
Hồ Bạch Thảo
Tháng 3 năm thứ Cảnh Hưng thứ 32 [15/4-13/5/1771], (Thanh, Càn Long thứ 36); Thổ quan châu Tư Lăng [Quảng Tây] trả lại đất thuộc châu Lộc Bình. Lúc ấy, dân thổ châu Tư Lăng, tranh chiếm địa giới xã Tĩnh Gia thuộc châu Lộc Bình. Triều đình hạ lệnh cho Đốc đồng Lạng Sơn Phạm Đồng Viện sai người đi phân giải. Thổ quan châu Tư Lăng bèn trả lại đất ấy, sau đó lại đem dâng ngựa để tạ lỗi.
Chúa Trịnh Sâm cho dời trấn lỵ Thanh Hóa đến xã An Lãng [huyện Thiệu Hóa, Thanh Hóa]. Sâm lấy cớ rằng phủ An Trường là nơi cỗi gốc, mà địa phận An Lãng tiếp giáp với An Trường, nên hạ lệnh dựng lỵ sở trấn Thanh Hóa ở đấy.
Tháng 4 [4/5-12/5/1771], nước Nam Chưởng tức Lão Qua xưa, đến cống nạp. Nam Chưởng là một bộ lạc của Nam Chiếu, từ thời nhà Minh trở về trước gọi là Đại Man, đến nhà Thanh mới phong làm một nước. Đất nước này phía đông nam giáp Hưng Hóa, phía tây qua Nam Giang đến Xiêm La, phía bắc qua Mường Lự thông sang Vân Nam. Từ trước, nước này chưa cống nạp nước ta, đến nay mới thông hiếu.
Tháng 6 [12/-9/8/1771], xây chùa Tiên Tích [gần ga Hàng Cỏ, Hà Nội], ở ngoài cửa Đại Hưng.
Mồng một tháng 9 [8/10/1771], nhật thực. Bổ dụng Lê Quý Đôn làm Tả thị lang bộ Công, quyền giữ chức Đô ngự sử. Quý Đôn trình bày bốn việc:
- Cống sĩ thi hội trúng kỳ đệ tam, phần nhiều được trao chức vượt bậc; xin xét lại bắt trở về bậc cũ.
- Hiến sát phó sứ và Tham nghị là người có chuyên trách ở một địa phương, thế mà ít lâu nay dùng bọn cầu may để làm quan, phần nhiều không do các quan trong triều đình bảo cử. Nay xin thu hồi lệnh trước, cho các quan trong triều đình bảo cử, như lệ cũ.
- Đất bãi ở các lộ xin phái các quan chia nhau đi khám lại.
4.Những dân xã ở các lộ, trước đây phụng mệnh được miễn trừ, gần đây vì chép lại sổ sách, rồi sinh ra sự thay đổi thêm bớt gian trá. Xin sai quan thân cận xét thực để chỉnh đốn lại cho được đúng.
Trịnh Sâm cho là phải, lập tức hạ lệnh thi hành.
Tháng 11 [6/12/1771-4/1/1772] Ngô Thì Sĩ, Tham chính Nghệ An, bị bãi chức. Trước đây, Tiến sĩ Nguyễn Lệnh Tân, nhà ở Hồ Tây, họp kẻ sĩ cùng dạo thuyền vịnh thơ với nhau. Ngô Thì Sĩ tham dự, làm thơ có câu “Tình vũ cánh nghi chu” [Trời tạnh càng nên dạo thuyền]. Câu này ý ca tụng phong cảnh trong hồ; sau có kẻ ác ý đổi ra là “Thảo mộc khủng phi Chu” [dùng chữ chữ đồng âm,chỉ nhà Chu, có nghĩa là cây cối đất nước sợ không thuộc về nhà Chu; ý chê họ Trịnh chuyên quyền lấn át Vua Lê. Trịnh Sâm rất tức giận, gặp lúc ấy, học trò trường Nghệ An khiếu tố về việc hai ti Thừa chính và Hiến sát khảo hạch không công bằng, nên quyết định bãi chức Ngô Thì Sĩ.
Tháng 12 [5/1-3/2/1772], Trịnh Sâm giết cựu Thái tử Lê Duy Vĩ. Sau khi Thái tử đã bị giam, Sâm muốn giết đi, nhưng chưa tìm được chỗ sơ hở. Đến nay, Hoàng Ngũ Phúc và Phạm Huy Đĩnh nhờ người khác vu cáo rằng “bọn Trần Trọng Lâm và Nguyễn Hữu Kỳ cùng với bọn gia khách của Thái tử là cống sĩ Vũ Bá Xưởng và Tự thừa Lương Giản định mưu dấy quân, để cướp lấy Thái tử ra khỏi ngục“. Rồi Huy Đĩnh đem việc ấy nói cho Sâm biết; Trịnh Sâm sai Huy Đĩnh thắt cổ giết Thái tử; cùng phạt tội bọn Trần Trọng Lâm.
Tại miền Nam vào tháng 8 [9/9-7/10/1771], Mạc Thiên Tứ được tin nước Xiêm La chuẩn bị giáp binh, định ngày lấn chiếm; bèn gửi hịch xin quân viện ở Gia Định. Điều khiển Nguyễn Cửu Khôi cho rằng năm trước Hà Tiên đã báo tin sai, nay sợ làm mệt cho quan quân, nên không cho binh đến cứu.
Tháng 10 [7/11-5/12/1771, vua Xiêm thấy Chiêu Thúy đã chạy sang Hà Tiên, sợ có mối lo về sau, bèn phái hai vạn quân thủy và bộ, dùng tên giặc núi Bạch Mã là Trần Thái làm hướng đạo, vây trấn Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ quân lính ít ỏi, bám giữ thành cố đánh, chạy hỏa bài cáo cấp với dinh Long Hồ [Vĩnh Long]. Quân Xiêm đông giữ núi Tô Châu [Hà Tiên], dùng đại bác bắn vào thành, thế rất nguy cấp. Đương đêm, kho thuốc súng ở núi Ngũ Hổ phát cháy, trong thành bối rối. Quân Xiêm từ phía sau thành chặt cửa sấn vào, phóng hỏa đốt doanh trại.
Thiên Tứ thân hành đốc suất quân binh dưới quyền, chống đánh tại các cửa ngõ. Một lát quân dân tan vỡ, thành bị hãm. Cai đội Đức Nghiệp hộ vệ Thiên Tứ lên thuyền chạy. Mạc Tử Hoàng, Mạc Tử Thảng, Mạc Tử Duyên ở đạo Châu Đốc cũng đều đem thủy quân phá vòng vây, do đường biển chạy xuống Kiên Giang, rồi qua Trấn Giang [Cần Thơ] dừng lại. Quan nước Xiêm là Trần Liên đuổi theo, vừa gặp Lưu thủ dinh Long Hồ là Tống Phước Hợp đem binh thuyền đến cứu, kéo thẳng tới sông Châu Đốc để chống cự. Quân Xiêm rút lui, vào nhầm ngách sông cụt, đại binh ta đuổi ập tới, chém được hơn 300 đầu. Trần Liên phải bỏ thuyền, dẫn quân chạy về Hà Tiên, lại bị Cai đội đạo Đông Khẩu là Nguyễn Hữu Nhân đón đánh, quân Xiêm chết quá nửa. Vua Xiêm bèn lưu Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, rồi tự đem quân thẳng sang Chân Lạp. Nặc Tôn bỏ chạy. Vua Xiêm lập Nặc Nộn làm vua Chân Lạp; quân Xiêm đóng tại thủ phủ Nam Vang, có ý nhòm ngó Phiên Trấn [Gia Định].
Tháng 11[6/12/1771- 4/1/1772], Nguyễn Cửu Khôi và Nguyễn Thừa Mân gửi giấy mời Thiên Tứ đến dinh để hỏi thăm yên ủi. Thiên Tứ trình bày duyên do thất thủ và dâng thư xin chịu tội. Chúa ban thư rộng miễn, lại cấp thêm lương. Hạ lệnh quan Điều khiển cho quân đưa Thiên Tứ về đạo Trấn Giang [Cần Thơ], khiến chiêu dụ dân lưu vong để tính lại việc đánh lấy Hà Tiên.
Vào năm này [1771] ở huyện Phù Ly [huyện Phù Cát, Bình Định] đất Quy Nhơn, có Nguyễn Nhạc khởi binh chống. Nguyên ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ, cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An.Vào thời Vua Lê Thần Tông [1653-1657] gặp lúc Trịnh, Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn [huyện Tây Sơn, Bình Định] thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ. Anh em Nhạc muốn nỗi dậy, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để dễ thu phục nhân tâm, vì đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn. Nguyễn Nhạc trước làm Biện lại, cho nên người ta thường gọi là Biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng rồi nỗi dậy. Đến năm nay mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những kẻ nghèo khổ theo rất nhiều.
Tháng giêng năm Cảnh Hưng thứ 33 [4/2-3/3/1772], (Thanh Càn Long thứ 37); nước Ai Lao đến nạp cống nhà Lê.
Mồng một tháng 3 [3/4/1772], nhật thực. Dùng lại Nguyễn Nghiễm chức Tham tụng. Mùa đông năm trước, Nguyễn Nghiễm giữ chức Tham tụng, viện lệ nghỉ hưu thôi làm quan. Triều đình hạ chiếu cho thăng chức Đại tư đồ, sai quan hộ vệ đưa về tận làng tại huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Nay Trịnh Sâm nhận thấy Nghiễm là người có tài, bèn khởi phục bổ dụng.
Sai Lê Quý Đôn đi dò hỏi tình trạng dân Lạng Sơn. Vũ Trần Thiệu đến cửa Nam Quan chờ nhận lệnh nhà Thanh, khi trở về triều, nói hạt Lạng Sơn dân gian bị đói khổ. Triều đình bèn hạ lệnh cho Lê Quý Đôn đi xét hỏi. Nhân đấy, Quý Đôn trình bày tình trạng hà khắc nhũng nhiễu của viên đốc trấn Lê Doãn Thân; Doãn Thân phạm tội, bị bãi chức.
Tháng 5 [1/6-30/6/1772], bãi bỏ lệnh cấm nhân dân gần biên giới tàng trữ binh khí. Theo chế độ cũ, cấm dân gian tàng trữ binh khí riêng; đến nay Hoàng Đình Thể, Lưu thủ trấn Hưng Hóa dâng thư rằng:
“Đất nơi biên viễn, binh lính do ở nông dân mà ra. Vả lại, binh khí do dân chế tạo, họ đều tự dùng để chống giữ, nay nhất luật cấm chỉ, e rằng bọn giặc cướp sẽ nhân chỗ sơ hở mà cướp bóc, thì không có gì phòng bị được“.
Vì thế, các ngoại trấn nơi biên giới đều được bãi bỏ lệnh cấm trước.
Tại miền Nam vào tháng 2 [4/3-2/4/1772], Chúa cho rằng Điều khiển Gia Định giữ quân không đến cứu viện, nên thành Hà Tiên bị hãm; bèn giáng Nguyễn Cửu Khôi làm Cai đội.
Sai Chưởng cơ Nguyễn Cửu Đàm [con Nguyễn Cửu Vân] làm Khâm sai chánh thống suất đốc chiến, Cai bạ dinh Quảng Nam là Trần Phước Thành làm Khâm sai tham tán, lĩnh 10.000 quân thủy và bộ thuộc hai dinh Bình Khang và Bình Thuận và 20 chiếc thuyền chiến để chuẩn bị hành quân.
Tháng 6 [1/7-29/7/1772], Nguyễn Cửu Đàm tiến quân theo sông Tiền Giang, cùng với Cai bạ dinh Long Hồ là Nguyễn Khoa Thuyên lĩnh quan quân đạo Đông Khẩu [Sa Đéc, ĐồngTháp] tiến theo đường Kiên Giang ; Lưu thủ Tống Phước Hiệp theo đường Hậu Giang tiến đóng giữ Châu Đốc [An Giang] để tiếp ứng cho hai cánh quân trên. Bấy giờ Cai đội đạo Đông Khẩu là Nguyễn Hữu Nhân ốm, một mình Khoa Thuyên đem 3.000 quân và 50 thuyền, đánh nhau với quân Xiêm không được, lui về đầm Kiên Giang, rồi dùng người Chân Lạp là Nhẫm Lạch [chức quan] Tối [tên người] làm tiên phong, tiến đến Nam Vang đánh phá được quân Xiêm. Vua Xiêm chạy sang Hà Tiên, Nặc Nộn chạy đến Cầu Vọt; quân ta bèn thu phục Nam Vang, đem Nặc Tôn trở về nước. Chân Lạp được dẹp yên. Cửu Đàm thu quân về dinh, đắp lũy Tân Hoa kéo dài 15 dặm bao quanh đồn dinh, chắn ngang đường bộ để đề phòng bất trắc.
Vua Xiêm đến Hà Tiên, gởi thư cầu hòa với Mạc Thiên Tứ. Thiên Tứ từ chối. Vua Xiêm bèn ủy Trần Liên giữ Hà Tiên, tự mình đem quân đi, bắt con trai con gái Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về, rồi giết Chiêu Thúy.
Chúa sai quan biên thần Gia Định lập đạo Trường Đồn ở xứ Mỹ Tho [Định Tường], đặt Cai cơ và Thư ký để làm việc.
Tháng 3 năm Cảnh Hưng thứ 34 [23/3-21/4/1773), (Thanh Càn Long thứ 38); bổ dụng Phó đô ngự sử Nguyễn Khản [còn có tên là Lệ, con Nguyễn Nghiễm , anh Nguyễn Du] làm Đồn điền sứ phủ Trường Yên [Ninh Bình]. Phủ Trường Yên ruộng ven biển mỗi ngày một mở mang, chất đất màu mở, cấy lúa tốt. Triều đình hạ lệnh cho Nguyễn Khản xem xét địa thế, đắp đê ngăn nước mặn, mộ dân làm đồn điền, nộp thóc. Nhân đấy, dựng kho ở Dục Thúy [tỉnh lỵ Ninh Bình] để chứa.
Tháng 4 [21/5-19/6/1773], hạn hán dữ dội, đầm hồ đều khô cạn, có người đi đường bị chết nắng. Chúa Trịnh Sâm hạ lệnh cho bầy tôi bàn luận tìm xét chính trị thiếu sót; miễn cho dân tiền thuế gia tô [tô thuế đánh thêm], xá những thuế còn để thiếu lâu ngày, bãi việc xây dựng, xét hình ngục; lại hạ lệnh cho các trấn ty trình bày sự đau khổ của dân.
Tháng 5 [20/6-19/7/1773], khởi phục Nguyễn Bá Lân giữ trọng trách tại bộ Lễ. Trước kia, Bá Lân vì già yếu, xin từ chức, Trịnh Sâm nhận thấy Bá Lân là bầy tôi cũ triều trước, am hiểu tinh tường về điển lệ cũ, nên cho ở nhà tại kinh thành, để phòng khi hỏi han đến; nay lại khởi phục bổ dụng.
Chúa Trịnh Sâm nhận thấy trong nước thái bình, số hộ khẩu ngày thêm nãy nở, bèn cho làm lại sổ hộ tịch để sửa đổi lại số đinh; Lê Quý Đôn hết sức tán thành. Sâm bèn hạ lệnh các đại thần bàn định phép làm sổ, nói rằng:
“Nhà nước lúc bắt đầu trung hưng, chiếu theo phép cũ, ba năm một lần làm sổ hộ; năm Cảnh Trị [1669], mới lập ra phép bình lệ không tính số đinh tăng lên hay sút đi, phép ấy thi hành hơn 50 năm, phần nhiều sai suyễn; năm Bảo Thái [1724] tiếp tục làm sổ cũng chỉ dựa theo ngạch cũ, rồi sau không kế tiếp sửa lại, đến nay lại đã 50 năm rồi. Bây giờ nên cân nhắc phép đời trước, châm chước việc ngày nay, tham khảo mọi mặt định thành điều lệ, xét thực số nhân đinh, sửa đổi lại sổ hộ, cho phép dân được tự liệu lượng nhân khẩu mà chịu số hộ, để cho đủ ngạch trong sổ“.
Vì thế hạ lệnh cho Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Phương Đĩnh và Lê Quý Đôn phụ trách công việc này.
Tháng 7 [18/8-15/9/1773], nước lụt làm vỡ đê Đông Trạch [huyện Thanh Trì, Hà Nội]. Tại các lộ Thường Tín [Hà Tây], Ứng Thiên [huyện Ứng Hòa, Hà Tây] và Lý Nhân [Hà Nam], nước cuốn hơn một ngàn nhà, thóc lúa bị ngập lụt.
Tháng 8 [16/9-15/10/1773], hạ lệnh cho dân nộp tiền của sẽ trao cho quan chức. Lúc ấy đê điều vỡ lỡ, việc sửa đắp đều khó nhọc phí tổn; bầy tôi bàn định rằng:
“Công việc phiền phức trọng đại, tất phải lấy của lấy sức ở dân, nhưng muốn lấy, cần phải có đạo lý. Vậy nay nên dùng chức tước để chiêu mộ lấy của ở người giàu thì người giàu không tiếc của, dùng tiền của để chiêu mộ lấy sức ở người nghèo, thì người nghèo không tiếc sức, của cải sức lực đều đầy đủ, mới có thể hoàn thành công việc được“.
Trịnh Sâm theo lời, bèn hạ lệnh lấy của nhà giàu nộp vào để mộ dân đắp đê.
Tháng 10 [14/11-13/12/1773], lại hạ lệnh cấm đạo Hòa Lan [đạo Thiên Chúa]. Hạn định trong hai tháng người theo đạo Hòa Lan phải thay đổi hết tập tục cũ, người nào trái lệnh sẽ có tội. Về phần dân trong xã, nếu người nào cố ý dung túng sẽ bị tội lây, người nào cáo tố được sự thực sẽ tha dao dịch cho con cháu.
Về phía nhà Thanh, bấy giờ có người Việt tên là Bác Tam xích mích với Thổ quan trong nước, chạy sang Vân Nam xin tá túc. Viên Tổng đốc Vân Quí đề xuất xin trả về An Nam, được triều đình chấp thuận:
“Ngày 22 tháng 3 năm Càn Long thứ 38 [13/4/1773]. Dụ các Quân cơ đại thần:
‘Bọn Chương Bảo [Tổng đốc Vân Quí] tâu:Người Giao Chỉ tên là Bác Tam có xích mích với viên Thổ mục Nguyễn Ngọc Huân nên bỏ trốn. Bác Tam đem gia quyến trốn vào nội địa, nên bị quân tại đồn trấn bắt được; xin đem Bác Tam cùng gia quyến trả lại nước này để tự họ tra xét.’
‘Việc làm đúng; vụ Bác Tam đã được tra xét rõ. Tại Giang Bang, Giao Chỉ bị Thổ mục Nguyễn Ngọc Huân sinh sự; nhưng không tiện cho lưu lại nội địa; đáng đem bọn Bác Tam trở về lại nước này gấp để họ điều tra giải quyết. Ðáng theo lệ trước đây đã giải Nguyễn Ngọc Hán, trả về từ Quảng Tây; vẫn truyền hịch cho Ủy viên của viên Quốc vương tiếp nhận tại biên giới. Hãy chuyển dụ này với độ khẩn 600 lý 1 ngày (1), để chuyển cho Chương Bảo, Lý Hồ hay biết.” ( Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 929, trang 13 )
Mấy tháng sau nhà Thanh lại nhận được văn thư của An Nam về vụ Hoàng Công Toản, luận điệu vẫn khăng khăng cho là phải. Phía Thanh đem vụ Bác Tam trốn vào nội địa, đã bắt đem trở về nước; để lấp liếm biện luận rằng trước kia vụ án Hoàng Công Toản tỉnh Vân Nam đã liệu biện xong; An Nam mới gửi văn thư khiếu nại nhiều lần; thì đã lỡ chậm rồi không thể truy trở lại:
“Ngày 5 Nhâm Tuất tháng 7 năm Càn Long thứ 38 [22/8/1773]. Lại dụ:
‘Cứ Lý Thị Nghiêu tâu: Xét duyệt văn thư của Quốc vương An Nam, nội dung viên Quốc vương này tiếp nhận lời bác của bộ không trả bọn Hoàng Công Toản trở về; miễn cưỡng bảo rằng không dám không tuân, nhưng luận điệu vẫn sai trái khăng khăng, lời lẽ rất vụn vặt đáng ghét; xin dùng ý kiến riêng để ban hịch dụ.’
‘Đáng nên bác, trong tấu triệp đã phê sẵn. Nhưng ở cõi ngoài viết hịch sợ không đủ nghiêm khắc hợp cách; nên đặc mệnh Quân cơ đại thần nghĩ soạn bản thảo rồi tiến trình, để gửi cho viên Tổng đốc phát hành. Ðã truyền dụ Lý Thị Nghiêu không cần đến Quí Châu lần nữa, chắc lúc nhận được vẫn chưa khởi hành. Lại trước đây nhận được tấu văn cho biết tại huyện Hoài Viễn tra xét vụ án Long Vân trốn vào An Nam sinh sự; đợi khi liệu biện về vụ án xong, có thể khởi trình về tỉnh Quảng Ðông. Nay gửi dụ này để hay biết, lại gửi trả lại văn thư của An Nam; cùng gửi thêm bản thảo tờ hịch do Quân cơ đại thần soạn dùm.
“ Hịch dụ Quốc vương An Nam hiểu rõ: Xét về vụ án Hoàng Công Toản, qua những văn bản trình hỏi của nước ngươi; Bản bộ đường tra xét đầu đuôi vụ án, do trước đó nước ngươi không báo rõ cho Ðốc bộ đường Vân Quí nên gây sự lầm lỡ; nếu như các ngươi báo trước, thi bắt trở về nào có khó gì! Như vụ tên Bác Tam trốn vào nội địa, hiện đã bắt để đưa trở về; nước ngươi hãy xét lấy sự việc thì rõ. Còn về vụ án Hoàng Công Toản, thì chờ khi tỉnh Vân Nam đã liệu biện xong từ lâu; nước ngươi mới biết được và gửi văn thư khiếu nại nhiều lần; thì đã lỡ rồi không thể truy trở lại; rồi thư trát đi lại nhiều lời nào có ích gì! Bản bộ đường nghĩ nước ngươi trước đây đem lòng thành thỉnh giáo, nên không ngại trăn trở trình bày; còn như trước sau vẫn chấp mê, nghe không ra ngọn ngành, rồi đòi dâng kèm tấu triệp lúc dâng cống; Bản bộ đường đã tùy lúc ngăn trở, bàn sự việc nên theo, và cho biết rằng nếu nước ngươi mạo muội tâu trình, sự việc đem ra bộ bàn sẽ bị bác bỏ.
‘Ngươi, Quốc vương, vẫn cố chấp thiên kiến, sai lầm dâng tấu lên; đại Hoàng đế với tấm lòng rộng như bể, không trách cứ thêm mà cho đưa xuống bộ nghị bàn; nhưng nội vụ đã bị bộ chiếu theo lý mà bác. Có thể thấy được Bản bộ đường lấy lòng thành báo cho biết, ước tính sự việc chính xác không hề vu cáo, ngươi Quốc vương cần biết để tỉnh ngộ. Nay bảo rằng nhận được lời bàn của bộ, cẩn thận nghe mệnh, dám đâu không tuân theo; lời nói đó hợp lý. Những vẫn dài dòng thêm những phiền ngôn, múa văn khua bút; đã không thuyết phục được ai, mà lại làm thêm ghét. Mọi sự do nước ngươi ở nơi hoang dã, không rành thể chế của Thiên triều, nên ngươi có hành động khinh suất như vậy; nhân đó ta có lời khắc thiết chỉ đường. Tại Trung Quốc ta, những lời tâu của các quan, sau khi được bộ nghị bàn và nhận được chiếu chỉ hoặc chuẩn y hoặc bác; tất đều được kính cẩn tuân hành, không dám đem ra biện luận trở lại nữa, vốn kỷ cương nằm trong đó, nhất định không sai chạy. Ngươi, Quốc vương, là nước đời đời được phong, vốn xưng cung thuận, cái đạo thờ nước lớn theo lẽ thường; há lại dùng lời lẽ buông tuồng, có phần sai pháp độ; huống hồ bộ lễ đã dâng sớ đàn hạch rằng viên Quốc vương tấu trái lệ căn bản không hợp; nhưng nghĩ ngươi thường nhật cẩn trọng, nên được khoan thứ miễn nghị, lại được ơn trên chấp nhận cho thi hành. Ngươi Quốc vương đáng phải cảm khích tuân theo, để vĩnh viễn nhận ơn; nếu lại cứ lải nhải thêm lời, tất tự dẫm vào tội lỗi, chắc đó là điều ngươi không muốn. Lệnh trên nghiêm nhặt, không thể mạo phạm; Bản bộ đường thấy được nỗi lòng của ngươi, nên đem điều chính nghĩa ra nói và đem văn thư ngươi gửi đến bác trả lại. Viên Quốc vương hãy suy nghĩ nghe lời, tuân theo lý, yên phận, khỏi phụ những lởi thành thực khuyên răn của Bản bộ đường. Nhân đem lời dụ rõ.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 938, trang 17-19)
Bấy giờ cống sứ An Nam, trong chuyến đi sứ thường ghé Nam Kinh đặt các hàng lụa gấm, điều, đoạn với mẫu hoa văn riêng; đến năm sau trở về lấy hàng. Viên Tổng đốc Lưỡng Giang đề xuất cho tập hợp con buôn đến khảo giá; sau khi giao tiền, sẽ lo thực hiện, lại sai quan địa phương kiểm tra đốc thúc:
“Ngày 29 tháng 6 năm Càn Long thứ 38 [17/8/1773]. Tháng này Tổng đốc Lưỡng Giang [Giang Tô, An Huy] Cao Tấn tâu:
‘ Người An Nam đến triều cống, đều dùng đường thủy đến kinh đô, đi về đều đổi thuyền tại Giang Ninh [Nam Kinh]. Viên Cống sứ mỗi lần đều mang sẵn mẫu hoa văn, đến phố đặt dệt các hàng điều, đoạn; đến năm sau trở về Giang Ninh lấy hàng. Nếu hàng chưa xong, đôi khi còn nấn ná lâu ngày. Tra về Sứ thần ngoại Phiên, tuy không có lệ cấm mua điều, đoạn; nhưng riêng tư giao dịch, sợ sinh chuyện. Bởi vậy từ nay trở về sau sức cho bọn Sứ thần, Thông sự [Thông dịch viên] nếu cần mua hàng thì khai đơn rõ ràng, trình lên quan địa phương để tập hợp con buôn tại phố đến khảo giá; sau khi giao tiền, phố được giao sẽ lo thực hiện, lại có quan địa phương kiểm tra đốc thúc. Khi viên Cống sứ trở về Giang Ninh, trong vòng nửa tháng, chiếu theo số lượng giao xong. Không được phép trao nhận riêng tư, quan địa phương không được giao cho gia nhân tôi tớ kinh doanh việc này, nếu trái lệnh sẽ bị hạch tội.’
Nhận được chiếu chỉ khen.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 937, trang 49-50)
Tiếp theo Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu gửi hai bản tâu về bọn Long Vân, Thái Tân Thụy là dân nội địa, giả mạo viên chức sai phái của tỉnh Vân Nam, lén vượt vào An Nam; triều đình nhà Thanh ra lệnh cẩn thận điều tra:
“Ngày 17 Ất Tỵ tháng 6 năm Càn Long thứ 38 [5/8/1773]. Dụ Quân cơ đại thần:
‘Cứ lời tâu của Lý Thị Nghiêu ‘ Trên đường qua châu Ðức Khánh, tiếp nhận công văn của Quốc vương An Nam cho biết có dân nội địa là bọn Long Vân tại nước này hống hách đòi hỏi, tự xưng là người của ty niết [ty tư pháp] Vân Nam, được sai đi bắt tội phạm trốn tránh, rồi vượt sang nước này sinh sự. Sẽ nhận tên phạm này, rồi cho giải đến tỉnh Vân Nam.’
“ Hiện tại Lý Thị Nghiêu định trú tại địa phương Hoài Viễn [Quảng Tây], tức đến gần để thẩm tra minh bạch, rồi dâng tấu triệp đầy đủ, việc làm rất đúng. Bọn Long Vân là dân nội địa, dám giả mạo viên chức sai phái của tỉnh Vân Nam, lén vượt đến nước Di, hống hách xảo trá sinh chuyện, đúng là bọn không tuân pháp luật; đáng lập tức nghiêm khắc thẩm vấn biện lý. Viên Tổng đốc tạm trú tại Hoài Viễn, tức gần chỗ thẩm xét; có thể giảm việc giải đến Vân Nam, thì thực thuận tiện. Chương Bảo [Tổng đốc Vân Quí] bệnh đã thuyên giảm, trước đây đã có chỉ dụ cho Lý Thị Nghiêu không cần đến Vân Nam, viên Tổng đốc đợi vụ án này giải quyết xong, sẽ về Lưỡng Quảng lo việc. Ðưa dụ này truyền theo độ khẩn 400 lý một ngày để hay biết; nguyên bản công văn của An Nam được phát hoàn để giúp hoàn bị án.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 937 trang 5-6 ).
“Ngày 4 Canh Dần tháng 8 năm Càn Long thứ 38 [19/9/1773]. Lại dụ:
Cứ Lý Thị Nghiêu tâu ‘Nước An Nam tống giải dân nội địa tên Thái Tân Thụy, giả mạo làm người sai phái của huyện Kiến Thủy [Vân Nam] có mang thiếp bài, đến nước này đòi hỏi quấy nhiễu. Vì văn thư có lời cho rằng y là người giả làm sai dịch huyện Kiến Thủy, mà tại Lưỡng Quảng không có bằng chứng để tra hạch; lại trong văn thư có đề cập đến Ðèo Ninh là Thổ mục của nước này, trong cáo thị lại bảo rằng y là người nội địa, cần đến bắt đem về. Nhân tỉnh Vân Nam hiện có Thổ ty họ Ðèo trốn ra Giang Ngoại, người này có hay không cùng họ với Ðèo Ninh, chúng có quan hệ gì với nhau không? Hoặc tung tích Ðèo Duy Bình cũng có thể từ đây mà lần ra gốc; nhân vậy chuyển giải đến Vân Nam để thẩm xét.’
“ Sau khi Ðèo Duy Bình đào thoát, không biết ở đâu; nay nước này có người họ Ðèo, hoặc nhân đó điều tra ra tung tích cũng chưa biết chừng. Còn cái gọi là mang cáo thị đến bắt về, vậy cáo thị này do huyện Kiến Thủy từng cấp phát, hay do Thái Tân Thụy giả tạo ra; điều này cũng đáng tra cứu xác đáng. Nay truyền dụ Chương Bảo đợi đến khi tỉnh Lưỡng Quảng giải Thái Tân Thụy đến, hãy điều tra kỹ để phán quyết; cùng hỏi thêm người nước này và phạm nhân về nguồn gốc của Ðèo Ninh là người xứ nào, ai đã giả làm cáo thị để đòi giải về, tên này có hay không cùng họ với Ðèo Duy Bình, cần biết rõ tung tích; tất cả đều điều tra rõ ràng rồi cứ sự thực tâu. An Nam lại có văn thư giải trở về người dân tỉnh Lưỡng Quảng là Diêu Quốc Khâm, lệnh cho Lý Thị Nghiêu thẩm tra hoàn tất. Hai văn kiện của An Nam được gửi trả lại để bổ sung vào hồ sơ vụ án.” (Cao Tông Thực Lục quyển 940, trang 8-9)
Viên Tổng đốc Vân Quí Chương Bảo chịu trách nhiệm điều tra, xác nhận Hà Vạn Châu, Thái Tân Thụy là dân nội địa, lén đến cư trú tại biên cảnh, lại cấu kết với gian dân Long Vân, giả tạo giấy tập nã của Án sát Vân Nam, đòi hỏi quấy nhiễu tại An Nam. Triều đình nhận xét Tri huyện Kiến Thủy và các viên chức địa phương có liên quan; mệnh thẩm xét xác đáng, không thiên vị bạn đồng liêu và viên Tổng đốc cũng không được bao che cho thuộc hạ:
“Ngày 11 Ðinh Dậu tháng 8 năm Càn Long thứ 38 [26/9/1773].Lại dụ:
‘Cứ Chương Bảo dâng tấu triệp nội dung chuẩn nhận Tổng đốc Lưỡng Quảng Lý Thị Nghiêu gửi tư văn cùng áp giải bọn mượn cớ đến biên giới An Nam trưng đòi gồm Hà Vạn Châu, Long Vân, Mã Ðức An, Lô Hữu Tài; cùng nước này tiếp tục giải bọn Thái Tân Thụy; đã tiếp thu và thẩm cứu.
Hà Vạn Châu, Thái Tân Thụy là dân nội địa, lén đến cư trú tại biên cảnh đất Di, lại dám cấu kết với gian dân Long Vân, giả tạo giấy tập nã của Án sát Vân Nam, tại đất Di đòi hỏi quấy nhiễu; thực đúng bọn phỉ không tuân pháp luật, các viên Tổng đốc cần nghiêm khắc thẩm cứu, trị tội nặng.
Trong tấu triệp trình bày rằng tên sai dịch của huyện Kiến Thủy là Lưu Thuận cùng với Ðầu mục Ðèo Chính Ôn đất Mãnh Lạt đem người sai dịch Giao Chỉ tên là Sán Vũ về nội địa, sau khi thẩm vấn minh bạch, phóng thích Sán Vũ trở về và khiển trách Lưu Thuận. Lại nói Ðèo Chính Ôn, nhân người coi trại là Ðèo Ninh bị Giao Chỉ bắt đi, người trong trại không yên, xin huyện Kiến Thủy ra cáo thị bắt về; viên Tri huyện Khương Dục Vị lại không bẩm báo lên trên, lập tức cấp phát cáo thị. Xét thấy Ủy viên điều tra vụ án này không khỏi có ý che chở, Ðèo Ninh có phải là người nội địa không, hay là Di mục Giao Chỉ, điều này điều tra không khó. Viên Tri huyện nghe biết điều này, cũng không trình lên cấp trên để điều tra liệu biện, rồi tự tiện sai người đi thám thính, khiến cho tên sai dịch Lưu Thuận tại đất này sinh sự. Rồi nghe riêng lời Ðèo Chính Ôn, lại không bẩm báo lên trên, cấp cáo thị đòi lấy Ðèo Ninh, thực hành động rất khinh hốt sai quấy. Như vậy viên Tri huyện và sai dịch, mỗi người có riêng tội, cứ theo sự thực thẩm vấn minh bạch , phân biệt trừng trị. Cùng đáng nghiêm sức Ủy viên thẩm xét xác đáng, không tơ hào nể vị bạn đồng quan; viên Tổng đốc cũng không được có ý che chở cho thuộc hạ, để cho tình lý được thỏa đáng, không che dấu chút nào. Việc giả tạo ty niết bài văn, phải tra cứu đến gốc rễ, xử trị nặng nề mới đủ thu phục lòng người Di bên ngoài. Còn việc văn thư An Nam gửi đến, dùng lời lẽ không hợp thể chế, phải dùng lời lẽ phải mà thông sức, để nước này tỏ lòng phục biết kính trọng. Hãy đem vụ án thẩm xét rồi tâu đầy đủ.
“ Mới đây tâu rằng bọn Hà Vạn Châu, Thái Tân Thụy, Lưu Thuận đều mang tội ngầm ra khỏi biên giới cư trú nhiều năm, bày việc sách nhiễu, đã thẩm vấn minh bạch, xét xử nặng phân biệt xử trảm và trảm giam hậu (2). Tri huyện Kiến Thủy Khương Dục Vị tự tiện ban cấp cáo thị đáng xin cách chức, phát vãng hiệu lực (3) tại Y Lê [tỉnh Tân Cương] để chuộc tội; viên Tri phủ Vương Ứng Giai đáng giao bộ bàn xử thêm. Còn tên Ðào Ninh sống cả đời tại Mãnh Lạt cách Cửu Long Giang, Phổ Nhĩ rất xa, đi lại không thông; so với Ðèo Duy Bình không cùng họ và chi phái. Quốc vương An Nam dùng từ có chỗ sai trái, đã soạn bản thảo hịch để thân sức, rồi đem xuống pháp ty bàn và thi hành.” (Thanh Thực Lục, Cao Tông Thực Lục quyển 940, trang 19-21).
Tại miền Nam vào tháng 2 [21/2-22/3/1773], Chúa Nguyễn mật sai Mạc Thiên Tứ cho xá nhân là Mạc Tú đưa thư và đồ lễ sang Xiêm, mượn tiếng giảng hòa để dò thăm tình hình động tĩnh. Vua Xiêm rất mừng, đưa trả những con trai con gái đã bắt và triệu Trần Liên về. Bấy giờ thành lũy nhà cửa ở Hà Tiên đã bị quân Xiêm tàn phá hầu hết, Thiên Tứ bèn lưu lại Trấn Giang, sai con là Hoàng về trước để sửa sang.
Lúc này thế quân Tây Sơn mỗi ngày một mạnh, quân Chúa Nguyễn đánh không được. Vả lại Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ trí; hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên; Khắc Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá cũi ra, mở cửa thành cho quân mình vào đánh đuổi quan quân, giữ lấy thành Qui Nhơn làm chỗ căn bản. Nguyễn Nhạc bèn chiếm giữ lấy thành, thả tù ra, lùa dân làm binh, dựng cờ hiệu Tây Sơn và cho bè đảng chia nhau đi đánh phá, trăm họ đều náo động. Việc báo lên, Chúa sai bọn Chưởng cơ Nguyễn Cửu Thống (con Nguyễn Cửu Thông, lấy công chúa Ngọc Huyên), Nguyễn Cửu Sách (con Nguyễn Cửu Pháp, lấy công chúa Ngọc Anh), Cai cơ Phan Tiến, Cai đội Nguyễn Vệ, Tổng nhung Tống Sùng, Tán lý Đỗ Văn Hoảng đem quân đi đánh không được. Sùng và Hoảng đều chết ở trận. Bấy giờ bình an đã lâu, tướng sĩ không quen trận mạc, khi phải đi đánh, phần nhiều thác cớ cầu miễn. Trương Phúc Loan thì lại ăn hối lộ, mọi người đều căm oán, ra trận là chạy ngay. Do đó thế giặc càng thịnh; bọn lái buôn người Thanh là Tập Đình và Lý Tài đều hưởng ứng, Nhạc kết nạp họ để giúp mình. Tập Đình xưng là Trung nghĩa quân, Lý Tài xưng là Hòa nghĩa quân. Nhạc lại lấy những người thổ dân cao lớn, cho cạo đầu bím tóc, cải trang làm người Thanh, khi đánh thì uống rượu say, cởi trần, mình đeo giấy vàng bạc mà xông trận để tỏ ra là liều chết, quân Nguyễn không ai đương được.
Tháng 6 [20/7-17/8/1773], Trương Phúc Loan giết Chưởng cơ Tôn Thất Văn. Bấy giờ Tôn thất đại thần nhiều người oán Loan, muốn hại, mật sai Hàn lâm Ngô Đình Thứ và Tri phủ Trần Giai dùng trộm ấn của Loan, làm mạo bức thư Loan thông với nguyễn Nhạc, rồi bỏ ở đường. Tham mưu Tá bắt được, đem cáo với Văn. Văn nói với chúa, xin trị tội Loan. Loan cãi việc ấy là vu, Chúa không bắt tội. Loan ngờ bức thư ấy do Tá làm ra, bắt giam rồi giết. Lại vì thế mà Loan oán Văn, giả thư của Tây Sơn nói Văn cùng thông mưu; khiến người tố cáo Văn làm phản, xét trị rất gấp. Văn sợ bỏ trốn, Loan sai Cai đội Tôn Thất Hương đuổi bắt được, dìm chết ở phá Tam Giang.
Tháng 12 [12/1-10/2/1774], dùng Tôn Thất Hương làm Tiết chế, đem nội quân và quân Tam Kỹ tiến đến núi Bích Kê [huyện Phù Mỹ] thuộc tỉnh Bình Định, bị tướng Tây Sơn là Tập Đình và Lý Tài phục binh giết chết, dư chúng đều tan vỡ. Quân Tây Sơn chiếm giữ phủ Quảng Ngãi; Cai cơ Tôn Thất Bân chống đánh không được, đem quân về. Nhạc lại sai đồ đảng đánh cướp các phủ Diên Khánh [Khánh Hòa], Bình Khang [Ninh Thuận]; thế là từ Quảng Ngãi trở về Nam cho tới Bình Thuận đều bị chiếm cả.
Cai đội Nguyễn Cửu Dật (con Nguyễn Cửu Pháp) đánh bại quân Tây Sơn ở kho Mỹ Thị. Bấy giờ quân Tây sơn xâm lấn Quảng Nam, quân nhà Nguyễn đánh mãi không lợi. Cửu Dật đem quân dưới quyền chống đánh, ban đêm cho dân phu đốt nhiều đuốc ở trong rừng để làm nghi binh, rồi đem quân đánh úp; quân Tây Sơn cho là đại binh tiến đến, sợ chạy.
Chú thích:
1.Độ khẩn 600 lý 1 ngày: 1 lý tương đương 500 mét; 600 lý 1 ngày tức văn thư tối thiểu phải chuyển 300 km 1 ngày.
- Xử trảm tức xử chém. Trảm giam hậu: bị xử chém, nhưng còn chờ đưa lên triều đình chấp thuận mới thi hành.
3.Hiệu lực: thời gian quan lại phải phấn đấu làm việc khó khăn để chuộc tội gọi là hiệu lực.