
Hồ Bạch Thảo
Tháng 2 năm Cảnh Hưng thứ 35 [12/3-10/4/1774], (Thanh, Càn Long thứ 39); Nghệ An bị đói to, nhiều người chết đói. Triều đình hạ lệnh cho các quan bàn định thi hành việc phát chẩn, cứu giúp; giữ lại số tiền do nhà giàu trong trấn đệ nộp để phát chẩn cho dân; tha các thuế tuần ti trong hạt để việc buôn bán được lưu thông; khoan dung việc đốc thúc bắt lính trốn; đình hoãn việc bắt xét các vụ kiện tụng; lại hạ lệnh cho ti Hiến sát dò hỏi tỉ mỉ về sự đau khổ của dân, rồi trình bày để triều đình rõ.
Tháng 6 [9/7-6/8/1774], định thuế mỏ đồng Tụ Long. Trước đây, mỏ đồng Tụ Long bị Trung Quốc xâm chiếm, khoảng năm Bảo Thái thứ 9 [1728] người nhà Thanh mới trả lại. Đến nay định ngạch thuế, mỗi năm thu đồng đỏ một vạn cân.
Tháng 7 [7/8-5/9/1774] định thể lệ thuế phủ Trà Lân. Theo ngạch thuế cũ của bốn huyện Kỳ Sơn, Hội Nguyên, Vĩnh Hòa và Tương Dương thuộc phủ Trà Lân, Nghệ An; mỗi năm phải nộp 190 lạng vàng và 500 cân diêm tiêu. Từ lúc Lê Duy Mật chiếm cứ Trấn Ninh, thuế khóa đã lâu không nộp; khi dẹp được Duy Mật rồi, chiêu tập nhân dân trở về, đến nay liệu lượng ấn định thể lệ thuế khóa, mười phần chỉ thu hai phần.
Tại miền Nam vào tháng giêng [11/2-11/3/1774], Chúa Nguyễn sai Chưởng cơ Tôn Thất Thăng điều bát các quân đến dinh Quảng Nam đánh quân Tây Sơn. Thăng sợ thế địch lớn; bỏ quân, trong đêm chạy về.
Tháng 4 [10/5-8/6/1774], Lưu thủ dinh Long Hồ [Vĩnh Long] là Tống Phước Hiệp và Cai bạ Nguyễn Khoa Thuyên thống lĩnh tướng sĩ 5 dinh Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ. Các dinh này do Điều khiển Gia Định Nguyễn Cửu Đàm thống lĩnh, bấy giờ ủy cho Phước Hiệp đốc suất đi đánh Tây Sơn và đưa hịch mộ binh ứng nghĩa các đạo, thủy lục đều tiến. Quân dưới quyền Tống Phước Hiệp đánh bại quân Tây Sơn, thu lại được 3 phủ Bình Thuận, Diên Khánh [Khánh Hòa], Bình Khang [Ninh Thuận]; rồi đóng quân ở Hòn Khói [thuộc tỉnh Khánh Hòa], chống cự với quân địch.
Mạc Thiên Tứ ở Trấn Giang [Cần Thơ] nghe tin quân Tây Sơn nổi dậy, sai thuộc hạ chở một thuyền thóc về kinh để giúp quân lương. Thuyền đến ngoài biển Quy Nhơn thì bị quân Tây Sơn đón cướp mất.
Tháng 5 [9/6-8/7/1774] Trịnh Sâm sai tướng Hoàng Ngũ Phúc làm Thống tướng, đem quân các đạo vào xâm lấn miền Nam. Từ khi đã bình định được Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật tại Hưng Hóa và Trấn Ninh; Trịnh Sâm quen mùi thắng trận, thích lập chiến công. Nhân Tôn Thất Văn, con Tôn Thất Dục, oán Trương Phúc Loan hà ngược, từ trong Nam trốn ra Bắc, mách bảo về nội bộ miền Nam bên trong có quyền thần, phía ngoài Tây Sơn nỗi dậy . Lại nhân Bùi Thế Đạt, Trấn thủ Nghệ An, cho trạm chạy văn thư về triều nói hiện trạng Thuận Hóa có thể đánh lấy được; Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm đều tán thành việc này, Trịnh Sâm bèn quyết chí đánh.
Bấy giờ Hoàng Ngũ Phúc vì tuổi già nghĩ việc về nhà, Sâm liền khởi phục ra làm Thống tướng, lại bổ dụng Phan Lê Phiên và Uông Sĩ Điển giữ chức Tùy quân tham biện, Đoàn Nguyễn Thục giữ chức Đốc thị Nghệ An, thống lãnh tướng sĩ 33 doanh cùng quân thủy, quân bộ các đạo Thanh, Nghệ, vùng đông nam; số quân gồm ba vạn, tiến thẳng vào Nghệ An. Bọn Hoàng Phùng Cơ và Hoàng Đình Thể đều thuộc quyền chỉ huy của Ngũ Phúc. Một mặt hạ lệnh cho Nguyễn Khản và Hoàng Đình Bảo [cháu Hoàng Ngũ Phúc, còn có tên là Tố Lý] cũng lệ thuộc theo sự điều khiển. Sâm nhận thấy vùng Thuận Hóa luôn mấy năm mất mùa đói kém, lương ăn của lính không thể dựa vào dân được, bèn trù tính phải tải lương, chia đặt ba trường sở lương thực: Trường sở Sơn Nam đặt ở Mỹ Lộc [Nam Định], dùng bọn Nguyễn Đình Diễn quản lãnh việc chi tiền, bắt bốn trấn đong thóc trong hạt giã thành gạo, hợp với số lương chứa trong kho, rồi do đường thủy tải vào Nghệ An; trường sở Nghệ An đặt ở Hà Trung [huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh], dùng bọn Đoàn Nguyễn Thục quản lãnh, bắt mua thóc gạo nhà giàu trong hạt, hợp với số lương của trường sở Sơn Nam, rồi tùy tiện hoặc theo đường thủy hoặc theo đường bộ tải vào Quảng Bình; trường sở Quảng Bình đặt ở Động Hải [huyện Quảng Ninh, Quảng Bình], sai bọn Ngô Dao giữ việc vận tải tất cả số lương, dự bị xếp đặt điều khiển để cung cấp lương thực cho binh lính. Khi Ngũ Phúc đã hành quân, Sâm lại tự tay viết thư đưa cho, trong thư nói:
“Ông đến Nghệ An, nên tùy cơ mà trù tính định liệu, trước hết đưa thư cho các tướng giữ biên giới, nói thác ra rằng: ‘Việc hành quân này chỉ cốt phòng bị giặc Tây Sơn chạy trốn’. Nói như thế để thăm dò tình hình của họ. Nếu họ đã bình định được giặc Tây Sơn, thì lại đưa thư đề đạt ý chí rồi dẫn quân về, đừng làm cho họ sinh nghi, lại gây hấn khích ở nơi biên giới“.
Tháng 7 [7/8-5/9/1774], tại miền Nam Chúa Nguyễn thấy thế quân Tây Sơn lớn mạnh, sai Chưởng dinh Tôn Thất Cảnh quyền coi việc nước, để Chúa ngự giá thân chinh. Chuẩn bị thuyền đóng ở cửa biển Tư Dung [huyện Phú Lộc, Thừa Thiên], sai Trương Phúc Loan luyện quân ở núi Quy Sơn [huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi] .
Tháng 9 [5/10-3/11/1774], quân Trịnh đến châu Bắc Bố Chính [Quảng Bình]. Tri phủ Trần Giai chạy sang phe Hoàng Ngũ Phúc xin làm hướng đạo. Phúc sai Giai coi quân hậu đạo, và sai thuộc hạ là Nguyễn Ngô Dao đóng trại ở xã Đại Đan [huyện Quảng Trạch, Quảng Bình] để phô trương thanh thế. Thư ngoài biên giới cáo cấp, Chúa triệu Tôn Thất Nghiễm hộ giá về kinh thành và sai Nguyễn Cửu Dật làm Tả quân đại đô đốc lĩnh quân thủy bộ ở lại chống cự quân Tây Sơn. Cửu Dật làm tướng, liệu thế địch mà tìm cách chế thắng, hơn mười trận đánh đều được; quân giặc rất sợ.
Tháng 10 [4/11-2/12/1774], Thuận Hóa bị đói to, ngoài đường có xác chết đói, người nhà có khi ăn thịt nhau.
Cũng trong tháng 10 [4/11-2/12/1774] phía Trịnh, Hoàng Ngũ Phúc đóng đại bản doanh ở xã Hà Trung [huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh], bề ngoài mượn tiếng là đem quân giúp Chúa Nguyễn giết giặc, mà bề trong thì sai người lẻn lút liên kết với người biền lại (1) giữ biên giới, rồi nhân đêm đem quân lẻn qua đò sông Gianh [Quảng Bình], sáng sớm hôm sau quân sĩ đều lên bờ, đóng ở xã Cao Lao [huyện Quảng Trạch, Quảng Bình]. Tôn Thất Tiệp, trấn thủ doanh Bố Chính, sai Cai đội là Quý Lộc và Câu kê là Kiêm Long đến khao quân để làm cách hoãn binh. Ngũ Phúc sai người bí mật giao thiệp với hai người này. Kiêm Long nói: “Đường không đi thì không đến, chuông không đánh thì không kêu“.
Ngũ Phúc hiểu ý, bèn tiến quân, sai bọn Hoàng Đình Thể, tướng cầm quân ở một đạo khác, lẻn đem quân tiến sát đến doanh lũy Trấn Ninh [huyện Quảng Ninh, Quảng Bình]. Nhân Cai đội mã quân là bọn Hoàng Văn Bật và Lê Thập Thí, tự làm người tiếp ứng bên trong, mở cửa đồn ra hàng. Quân sĩ của Ngũ Phúc vừa đánh trống vừa reo hò tiến vào; tướng giữ đồn là Tống Hữu Trường bỏ chạy. Đồn lũy Trấn Ninh có tiếng là hiểm trở thiên nhiên, sau khi Ngũ Phúc đã kéo quân vào, bèn sang phẳng lũy ấy.
Trịnh Sâm thấy Ngũ Phúc đem đạo quân trơ trọi một mình đi vào quá sâu, e sẽ xảy ra sự bất trắc, bèn quyết kế thân đi tuần hành nơi biên giới để làm thanh thế viện trợ cho Ngũ Phúc; dùng bọn Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn Hoàn, Nguyễn Đình Huấn và Lê Quý Đôn ở lại trấn thủ kinh thành, rồi chia binh sĩ làm bốn đạo quân: bổ dụng Phạm Huy Đĩnh làm Tiền tướng quân, Trương Khuông làm Hậu tướng quân, Nguyễn Nghiễm và Lê Đình Châu làm Tả tướng quân và Hữu tướng quân, còn Trịnh Sâm tự thống suất đại binh ở giữa để tiếp ứng.
Tháng 11 [3/12/1774-1/1/1775], Trịnh Sâm tiến quân đến đóng ở Hà Trung.
Tháng 12 [2/1/1775-30/1/1775], sau khi đã vào lũy Trấn Ninh, Hoàng Ngũ Phúc tiến quân đóng ở xã Hồ Xá [huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị], làm tờ hịch kể tội trạng Trương Phúc Loan lấn quyền, bưng bít người trên, và nói: việc hành quân này chỉ cốt trước hết trừ khử một Phúc Loan, sau nữa tiễu trừ bọn giặc kiệt hiệt, thực không có ý gì khác cả.
Bọn Tôn Thất Huống, Nguyễn Cửu Pháp nhân thế, cùng nhau bắt Phúc Loan đưa nộp cho Ngũ Phúc và giam đồng đảng là Hộ bộ Thái Sinh vào ngục. Ngũ Phúc nhận được Phúc Loan rất mừng, ngả cờ im trống mà đi đến huyện Đăng Xương [huyện Triệu Phong, Quảng Trị]. Bấy giờ có người học trò là Trần Duy Trung đem bài thơ đến yết kiến Ngũ Phúc và nói rằng quân Nguyễn không quen đánh bộ, chỉ giỏi thủy chiến, quân Trịnh ở xa đến đừng nên tranh đấu về món sở trường ấy. Phúc khen lời nói phải, lưu lại trong quân, cho làm chức Câu kê. Phúc lại gửi thư cho Chúa Nguyễn nói rằng giặc Tây Sơn chưa trừ được, xin họp quân ở Phú Xuân để tiện sách ứng.
Chúa không tin, sai Tôn Thất Hiệp làm Thống binh và Thuộc nội cai đội Đặng (không rõ họ) quản quân cấm vệ để chống giữ ; rồi sai Cai đội Tuyên Chính (không rõ họ), Tham mưu Thành Đức (không rõ họ) trá hàng để dụ quân Trịnh. Lại sai Cai đội Phẩm Bình (không rõ họ) đi dụ hào mục ở các dinh Quảng Bình, Bố Chính hưởng ứng việc nghĩa, chia đóng đồn để quấy rối sau lưng địch. Thế rồi, Phẩm Bình bị quân Trịnh bắt được, Tôn Thất Tiệp lại bị biệt tướng của Trịnh là bọn Nguyễn Tiến Khoan, Hoàng Phùng Cơ đánh thua. Quân của Cai đội Đặng không đánh mà cũng tự vỡ. Quân Trịnh tiến đóng ở Bái Đáp [huyện Quảng Điền, Thừa Thiên].
Chúa sai Tôn Thất Chí tiết chế bộ binh, Tôn Thất Doanh tiết chế thủy binh, Nguyễn Đăng Trường tham tán quân cơ lãnh 20 chiếc thuyền đi biển, chia đường chống đánh, nhưng không được.
Chúa vời Tôn Thất Chí về. Sai Nội tả chưởng dinh Nguyễn Văn Chính điều bát các dinh thủy bộ. Văn Chính đến quân thứ, hỏi tội Cai đội Đặng về việc rút lui, lập tức đem chém để cảnh cáo mọi người. Bấy giờ lòng người trong nước đều oán Trương Phúc Loan chuyên quyền, mà bao nhiêu tướng giỏi quân mạnh các dinh thì đã điều vào Quảng Nam đánh giặc cả, từ Hiền Sĩ [huyện Phong Điền, Thừa Thiên] trở ra, binh tướng toàn là già yếu, không quen đánh trận, cho nên khi quân Trịnh đến thì chẳng ai chống giữ. Chỉ một mình Nguyễn Văn Chính đem quân sở bộ ra chống đánh, binh uy có hơi phấn chấn; Hoàng Ngũ Phúc cũng đã e sợ. Nhưng Văn Chính không biết mưu lược cầm quân, chỉ uống rượu nói suông, ngoài ra không có kế đánh giữ gì cả. Ngũ Phúc mật sai bọn Hoàng Đình Thể và Hoàng Nghĩa Phát do đường núi qua các ghềnh Trầm và Ma (2), rồi mặt trước mặt sau đánh khép lại; Văn Chính cố sức đánh, bị chết trận, các quân đều tan vỡ.
Ngày Đinh mùi [29/1/1775], quân Trịnh đến thành Phú Xuân
Chúa sai Tham mưu Trung dinh là Tống Phước Đạm đem hết số quân còn lại ra cửa bắc chống giữ và sai các đội trưởng Tả thủy, Trung thủy, Tiền thủy là Nguyễn Cốc, Vũ Di Nguy, Trương Phước Dĩnh chỉnh bị thuyền ghe để đợi. Sai hoàng tôn là Dương con Thế tử Hiệu đi trước, qua cửa Hải Vân.
Ngày Mậu Thân [30/1/1775], chúa đi Quảng Nam, thuyền qua cửa Tư Dung; Hoàng Ngũ Phúc bèn chiếm giữ Thuận Hóa.
Về phía nhà Thanh, viên Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu tâu trình có những kẻ phạm pháp từ sảnh Long Châu, phủ Thái Bình lén vượt vào An Nam gây chuyện. Triều đình nhà Thanh ra lệnh cho Lý Thị Nghiêu đem cách chức và bắt hỏi tội các quan cai quản tại phủ châu không chịu tra xét, để các phạm nhân trốn vượt xuất ra nước ngoài:
“Ngày 5 Kỷ Sửu tháng 12 năm Càn Long thứ 38 [16/1/1774]. Dụ:
Cứ bọn Lý Thị Nghiêu tâu đầy đủ về việc đem bọn trốn vượt đến An Nam gây chuyện là Diêu Quốc Khâm ra định tội. Ðã phê giao cho bộ cứu xét rồi cấp tốc tâu lên. Bọn phạm nhân Diêu Quốc Khâm, Vi Sĩ Hồng, Hoàng văn Ðỉnh nhiều năm từ sảnh Long Châu, phủ Thái Bình lén vượt. Người trong nước rần rần xuất khẩu gây chuyện; các quan địa phương buông tuồng không kê tra, để cho chúng ra vào không cấm kỵ; điều sai trái này không thể so sánh với việc thiếu quan sát trong trường hợp bình thường. Nay ra lệnh cách chức các quan phủ châu từng trấn nhậm tại các địa phương này.
Dụ Quân cơ đại thần:
Cứ bọn Lý Thị Nghiêu dâng tấu triệp về việc đem bọn Diêu Quốc Khâm trốn vượt đến An Nam ra định tội, đã phê giao bộ cứu xét rồi cấp tốc tâu lên. Trong tấu triệp trình bày rằng những viên chức không quan sát việc xuất khẩu, xin được tra rõ thêm, rồi sẽ hạch tội. Việc làm không đúng! Về việc những phạm nhân Diêu Quốc Khâm, Vi Sĩ Hồng, Hoàng Văn Ðỉnh đã được Trẫm nêu trong tấu triệp đều do những năm trường tại sảnh Long Châu, phủ Thái Bình lén vượt. Dân nội địa tại nơi này rần rần xuất khẩu gây chuyện, quá đủ để Di nước ngoài chê cười; nhưng các quan địa phương buông tuồng không kê tra, cho ra vào không cấm kỵ, không thể so sánh với việc thiếu quan sát trong trường hợp bình thường. Lý Thị Nghiêu tra xét án này đã lâu, đáng phải đem những quan địa phương không chịu kê tra ra hỏi tội, tại sao lại phải chờ để điều tra rõ mới tâu, ý muốn kéo dài để bỏ lơ. Lý Thị Nghiêu lo liệu công việc từ trước tới nay thỏa đáng, cớ sao trong vụ án này lại chậm chạp khoan túng như vậy. Nay truyền lệnh cho Lý Thị Nghiêu đem cách chức, bắt hỏi tội các quan cai quản tại phủ châu không chịu tra xét các phạm nhân trốn vượt xuất khẩu. Lệnh viên Tổng đốc đem danh sách các viên chức từng trấn nhậm tại các địa phương có liên hệ, đưa lên bộ để tra xét.
Nay truyền dụ này để hay biết.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 948, trang 10-11)
Bấy giờ thuyền buôn Trung Quốc từ hải ngoại trở về nước báo tin quân Tây Sơn đến thành An Nam tức thành nhà Nguyễn gây chiến. Vùng Tả Giang tại tỉnh Quảng Tây tiếp giáp phía bắc An Nam, cũng xác nhận trong nước này có nội loạn. Vua Càn Long ra lệnh điều tra chi tiết, để hiểu nguyên do:
“Ngày 30 Nhâm Ngọ tháng 5 năm Càn Long thứ 39 [8/7/1774]. Tổng đốc Lưỡng Quảng Ðại học sĩ tước Bá Lý thị Nghiêu tâu ‘Thương thuyền do Phùng Vạn Hưng làm chủ chở hàng hóa đến Gia Lạt Ma (3) buôn bán, bị gió thổi đến An Nam; bèn đem tất cả hàng hóa chở về. Lập tức truyền hỏi thì khai rằng trên biển binh thuyền qua lại rất đông; nghe rằng anh Quốc vương An Nam từ trước tới nay chia đóng tại Tây Sơn, gần đây mang quân đến gần thành An Nam gây chiến, tiếng súng ngày đêm không dứt, nên không dám ghé tại đó. Tra tại vùng Tả Giang tỉnh Quảng Tây tiếp giáp với An Nam; nay trong nước này có nội loạn, không thể đoan chắc rằng không có người Di trốn vào nước ta gây chuyện; nên hiện tại đã thông sức thuộc viên quân lính ra sức phòng bị.’
Nhận được chiếu chỉ:
‘Tốt, thấy được sự lưu tâm, đã hiểu. Nước này có loạn đã nghe được, không biết có liên quan gì đến giặc Miến Ðiện không, nên điều tra chi tiết nguyên do.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 959, trang 27)
Chú thích:
1.Biền lại: danh từ thời quân chủ, dùng để gọi quan lại bậc thấp về hàng võ.
2.Hai ghềnh Trầm và Ma: Ở địa phận xã Cổ Bi, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên.
3.Gia Lạt Ma: vùng đất tại Lữ Tống, Phi Luật Tân.