Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử (Bài 13)

NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Joseph Cummins

 Trần Quang Nghĩa dịch

24  CHIẾN TRANH VIỆT NAM 1955-1975

BẮC VIỆT ĐÃ GÂY RA THẢM BẠI HỦY DIỆT VÀ LỊCH SỬ CHO MỘT HOA KỲ MUỐN NGĂN CHẶN CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN Ở ĐÔNG NAM Á, NHƯNG KHÔNG THỂ ĐƯA RA MỘT CHIẾN LƯỢC HỢP LÝ CHO CUỘC CHIẾN DÀI NHẤT TRONG LỊCH SỬ HOA KỲ ĐẾN THỜI ĐIỂM ĐÓ

TỔNG QUAN: CUỘC CHIẾN GÂY CHIA RẼ LÀM THAY ĐỔI TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA HOA KỲ VÀ VIỆT NAM

Đất nước Việt Nam đã bị chia cắt tại vĩ tuyến 17 vào năm 1954 sau khi lực lượng của Hồ Chí Minh đánh bại quân Pháp vào năm 1954 tại trận Điện Biên Phủ. Phía bắc của đường phân định là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và phía nam là Việt Nam Cộng hòa.

Cuộc bầu cử theo Hiệp Định Geneva được ủy quyền tổ chức vào năm 1956, nhưng sau đó nội chiến nổ ra giữa chính quyền cộng sản chuyên chế miền Bắc và chính quyền tham nhũng nhưng dân chủ trên danh nghĩa ở miền Nam, được Hoa Kỳ hậu thuẫn, lo sợ rằng chiến thắng của cộng sản ở Việt Nam sẽ dẫn đến sự tiếp quản của cộng sản ở toàn bộ Đông Nam Á. Lúc đầu, viện trợ của Hoa Kỳ cho miền Nam và một loạt các tổng thống của nước này chỉ giới hạn ở các cố vấn quân sự và hỗ trợ tài chính. Nhưng chẳng bao lâu sau, Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson nhận ra rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang thua trong cuộc chiến chống lại du kích Việt Cộng hoạt động ở miền Nam và được Bắc Việt tiếp tế. Sau khi các tàu tuần tra của Bắc Việt đụng độ với một tàu khu trục thu thập thông tin tình báo của Hoa Kỳ tại Vịnh Bắc Bộ vào tháng 8 năm 1964, Johnson đã tranh thủ được sự chấp thuận của Quốc hội để gửi quân chiến đấu đến miền Nam và bắt đầu ném bom miền Bắc.

Cuộc chiến sau đó leo thang khi Bắc Việt gửi quân đội chính quy xâm nhập vào miền Nam. Các cuộc đụng độ lớn đầu tiên giữa hai lực lượng này diễn ra tại Thung lũng La Drang ở miền Nam vào tháng 11 năm 1965 và cho thấy sự khác biệt trong cách tiếp cận cuộc chiến của họ. Người Mỹ theo đuổi chiến thuật mới về khả năng cơ động trên không – di chuyển nhanh các nhóm binh sĩ từ chiến trường này sang chiến trường khác bằng trực thăng cũng như sử dụng sự hỗ trợ chặt chẽ của pháo binh và các cuộc không kích của máy bay chiến đấu. Không có công nghệ này, Bắc Việt theo đuổi chiến lược áp sát kẻ thù càng gần càng tốt, khiến bom và pháo trở nên vô dụng.

Cuộc chiến diễn ra trong suốt năm 1968, quân đội Mỹ dưới quyền Tướng William Westmoreland tìm cách ngăn cản sự hỗ trợ của dân chúng cho du kích Việt Cộng bằng cách di chuyển hàng ngàn dân chúng vào các khu vực gọi là “ấp chiến lược” do quân đội VNCH xây dựng, trong khi tấn công quân BV từ các căn cứ hỏa lực trong nước. Các trận ném bom ồ ạt xuống miền Bắc vẫn tiếp tục không ngừng cho đến năm 1968. Nhưng chương trình ấp chiến lược đã thất bại vì dân chúng xa lánh bằng cách thoát ly ra khỏi nhà. Thêm vào đó, người Mỹ không bao giờ có thể bẫy quân bộ đội BV vào một trận chiến chính quy để gây ra thiệt hại không thể khắc phục cho họ.

Vào tháng 1 năm 1968, Việt Cộng và Bắc Việt đã phát động cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân, một cuộc tấn công lớn, có sự phối hợp vào 36 thành phố ở miền Nam. Họ đã gây ra sự tàn phá rộng khắp, nhưng họ đã bị đánh bại trên chiến trường với tổn thất nặng nề. Mặc dù vậy, cuộc tấn công đã làm rung chuyển dư luận công chúng Hoa Kỳ. Những lời kêu gọi chấm dứt sự can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, vốn đã gia tăng, giờ đây đã lên đến đỉnh điểm.

Tổng thống Johnson đã dừng ném bom Bắc Việt và bắt đầu đàm phán với Bắc Việt tại Paris, trong khi tuyên bố rằng ông sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ thứ hai. Vào tháng 3 năm 1969, Hoa Kỳ chuyển sang  chiến lược  “Việt Nam hóa chiến tranh”, nghĩa là dần dần cho phép miền Nam tự mình chiến đấu. Năm sau, dưới thời Tổng thống Richard Nixon, Hoa Kỳ đã dần dần rút 500.000 quân, khi phong trào biểu tình tại Hoa Kỳ ngày càng lên tiếng, đặc biệt là sau khi tin tức về vụ thảm sát Mỹ Lai được tiết lộ.

Sau vụ giết hại sinh viên tại cuộc biểu tình Đại học Kent State do Vệ binh Quốc gia Ohio gây ra vào tháng 5 năm 1970, hầu hết đất nước đều muốn chiến tranh kết thúc. Cuối cùng, nhà đàm phán của Nixon là Henry Kissinger và nhà ngoại giao Bắc Việt là Lê Đức Thọ đã đạt được một thỏa thuận hòa bình tại Paris vào tháng 10 năm 1972. Những binh lính chiến đấu cuối cùng của Hoa Kỳ đã rút khỏi đất nước vào tháng 3 năm 1973, mặc dù miền Nam vẫn tiếp tục chiến đấu, được Hoa Kỳ cung cấp vũ khí, cho đến khi họ bị quân đội Bắc Việt áp đảo vào tháng 4 năm 1975.

Cuộc chiến tranh ở Việt Nam là cuộc chiến dài thứ hai trong lịch sử Hoa Kỳ, sau cuộc chiến sau này ở Afghanistan – cũng là cuộc chiến đầu tiên mà Hoa Kỳ thua và có lẽ là sự kiện đau thương nhất trong lịch sử thế kỷ XX của nước này. Người dân Hoa Kỳ đã chia rẽ kình chống nhau trong suốt cuộc chiến và nuôi dưỡng lòng ngờ vực mạnh mẽ đối với  chính phủ, trong khi Hoa Kỳ cũng mất mặt trên toàn thế giới. Tuy nhiên, một Bắc Việt chiến thắng cuối cùng đã thống nhất đất nước, mặc dù gánh chịu những tổn thất nghiêm trọng, và dần dần sau chiến tranh, sau một thời gian điều chỉnh chính sách rõ ràng là họ không hành động cùng nhịp với Liên Xô hay Trung Cộng.

 BINH LÍNH VIỆT CỘNG ĐANG BẮN VÀO MÁY BAY ĐỊCH

BẮC VIỆT THUA TRẬN  NHƯNG GIÀNH THẮNG LỢI TRONG CUỘC CHIẾN

Cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân: 1968

Đối với nhiều người, trong số đó có nhân viên thuộc cộng đồng tình báo Hoa Kỳ, hình như có điều gì đó đang âm ỉ vào tháng 1 năm 1968. Vào mùa thu, quân đội chính quy Bắc Việt đã phát động các cuộc tấn công mạnh mẽ vào các căn cứ của Hoa Kỳ tại Khe Sanh và Cồn Tiên dọc theo vĩ tuyến 17, các cuộc tấn công mà khi nhìn lại sẽ được coi là những nỗ lực thành công nhằm thu hút quân lực Hoa Kỳ về phía bắc, rời xa Sài Gòn.

Vào đầu tháng 1, một tài liệu tìm thấy trên thi thể của một sĩ quan Việt Cộng có đề cập đến một “cuộc tấn công phối hợp” sẽ sớm được triển khai. Và khi Tết Nguyên đán hàng năm của người Việt đến gần vào ngày 31 tháng 1, nhiều người Mỹ nhận xét càng có nhiều thanh niên Việt xuất hiện ở các thành phố lớn như Sài Gòn và Huế trông khỏe mạnh và gầy gò, nhưng lại xanh xao, như thể họ đã dành nhiều thời gian đi bộ xuyên qua những khu rừng rậm rạp.

Trên thực tế, họ đã làm như vậy. Vào tháng trước ngày 31 tháng 1 năm 1968, hàng ngàn lính Việt Cộng và bộ đội Bắc Việt đã cởi bỏ quân phục và hòa nhập vào dân thường, chuẩn bị cho cuộc tấn công mạnh mẽ nhất mà miền Bắc từng phát động chống lại miền Nam và người Mỹ. Cuộc tấn công sẽ bao gồm các cuộc đột kích vào 36 thủ phủ tỉnh, hơn một trăm thị trấn và thành phố, với gần 200 tiểu đoàn Việt Cộng và quân đội Bắc Việt – 70.000 người sẽ tham gia vào cuộc tấn công ban đầu.

Và tất cả những điều đó xuất hiện cùng với tiếng pháo Tết, tiếng kèn và tiếng trống.

Một thất bại của tình báo đồng minh”

Vào đêm 30-31 tháng 1, hầu hết người Mỹ ở miền Nam đều lắng nghe và tham gia lễ mừng Tết. Trên thực tế, tại Sài Gòn, hơn 200 đại tá ứng trực tại đại sứ quán Hoa Kỳ đã đến dự tiệc rượu ồn ào tại nhà của một sĩ quan đồng nghiệp, chỉ để lại thêm một lính gác tại đại sứ quán, mặc dù mức độ cảnh giác đang cao.

Sau này, một sĩ quan Hoa Kỳ gọi sự kiện có rất nhiều cảnh báo đã bị bỏ qua là “một thất bại tình báo của đồng minh ngang hàng với Trân Châu Cảng.” Nhưng hầu hết quân đội Hoa Kỳ ở Việt Nam đều ở mức báo động cao ít nhất một nửa thời gian, và không ai truyền đạt bất kỳ nhận thức  cấp bách nào cho những người xung quanh Sài Gòn. Suy cho cùng, chẳng phải đã có một lệnh ngừng bắn trong dịp Tết sao?

Rõ ràng, Bắc Việt cũng đã đồng ý, và để đáp lại, miền Nam đã cho một nửa quân lính của mình nghỉ phép về nhà ăn Tết. Và trong khi mọi người đang ăn mừng năm mới, bọn xâm nhập Bắc Việt và Việt Cộng đã nhặt súng và lựu đạn và rời khỏi nơi ẩn náu. Qua làn khói pháo và tiếng cười giòn tan, họ tiến về mục tiêu được giao phó như một phần của kế hoạch được thiết kế chủ yếu bởi Tướng Võ Nguyên Giáp. Ông tin chắc rằng  miền Nam đã chín muồi cho một cuộc tổng nổi dậy, rằng người dân miền Nam sẽ đồng loạt đứng lên lật đổ người Mỹ và chính quyền miền Nam tham nhũng. Trên thực tế, điều này không đúng, mà hóa ra đó là tính toán sai lầm nhất mà Giáp từng mắc phải.

Vào sáng sớm, trong bóng tối ở Sài Gòn – mục tiêu quan trọng nhất của bọn xâm nhập – gần 4.000 Việt Cộng tập hợp thành các nhóm nhỏ và tiến về các mục tiêu của mình. 19 biệt kích Việt Cộng được huấn luyện bài bản chen chúc trên một chiếc xe tải và một chiếc taxi, đến bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ vào khoảng ba giờ sáng và dùng thuốc nổ dẻo để phá một lỗ trên tường. Sau đó, họ xông vào, nổ súng.

Trên khắp đất nước, những hành động khác diễn ra gần như đồng thời. Việt Cộng đã tấn công 25 căn cứ quân sự, khiến người Mỹ hoảng loạn trong vòng vây khi họ nhận ra rằng những gì họ nghĩ là pháo Tết thực chất là đạn và thuốc nổ. Bên ngoài Sài Gòn, Việt Cộng đã cho nổ tung kho đạn Long Bình, gây ra một vụ nổ ngoạn mục có thể nhìn thấy từ nhiều dặm. Khu ngoại ô Chợ Lớn của Sài Gòn đã biến thành nơi tập kết cho các cuộc tấn công của Việt Cộng và Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong thời gian ngắn đã có thể chiếm được đài phát thanh quốc gia, tấn công dinh tổng thống và khiến Tướng William Westmoreland bị kẹt cứng  trong trụ sở Bộ Tư lệnh Hỗ trợ Quân sự Hoa Kỳ, Việt Nam của mình.

Nhưng chính cuộc tấn công vào đại sứ quán Hoa Kỳ đã trở nên khét tiếng nhất trong đêm và ngày đầu tiên của cuộc tấn công. Mặc dù một sĩ quan Hoa Kỳ đã chế giễu gọi đó là “hành động vụn vặt cấp trung đội”, mặc dù Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth Bunker đã được đưa đến nơi an toàn, nhưng những lính đặc công và du kích Việt Cộng thực sự đã xâm nhập vào lãnh thổ Hoa Kỳ và giết chết lính Mỹ ở đó. Vì đây là Sài Gòn, các phóng viên và đoàn quay phim Hoa Kỳ đã lập tức có mặt và họ đã quay cảnh hỗn loạn. Thay vì những hình ảnh mà công chúng Hoa Kỳ quen thấy, những hình ảnh khói bốc lên từ rừng rậm khi máy bay phản lực không kích vào các vị trí của Việt Cộng và Quân đội BV, hoặc lính Mỹ bắn súng M16 từ nơi tương đối an toàn dưới tán cây và bụi rậm, lần đầu tiên công chúng Hoa Kỳ đột nhiên nhìn thấy đống đổ nát bên trong Sài Gòn và những xác chết. Họ nghe thấy tiếng súng từ những kẻ xâm nhập và giọng nói hoảng loạn của các phóng viên truyền hình.

TỔNG THỐNG LYNDON JOHNSON PHÁT BIỂU TRƯỚC NGƯỜI DÂN MỸ VÀ CÔNG BỐ QUYẾT ĐỊNH NGỪNG NÉM BOM BẮC VIỆT VÀO THÁNG 3 NĂM 1968.

Đúng là một trận hỗn loạn đối với công chúng Hoa Kỳ vốn đã được thông báo, không ai khác ngoài Tướng Westmoreland, rằng người Mỹ đang chiến thắng trong cuộc chiến. Người dẫn chương trình truyền hình đáng tin cậy Walter Cronkite đã nói hộ cho hầu hết người Mỹ khi ông hỏi, “Chuyện quái gì đang xảy ra vậy? Tôi nghĩ chúng ta đang chiến thắng trong cuộc chiến mà.”

Thành phố Huế

Trên thực tế, trong vòng vài tuần, Việt Cộng và Bắc Việt đã bị đẩy lùi với tổn thất nặng nề, nhưng điều này không quan trọng đối với công chúng khi những hình ảnh này đã in sâu trong tâm trí họ. Và còn điều tồi tệ hơn nữa sắp xảy ra. Trận chiến mang tính biểu tượng của Tổng tấn công Tết Mậu Thân sẽ diễn ra tại Thành phố Huế, miền trung Việt Nam. Một nơi tuyệt đẹp nằm trên Sông Hương, Huế là “kinh thành đế quốc” cổ xưa của Triều đại nhà Nguyễn, một nơi có rất nhiều bảo tàng, công viên xinh đẹp và khoảng 140.000 người, bao gồm nhiều người nước ngoài (chủ yếu là người Pháp) và một số lượng lớn người Công giáo. Khi Tổng tấn công Tết Mậu Thân bắt đầu, một sư đoàn của Quân đội BV đã chiếm giữ phần lớn thành phố và sau đó giương cờ của mình trên Kinh thành, thành phố bên trong kiên cố của các vị vua cổ đại.

Sau đó, lực lượng bộ đội bắt đầu một cuộc thảm sát được lên kế hoạch trước: thanh trừng trong toàn thành phố tất cả những ai đã lên tiếng chống lại Bắc Việt. Các chỉ huy Quân BV đã có danh sách các mục tiêu – bao gồm các viên chức chính phủ, sinh viên và linh mục và tập hợp họ lại thành hàng ngàn người. Nhiều người đã bị bắn. Một số phận được ưa thích dành cho các giáo sĩ là chôn sống họ.

DÂN CHÚNG CHẾT Ở HUẾ TRONG CUỘC TẤN CÔNG TẾT NĂM 1968. HÀNG CHỤC NGÀN NGƯỜI DÂN KHÔNG CẦM SÚNG ĐÃ CHẾT TRƯỚC KHI NGƯỜI MỸ ĐÁNH ĐUỔI QUÂN BẮC VIỆT KHỎI THÀNH PHỐ.

Nhưng vào đầu tháng 2, ba tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đã đến để giành lại thành phố, tấn công từ phía bắc bằng pháo thuyền băng qua Sông Hương dưới hỏa lực Quân BV. Trong thời tiết lạnh giá, sương mù thường hạn chế khả năng TQLC kêu gọi không kích, quân Mỹ đã đánh bật bộ đội BV ra khỏi hang ổ và tổ bắn tỉa, lùng sục qua những con phố đầy xác binh lính và dân thường. Ước tính có khoảng 5.000 bộ đội BV tử trận tại Huế, cũng như hàng chục nghìn thường dân, bao gồm 3.000 người bị Cộng sản xử tử.

Mùi hôi thối của tử thần tràn ngập trong không khí; một sĩ quan bình luận rằng “mùi kinh khủng đó ở khắp mọi nơi. Bạn nếm thấy nó khi ăn khẩu phần của mình, như thể bạn đang ăn tử thi vậy.” Thủy quân lục chiến đã nổ súng tiến vào Kinh Thành Cổ và cuối cùng đã gỡ xuống lá cờ của BV.

Nhưng hỏa lực Hoa Kỳ đã phá hủy thành phố Huế xinh đẹp một thời, khiến 116.000 công dân mất nhà cửa. Như một thiếu tá Hoa Kỳ đã bình luận, mô tả một cuộc chiến khác giành một thị trấn gần đó: “Chúng tôi phải phá hủy thị trấn để cứu nó.” Huế đã được cứu, nhưng bị tàn phá thảm thương.

BẢN ĐỒ NÀY HIỂN THỊ CÁC ĐIỂM XÂM NHẬP CỦA QUÂN ĐỘI MIỀN BẮC VÀ VIỆT CỘNG (ĐÁNH DẤU BẰNG MŨI TÊN ĐỎ) KHI HỌ CHUẨN BỊ TẤN CÔNG TRONG CUỘC TẤN CÔNG TẾT MẬU THÂN .

Cuối cùng, cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân dường như là một thất bại tốn kém đối với Giáp. Sau cuộc giao tranh kéo dài đến tháng 4, Quân đội Nhân dân Việt Nam và Việt Cộng đã mất tới 50.000 người và bị đẩy lui khỏi mọi vị trí mà họ chiếm được. Trên thực tế, từ đây, Việt Cộng sẽ không còn là một lực lượng chiến đấu hiệu quả nữa.

Nhưng mặc dù họ đã thua trong trận chiến, hóa ra Giáp và Bắc Việt đã chiến thắng trong cuộc chiến tuyên truyền. Người Mỹ không thích những gì họ thấy trên tivi, trong một cuộc chiến mà họ được cho là đang chiến thắng. Khi Tướng Westmoreland, người dám thẳng thừng tuyên bố về chiến thắng của phe đồng minh, yêu cầu đưa thêm 200.000 quân, Lyndon Johnson đã từ chối, đưa ông lên làm tham mưu trưởng và quyết định tiến hành  đàm phán hòa bình với Việt Nam. Sự khởi đầu của hồi kết đã gần kề đối với Bắc Việt, những người đã chiến đấu từ năm 1945. Một bài thơ do Hồ Chí Minh khi đó đang đau yếu sáng tác – ông sẽ mất vào tháng 9 năm sau và được phát trên Đài phát thanh Hà Nội tóm tắt cảm xúc của Bắc Việt vào giai đoạn đầu quan trọng của năm 1968:

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp mọi nhà

Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ

Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta!

TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP: NHÀ LÃNH ĐẠO “CỨNG NHƯ THÉP” ĐÃ VƯỢT QUA MỌI THỨ MÀ HOA KỲ CÓ THỂ NÉM VÀO ÔNG

Tướng Võ Nguyên Giáp – vẫn còn sống cho đến thời điểm viết bài này – là một trong những người yêu nước nhiệt thành nhất mà Việt Nam từng biết đến, thậm chí có lẽ còn nhiệt thành hơn cả Hồ Chí Minh huyền thoại. Ông sinh ra trong một gia đình khá giả ở tỉnh Quảng Bình, Bắc Việt, cha mẹ ông cũng là những người yêu nước tự hào muốn đánh đuổi lực lượng thực dân Pháp ra khỏi Việt Nam.

Giáp đã học tại một trường danh giá ở cố đô Huế, và ông ngày càng trở nên cấp tiến hơn sau khi đọc các tác phẩm lấy cảm hứng từ chủ nghĩa Marx của Hồ Chí Minh. Vào đầu những năm 1940, Giáp rời Việt Nam sang Trung Quốc, nơi Hồ Chí Minh đang lưu vong. Chính quyền Pháp đã ném vợ ông, một người theo chủ nghĩa Marx, vào tù, nơi bà qua đời.

Năm 1942, Giáp trở về Việt Nam để tham gia một nhóm du kích tiến hành chiến tranh rừng rậm chống lại cả Nhật Bản và Pháp. Sau năm 1945, khi Nhật Bản bị đánh bại và Pháp không công nhận một Việt Nam độc lập, Giáp đã vươn lên trở thành chiến lược gia trưởng của Hồ Chí Minh trong cuộc chiến tranh Việt Minh chống lại Pháp, phác họa nên chiến thuật đánh bại Pháp trong trận Điện Biên Phủ quyết định năm 1954.

Khi cuộc chiến chống Mỹ lên đến đỉnh điểm vào những năm 1960, Giáp cũng đang vạch ra chiến lược ở đó. Với tư cách là chỉ huy Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông đã thành công trong việc vô hiệu hóa hỏa lực vượt trội của quân đội Mỹ bằng cách “bám lấy thắt lưng kẻ thù mà đánh” và tiến hành một cuộc chiến tranh gồm nhiều đơn vị nhỏ.

Giáp chịu trách nhiệm chính cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân năm 1968 – một cuộc tấn công thất bại về mặt quân sự, với tổn thất lớn về người. Nhưng trong nghịch cảnh, Giáp, như một nhà sử học Hoa Kỳ sau này đã nói, “cứng rắn như thép”. Ông thấy rằng về mặt chính trị người Mỹ không muốn tiếp tục chiến tranh và do đó vẫn tiếp tục chiến đấu, mặc dù đã bị suy yếu nghiêm trọng.

Đến cuối chiến tranh, Tướng Giáp chủ yếu bị thay thế khỏi vị trí chỉ huy tích cực bởi Tướng Văn Tiến Dũng, sau đó ông trở thành Bộ trưởng Quốc phòng. Mặc dù hiện tại có một số đánh giá lại về danh tiếng của ông trong giới sử gia – Giáp đã mất ít nhất 500.000 quân trong trận chiến, một con số đáng kinh ngạc nhưng không mấy ai nghi ngờ rằng đóng góp của ông vào chiến thắng của Bắc Việt là rất quan trọng.

VỤ THẢM SÁT MỸ LAI: MỘT VỤ GIẾT NGƯỜI VÔ TỘI ĐÃ THAY ĐỔI TÂM TRÍ CỦA NGƯỜI MỸ VỀ CUỘC CHIẾN

Một tấm áp phích phản chiến nổi tiếng của thập niên 1960 cho thấy những thi thể đẫm máu của nông dân Việt Nam, bà già và trẻ sơ sinh, nằm trong một con mương. Chữ trên áp phích đặt ra câu hỏi này: “Phụ nữ và trẻ em cũng vậy sao?” Và câu trả lời là hiển nhiên: “Phụ nữ và trẻ em cũng vậy.”

Nhiều hành động tàn bạo đã được thực hiện bởi cả hai bên trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam – vụ hành quyết thường dân của Bắc Việt tại Huế chỉ là một trong số đó. Nhưng vụ thảm sát hơn 300 thường dân không vũ trang của quân đội Hoa Kỳ và những hình ảnh mà công chúng Hoa Kỳ nhìn thấy trên truyền hình đã đưa cuộc chiến trở về nhà như chưa từng có.

Vào ngày 16 tháng 3 năm 1968, Đại đội Charlie thuộc Lữ đoàn 111, Sư đoàn Americal, đã tiến vào làng Mỹ Lai thuộc quận Sơn Mỹ của miền Nam. Số đông du kích Việt Cộng có mặt trong quận này, và Đại đội Charlie đã chiến đấu một cuộc chiến gây ức chế chống lại những bóng đen mặc đồ ngủ đen này, những kẻ sử dụng mìn và bẫy chông làm phương pháp chính để chống lại lực lượng Hoa Kỳ vượt trội hơn nhiều. Nhiều thành viên của Đại đội Charlie đã bị giết hoặc bị thương do những thiết bị như vậy trong những tuần dẫn đến ngày 16 tháng 3. Những người lính tiến vào làng trong một nhiệm vụ tìm và diệt thông thường (tìm kiếm kẻ thù, phá hủy bất kỳ loại đạn dược hoặc vật tư nào của kẻ thù) đều đang mang tâm trạng rất tức tối lẫn sợ hãi.

Họ được chỉ huy bởi Đại úy Ernest Medina, trước đó đã nói với binh lính rằng những người duy nhất còn lại trong làng là Việt Cộng. Một số binh lính của ông sau đó tuyên bố rằng ông đã ra lệnh cho họ bắn phụ nữ và trẻ em, nhưng ông đã phủ nhận điều này. Dù sự thật là thế nào, một Sĩ quan, Trung úy William Calley, ra lệnh cho lính của mình tiến vào làng và nổ súng, mặc dù không có báo cáo nào về hỏa lực của đối phương. Một phóng viên của BBC cũng như một phóng viên ảnh của Quân đội Hoa Kỳ có mặt và chứng kiến ​​cảnh người Mỹ tập hợp nhữngi đàn ông, phụ nữ và trẻ em, tuổi từ một đến tám mươi mốt, và giết họ bằng súng máy, lưỡi lê và lựu đạn. Calley ra lệnh cho một nhóm dân làng bước xuống mương và xả súng vào họ bằng khẩu M-16 của mình.

Bất chấp những nỗ lực của một số cá nhân anh hùng đã cố gắng ngăn chặn vụ thảm sát, bao gồm một phi công trực thăng Hoa Kỳ đã cứu một tá dân làng khỏi cái chết chắc chắn, Đại đội Charlie đã giết hơn 300 thường dân vào ngày hôm đó. Vụ thảm sát đã bị che đậy trong hơn một năm. Khi tin tức bị rò rỉ, câu chuyện đã khiến phong trào phản chiến phẫn nộ, và khiến công chúng nói chung, những người trước đó không đặt câu hỏi về tính đúng đắn của cuộc chiến, phải tự hỏi về tính đạo đức của việc tham gia của Hoa Kỳ. Chỉ có một người có mặt tại vụ thảm sát, Trung úy Calley, từng bị kết tội giết người. Y đã bị kết án tù chung thân sau một phiên tòa xét xử quân sự, nhưng theo lệnh của Tổng thống Richard Nixon, y chỉ phải chịu án tù bốn tháng rưỡi.

SỰ KIỆN VỊNH BẮC BỘ:  CUỘC XUNG ĐỘT GÂY TRANH CÃI ĐÃ TẠO RA LÝ DO ĐỂ LEO THANG CHIẾN TRANH

Nếu có một casus belli (tình huống biện minh) cho sự can dự ngày càng tăng của Hoa Kỳ vào Việt Nam, thì đó là sự kiện mà hiện nay thường được gọi là sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Vào ngày 2 tháng 8 năm 1964, tàu khu trục USS Maddox đã có một trận chiến ngắn với ba xuồng tấn công của Bắc Việt ở Vịnh Bắc Bộ, ngoài khơi bờ biển phía Bắc Việt. Ngoài ra, còn nhiều điều đang tranh cãi. Mức độ đến gần bờ biển của tàu Maddox phụ thuộc vào người kể chuyện. Tàu Maddox báo cáo rằng họ cách bờ biển khoảng 30 dặm (48 km), nói cách khác, nó nằm sâu trong vùng biển quốc tế. Bắc Việt tuyên bố nó nằm trong phạm vi 5 dặm (8 km) tính từ bờ biển thuộc lãnh hải của mình.

Phải nói rằng Maddox không phải là một chuyến du ngoạn vui vẻ. Nó được nhồi nhét đầy đủ các thiết bị nghe lén điện tử được thiết kế để nghe lén các cuộc liên lạc của Bắc Việt. Điều này đặc biệt nhạy cảm đối với Bắc Việt vì vào ngày 1 tháng 11, đã có nhiều cuộc xâm nhập hành động bí mật qua biên giới của họ bởi các đội tình báo miền Nam do Hoa Kỳ tài trợ, những đội biệt kích này đang cố gắng xâm nhập vào miền Bắc. Lý do các tàu Bắc Việt xuất kích có thể vì nghĩ rằng Maddox là một phần của những nỗ lực này.

Trong mọi trường hợp, Maddox tuyên bố rằng các tàu tấn công BV đã bắn ngư lôi vào tàu khu trục nên bị bắn trả, làm hư hại một tàu tấn công và phá hủy một tàu khác. Bắc Việt tuyên bố rằng không có ngư lôi nào được bắn ra, nhưng họ thừa nhận một cuộc đấu pháo trên mặt nước do Maddox khởi xướng và không có tàu tấn công nào của Bắc Việt bị hư hại hoặc bị phá hủy.

Vào đêm ngày 4 tháng 8, Maddox, cùng với một tàu khu trục khác, C. Turner Joy, đã quay trở lại cùng khu vực mà họ đã bị tấn công trước đó và tuyên bố rằng mình đã bị tấn công một lần nữa. Các nhà sử học đều tin rằng cuộc tấn công này đã không xảy ra và có thể là do các thủy thủ Hoa Kỳ lo lắng đã đọc sai tín hiệu radar.

Những sự cố này có vẻ tầm thường, nhưng chúng đã dẫn đến việc Hoa Kỳ leo thang chiến tranh.

Được thúc đẩy bởi Lyndon Johnson, Quốc hội Hoa Kỳ, vào ngày 7 tháng 8, đã thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, cho phép tổng thống “thực hiện mọi biện pháp cần thiết để đẩy lùi mọi cuộc tấn công vũ trang chống lại lực lượng Hoa Kỳ và ngăn chặn các cuộc xâm lược tiếp theo”. Về cơ bản, đây là một tấm séc trắng, được ký và chuyển cho Lyndon Johnson, để tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện chống lại Bắc Việt mà không cần có lời tuyên chiến chính thức từ Quốc hội.

25  CHIẾN TRANH LIÊN XÔ- AFGHANISTAN 1979-1989

VIỆC LIÊN XÔ VÀO AFGHANISTAN VÀ BỊ ĐÁNH BẠI SAU ĐÓ BỞI CÁC CHIẾN BINH MUJAHIDEEN Ở AFGHAN ĐÃ GÂY RA SỰ GIẢI THỂ CỦA LIÊN XÔ VÀ SỰ TRỖI DẬY CỦA CHỦ NGHĨA HỒI GIÁO.

TỔNG QUAN: MỘT CUỘC CHIẾN TRỞ THÀNH VIỆT NAM CỦA LIÊN BANG XÔ VIẾT

Đất nước xa xôi và nhiều núi non Afghanistan đã trở thành chiến trường của các cường quốc kể từ thế kỷ 19, khi Anh và Nga, hai nước đã đụng độ trong Chiến tranh Crimea, tranh giành quyền kiểm soát Tây Á. Người Anh đã tiến hành hai cuộc chiến tranh ở Afghanistan (1839-1842 và 1879-1880) phần lớn là do Nga muốn thống trị đất nước này, điều này sẽ đe dọa sự hiện diện của Anh tại Ấn Độ.

Trong cả hai trường hợp, Anh đều có thể bình định Afghanistan, nhưng phải trả giá đắt và nhận ra rằng các chiến binh bộ lạc Hồi giáo huyền thoại của Afghanistan chưa bao giờ bị dập tắt hoàn toàn. Cuối cùng, thông qua một thỏa thuận Anh-Nga năm 1905, Afghanistan đã trở thành một quốc gia đệm giữa Nga và Ấn Độ của Anh, với Anh kiểm soát các vấn đề của mình. Cuối cùng, vào năm 1919, Afghanistan đã giành được độc lập hoàn toàn.

Tuy nhiên, có lẽ điều tự nhiên là, như nhà sử học người Afghanistan M. Hassan Kakar đã viết, “khi nhìn thấy đất nước của mình… bị kẹp giữa hai gã khổng lồ ‘ngoại đạo’, người Afghanistan trở nên bài ngoại, hướng nội và khao khát bảo vệ nền độc lập của mình”.

Một thế kỷ sau Chiến tranh Anh-Afghanistan cuối cùng, sự nghi ngờ của người Afghanistan đối với người nước ngoài vẫn tiếp tục được chứng minh. Vào những năm 1970, Liên Xô, nước đã hỗ trợ Afghanistan về mặt tài chính và huấn luyện quân sự trong những năm 1950, đã trở nên lo ngại về ảnh hưởng ngày càng tăng của Hoa Kỳ tại Pakistan, nước láng giềng của Afghanistan ở phía đông nam, nơi có nhiều điểm tương đồng về sắc tộc và bộ lạc. Chính phủ Nga lo ngại rằng việc tiếp cận Vịnh Ba Tư – và dầu mỏ của thế giới – có thể bị cản trở bởi một Afghanistan tỏ ra quá thân thiện với Hoa Kỳ, như Pakistan đã từng.

Do đó, Liên Xô đã tìm kiếm cơ hội để kiểm soát Afghanistan nhiều hơn và đã tìm thấy nó trong một cuộc nội chiến bắt đầu trong hàng ngũ của Đảng Dân chủ Nhân dân Afghanistan (PDPA). Vào tháng 9 năm 1979, những người theo đường lối cứng rắn của đảng do Phó Thủ tướng Hafizullah Amin lãnh đạo đã nắm quyền và giết chết Tổng thống Nur Muhammad Taraki. Người Nga không tin tưởng Amin. Một số người thậm chí còn nghĩ ông là điệp viên của Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA), mặc dù không có bằng chứng nào về điều này.

Vào giữa tháng 12, Liên Xô đã quyết định xâm lược Afghanistan để bảo vệ lợi ích của mình tại đây. Các đơn vị Liên Xô đã xâm nhập vào đất nước này trong một thời gian, nhiều người mặc quần áo thường dân hoặc mặc quân phục của quân đội Afghanistan. Vào tối thứ năm, ngày 27 tháng 12 năm 1979, Liên Xô đã tấn công Kabul. Bảy trăm điệp viên KGB mặc quân phục quân đội Afghanistan đã chiếm giữ dinh tổng thống và ám sát Amin. Sau đó, người Nga đã đưa cựu Phó Thủ tướng Barbrak Kamal lên làm tổng thống Afghanistan.

Quân đội Liên Xô của Tập đoàn quân 40 sau đó đã tản ra và kiểm soát các trung tâm dân cư lớn và các tuyến đường tiếp tế trong nước, với ý định để lại cuộc chiến chống lại du kích mujahideen cho quân đội Afghanistan do Liên Xô huấn luyện. Nhưng mujahideen đã không làm cho kế sách của Liên Xô dễ dàng. Phần lớn là do các quyết định được đưa ra bởi chính quyền của các tổng thống Hoa Kỳ Jimmy Carter và Ronald Reagan nhằm ngăn chặn làn sóng Nga ở Afghanistan, CIA bắt đầu hỗ trợ mujahideen, cuối cùng đã chi hơn 10 tỷ đô la để trang bị và huấn luyện họ chống lại người Nga. Kết quả là một cuộc nổi loạn mạnh mẽ và khó kiểm soát đã quấy rối người Nga bằng các cuộc tấn công chớp nhoáng. Các chiến binh mujahideen nhanh chóng trở thành chuyên gia trong việc bắn tên lửa phòng không Stinger đeo vai do Hoa Kỳ cung cấp, bắn hạ hàng trăm trực thăng của Liên Xô.

Đến năm 1985, viện trợ của Hoa Kỳ đã đạt đến đỉnh điểm, và cuộc chiến đã trở nên tàn khốc hơn nữa. Chiến thuật của Nga đã thay đổi, với lực lượng đặc nhiệm (spetsnaz) của họ tấn công các ngôi làng đã bị máy bay hoặc pháo binh ném bom trước đó. Hầu hết những người đàn ông Afghanistan trong độ tuổi chiến đấu đã chạy trốn lên núi, và mục tiêu của Liên Xô là phá hủy nhà cửa của người dân Afghanistan và tạo ra những người tị nạn. Một phần ba trong số 15 triệu người sống ở Afghanistan vào thời điểm đó đã buộc phải chạy trốn đến Pakistan và Iran, tạo ra một lượng lớn người tị nạn.

Khi chiến tranh tiếp diễn, các chiến binh Hồi giáo từ các nước Ả Rập bắt đầu tham gia mujahideen. Trong số đó có Osama bin Laden, một triệu phú người Ả Rập Saudi, cùng với những chiến binh Hồi giáo khác, sẽ thành lập nhóm khủng bố al-Qaeda ở Afghanistan vào năm 1988.

Năm 1986, Liên Xô nhận ra rằng họ đã tự đặt mình vào vũng lầy. Thủ tướng Liên Xô Mikhail Gorbachev gọi Afghanistan là “một vết thương đang chảy máu” và cần phải tìm cách thoát khỏi đất nước này. Dưới sự bảo trợ của Liên Hợp Quốc, Nga đã ký Hiệp định Geneva vào mùa xuân năm 1988, về cơ bản chấm dứt sự tham gia của Nga vào cuộc chiến. Người lính Liên Xô cuối cùng đã rời khỏi đất nước vào tháng 2 năm 1989.

Tuy nhiên, một cuộc nội chiến vẫn tiếp diễn trong Afghanistan giữa các nhóm Hồi giáo ôn hòa và cực đoan đối địch. Cuối cùng, phe Taliban cực đoan đã giành chiến thắng, được Osama bin Laden ủng hộ. Vụ Bin Laden ám sát nhà lãnh đạo quân sự ôn hòa người Afghanistan do Hoa Kỳ hậu thuẫn Ahmad Shah Massoud chỉ diễn ra hai ngày trước các cuộc tấn công của ông ta vào Hoa Kỳ vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, dẫn đến cuộc xâm lược Afghanistan của Hoa Kỳ vào tháng 11 năm đó.

CUỘC CHIẾN TRONG HANG ĐỘNG CHỨNG MINH SỰ BẤT LỰC CỦA NGƯỜI NGA

 

Các hang động của Zhawar

Mikhail Gorbachev được bầu làm tổng bí thư Đảng Cộng sản vào ngày 11 tháng 3 năm 1985, ngay sau cái chết của Tổng Bí thư Konstantin Chernenko. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ông vào mùa xuân năm đó là cuộc chiến tranh Afghanistan, thực tế là Liên Xô đã phải chịu hàng ngàn thương vong và đang bị các chiến binh mujahideen mà nhiều quan chức Liên Xô gọi là “bọn cướp” đánh bại, mặc dù bọn cướp được Cơ quan Tình báo Trung ương Hoa Kỳ (CIA) trang bị vũ khí tốt.

Sau khi nghiên cứu vấn đề, Gorbachev đã đi đến kết luận. Quân đội Liên Xô và các đồng minh Afghanistan, những người lính của Cộng hòa Dân chủ Afghanistan (DRA), có đúng một năm để tiêu diệt sức kháng cự của các bộ lạc Hồi giáo. Nếu họ không thành công, Gorbachev sẽ tìm cách chấm dứt chiến tranh thông qua các kênh ngoại giao, trong trường hợp đó, quân đội Liên Xô sẽ phải chịu thất bại tồi tệ nhất trong lịch sử của mình. Vào tháng 6, Liên Xô đã phát động một cuộc tấn công mới lớn chống lại lực lượng của Ahmad Shah Massoud ở Thung lũng Panjshir. Tháng 8 năm đó, một cuộc tấn công lớn khác, lớn nhất trong cuộc chiến cho đến nay và do tư lệnh Tập đoàn quân 40 mới Boris Gromov chỉ huy đã tấn công và tạm thời giải vây cho quân đồn trú của Liên Xô và DRA đang bị bao vây tại Khost, gần biên giới với Pakistan.

Nhưng cả hai cuộc tấn công này đều không đủ thành công để làm Mikhail Gorbachev hài lòng. Liên Xô quyết định rằng mục tiêu tiếp theo và cuối cùng cho một cuộc tấn công lớn, vì thời hạn của Gorbachev sắp hết, sẽ là khu phức hợp hang động mujahideen đặc biệt tại Zhawar.

Sau những tổn thất ban đầu cho quân du kích khi chiến tranh khởi phát, Liên Xô đã học được một cách tốt hơn nhiều, mặc dù tàn bạo và vô nhân đạo, để chiến đấu với họ. Tấn công các ngôi làng sau khi các chiến binh Hồi giáo đã rời đi, Liên Xô nhắm vào dân thường và biến các thị trấn và trang trại nông thôn thành vùng đất hoang, buộc dân chúng phải chạy trốn vào các trại tị nạn ở Pakistan. Theo cách đó, họ sẽ không còn ở đó để tiếp tế cho quân mujahideen nữa.

Kết quả là, các chiến binh Mujahideen buộc phải thiết lập một loạt các kho tiếp tế và căn cứ chuyển tiếp bên trong Afghanistan, giống như một đội quân thông thường. Từ những căn cứ này, các nguồn tiếp tế và các chiến binh được nghỉ ngơi sẽ đi qua đất nước để giao chiến với quân Liên Xô. Chiến lược mới của Liên Xô sau đó trở thành một cuộc tấn công vào các căn cứ này được củng cố và bảo vệ với hy vọng phá hủy các tuyến liên lạc và tiếp tế quan trọng của quân nổi dậy.

Một trong những căn cứ quan trọng nhất và phi thường nhất trong số những căn cứ này nằm ở Zhawar, thuộc tỉnh Paktia hiểm trở ở miền đông Afghanistan, chỉ cách biên giới Pakistan 4.000 yard (3,6 km). Zhawar nằm trong một hẻm núi hẻo lánh bị kẹp giữa hai đỉnh núi, lối vào hướng về phía đông nam, về phía Pakistan. Ban đầu, đây là một căn cứ huấn luyện của mujahideen, nhưng đã mở rộng thành một căn cứ tiếp tế và chuyển quân.

Mujahideen đã sử dụng máy ủi và thuốc nổ để đào 11 đường hầm khổng lồ sâu vào bên trong hẻm núi, một số đường hầm trong số đó dài gần một phần tư dặm (400m) vào trong đá. Các đường hầm thực sự chứa một khách sạn (với đồ đạc nhồi nhét), một nhà thờ Hồi giáo ốp gạch, một bệnh viện, một gara, một kho vũ khí, một trung tâm thông tin liên lạc và một nhà bếp lớn. Tất cả đều được bảo vệ bởi “Trung đoàn Zhawar” của mujahideen gồm 500 người, có hai xe tăng, một số khẩu pháo và hệ thống phòng không.

Nhìn chung, đó là một mục tiêu đáng gờm, nhưng quan trọng. Nếu Liên Xô và DRA có thể tiêu diệt Zhawar, chiến thắng của họ có thể đủ để ngăn chặn những lời đề nghị hòa bình của Gorbachev.

Cuộc tấn công đầu tiên

Vào tháng 9 năm 1985, DRA, được không quân Liên Xô hậu thuẫn, đã phát động cuộc tấn công đầu tiên. Các đơn vị tình báo của họ đã nói với họ rằng hầu hết các chỉ huy mujahideen, bao gồm cả Jalaluddin Haqqani, chỉ huy mujahideen cấp cao nhất, đã đi hành hương đến thành phố linh thiêng Mecca. Đó là thời điểm hoàn hảo cho một cuộc tấn công. DRA, được hỗ trợ bởi các cuộc không kích và pháo kích, đã có thể chiếm được thành trì của mujahideen ở Bori, cách Zhawar vài dặm, và sau đó tấn công về phía tây hướng đến chính thành trì này. Nhưng mujahideen đã phản ứng nhanh chóng sau sự hỗn loạn ban đầu của họ, cử một lực lượng chặn đường gồm 80 chiến binh. Trong một trận chiến đêm dữ dội, DRA đã mất hai xe bọc thép chở quân và bốn xe tải và phải rút lui.

Tuy nhiên, ngày hôm sau, được các cố vấn Liên Xô thúc đẩy, DRA đã quay trở lại, chiến đấu trên đường băng qua những ngọn núi hướng về Zhawar cho đến khi họ bị một lực lượng mujahideen gồm 20 người chặn lại ở một con đèo có tên là Manay Kandow. Mujahideen, mặc dù ít về số lượng, đã ở một vị trí hầu như không thể tấn công, bắn súng máy và AK-47 từ một hang động bên dưới một phiến đá lớn trên sườn núi. Mỗi lần DRA gọi pháo binh, mujahideen chỉ đơn giản là rút lui sâu hơn vào trong hang động cho đến khi cuộc pháo kích kết thúc, sau đó nhảy đến vị trí bắn của họ để đánh trả bộ binh DRA đang tiến lên.

Trong mười ngày, DRA đã cố gắng vượt qua đèo, và trong mười ngày, lực lượng nhỏ mujahideen đã ngăn chặn được họ. Cuối cùng, Liên Xô đã gọi các cuộc không kích dữ dội liên tục đánh ập vào phiến đá bảo vệ hang động của mujahideen. Cuối cùng, đá bắt đầu rung chuyển và dịch chuyển trên đầu các chiến binh Hồi giáo. Sợ rằng nó mất ổn định dưới những cú đội bom liên tục, các chiến binh mujahideen đã rút lui. DRA đã chiếm được vùng đất cao, tiến đến cách các khu phức hợp hang động tại Zhawar một dặm (1,6 km). Nhưng bây giờ, trong một nỗ lực cuối cùng, các chiến binh mujahideen đã đưa hai xe tăng T-55 của họ lên và khai hỏa vào DRA, vốn không nghĩ rằng kẻ thù sở hữu vũ khí hạng nặng. Bị mắc kẹt ở nơi trống trải, họ buộc phải rút lui, nghe thấy tiếng reo hò chiến thắng của các chiến binh mujahideen vang lên bên tai.

BẢN ĐỒ AFGHANISTAN NÀY CHO THẤY ĐỘ CAO CỦA ĐẤT NƯỚC, NƠI ĐỘ CAO CỦA NÚI LỞM CHỞM KHIẾN CHO VIỆC CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI MUJAHIDEEN TRỞ NÊN KHÓ KHĂN HƠN NHIỀU.

Cuộc tấn công cuối cùng

Cuộc tấn công thứ hai và cũng là cuộc tấn công cuối cùng vào các hang động dữ dội của Zhawar bắt đầu vào cuối tháng 2 năm 1986. Cuộc tấn công này có sự tham gia của một lực lượng lớn hơn nhiều, 12.000 quân DRA, với 2.000 cố vấn Liên Xô. Vào thời điểm này, Gorbachev đã tuyên bố rằng ông sắp thực hiện một đợt rút quân theo từng giai đoạn đối với một nửa quân Liên Xô khỏi Afghanistan, nhưng các chỉ huy Nga trên chiến trường vẫn hy vọng rằng một cuộc tấn công thành công vào Zhawar, chủ yếu do DRA thực hiện, sẽ thay đổi thái độ của Gorbachev đối với các kế hoạch của quân đội tại Afghanistan.

Yếu tố chính của cuộc tấn công mới này vào thành trì của mujahideen là một cuộc tấn công trên không của lực lượng biệt kích DRA sẽ được thực hiện trên núi Dawri Gar, ngọn núi cao hơn về phía đông của hẻm núi Zhawar. Trong khi đó, các thành phần DRA khác sẽ tấn công qua các đèo. Nhưng trong cuộc tấn công trên không được thực hiện vào ban đêm và trong bóng tối, sự hỗn loạn đã ngự trị. Lực lượng biệt kích thực sự đã đổ bộ lạc hướng vào bên trong Pakistan 5 dặm (8 km), tại đó họ bị quân đội Pakistan bao vây và sau một cuộc đấu súng, bị bắt làm tù binh.

Mặc dù vậy, phần còn lại của lực lượng DRA đã tấn công bằng trực thăng vận và đụng độ ngay các chiến binh mujahideen khi họ vừa đổ ra khỏi trực thăng. Tuy nhiên, cùng lúc đó, các máy bay chiến đấu-ném bom của Liên Xô bắn phá các hang động Zhawar, trước tiên họ bay về phía đông nam vào Pakistan rồi sau đó quay lại tấn công tại các lối vào hướng nam của các đường hầm. Bom chính xác dẫn đường bằng laser đã phát nổ trong các hang động, giết chết hàng chục chiến binh mujahideen hoặc  chôn lấp họ bên trong đống đổ nát. Có một thời điểm, chỉ huy mujahideen Jalaluddin Haqqani đã bị mắc kẹt trong một hang động cùng với các chiến binh của mình, nhưng ông ta đã đào được đường thoát ra.

Một chiến thắng rỗng tuếch

Một trận chiến lớn đang diễn ra dữ dội, với những cơn bão lửa nhìn thấy được trên núi và tiếng nổ vang vọng xuống các đèo núi. Mujahideen vẫn kiên cường, ngay cả khi pháo binh Liên Xô bắt đầu bắn phá các vị trí của họ bên trong Zhawar 24 giờ một ngày. Máy bay thả pháo sáng vào ban đêm, và ánh sáng ma quái mà chúng tạo ra ném những cái bóng dài trên các vách núi khi máy bay ném bom Liên Xô đến thả hàng hóa của họ xuống khu phức hợp hang động.

Các chỉ huy DRA, sau khi thất bại trong cuộc tấn công, đã bỏ về Kabul vào ngày 17 tháng 4 khi người Nga phụ trách bước vào và ra lệnh tấn công toàn diện. Các chiến binh Hồi giáo, bị suy yếu sau nhiều ngày bị ném bom, tinh thần của họ sa sút vì tin đồn dai dẳng, mặc dù không đúng sự thật, rằng Jalaluddin Haqqani đã chết, cuối cùng đã sơ tán khỏi Zhawar và chạy trốn đến những ngọn núi gần đó.

Khi các đơn vị quân đội DRA và Liên Xô đến khu phức hợp hang động, họ đã vô cùng kinh ngạc. Họ phát hiện ra 41 hang động nhân tạo riêng biệt, tường ốp gạch và lối vào được bảo vệ bằng cửa sắt. Bệnh viện có thiết bị siêu âm được sản xuất tại Hoa Kỳ. Có một thư viện chứa đầy sách, bằng nhiều ngôn ngữ. Và không có thứ gì trong số đó bị ảnh hưởng bởi các cuộc ném bom liên tục. Trớ trêu thay, sau khi chiến đấu rất vất vả để vào được Zhawar, Liên Xô và DRA chỉ ở lại trong năm giờ. Họ bị cắt đứt khỏi đường tiếp tế của mình và họ biết rằng, ngay cả khi đó, quân mujahideen cũng sẽ sớm tiến hành trận phản công. Nhanh chóng đặt bẫy và gài mìn các khu phức hợp hang động, chỉ huy Liên Xô đã ra lệnh rút lui. Quân đội di chuyển về phía tây với tiếng nổ vang vọng bên tai. Tuy nhiên, những vụ nổ này vẫn không đến nỗi phá hủy Zhawar. Quân mujahideen đã đến ngay sau khi quân Liên Xô rời đi và ngay lập tức bắt đầu khôi phục lại nơi này. Nó đã hoạt động trở lại trong vòng bốn tháng. Trận chiến để chứng minh rằng Liên Xô có thể giành chiến thắng ở Afghanistan chính là chiếc đinh cuối cùng đóng vào quan tài của họ. Gorbachev giờ đã có bằng chứng trực tiếp rằng sự bất lực của DRA đơn giản là không thể vượt qua được. Sau chiến tranh, Zhawar sẽ tiếp tục được các chiến binh Hồi giáo sử dụng. Sự hiện diện của Osama bin Laden ở đó vào năm 1998 đã khiến Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton phải phóng tên lửa hành trình vào khu phức hợp hang động này nhằm tiêu diệt ông ta và các thành viên al-Qaeda đang huấn luyện tại đó.

Clinton đã không thành công, tất nhiên. Zhawar là một hạt dẻ quá cứng để một vài tên lửa hành trình có thể phá vỡ. Và cho đến ngày nay, Osama bin Laden được cho là đang ẩn náu trong một khu phức hợp tương tự, có lẽ không xa các hang động của Zhawar.

AHMAD SHAH MASSOUD LÀ CHIẾN BINH HÀNG ĐẦU TRONG CUỘC CHIẾN LIÊN XÔ-AFGHANISTAN , ĐÃ LÃNH ĐẠO CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG LẠI TALIBAN CHO ĐẾN KHI BỊ NHỮNG SÁT THỦ AL-QAEDA SÁT HẠI HAI NGÀY TRƯỚC CUỘC TẤN CÔNG 11/9/2001 VÀO HOA KỲ.

AHMAD SHAH MASSOUD: “SƯ TỬ VÙNG PANJSHIR” LÀ MỘT LÃNH ĐẠO AFGHANISTAN DỮ TỢN

Ahmad Shah Massoud sinh ra tại Thung lũng Panjshir của Afghanistan vào năm 1953 – thật phù hợp, vì chính tại Panjshir, ông đã trở nên nổi tiếng khi chiến đấu chống lại quân xâm lược Liên Xô trên đất nước thân yêu của mình. Massoud là con trai của một chỉ huy cảnh sát khá giả và có học thức. Ông nói được nhiều thứ tiếng. Ông đã theo học tại Đại học Kabul vào đầu những năm 1970. Tại đó, giống như bất kỳ thanh niên Hồi giáo nào vào thời điểm đó, ông đã say mê các giáo lý Hồi giáo truyền thống và gia nhập một nhóm sinh viên Hồi giáo phản đối sự hiện diện ngày càng tăng của Nga tại Afghanistan.

Năm 1975, Massoud tham gia vào một cuộc nổi loạn chống lại Mohammed Daoud Khan, một chính trị gia được cộng sản hậu thuẫn đã tiếp quản đất nước trong một cuộc đảo chính năm 1972. Cuộc nổi loạn đã thất bại, nhưng Massoud đã có được kinh nghiệm quý báu, đặc biệt là trong việc tổ chức các nhóm du kích ở tỉnh Panjshir quê hương ông. Sau thời gian này, Massoud đã liên minh với các nhóm Hồi giáo ít cực đoan hơn sẽ chiến đấu với đảng PDPA cộng sản trong một cuộc nội chiến vào cuối những năm 1970. Khi người Nga xâm lược, Massoud đang chỉ huy một đội quân nhỏ.

Khi chiến tranh diễn ra, Massoud là vị chỉ huy ngày càng được người Mỹ ủng hộ. Mặc dù là một người Hồi giáo ngoan đạo, ông lại khoan dung với các tín ngưỡng khác hơn những chiến binh thánh chiến cực đoan khác. Massoud bắt đầu giành được những chiến thắng quan trọng chống lại quân Nga ở Panjshir bị liên tục tấn công  và ném bom dữ dội đến mức, tại một thời điểm, Massoud đã phải sơ tán toàn bộ 30.000 cư dân của thung lũng.

Mặc dù Massoud được mệnh danh là “Sư tử vùng Panjshir” và trở thành anh hùng dân tộc, ông vẫn gây tranh cãi giữa những thủ lĩnh mujahideen khác. Năm 1983, sau khi chiến đấu với quân Nga trong ba năm, ông đã sắp xếp một lệnh ngừng bắn với họ. Mặc dù đây chỉ là tạm thời, nhưng các thủ lĩnh phiến quân Afghanistan khác coi đó là Massoud đầu hàng trước sức ép của Liên Xô. Nhưng đến cuối cuộc chiến, Massoud đã chỉ huy một đội quân gồm khoảng 13.000 người. Sau khi Liên Xô rút quân, ông tiếp tục cuộc nội chiến chống lại các nhóm Hồi giáo khác đang chiến đấu để giành quyền kiểm soát Afghanistan. Nhưng, vì không có viện trợ của Hoa Kỳ, vốn đã bị rút đi vào cuối Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan, Massoud đã thua trước các chiến binh Taliban, những người đến đầu những năm 1990 đã kiểm soát 90 phần trăm đất nước.

Massoud sau đó trở thành thủ lĩnh của một nhóm gọi là Liên minh phương Bắc, một liên minh lỏng lẻo của các chiến binh tiếp tục chống lại chế độ Taliban và những tên khủng bố Hồi giáo cực đoan như Osama bin Laden. Vào ngày 9 tháng 9 năm 2001, tức hai ngày trước vụ tấn công ngày 11 tháng 9 vào Hoa Kỳ, Massoud đã cho phép hai nhà báo phỏng vấn mình. Họ gần như chắc chắn là điệp viên của al-Qaeda. Một tên trong đó đã kích nổ một quả bom tự sát trong máy quay video, giết chết Massoud.

Hầu hết các cơ quan tình báo tin rằng Osama bin Laden đã giết Massoud để lấy lòng Taliban, trong mưu tính sau này sẽ giúp bảo vệ mình khỏi cơn thịnh nộ của người Mỹ.

TÊN LỬA ĐEO VAI ĐÃ HỦY DIỆT TRỰC THĂNG NGA

Nếu có một hình ảnh mang tính biểu tượng của Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan, thì đó là hình ảnh một chiến binh mujahideen đứng trên một mỏm đá với ống phóng tên lửa Stinger cân bằng trên vai, sẵn sàng nhắm vào một trực thăng tấn công của Liên Xô. Hình ảnh này gây ấn tượng vì sự kết hợp của các yếu tố tượng trưng cho chính cuộc chiến – trang phục truyền thống của người bộ lạc và nét hiện đại bóng bẩy của Stinger.

Stinger, được phát triển tại Hoa Kỳ vào đầu những năm 1980, là tên lửa đất đối không vác vai, chạy bằng pin, nhẹ, tương đối dễ sử dụng và quan trọng nhất là có khả năng tìm nhiệt. Nó tập trung vào các dấu hiệu nhiệt phát ra từ trực thăng và khí thải của máy bay. Do đó, người ta chỉ cần hướng nó về phía mục tiêu, và nó thường sẽ tự động tìm thấy và tiêu diệt mục tiêu. Vì Quân đội Liên Xô ở Afghanistan phụ thuộc rất nhiều vào trực thăng để vận chuyển quân, hỏa lực hỗ trợ và sơ tán người bị thương, nên Stinger là vũ khí hoàn hảo để các chiến binh thánh chiến sử dụng.

William Casey, giám đốc CIA, đã ra lệnh vào giữa những năm 1980 gửi hàng trăm tên lửa Stinger đến Afghanistan. Các điệp viên CIA đã huấn luyện chiến binh Hồi giáo cách sử dụng vũ khí này, và điều này đã chứng minh được hiệu quả to lớn. Stinger có thể bắn hạ trực thăng ở độ cao 12.000 feet (3,6 km), khiến Liên Xô không dám thực hiện các vụ tấn công tầm thấp mà họ đã quen. Mujahideen thành công đến mức các chỉ huy chiến trường Liên Xô trở nên lo.ngại khi phải sử dụng trực thăng cứu thương cho thương binh, điều này càng làm suy yếu tinh thần của quân đội Liên Xô.

Sau chiến tranh, như được ghi chép trong cuốn sách Ghost Wars của Steve Coll, CIA lo ngại rằng Stingers trong tay bọn khủng bố có thể được sử dụng để bắn hạ máy bay chở khách. Sau đó, họ tìm cách mua lại tên lửa từ các lãnh chúa Afghanistan với giá từ 80.000 đến 150.000 đô la một chiếc”.

OSAMA Ở AFGHANISTAN: QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH MỘT KẺ KHỦNG BỐ

Thật trớ trêu khi gã đàn ông là động lực thúc đẩy cuộc tấn công tồi tệ nhất trên đất Hoa Kỳ kể từ Trân Châu Cảng lại được CIA tài trợ và huấn luyện.

Tuy nhiên, Osama bin Laden, thuộc gia đình giàu có, thế nào cũng sẽ nhắm đến Hoa Kỳ. Sinh năm 1957 tại Ả Rập Xê Út trong một gia đình chủ doanh nghiệp xây dựng giàu có và sung túc (cha của bin Laden cuối cùng có 50 người con), bin Laden lớn lên trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàng gia Ả Rập Xê Út quyền lực. Giống như nhiều thanh niên cùng đẳng cấp xã hội, bin Laden được giáo dục tốt tại một trường đại học danh giá, dù chỉ ở Jedda. Ông không theo học tại các trường nội trú tư thục của Anh như nhiều chị em của ông đã theo học.

Năm 1979, khi Chiến tranh Liên Xô-Afghanistan nổ ra, bin Laden là sinh viên năm hai đại học với khoản trợ cấp hàng năm là 1 triệu đô la và một người thầy tên là Abdullah Azzam, một người Palestine cực đoan sau này sẽ thành lập tổ chức khủng bố Hamas. Thông qua Azzam, và những giáo viên Hồi giáo cực đoan khác, bin Laden được học về cuộc thánh chiến jihad nhằm khôi phục Hồi giáo về tính thuần khiết cội nguồn và đánh đuổi bọn phương Tây ra khỏi các thánh địa Hồi giáo.

Bin Laden có lẽ đã đến Pakistan lần đầu tiên vào năm 1980, nơi ông cùng các thành viên của lực lượng mujahideen chiến đấu chống lại Liên Xô, một nhóm vào thời điểm đó được chính phủ Ả Rập Xê-út ủng hộ mạnh mẽ. Những nỗ lực của Laden nhằm hỗ trợ lực lượng mujahideen bao gồm cung cấp tiền xây dựng đường sá qua vùng nông thôn gồ ghề, những con đường được sử dụng để chuyển vũ khí cho các chiến binh Hồi giáo.

Đến năm 1984, bin Laden – theo mọi lời kể, là một thanh niên sắc sảo và dễ gần – đã thành lập một tổ chức có tên là Maktab al-Khadamat (MAK), có nghĩa là “Văn phòng Dịch vụ”. MAK là một kênh mà bin Laden đã dẫn dắt số lượng ngày càng tăng các chiến binh Hồi giáo cực đoan tìm cách chống lại Liên Xô ở Afghanistan. Tuy nhiên, điều này là không đủ đối với bin Laden. Chẳng bao lâu sau, ông ta gia nhập lực lượng Ả Rập chiến đấu với quân Nga ở miền đông Afghanistan, ngay bên kia biên giới với Pakistan. Vào tháng 4 năm 1987, bin Laden và 50 chiến binh tình nguyện Ả Rập đã chống lại 200 kẻ xâm lược Liên Xô trong bốn hoặc năm ngày tại một pháo đài trên núi. Osama bin Laden, mặc dù cần tiêm insulin để điều trị bệnh tiểu đường, đã chiến đấu rất dũng cảm. Những chiến công của ông đã được hai nhà báo Ả Rập có mặt tại đó tường thuật với công chúng.

Bin Laden giờ đây được thế giới Ả Rập coi là một chiến binh thánh chiến hàng đầu. Ông ta chia tay với MAK, một tổ chức mà ông ta cho là quá tầm thường về mặt dịch vụ và vai trò cung cấp, và ông ta đã giúp thành lập al-Qaeda. Sau khi xung đột với chính quyền Ả Rập Xê-út về sự hiện diện ngày càng tăng của người Mỹ tại quốc gia này, bin Laden đã bị nước này tước quyền công dân và bị trục xuất khỏi đất nước. Ông ta trở về Kabul, nơi ông và al-Qaeda tiến hành nhiều cuộc tấn công khủng bố chống lại Hoa Kỳ, đỉnh điểm là cuộc tấn công ngày 11 tháng 9 năm 2001.

Vào năm 1984, Osama đã thành lập tổ chức MAKTAB AL-KHADAMAT qua đó ông tuồn các chiến binh Hồi giáo cực đoan vào Afghanistan để chiến đấu chống lại người Xô viết.

 

Bình luận về bài viết này