “Destruction” (Phá hoại) trước khi phân khu này được sáp nhập vào SOE mới. Burgess bị sa thải trong khi Philby vẫn ở lại SOE cho đến khi y chuyển sang Phân khu V, bộ phận Phản gián của M16. (Moscow cũng có các điệp viên khác trong SOE, bao gồm cả Klugmann của Donald Maclean.)

 

Trong khi ở Phân khu V, Philby có thể truyền đạt thông tin về các điệp viên MI6 thời trước chiến tranh hoạt động chống Liên Xô từ Cơ quan Đăng ký, và bằng cách tình nguyện làm ca đêm tại trụ sở cơ quan ở số 54 Broadway, gần Công viên St James ở trung tâm London, nơi y có thể cập nhật cho Moscow mọi diễn biến đang xảy ra. Y đã liên lạc với MI5 khi Phân khu V chuyển đến trung tâm London vào năm 1943, và khi Phân khu IX mới được thành lập vào năm 1944, đặc biệt để đối phó với mối đe dọa từ Liên Xô trong quá khứ và hiện tại, Trung tâm Moscow nhấn mạnh rằng y “phải làm mọi thứ, không gì trừ mọi thứ, để đảm bảo rằng y trở thành người đứng đầu Phân khu IX”. Philby đã loại ứng cử viên chính, một người chống Cộng kiên quyết, ra khỏi cuộc đua, và như đồng nghiệp Robert Cecil của y đã viết, qua đó “đã đảm bảo rằng toàn bộ nỗ lực hậu chiến chống lại hoạt động gián điệp Cộng sản sẽ được Điện Kremlin biết đến. Lịch sử gián điệp ghi lại rất ít, nếu không muốn nói là không hề có, những tuyệt tác tương tự.

 

Mặc dù Philby chắc chắn là người có đóng góp lớn nhất cho tình báo Liên Xô, nhưng trong chiến tranh, Cairncross và Blunt mới là những người nhận được nhiều lời tuyên dương nhất từ Trung tâm Moscow. Blunt cuối cùng dần dần biến thành người suy nhược thần kinh, và thực chất sau chiến tranh không hơn một người đưa tin. Y được tuyển dụng vào MI5 vào mùa hè năm 1940, và nhanh chóng được giao nhiệm vụ giám sát các đại sứ quán trung lập, cũng như bí mật tiếp cận các túi đồ ngoại giao của các người đưa tin tại đó – rồi y chụp ảnh và chuyển cho Anatoly Gorsky, đầu mối liên lạc mới của Ngũ Tuyệt tại London. Y cũng điều hành Leo Long với tư cách là một đặc vụ phụ, thu thập tài liệu nhờ việc Long tiếp cận tài liệu ULTRA từ Bletchley Park với tư cách là thành viên của MI14.

 

Cairncross cũng ở Bletchley vào thời điểm này, đầu Thế chiến thứ hai, truyền đạt thông tin về các cuộc di chuyển quân Đức và góp phần vào chiến thắng của Liên Xô tại Trận Kursk. Năm 1944, y chuyển sang MI6, làm việc tại Phân khu V chuyên về Đức, trước khi chuyển sang Phòng Tình báo Chính trị, nhưng công việc của y không mấy thành công, vì không có được tài năng bẩm sinh trong việc dễ dàng hòa đồng với mọi người như Burgess hay Maclean.

 

Những đóng góp của Guy Burgess cho nỗ lực chiến tranh của Liên Xô lại thuộc một lĩnh vực khác, sau khi y bị sa thải khỏi SOE. Cuối cùng, y lại làm việc với tư cách là nhà sản xuất chương trình mạn đàm cho BBC, và thậm chí còn mời được tác giả của chính tác phẩm truyền cảm hứng cho mình, Ernst Henri, lên sóng, tuyên bố mạng lưới tình báo của Liên Xô vĩ đại như thế nào!

 

Maclean là người duy nhất trong Ngũ Tuyệt không có thành tích nổi bật trong chiến tranh – Ít ra là lúc đầu. Y không thể chịu đựng được áp lực của cuộc sống hai mặt, và mặc dù là thành viên của Bộ Ngoại giao, y dường như thiếu năng lượng, dường như gặp phải những khó khăn trong cuộc sống gia đình. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 1944, y được điều động đến Washington D.C. và dường như đã lấy lại được sự nhiệt huyết trước đây. Y có được thông tin về các kế hoạch của Đồng minh sau khi chiến tranh kết thúc, và cũng tham gia vào việc liên lạc với dự án bom nguyên tử. Vợ y đang ở New York, và y thường xuyên đi từ Washington đến đó để thăm bà và chuyển thông tin cho Gorsky, người đã sang Hoa Kỳ để xử lý các điệp viên Trung tâm tại đó. Tất nhiên, điều này có nghĩa là có sự trao đổi tín hiệu giữa các phái bộ Liên Xô khác nhau ở Bờ Đông liên quan đến các chuyến đi của y – điều này sẽ quay lại ám ảnh Maclean vài năm sau đó, và cuối cùng gây ra sự sụp đổ của toàn bộ nhóm Ngũ Tuyệt Cambridge.

Nhóm Ngũ Tuyệt Cambridge

 

So với các đồng minh Anh hoặc Nga, người Mỹ là những người đến sau trong lĩnh vực gián điệp, một phần, tất nhiên, vì tính đến đầu Thế chiến thứ hai, Hoa Kỳ với tư cách là một thực thể chỉ tồn tại trong hơn 150 năm.

 

Trong Thế chiến thứ nhất, mà Mỹ chỉ tham gia vào năm 1917, đơn vị G-2 của Lục quân cùng với Văn phòng Tình báo Hải quân (ONI) đã hoạt động chống lại các nhóm thân Đức, và nhà mật mã học người Mỹ Herbert O. Yardley đã giúp thành lập Cục Mật mã của Lục quân Hoa Kỳ, được gọi là MI-8. Cục này đã đạt được một số thành công đáng kể trong việc chống lại các điệp viên Đức hoạt động tại Hoa Kỳ, nhưng các hoạt động thời bình của nó đã kết thúc vào năm 1928 khi Ngoại trưởng mới của tổng thống mới Herbert Hoover là Henry L. Stimson đã đóng cửa cục này và tuyên bố rằng ‘Quý ông không nên đọc lén thư người khác.’

 

G-2 và ONI tiếp tục hoạt động giữa hai cuộc chiến, phối hợp với Cục Tình báo Liên bang (trước đây là Cục Điều tra thuộc Bộ Tư pháp) mới thành lập để theo dõi các phần tử phản động thực tế và tiềm tàng, bao gồm Đảng Cộng sản Hoa Kỳ (CPUSA). Dường như họ không nhận ra quy mô xâm nhập của Liên Xô: con gái của đại sứ Mỹ tại Đức là một trong những người được Liên Xô tuyển dụng sớm, trong khi Nghị sĩ Samuel Dickstein, một thành viên chủ chốt của Ủy ban Đặc biệt về các Hoạt động Phi Mỹ, vốn đang tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa Quốc xã ở Hoa Kỳ, lại nằm trong danh sách của NKVD vì nhu cầu tài chính của mình, vào cuối những năm 1930 và có biệt danh là Crook

 

Không thể tránh khỏi việc có những hoạt động chồng chéo giữa các nhóm khác nhau, nhưng chỉ sau khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu vào tháng 9 năm 1939, Tổng thống Roosevelt mới quyết định bình thường hóa tình hình. Vào tháng 6 năm 1940, an ninh nội bộ được phân chia cho nhiều bên: FBI vẫn phụ trách các cuộc điều tra dân sự, trong khi G-2 và ONI xử lý các cuộc điều tra liên quan đến quân đội (bao gồm cả các nhà máy quốc phòng có hợp đồng lớn với Lục quân hoặc Hải quân). Họ cũng sẽ chịu trách nhiệm về Khu vực Kênh đào Panama, Philippines và các khu bảo tồn lớn của Lục quân.

 

Mặc dù Cục Mật mã đã đóng cửa, việc giải mã vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong công tác tình báo của lực lượng Hoa Kỳ và một cuộc tranh luận vẫn tiếp tục diễn ra đến tận hôm nay về việc Tổng thống Roosevelt đã biết được bao nhiêu về cuộc tấn công sắp xảy ra vào Trân Châu Cảng vào tháng 12 năm 1941. Có vẻ như tổng thống không nhận thức được mối nguy hiểm, nhưng điều hoàn toàn chắc chắn là những người phụ trách ở Hawaii đã không theo kịp mọi thông tin mà Washington biết và đã không có hành động thích hợp. Những người giải mã sẽ khôi phục lại danh tiếng cho nghiệp vụ của mình bằng cách giải mã thành công mật mã JN25 của Nhật Bản, giúp ngăn chặn cuộc xâm lược vào Bắc Úc và mang lại cho Đô đốc Hạm đội Nimitz của Hoa Kỳ một lợi thế quan trọng trước Trận Midway.

 

Năm tháng trước Trân Châu Cảng, Tổng thống Roosevelt đã bổ nhiệm William ‘Wild Bill’ Donovan, một luật sư thành đạt của Phố Wall và người đoạt Huy chương Danh dự, làm Điều phối viên Tình báo (COI). Donovan đã trải qua, năm trước đó liên lạc với William Stephenson, triệu phú người Canada gốc Scotland, người đã trở thành kênh truyền bá ảnh hưởng không chính thức của Anh tại Hoa Kỳ sau khi chiến tranh bùng nổ ở châu Âu. Donovan tin rằng cần phải có một cơ quan tình báo Mỹ phối hợp tập trung, và việc ông được bổ nhiệm làm COI, tham vấn với người đứng đầu các cơ quan hiện có và báo cáo trực tiếp lên tổng thống, là một bước đệm quan trọng hướng tới điều đó.

 

Việc tuyên chiến với Nhật Bản và Đức vào tháng 12 năm 1941 đã dẫn đến việc phân chia trách nhiệm của COI, với công tác tuyên truyền được chuyển giao cho Văn phòng Thông tin Chiến tranh, và phần còn lại được sáp nhập vào Cục Tình báo Chiến lược (OSS). Donovan vẫn phụ trách tổ chức mới này, nhưng thay vì báo cáo với tổng thống như trước đây, giờ đây ông chịu sự chỉ đạo của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân.

 

OSS được chia thành ba bộ phận: bộ phận Tình báo Đặc biệt thu thập thông tin tình báo từ các nguồn công khai và từ các điệp viên tại hiện trường. Allen Dulles phụ trách một trạm quan trọng ở Bern, Thụy Sĩ, nơi cung cấp rất nhiều thông tin quan trọng liên quan đến chương trình tên lửa của Đức Quốc xã và dự án bom nguyên tử của Đức. Bộ phận Hoạt động Đặc biệt tương đương với Cơ quan Điều hành Hoạt động Đặc biệt của Anh, và thực hiện nhiều chức năng tương tự, đôi khi phối hợp với người Anh, nhưng đôi khi, như ở Nam Tư, lại hợp tác với các nhóm khác nhau chống lại Đức Quốc xã. Bộ phận Hoạt động Tinh thần sử dụng đài phát thanh Soldat Ensender làm vũ khí tuyên truyền chống lại quân đội Đức. Nhiều nhân vật cấp cao trong giới tình báo Mỹ sau Thế chiến thứ hai là điệp viên OSS, bao gồm cả những giám đốc CIA tương lai là Allen Dulles và William Colby.

 

Mặc dù FBI đã tham gia vào những hoạt động có thể được gọi là truyền thống trong những năm chiến tranh, xử lý những kẻ phá hoại tiềm tàng và các mối đe dọa khác đối với an ninh quốc gia, nhưng họ vẫn vận hành Cơ quan Tình báo Đặc biệt (SIS) của riêng mình ở Mỹ Latinh. Theo lịch sử của FBI, vai trò của cơ quan này là “cung cấp thông tin về các hoạt động của phe Trục ở Nam Mỹ và phá hủy các mạng lưới tình báo và tuyên truyền của phe này”. Hàng trăm nghìn người Đức hoặc hậu duệ của người Đức và rất nhiều người Nhật Bản đang sống ở Nam Mỹ.

 

Họ gây áp lực ủng hộ phe Trục và che chở cho các cơ sở liên lạc của phe Trục. Tuy nhiên, ở mọi quốc gia Nam Mỹ, SIS đã góp phần tạo nên tình trạng mà đến năm 1944, việc tiếp tục hỗ trợ Đức Quốc xã trở nên không thể chấp nhận được hoặc không thực tế.

 

Gần như cùng lúc các lãnh đạo tình báo Anh đang suy ngẫm về những gì sẽ xảy ra sau khi phe Trục bị đánh bại, William Donovan cũng đang cân nhắc về tương lai của tình báo Mỹ. Trong một bản ghi nhớ gửi Tổng thống Roosevelt ngày 18 tháng 11 năm 1944, ông viết:

 

Một khi kẻ thù của chúng ta bị đánh bại, nhu cầu thông tin giúp chúng ta giải quyết các vấn đề hòa bình cũng sẽ cấp bách không kém. Việc này đòi hỏi hai điều:

 

  1. Quyền kiểm soát tình báo được trả lại cho Tổng thống giám sát.

 

  1. Việc thành lập một cơ quan trung ương báo cáo trực tiếp với ngài, có trách nhiệm xây dựng các mục tiêu tình báo và thu thập và phối hợp thông tin tình báo mà Cơ quan hành pháp yêu cầu trong việc lập kế hoạch và thực hiện chính sách và chiến lược quốc gia.

 

Cơ quan trung ương này sẽ do một giám đốc báo cáo với tổng thống lãnh đạo, với sự hỗ trợ của một Hội đồng Cố vấn gồm Ngoại trưởng, Bộ trưởng Chiến tranh, Bộ trưởng Hải quân và các thành viên khác do Tổng thống bổ nhiệm sau này. Mục tiêu chính của Hội đồng là điều phối mọi nỗ lực tình báo và thu thập “trực tiếp hoặc thông qua các Bộ và cơ quan Chính phủ hiện hành, các thông tin liên quan, bao gồm quân sự, kinh tế, chính trị và khoa học, liên quan đến năng lực, ý định và hoạt động của các quốc gia nước ngoài, đặc biệt là ảnh hưởng của những vấn đề đó đối với an ninh quốc gia, chính sách và lợi ích của Hoa Kỳ.

 

Bản ghi nhớ đã bị rò rỉ cho báo chí, và gây ra một sự náo động. Nhà báo Walter Trohan cho biết đó sẽ là ‘một cơ quan tình báo toàn năng để do thám thế giới sau chiến tranh và tọc mạch vào cuộc sống của người dân trong nước’, ‘sẽ hoạt động theo một ngân sách độc lập và có lẽ có nguồn quỹ bí mật cho các hoạt động gián điệp theo kiểu hối lộ và sống xa hoa được mô tả trong tiểu thuyết của [tiểu thuyết gia gián điệp người Anh] E. Phillips Oppenhem’.

 

Roosevelt không hành động theo đề nghị của Donovan, và sau khi tổng thống qua đời, người kế nhiệm ông, Harry S. Truman, đã quyết định không cho phép OSS tiếp tục hoạt động sau chiến tranh, vì lo ngại nó sẽ trở thành một “Gestapo của Mỹ”. Lệnh giải tán được ban hành vào ngày 20 tháng 9 năm 1945, và OSS ngừng hoạt động chỉ mười ngày sau đó, với một số năng lực chủ chốt được chuyển giao cho Bộ Chiến tranh thành Đơn vị Tình báo Chiến lược

 

Vậy mà chỉ bốn tháng sau khi quyết định đóng cửa cơ quan thu thập thông tin tình báo trung ương quan trọng của Mỹ, Tổng thống Truman đã ký một sắc lệnh hành pháp thành lập Nhóm Tình báo Trung ương hoạt động dưới sự chỉ đạo của Cơ quan Tình báo Quốc gia. Có gì thay đổi đâu?

Bình luận về bài viết này