Về một vài gia đình kỳ cựu ở Hà Tiên

Trần Văn Mãnh

Publié le 16 juin 2025

Nếu là người sinh ra và lớn lên ở vùng đất Hà Tiên, chắc chúng ta ai cũng biết ít nhiều về một vài gia đình kỳ cựu ở nơi nầy như gia đình nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ Lâm Tấn Phác, gia đình nơi gốc gác của cô Chín Phan Thị Triệu hay gia đình ông Đốc Lý Văn Nhơn… Tên tuổi và thanh danh của những gia đình nầy đã được người dân Hà Tiên biết đến ít nhiều qua những thành quả quý giá đóng góp về các lãnh vực giáo dục, văn hóa, hành chánh và phát triển tôn giáo địa phương.

Vì thế mặc dù khi chúng ta nói về chuyện một gia đình nào đó tức là nói ra việc riêng tư của nhà cửa người ta, thì đó là một điều không tế nhị, thậm chí là thất lễ, tuy nhiên đó hoàn toàn không phải là ý muốn của người viết bài ở đây. Trong bài nầy mình muốn nhắc lại tên tuổi của quý bậc tiền nhân và quý dì, cô, anh chị đi trước, vốn cùng một quê hương Hà Tiên và quý nhân vật ở đây đã tạo ra nhiều ảnh hưởng lớn lao, đặc biệt là trong lãnh vực tinh thần cho Hà Tiên chúng ta. Là bậc hậu bối và cũng là con em đi sau, chúng ta nên cần biết về quê hương Hà Tiên với những nhân vật đáng kính trọng như thế. Hơn nữa, với thế hệ con cháu trẻ tuổi ngày nay, các em ấy sẽ không biết nhiều gì về quá khứ hoạt động của quý nhân vật trong các gia đình kỳ cựu nói trên nếu không còn tài liệu, sách vở hoặc các câu chuyện được kể hoặc viết ra, ngay cả nếu đã có một vài tài liệu có đề cập đến đề tài nầy, nhưng vẫn còn ít nhiều ngộ nhận, không chính xác. Chuyện kể về các gia đình kỳ cựu ở đây đã được xem như trở thành câu chuyện chung trong di sản văn hóa, lịch sử của Hà Tiên, vì thế mong rằng từ một ý nghĩ tốt và một mục đích ích lợi chung, quý tiền nhân, quý dì cô, anh chị và quý hậu duệ của các gia đình nầy khi đọc qua nội dung bài viết, vui lòng thứ lỗi cho chúng tôi nhé.

Ở Hà Tiên còn rất nhiều gia đình kỳ cựu khác danh tiếng được người Hà Tiên biết đến và kính trọng, tuy nhiên vì thiếu liên lạc, thiếu thông tin, tư liệu nên chúng tôi không thể và cũng không dám mạo muội viết ra hết trong phạm vi bài nầy, hy vọng trong một bài khác với điều kiện thuận tiện hơn, chúng ta sẽ có thể giới thiệu thêm nhiều gia đình kỳ cựu khác. Xin bạn độc hiểu và thứ lỗi.

A/ Gia tộc họ Lâm ở Hà Tiên :

Tuy không có tư liệu nói rõ nhưng theo nữ sĩ Mộng Tuyết (tức bà Thái Thị Sửu, người vợ cuối của ông Đông Hồ), trong tập sách gồm ba quyển “Núi Mộng Gương Hồ” xuất bản năm 1998, bà có nêu ra nguồn gốc của tổ tiên nhà họ Lâm: Tổ tiên họ Lâm từ tỉnh Phúc Kiến (1) có lẽ di cư sang Hà Tiên cùng thời kỳ với Mạc Cửu (Mạc Cửu có dùng một quan kí lục họ Lâm).

Học giả Nguyễn Hiến Lê còn viết rõ trong bài “Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm” (2) nêu ra chi tiết Đông Hồ là người con trai đời thứ bảy và cuối cùng của dòng họ Lâm vì đến đây thì không còn con trai, nếu tính tiếp qua đời thứ tám thì là hai người con gái của ông Đông Hồ.

Hai chi tiết: họ Lâm sang nước Việt Nam cùng thời với Mạc Cửu và Đông Hồ là người xếp hàng đời thứ bảy của gia đình họ Lâm đều rất đáng chú ý và là đề tài cho các nhà “Hà Tiên Học” nghiên cứu thêm, vì hiện nay rất tiếc là chúng ta không tìm thấy các nguồn nào khác nói về hai điểm nầy, nữ sĩ Mộng Tuyết và học giả Nguyễn Hiến Lê cũng không nêu ra xuất xứ của hai điểm nầy.

Trở lại với gia đình họ Lâm:

Trong gia đình họ Lâm, có tiền bối Lâm Trường Thọ, tiền bối sinh ra cụ ông Lâm Quang Huy. Cụ ông Lâm Quang Huy và cụ bà họ Giang có ba người con: hai người con trai và một người con gái:

Lâm Tấn Đức (nam)

Lâm Thị Đào Hoa (nữ)

Lâm Tấn Thoại (nam)

A1/ Lâm Tấn Đức: Ông Lâm Tấn Đức tự là Hữu Lân, sinh năm 1866 tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên. Ông có dáng oai nghiêm, bệ vệ, thông minh và hoạt bát, ngoài ra ông giỏi chữ Hán, thảo chữ trên giấy rất đẹp và được mọi người trong làng Mỹ Đức kính trọng và tin tưởng, ông được cử làm Hương Chủ trong làng.

Ông Lâm Tấn Đức có kết giao hữu với một số nhân sĩ ở Hà Tiên thời 1920, nhóm bạn nầy thường hay cầu Tiên ở nhà ông tại bờ đầm Đông Hồ. Đó là quý ông Cao Văn Sự (Đốc Phủ Sự), Nguyễn Thành Diêu, Nguyễn Văn Ngàn (thơ toán, viên chức Ngân Khố, gọi là ông Phán Ngàn). Chính ông Ngô Văn Chiêu (3) lúc đó từ Tân An chuyển xuống Hà Tiên làm việc ở tòa Hành Chánh vào năm 1920  và đã gặp quý nhân sĩ nhà Nho nầy nhân đó quý ông thường lên Thạch Động để cầu Tiên. Trong một cuộc cầu Tiên ngay tại nhà ông Lâm Tấn Đức, ông Ngô Văn Chiêu đã được thừa tiếp hồng danh hai chữ Cao Đài qua một bài thơ do ơn trên giáng cơ có nêu tên họ đầy đủ của ông và tên của quý thân hữu có mặt (Quan, Diệu, Sự, Đức)

Về thân thế, ông Lâm Tấn Đức có người vợ tên là Phan Thị Cạo, hai ông bà không có con, nhưng có nuôi một người con gái tên là Lâm Thị Việt. Bà Phan Thị Cạo mất năm 1921 và ông Lâm Tấn Đức mất năm 1934.

A2/ Lâm Thị Đào Hoa là em gái của ông Lâm Tấn Đức và chị gái của ông Lâm Tấn Thoại. (sẽ nói ở phần sau)

A3/ Lâm Tấn Thoại: Không rõ năm sinh, nhưng chắc chắn là ông được sinh ra ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên. Ông và người vợ tên Trần Kim Phụng có ba người con: hai người con gái và một người con trai:

Lâm Quế Thanh (nữ)

Lâm Ngọc Anh (nữ)

Lâm Tấn Phác (nam, tức là nhà giáo, nhà thơ Đông Hồ).

a/ Không rõ năm sanh của bà Lâm Quế Thanh, chỉ biết bà lấy người chồng họ Mông ở Hòn Chông, lúc đó là quận thuộc tỉnh Hà Tiên, bà không may mất sớm, bà mất vào tháng 4 năm 1927, hai vợ chồng không có con.

b/ Bà Lâm Ngọc Anh sinh năm 1901, lập gia đình với ông Lý Văn Nhơn, một nhân sĩ và nhà giáo kính trọng ở Hà Tiên, người Hà Tiên thường gọi ông là ông Đốc Nhơn, ông sinh năm 1900 và mất năm 1967. Mười năm sau bà Lâm Ngọc Anh mất (1977). Hai người có 5 người con: 2 người con trai và 3 người con gái.

c/ Ông Lâm Tấn Phác tức nhà giáo, nhà báo, nhà thơ Đông Hồ, sinh ngày 10 tháng ba năm 1906. Có một sự kiện quan trọng ảnh hưởng hoàn toàn đến cuộc sống của ba chị em ông Lâm Tấn Phác, đó là lúc khoảng hai song thân là ông Lâm Tấn Thoại và bà Trần Kim Phụng trạc độ trên dưới 30 tuổi, khoảng năm 1909, ông Lâm Tấn Thoại đột nhiên qua đời, hai tháng sau đến phiên bà vợ Trần Kim Phụng cũng lìa đời trong cùng năm. Ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác lúc đó khoảng 3 hoặc 4 tuổi cùng hai chị gái trở thành mồ côi cha mẹ, bác ông là Lâm Tấn Đức cùng với vợ là Phan Thị Cạo đem 3 chị em của ông Đông Hồ về nhà nuôi, xem như là con ruột trong nhà. Dưới sự giáo dục nghiêm khắc và đúng đắn của một nhà Nho như người bác, ông Đông Hồ hấp thụ được một nền văn hóa cổ truyền, trang nghiêm, học chữ Hán, biết đọc sách xưa và học cách viết chữ bằng bút lông tài hoa của người bác, từ đó đã tạo cho ông Đông Hồ một phong cách sống và viết văn thơ rất thanh tao, trang nhã.

Ông Đông Hồ là nhà văn, nhà thơ đầu tiên trong Nam bắt cầu Nam Bắc trên phương diện văn học, mở đường cho sự “thống nhất văn học dân tộc” như ông nói. Ngoài ra ông Đông Hồ còn có công rất nhiều trong công việc khuyến khích, phổ biến, kêu gọi  giới thanh niên nam nữ học tiếng Việt (Quốc Ngữ) trong thời gian 1920 – 1930, từ bỏ dần tiếng Hán, Nôm, và tiếng Pháp rất thông dụng trong đời sống và văn hóa lúc đó.

Ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác và người vợ đầu tiên tên là Lại Linh Phượng có một người con gái tên là Lâm Mỹ Tuyên (sinh năm 1923), sau đó hai người còn có thêm hai người con trai nhưng không nuôi được. Bà Lại Linh Phượng mất vì bệnh năm 1928, do biến cố nầy ông Đông Hồ rất đau khổ và có viết một bài văn khóc vợ rất nổi tiếng tên là “Linh Phượng Lệ Ký”.

Hai năm sau, 1930,  bác của ông Đông Hồ cưới thêm người vợ thứ hai cho ông Đông Hồ, bà tên là Thái Nhàn Liên, hai người có một người con gái tên là Lâm Mỹ Diễm, sau đó cũng có thêm một người con trai nhưng cũng không nuôi được, rốt cuộc họ Lâm đến đây là hết người con trai nối dõi dòng họ. Bà Thái Nhàn Liên mất vào năm 1946.

Một thời gian sau, ông Đông Hồ tục huyền với nữ sĩ Mộng Tuyết (Thái Thị Sửu, sinh năm 1914), là một người cùng quê, học trò của ông thời Trí Đức Học Xá và cũng là người em gái út thứ bảy của bà vợ trước của ông là Thái Nhàn Liên. Ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết sống với nhau cho đến cuối đời, không có con và cùng là hai cây bút rất có tên tuổi trong nền Văn Học miền Nam. Ông mất năm 1969 và bà mất năm 2007, đều được an nghỉ ở núi Tô Châu Hà Tiên.

Đến đời hai người con gái của ông Đông Hồ: Bà Lâm Mỹ Tuyên là giáo sư dạy môn Anh Văn ở trường Trung Học Pétrus Ký, Sài Gòn, bà có hai người con trai: Nguyễn Thư Lâm (đã mất) và Nguyễn Quỳnh Lâm hiện sinh sống ở nước Pháp. Còn bà Lâm Mỹ Diễm làm quản lý nhà sách Yiễm Yiễm Thư Trang của gia đình ở Sài Gòn. Hiện nay cả hai người con gái ông Đông Hồ và hai người con rể đều đã qua đời.

Trở lại câu chuyện về gia đình người chị của ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác, tức là bà Lâm Ngọc Anh cùng với người chồng là ông Đốc Lý Văn Nhơn: Ông Lý Văn Nhơn là thầy giáo dạy môn Hán Văn (chữ Nho) và môn vẽ tại trường Tiểu Học Hà Tiên. Hai ông bà có 5 người con: 2 người con trai và 3 người con gái:

Lý Hữu Từ (nam)

Lý Tiểu Uyển (nữ): Chồng bà Lý Tiểu Uyển là Đại tá Trịnh Văn Anh, người đã chỉ huy Tiểu Đoàn 40 Công Binh ngày xưa xây dựng chiếc cầu nổi Tô Châu vào năm 1970. Sau năm 1975, Đại Tá Trịnh Văn Anh đi học tập hơn 10 năm và sau đó ông đã qua đời vào khoảng năm 1992 tại Cần Thơ. Các bạn Hà Tiên hãy nhớ và trân trọng một người đã để lại một kỷ niệm vừa đẹp vừa rất thực tiễn cho đất nước Hà Tiên chúng ta, mặc dù ngày nay chiếc cầu nổi Tô Châu không còn lý do hiện hữu nữa. 

Lý Tiểu Liên (nữ)

Lý Hữu Phương (nam)

Lý Tiểu Chi (nữ) : Phu nhân của ông Trung Tướng Đồng văn Khuyên (1927- 2015).

Ông Đốc Lý Văn Nhơn lúc đầu tu theo Đạo Minh Sư Phật Đường, có đạo danh là Minh Đạo, đạt đến cấp Chưởng Ân. Về sau hai ông bà tòng theo Đạo Cao Đài, phái Chiếu Minh, có lập ngôi Thanh Tịnh Am trên núi ngoài Bãi Nò, Hà Tiên. Theo tài liệu của bà Mộng Tuyết, chính ông Đốc Lý Văn Nhơn là người đầu tiên tự vẽ Thánh tượng Thiên Nhãn (Con mắt trái vì bên trái là tính Dương) có Nhựt Nguyệt Tinh để thờ, tuy nhiên bên Hội Thánh Cao Đài đến ngày nay vẫn chưa kiểm chứng được điều nầy.

d/ Trở lại nói về ông Lâm Tấn Đức (người bác của ông Đông Hồ) : Như trên đã nói, ông bà Lâm Tấn Đức, Phan Thị Cạo không có con, nhưng có nuôi một người con gái tên là Lâm Thị Việt. Bà Lâm Thị Việt có chồng tên là ông Trần Văn Tân. Hai ông bà có nhiều con, người con trai đầu tên là Trần Thiêm Thới (tức là nhà báo, nhà thơ Trúc Hà, một nhân vật trong nhóm được giới văn học tuyên dương là « Hà Tiên Tứ Tuyệt » (4). Trúc Hà Trần Thiêm Thới là người quê Hà Tiên, sống cùng thời với ông Đông Hồ vì cả hai đều được ông Lâm Tấn Đức nuôi dưỡng lúc nhỏ. Trúc Hà gọi Đông Hồ bằng cậu vì thân mẫu của Trúc Hà là bà Lâm Thị Việt có vai vế trong nhà như là chị em của Đông Hồ.

Trúc Hà học xong Sơ Học ở Hà Tiên và tiếp tục vào trường Trung Học Cần Thơ. Tuy nhiên sau đó không được theo học tiếp vì có tham gia làm báo tường viết bài về chánh trị nên nhà trường không chấp nhận ông. Trở về Hà Tiên tham gia giúp trường Trí Đức Học Xá của ông Đông Hồ dạy tiếng Việt miễn phí cho học trò khắp nơi đến học. Khi trường đóng cửa, Trúc Hà tham gia viết báo cộng tác với tạp chí Nam Phong, rồi lên Sài Gòn dạy Quốc Văn các trường Tư Thục. Ngoài ra ông cùng với nhóm Trí Đức Học Xá ra tờ tuần báo « Sống » và giữ vai trò chủ nhiệm. Về ngày sinh của Trúc Hà, người ta không có tư liệu chính xác, chỉ biết ông sinh khoảng năm 1909 và mất vì một cơn bệnh hiểm nghèo khoảng năm 1943 hoặc 1944. Mặc dù Trúc Hà có một cuộc đời ngắn ngủi nhưng Trúc Hà đã để lại một sự nghiệp không nhỏ. Ông là một nhà văn, đồng thời cũng là một nhà báo có ít nhiều đóng góp cho nền báo chí Quốc Ngữ đầu thế kỷ 20. Ngoài ra về việc gia đình riêng, Trúc Hà có người vợ tên là Lê Thị Thượng, vì ông mất sớm nên bà đi tu theo Đạo Cao Đài, phái Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý ở Rạch Giá, đạt đến phẩm Nữ Đầu Sư (5).

B/ Gia tộc họ Huỳnh ở Hà Tiên :

Trong gia tộc họ Huỳnh ở Hà Tiên, có tiền bối Huỳnh Đăng Khoa, người làng Mỹ Đức, Hà Tiên, ông từng làm Hương Chủ trong làng. Chúng ta không biết năm sanh của ông. Ông lập gia đình với bà Trần Thanh Tùng, hai ông bà có một người con trai và một người con gái :

Huỳnh Văn Dần (nam, mất sớm)

Huỳnh Thị Anh (nữ)

Bà Huỳnh Thị Anh có chồng tên là Mộng Toàn Lâm xuất thân từ một gia đình danh giá ở quận Hòn Chông thuộc tỉnh Hà Tiên.

Ông bà Huỳnh Đăng Khoa, Trần Thanh Tùng cư ngụ bên bờ sông Hà Tiên, ngôi nhà xưa ở ngay tại góc đường Trần Hầu và Tham Tướng Sanh, Hà Tiên (6), cách nhà ông Lâm Tấn Đức vài trăm mét. Hai vị tiền bối Lâm Tấn Đức và Huỳnh Đăng Khoa thường giao lưu xướng họa thơ văn. Thời gian tiếp đó, ông bà Huỳnh Đăng Khoa tu theo Đạo Minh Sư Phật Đường, ông có đạo danh là Huỳnh Kim Chung (7) và bà có đạo danh Kim Lư. Một phần vì con trai mất sớm, một phần vì muốn tiến bộ theo đường tu tập, bà Trần Thanh Tùng đứng ra cưới người thứ thất cho ông, đó chính là bà Lâm Thị Đào Hoa, em gái của ông Lâm Tấn Đức và là cô của ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác (xin xem lại phần trên).

Ông bà Huỳnh Đăng Khoa và Lâm Thị Đào Hoa có một người con gái tên là Huỳnh Thị Cang (tự Kính), sinh năm 1901. Sau đó khoảng 17 ngày bà Lâm Thị Đào Hoa qua đời.

Đến năm 1906 bà Trần Thanh Tùng cũng qua đời.

Ông Huỳnh Đăng Khoa có người em trai tên Huỳnh Cập Đệ làm Hương Cả ở Phú Quốc. Ông Huỳnh Cập Đệ có khu đất mang số địa bạ 129 trên núi Dương Đông, địa thế yên tỉnh hợp với việc tu hành, nên khoảng năm 1900, gia đình ông Huỳnh Đăng Khoa ra sở phí cất lên ngôi chùa tên Quan Âm Tự (thuộc phái Minh Sư Phật Đường).

Người vợ của ông Huỳnh Cập Đệ mất sớm nên ông có tục huyền thêm một bà thứ thất, lúc đó vì một lý do riêng trong gia đình, ông Huỳnh Đăng Khoa đem hai người con của ông Huỳnh Cập Đệ từ Phú Quốc về Hà Tiên nuôi, từ đó trong nhà ông ở Hà Tiên có mặt những người con theo thứ tự như sau :

Huỳnh Chấp Phuông (nam, con của ông Huỳnh Cập Đệ)

Huỳnh Thị Thinh (nữ, con của ông Huỳnh Cập Đệ)

Huỳnh Văn Dần (nam, mất sớm, con của ông bà Huỳnh Đăng Khoa – Trần Thanh Tùng)

Huỳnh Thị Anh (nữ, con của ông bà Huỳnh Đăng Khoa – Trần Thanh Tùng)
Huỳnh Thị Cang tự Kính (nữ, con của ông bà Huỳnh Đăng Khoa – Lâm Thị Đào Hoa)

Bà Huỳnh Thị Cang  lập gia đình với ông Phan Văn Tố (1897 – 1976), là một nhân sĩ ở địa phương Hà Tiên, thân phụ của ông là tiền bối Phan Kim Chung cũng là người gốc Hà Tiên. Nhà của ông Phan Văn Tố ở đường Nhật Tảo, Hà Tiên và nhà cũng có mặt sau ở đường Nguyễn Thần Hiến. Ông Phan Văn Tố  ( 8 ) xuất thân là thư ký ở tòa hành chánh Hà Tiên và Phú Quốc vì thế người ta thường gọi ông là ông Ký Tố (lúc ngài Ngô Văn Chiêu làm chủ quận Phú Quốc vào năm 1920 thì ông Phan Văn Tố cũng tòng sư tại dinh quận đặt ở Dương Đông). Vào khoảng 1955 thời Đệ Nhất Cộng Hòa, ông Phan Văn Tố với công danh hoạt động trong sự phát triển tôn giáo địa phương (giúp xây cất, tu sửa chùa Quàng Tế Phật Đường ở Hà Tiên, chùa Quan Âm ở Phú Quốc), ông được đắc cử thành nghị viên Quốc Hội  trong hai nhiệm kỳ liên tiếp.

Ông bà Phan Văn Tố, Huỳnh Thị Cang có tất cả 8 người con : hai người con trai và sáu người con gái. Một vài người được biết đến như sau :

a/ Người con gái lớn thứ hai của ông bà Phan Văn Tố có chồng là người Phú Quốc, gốc Hải Nam, họ Phù, gia đình rất có gia thế trong dòng họ ông Bang Hồ. Hai người con trai của ông bà nầy kêu ông bà Phan Văn Tố là ông bà ngoại, hai người có tên là Phù Thọ Thuận (mất năm 2020 tại nước Đức, Âu Châu) và Phù Thọ Diệu, riêng ông Phù Thọ Diệu có một cô con gái tên là Phù Mỹ Tuyền (tên Mỹ là Elizabeth Phu) có một thời gian là cố vấn cho tổng thống Barack Obama.

b/ Người con trai thứ ba của ông bà Phan Văn Tố chính là thân phụ của hai bạn học cùng trường Trung Học Hà Tiên ngày xưa với mình, đó là Phan Kim Chi (sinh năm 1953 vai chị) và Phan Kim Quang (em). Chi và Quang kêu ông bà Phan Văn Tố là ông bà nội. Phan Kim Chi sau khi rời trường Trung Học Hà Tiên, có gia đình và sinh sống tại Vũng Liêm, Vĩnh Long. Phan Kim Quang vào trường Bộ Binh Thủ Đức, ra trường phục vụ tại Rạch Giá, lúc mang cấp bậc Thiếu Úy, đụng trận và mất tại Rạch Giá năm 1974. Phan Kim Chi sau một thời gian dài mang bệnh, cũng vừa mới mất vào tháng ba năm 2025.

c/ Người con gái thứ tư của ông bà Phan Văn Tố chính là thân mẫu của một người bạn từng sinh sống nhiều năm ở Hà Tiên, từng theo học trường Tiểu Học và Trung Học Hà Tiên (ở Trung Học là niên khóa lớp Đệ Tứ 1966-1967), tên là Trần Thị Nhung (kêu ông bà Phan Văn Tố là ông bà ngoại). Thân phụ của bạn Trần Thị Nhung là con rể của ông bà Phan Văn Tố và tên là Trần Văn Thuận. Ông Trần Văn Thuận ngày xưa làm việc ở Ty Công Chánh Hà Tiên, phía trên đường Mạc Tử Hoàng gần ra phía Đông Hồ, gia đình ông lúc đó cư ngụ tại căn nhà phía sau Ty Công Chánh, có mặt đi vào ở đường Bạch Đằng, về sau khi gia đình ông Trần Văn Thuận đổi đi làm việc ở Cần Thơ, nơi ở nầy trỏ thành văn phòng làm việc và phát thanh của Chi Thông Tin, chính nơi đây vào những năm 60, mình và một số bạn chơi nhạc trong ban « Tiếng Hát Quê Hương » đã thường xuyên đến đây vào những buổi tối thứ bảy để đàn ca trực tiếp và phát thanh ra toàn khu chợ Hà Tiên.

Hai người chị của bạn Trần Thị Nhung là chị Trần Nguyệt Hồng, Trần Thị Tươi, bạn học Trung Học Hà Tiên cùng thời với quý anh chị Đoàn Kim Minh, Lý Thị Lắc, Nguyễn Thị Sồ, Hà Thị Hồng Loan, Vương Văn Quý, Trần Đại Hải,…Gia đình bạn Nhung chuyển về Cần Thơ trong giữa thập niên 60 và sau đó trong những năm sau 1975, bạn định cư ở nước Úc.

d/ Người con gái thứ tám của ông bà Phan Văn Tố là thân mẫu của anh Nguyễn Thành Ngọc (sinh năm 1949), lúc trước anh sinh sống ở Rạch Giá, sau năm 1975 anh về ở Hà Tiên nơi quê ông bà ngoại và làm việc trong Hội Chữ Thập Đỏ. Anh Nguyễn Thành Ngọc chính là nhà thơ Thanh Ngọc và là hội viên của Hội Chiêu Anh Các (Kiên Giang). Anh có vài tác phẩm thơ như : Đêm Phố Biển (1997), Như Lá Còn Bay, …Anh Nguyễn Thành Ngọc lập gia đình với một người bạn cựu học sinh Trung Học Hà Tiên xưa, đó là bạn Tăng Thu Hồng.

e/ Người con gái thứ chín và cũng là con gái út của ông bà Phan Văn Tố chính là cô Phan Thị Triệu (sinh năm 1933) mà người gốc Hà Tiên chúng ta ai cũng biết cô và thường gọi là cô Chín Triệu. Cô Chín không lập gia đình, sống một cuộc đời đạo đức từ nhỏ, cô cùng với song thân luôn cổ động, đóng góp, tham gia vào việc xây dựng tu sửa và quản trị ngôi chùa Quảng Tế Phật Đường ở Hà Tiên. Trong những năm 60, cô Chín làm việc tại Chi Thông Tin Hà Tiên (cùng với cô ba Hà Thị Bích Thủy, ái nữ của ông Đốc Hà Văn Điền). Sau năm 1975, cô trở thành chủ tịch Hội Chữ Thập Đỏ Hà Tiên.

Ông bà Phan Văn Tố, Huỳnh Thị Cang hành đạo tại Bát Quái Đồ Thiên (bên núi Tô Châu, Hà Tiên), ông thọ phẩm giáo hữu phái Thái thuộc Hội Thánh Minh Chơn Đạo.

Cô Chín Triệu tu theo pháp môn Cao Đài Chiếu Minh thuộc đàn Long Hoa. Tháng 7 năm 2024, cô Chín Phan Thị Triệu qua đời và được an nghỉ ở đất gia tộc ở Bãi Nò, Hà Tiên, hưởng thọ 92 tuổi.

Nói về Quan Âm Tự ở trên núi ở Dương Đông, Phú Quốc, đây là ngôi chùa do gia đình tiền bối Huỳnh Đăng Khoa xây dựng lên, chính nơi đây ngài Ngô Văn Chiêu đã được thừa tiếp hồng danh Đức Cao Đài lần thứ ba (lần thứ nhất tại nhà ngài ở Tân An, lần thứ hai tại nhà ông Lâm Tấn Đức ở Hà Tiên). Ngôi chùa nầy là một địa điểm lịch sử, cũng tại nơi đây ngài Ngô Văn Chiêu được thọ nhận làm đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Thượng Đế. Vì thế vào khoảng năm 1960 có người ở Đàn Long Hoa, Sài Gòn cùng một số đệ tử phái Chiếu Minh, đến Phú Quốc tìm lại vết tích của ngôi Quan Âm Tự nầy với dự định xây cất lại thành Đàn Khai Nguyên (thuộc Hội Thánh Cao Đài ngày nay), trong công việc nầy gia đình ông Phan Văn Tố đã thiết lập giấy tờ, thủ tục cần thiết về khu đất nơi xưa là Quan Âm Tự để hoàn thành dự đinh nói trên. Ngày nay tại nơi nầy là ngôi Thánh Thất Cao Đài Dương Đông, người địa phương gọi là chùa Cao Đài hay còn gọi tắt là Chùa Cao vì chùa tọa lạc trên một núi cao, để đến được đây thì du khách phải leo qua nhiều bậc thang trên con dốc cao dựng đứng.

Ngôi chùa này được xây dựng trên nền cũ của chùa Quan Âm ngày xưa do chiến tranh tàn phá. Ngày nay, trong khuôn viên Thánh Thất Dương Đông có một ngôi am nhỏ như là một kỷ niệm của chùa Quan Âm.

C/ Kết Luận :

Hà Tiên vốn là vùng đất huyền thoại từ xưa, vùng đất tâm linh có liên quan ít nhiều đến sự phát triển và ngay cả nguồn gốc của một số tôn giáo. Ngay từ khi trấn Hà Tiên chưa được thành lập, từ thế kỷ thứ 16, đã có những thừa sai người Bồ Đào Nha đến vùng đất nầy lần đầu tiên, rồi đến giữa thế kỷ thứ 18, khi Mạc Thiên Tích từng gặp gở đức giám mục Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Behaine) khi đức giám mục quản lý chủng viện ở Hòn Đất (thuộc trấn Hà Tiên xưa nhưng thuộc về Cambodge ngày nay). Chủng viện Hòn Đất là hậu thân của chủng viện Công Giáo đầu tiên vùng Đông Nam Á được thành lập ở thủ đô Ayutthaya thuộc nước Xiêm La (Thái Lan ngày nay). Ngoài ra trong vòng hai thế kỷ 17 và 18, các giáo sĩ thuộc Hội truyền giáo nước ngoài Paris cũng đã có dịp đặt chân nhiều lần đến trấn Hà Tiên và vùng đất Cambodge.

Đến năm 1863 chùa Quảng Tế Phật Đường được thành lập ở Hà Tiên, là một trong những ngôi chùa đầu tiên (sau chùa Chiếu Minh Phật Đường ở Chợ Lớn) của môn phái Phật Đường Nam Tông Minh Sư Đạo trên đất nước Việt Nam. Lúc nầy ngôi chùa chỉ lợp lá đơn sơ và được sự đóng góp, giúp đở nhân lực, tài chánh của những người Minh Hương và các vị thân hào nhân sĩ kỳ cựu ở Hà Tiên. Từ đó quý nhân sĩ, trí thức Hà Tiên tìm đến quy y cầu đạo, số tín đồ ngày càng phát triển, việc truyền giáo gặp thuận lợi và cảnh chùa ngày càng thêm sung túc.

Nhiều gia đình kỳ cựu ở chung quanh chợ Hà Tiên đã đóng góp rất nhiều trong việc củng cố, trị sự và phát triển ngôi chùa Quảng Tế Phật Đường. Ta có thể kể ra vài gia đình tiêu biểu như: gia đình ông Huỳnh Đăng Khoa và phu nhân là bà Trần Thanh Tùng (Ông bà Cố của bạn Trần Thị Nhung), rồi đến đời ông bà Phan Văn Tố (Ông bà ngoại của bạn Trần Thị Nhung), sau đó đến đời quý vị ái nữ của ông, trong đó có cô Chín Phan Thị Triệu (Dì Chín của bạn Trần Thị Nhung), từ đời ông bà cho đến đời sau, gia tộc của cô Chín Triệu đã không ngừng tham gia vào việc xây cất, chỉnh tu, và quản trị trong ngôi chùa Quảng Tế Phật Đường Hà Tiên, đó là một việc làm rất đáng được người dân Hà Tiên chúng ta khâm phục và ghi nhớ. Ngoài ra còn có gia đình của ông Đốc Hà Văn Điền (thân phụ của cô Ba Hà Thị Bích Thủy và cô giáo Hà Thị Hồng Loan), gia đình của Thầy Trần Văn Hương (Ông từng là Hiệu Trưởng Trường Tiểu Học Hà Tiên), gia đình ông Đốc Lý Văn Nhơn,…Những gia đình kỳ cựu ở Hà Tiên nầy đã có công góp sức và thời giờ rất nhiều trong công việc tạo dựng và quản trị ngôi chùa, mình nêu sự việc lên đây mong người Hà Tiên chúng ta luôn nhắc nhở và ghi nhớ để em cháu về sau còn biết được và theo gương sinh hoạt đó.

Đời ông Lâm Tấn Đức, hiền sĩ ở làng Mỹ Đức Hà Tiên, với các hoạt động cầu Tiên ở Thạch Động và ngay tại căn nhà của gia tộc họ Lâm của ông ở kế Đông Hồ, đã tạo điều kiện thuận tiện cho ngài Ngô văn Chiêu được tiếp xúc nhiều lần với Cao Đài Tiên Ông và sau đó tại chùa Quan Âm của gia tộc họ Huỳnh (tiền bối Huỳnh Đăng Khoa), ngài Ngô Văn Chiêu đã được thừa nhận là đệ tử đầu tiên của Cao Đài Tiên Ông và từ đó đạo được thành lập dù còn ở trong thời kỳ tiềm ẩn.

Ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác và người vợ sau cùng là nữ sĩ Mộng Tuyết là hai nhân vật đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của tiếng Việt và nền thơ mới thời mở đầu, hai người đã lưu lại rất nhiều tác phẩm thơ, văn, phú, truyện …gây nhiều tiếng vang trong làng văn những thập niên nửa đầu của thế kỷ 20.

Bài viết nầy sẽ không thể tiến gần đến sự hoàn chỉnh và tính chính xác nếu không được sự giúp đở quý giá của bạn Trần Thị Nhung, quý chị Trần Nguyệt Hồng, Trần Thị Tươi, tinh hoa và hậu duệ của hai gia tộc Huỳnh và Lâm (bạn Trần Thị Nhung gọi tiền bối Huỳnh Đăng Khoa là ông cố và bà Lâm Thị Đào Hoa là bà cố). Bạn Trần Thị Nhung đã hết lòng thông tin, tìm hiểu và trả lời rất nhiều thắc mắc của mình liên hệ đến nội dung bài viết vì nhu cầu muốn đạt đến tính chính xác của các thông tin trong bài. Xin bạn nhận ở đây lời cảm ơn chân thành của mình. Ngoài ra còn có sự ủng hộ và giúp đở rất nhiều về thông tin, tư liệu của cô Nguyễn Thị Thanh Hoa (cháu của nữ sĩ Mộng Tuyết) và người bạn học cùng lớp là Hà Mỹ Oanh. Cô Thanh Hoa và bạn Mỹ Oanh đã chịu khó trả lời nhiều thắc mắc và cung cấp hình ảnh, tư liệu về gia tộc họ Lâm cho mình, xin cám ơn rất nhiều cô Thanh Hoa và bạn Mỹ Oanh, hiện đang sinh sống tại quê nhà Hà Tiên.

Chú thích (của TVM):

(1): Phúc Kiến: (Fujian, Fukien) là một tỉnh của nước Trung Hoa, giáp với các tỉnh Chiết Giang, Giang Tây và Quảng Đông, nhìn ra phía Đông là biển và xa hơn là đảo Đài Loan. Thủ phủ của tỉnh Phúc Kiến là thành phố Phúc Châu.

(2): Ông Nguyễn Hiến Lê viết bài “Đất Hà Tiên với họ Mạc và họ Lâm” vào năm 1971 và đăng thành hai kỳ trên tạp chí Bách Khoa số 340 và 341 (1 và 15 tháng ba năm 1971).

(3): Ông Ngô Văn Chiêu (1878 – 1932) là người đệ tử đầu tiên của Đức Cao Đài Tiên Ông. Trong thời gian làm việc tại Tòa Hành Chánh tỉnh Hà Tiên (tháng 3 năm 1920 đến tháng 10 năm 1920), ông giao du với quý nhân sĩ địa phương và thường tổ chức cầu Tiên. Sau đó ông thuyên chuyển ra quận Phúc Quốc (tháng 10 năm 1920 đến tháng 7 năm 1924) và cũng thường cầu Tiên ở ngôi chùa Quan Âm Phật Đường của Đạo Minh Sư. Chính tại Phú Quốc ông được Cao Đài Tiên Ông nhận làm đệ tử đầu tiên và dạy Đạo cho ông qua những buổi Tiên Ông giáng cơ. Ông có đạo hiệu là Minh Chiêu nên thường được biết với tên Ngô Minh Chiêu. Sau khi rời Phú Quốc về Sài Gòn làm việc, ông tiếp tục âm thầm học Đạo. Khi quý đệ tử họp lại khai đạo năm 1926, Đạo Cao Đài bắt đầu phát triển mạnh, tuy nhiên vì không cùng phương pháp tu tập, một bên là ra đời truyền đạo gọi là Công truyền, một bên là Tâm truyền, ông theo phương pháp Tâm truyền rất kín đáo, thu nhận chọn lọc đệ tử, từ chối chức Giáo Tông. Về sau pháp môn tu của ông trở thành một nhánh Đạo và có tên là Cao Đài Chiếu Minh.

(4): Đầu nửa trước thế kỷ 20, giới văn học gọi danh xưng “Hà Tiên Tứ Tuyệt” để chỉ nhóm gồm 4 người thi sĩ, nhà văn, nhà báo rất nổi tiếng cùng quê quán ở Hà Tiên, xếp theo thứ tự tuổi tác đó là: Đông Hồ – Lâm Tấn Phác (1906-1969), Trúc Hà – Trần Thiêm Thới (1909 – 1943 hay 1944?), Mộng Tuyết – Thái Thị Sửu (1914 – 2007) và Lư Khê – Trương Văn Em (1916 – 1950). Ngoài ra Trúc Hà còn có liên hệ gia đình với ông Đông Hồ, Trúc Hà là cháu gọi Đông Hồ là cậu. Cả hai người đều được người bác Lâm Tấn Đức nuôi khi còn nhỏ tuổi.

(5) : Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý là một trong nhiều chi phái của Đạo Cao Đài và có Thánh Tòa Ngọc Kinh đặt tại Thánh thất Mông Thọ tỉnh Kiên Giang do quý Ngài Trương Minh Tòng và Tô Bửu Tài lập ra năm 1936. Ngài Tô Bửu Tài được thiên phong Ngọc Đầu Sư Chưởng Quản Hội Thánh Bạch Y.

(6) : Trong những năm 60-70, ở ngay vị trí nầy là tiệm cơm Xuân Thạnh và tiệm hình phong cảnh HATIEN PHOTO của gia đình ông Quách Ngọc Bá. Không còn tìm thấy dấu tích của căn nhà ông bà Huỳnh Đăng Khoa.

(7) : Nhân đây xin xác định một chi tiết mà qua vài tài liệu, các tác giả thường lẫn lộn giữa hai tên họ : Huỳnh Đăng Khoa là tên chánh thức trên giấy tờ ngoài đời sống và Huỳnh Kim Chung là đạo hiệu (như là pháp danh) được ban cho tiền bối Huỳnh Đăng Khoa khi tu theo đạo pháp Minh Sư Phật Đường. Trong các biên bản về nhà đất ở làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên do Hội đồng thuộc địa Pháp thiết lập và còn lưu trử hiện nay trong thư viện số nước Pháp, còn ghi lại nhiều tên họ các vị tiền bối ở Hà Tiên ngày xưa như : Lâm Quang Huy, Lâm Tấn Đức, Huỳnh Đăng Khoa,… Điều nầy chứng tỏ rõ ràng Huỳnh Đăng Khoa chính là tên về mặt hành chánh của ông.

(8) : Phan Văn Tố là tên chánh thức trong giấy tờ của ông, vì thân phụ ông tên là Phan Kim Chung, có chữ lót là « Kim » nên trong nhiều tài liệu có liên quan đến tên ông, người ta thường hiểu lầm và ghi là Phan Kim Tố, trên bia mộ của ông ở vùng Bãi Nò Hà Tiên có ghi rõ : Phan Văn Tố, sinh năm 1897 (Hà Tiên), từ trần 24-07-1976 D.L (28-06-Â.L. Bính Thìn) tại Hà Tiên. Lập mộ tháng 07-1976.

Tài liệu tham khảo :

1/ Bát Quái Đồ Thiên xưa và nay, ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo. Nhà xuất bản TÔN GIÁO, Hà Nội, 2013.

2/ Cuộc đời đạo đức của ngài Ngô Văn Chiêu, ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ THÁNH ĐỨC TỔ ĐÌNH – CHIẾU MINH TAM THANH VÔ VI CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO. Nhà xuất bản TÔN GIÁO, 2021.

3/ Lược sử Đạo Cao Đài thời tiềm ẩn 1920 – 1926, Huệ Khải. Nhà xuất bản Hồng Đức.

4/ NGÔ VĂN CHIÊU NGƯỜI MÔN ĐỆ CAO ĐÀI ĐẦU TIÊN, Huệ Khải (Dũ Lan LÊ ANH DŨNG). NXB TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN – 2008.

5/ Ngô Văn Chiêu & Gia tộc Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Lê Anh Dũng. Tạp chí Xưa và Nay, số 308, ra tháng 5 năm 2008, trang 30.

6/ Cochinchine. Conseil colonial. Auteur du texte. Procès-verbaux du Conseil colonial : session… / Cochinchine française. 1910. Source gallica.bnf.fr / Bibliothèque nationale de France


Paris, Trần Văn Mãnh viết xong ngày thứ bảy 14 tháng 6 năm 2025.

Cụ Lâm Tấn Đức, hiệu Hữu Lân, bác của ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác. Nguồn hình: Huệ Nhẫn. Nguyễn Thị Thanh Hoa, Hà Mỹ Oanh.

Ngôi nhà Ông Lâm Tấn Đức (anh của ông Lâm Tấn Thoại cha của Thi Sĩ Đông Hồ) ở tại đường Đông Hồ, mé sông Đông Hồ, Hà Tiên. Theo tài liệu của học giả Trương Minh Đạt, tấm hình trên được chụp ngày 13/03/1940. (hình do Huệ Nhẫn Võ Thành Châu sưu tầm).

Nhà giáo, nhà văn, nhà báo, thi sĩ Đông Hồ Lâm Tấn Phác qua các giai đoạn thời gian. Nguồn: Tạp chí Bách Khoa và ThuyTrang

Hai người con gái của ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác. Trái: Bà Lâm Mỹ Tuyên, phải: Bà Lâm Mỹ Diễm. Nguồn hình: Nhà lưu niệm Đông Hồ, Hà Tiên, Nguyễn Thị Thanh Hoa, Hà Mỹ Oanh.

Chân dung ông Nguyễn Thư Lâm, cháu ngoại ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác. Nguồn hình: Nhà lưu niệm Đông Hồ, Hà Tiên, Nguyễn Thị Thanh Hoa, Hà Mỹ Oanh.

Chân dung tiền bối Ngô Văn Chiêu, người đệ tử đầu tiên của Cao Đài Tiên Ông. Thiên Nhãn ban sơ do ngài Ngô Văn Chiêu truyền lại. Theo bà nữ sĩ Mộng Tuyết, hình nầy do ông Đốc Lý Văn Nhơn vẽ. Nguồn hình: Sách Bát Quái Đồ Thiên (2013) và sách Lược Sử Đạo Cao Đài thời tiềm ẩn 1920 – 1926, Huệ Khải.

Tiền bối Huỳnh Đăng Khoa. Bia đá kỷ niệm chữ viết của Ngài Ngô Văn Chiêu trước Quan Âm Tự (ở Dương Đông, Phú Quốc). Nguồn hình: Sách Bát Quái Đồ Thiên (2013) và sách Cuộc Đời Đạo Đức của ngài Ngô Văn Chiêu (2021).

Trái: Ngài Ngô Văn Chiêu thăm Thạch Động, Hà Tiên (thời gian 1920). Phải: Ngôi mộ của ông Lâm Tấn Đức ở núi Tô Châu, Hà Tiên. Nguồn hình: Sách Cuộc Đời Đạo Đức của ngài Ngô Văn Chiêu (2021) và sách Bát Quái Đồ Thiên (2013)

Trái: Ngôi chùa Quảng Tế Phật Đường ở Hà Tiên. Phải: Di ảnh ông Đốc Lý Văn Nhơn, anh rể của ông Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Hình thờ tại chùa Phật Đường Hà Tiên. Nguồn hình: Therese Trần Thị Nhung.

Bia mộ ông ký Phan Văn Tố ở khu mộ gia tộc ngoài Bãi Nò, Hà Tiên. Nguồn hình: Therese Trần Thị Nhung.

Từ trái qua phải: Thân mẫu của bạn Therese Trần Thị Nhung, cô Ba Hà Thị Bích Thủy, cô Chín Phan Thị Triệu và Thầy Trần Văn Hương. Hình: Therese Trần Thị Nhung, 1991.

Bình luận về bài viết này