Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử (Bài 10)

NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Joseph Cummins

 Trần Quang Nghĩa dịch

 18  NỘI CHIẾN HOA KỲ  1861-1865

MỘT SỰ KIỆN ĐÃ THAY ĐỔI LỊCH SỬ HOA KỲ, CUỘC NỘI CHIẾN TRẢ GIÁ 600.000 SINH MẠNG VÀ BIẾN ĐẤT NƯỚC TỪ MỘT TẬP HỢP CÁC TIỂU BANG THÀNH MỘT QUỐC GIA, NHƯNG VẪN ĐỂ LẠI NHỮNG VẾT SẸO LÂU DÀI

TỔNG QUAN: BỐN NĂM CHIẾN TRANH ĐỔ MÁU ĐỂ CỨU LIÊN BANG ĐÃ BIẾN NƯỚC MỸ TRỞ THÀNH MỘT QUỐC GIA

Sự kiện kích động Nội chiến Hoa Kỳ là cuộc bầu cử, vào tháng 11 năm 1860, bầu Abraham Lincoln làm tổng thống. Lincoln là một đảng viên Cộng hòa chống chế độ nô lệ, điều này báo trước những rắc rối cho các tiểu bang miền Nam của Hoa Kỳ. Trong nhiều năm, các tiểu bang miền Nam đã bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh mà họ coi là sống còn với các đối tác của họ ở miền Bắc về đạo đức và tính hợp pháp của chế độ nô lệ. Có khoảng 4.000.000 nô lệ da màu ở miền Nam vào đầu Nội chiến, và họ cần sử dụng nô lệ để canh tác các loại cây bông vải và thuốc lá, là động lực thúc đẩy nền kinh tế miền Nam.

Mỗi khi một tiểu bang miền Tây mới được gia nhập vào Liên bang, miền Nam muốn đó là một tiểu bang theo chế độ nô lệ, trong khi miền Bắc muốn nó được tự do. Các tiểu bang miền Bắc đông dân hơn, công nghiệp hóa hơn được đại diện tốt hơn tại Hạ viện, nơi đại diện phụ thuộc vào dân số. Miền Nam, lo sợ rằng miền Bắc sẽ giành được đủ quyền lực để xóa bỏ chế độ nô lệ, đã tìm cách để các tiểu bang mới trở thành tiểu bang theo chế độ nô lệ để ít nhất là duy trì sự cân bằng quyền lực tại Thượng viện Hoa Kỳ.

Nhưng cuộc bầu cử của Lincoln đã biến điều này thành vô vọng, vì ông đã tuyên bố trong chiến dịch tranh cử của mình rằng ông sẽ phản đối mạnh mẽ bất kỳ tiểu bang nô lệ nào khác. Trong vòng vài tháng, 11 tiểu bang, bắt đầu từ Nam Carolina, đã ly khai và thành lập Liên minh miền Nam Hoa Kỳ, với tổng thống là Jefferson Davis và vị tướng lãnh đạo sẽ là Robert E. Lee.

Phát súng đầu tiên của Nội chiến nổ ra vào ngày 12 tháng 4 năm 1861, khi một khẩu súng cối của Liên minh miền Nam bắn một quả đạn pháo vào Đồn Sumter, pháo đài của Liên bang miền Bắc tại cảng Charleston, Nam Carolina. Trong vòng vài ngày, Sumter buộc phải đầu hàng, và miền Bắc và miền Nam đã có chiến tranh.

Ngay từ đầu, có vẻ như miền Bắc nắm giữ lợi thế. Có 22 tiểu bang thuộc  Liên bang so với 11 tiểu bang thuộc Liên minh miền Nam. Miền Bắc đông dân hơn nhiều, có 22 triệu người so với 9 triệu người miền Nam (trong đó có 4 triệu là nô lệ). Ngoài ra, miền Bắc sở hữu nhiều ngành công nghiệp nặng hơn miền Nam.

Tuy nhiên, lợi thế không hoàn toàn thuộc về phía Liên bang. Hầu hết các sĩ quan quân đội chính quy của Hoa Kỳ, những người tốt nghiệp West Point đã tham gia trong Chiến tranh Mexico, đã chọn phe miền Nam. Các tướng lĩnh miền Bắc là những người được bổ nhiệm theo xu hướng chính trị. Miền Nam ban đầu đã áp dụng hệ thống nghĩa vụ quân sự, trong khi miền Bắc, trong hai năm đầu của cuộc chiến, phụ thuộc vào một đội quân tình nguyện. Quan trọng hơn, miền Nam không cần phải xâm lược và chinh phục lãnh thổ miền Bắc để giành chiến thắng trong cuộc chiến. Họ chỉ cần giữ vững lập trường và giành đủ thắng lợi lớn để thuyết phục miền Bắc xin hòa giải và cho phép Liên minh miền Nam ly khai và trở thành một quốc gia riêng biệt.

Vào đầu cuộc chiến, Lincoln ngay lập tức phong tỏa các cảng miền Nam, bước đầu tiên trong “Kế hoạch Anaconda” nhằm ép Liên minh miền Nam phải khuất phục, bao gồm việc mở cửa Sông Mississippi cho lực lượng Liên bang và chiếm thủ phủ Richmond, Virginia của miền Nam. Lúc đầu, quân đội Liên minh miền Nam dưới quyền Robert E. Lee đã thành công ở chiến trường phía đông, đánh bại Liên minh miền Bắc tại Trận Bull Run (còn được gọi là Trận Manassas lần thứ nhất theo tên thị trấn gần nơi diễn ra trận đánh) ở Virginia vào tháng 7 năm 1861.

Tuy nhiên, vào đầu năm 1862, một thiếu tướng Liên bang tương đối vô danh tên là Ulysses S. Grant đã chiếm được Pháo đài Henry và Pháo đài Donelson trên Sông Tennessee, làm tê liệt nghiêm trọng quân Liên minh miền Nam tại chiến trường phía tây. Vào mùa xuân năm đó, chỉ huy mới  Quân đoàn Potomac của Lincoln, Tướng George McClellan, đã phát động chiến dịch trên bán đảo Virginia mong chiếm Richmond, nhưng, di chuyển quá chậm và bị cản trở bởi chiến dịch của Stonewall Jackson tại Thung lũng Shenandoah, ông đã bị lực lượng Liên minh miền Nam đánh bại nặng nề trong Trận chiến Bảy Ngày và buộc phải quay trở lại Washington.

Trong khi đó, Grant đã chiến đấu với Liên minh miền Nam và hòa trong Trận Shiloh đẫm máu, ở Tennessee. Trận chiến đó đã thuyết phục cả hai bên rằng cuộc chiến này sẽ không giống bất kỳ cuộc chiến nào khác cho đến nay. Điểm sáng duy nhất của Liên minh là việc Đô đốc David Farragut chiếm được New Orleans vào mùa xuân và thực tế là George McClellan đã có thể ngăn chặn được cuộc tiến công về phía bắc của Lee trong trận chiến được Bắc quân gọi là Antietam (vì có một dòng suối ở giữa chiến trường) và được Nam quân gọi là Sharpsburg (lmột ngôi làng gần đó) vào tháng 9 năm 1862.

Tuy nhiên, McClellan đã không tiến lên để giành   chiến thắng, và Lincoln đã cách chức ông ta. Trong 12 tháng tiếp theo, Lincoln sẽ bổ nhiệm 5 vị tướng khác nhau làm người đứng đầu Quân đoàn Potomac, tìm kiếm một người đủ mạnh mẽ để đánh bại Lee. Vào cuối tháng 12 năm 1862, Quân đội Liên bang dưới quyền Tướng Ambrose Burnside đã phải chịu một thất bại thảm hại tại Fredericksburg, Virginia. Người kế nhiệm ông, Tướng Joseph Hooker, đã bị Lee đánh bại một cách quyết định tại Chancellorsville, Virginia, vào tháng 5 năm 1863, mặc dù Stonewall Jackson đã tử trận, đây là một đòn giáng mạnh vào miền Nam.

ABRAHAM LINCOLN nổi tiếng tại trận GETTYSBURG, tại đây ông muốn tạo ra một quốc gia “CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN”, nhưng ông sẽ không sống để chứng kiến ​​ước mơ của mình thành hiện thực.

BẢN ĐỒ THẾ KỶ XIX NÀY MÔ TẢ CÁC BANG THEO  CHẾ ĐỘ NÔNG NÔ (màu đỏ) Ở MIỀN NAM VÀ CÁC BANG TỰ DO Ở MIỀN BẮC (màu xanh lá cây nhạt, xanh lá cây đậm là vùng chiến sự)

Lincoln bổ nhiệm Tướng George Gordon Meade làm tổng tư lệnh mới của mình. Cuối cùng, Meade đã có thể đánh bại Lee một cách quyết định trong Trận Gettysburg, Pennsylvania, vào tháng 7. Cùng lúc đó, Tướng Ulysses S. Grant, lúc này là chỉ huy của lực lượng Liên bang ở phía tây đã chiếm được pháo đài quan trọng của Liên minh miền Nam là Vicksburg, trên sông Mississippi. Việc Grant tiếp tục tiêu diệt lực lượng Liên minh miền Nam tại Chattanooga, Tennessee, có nghĩa là Liên minh miền Nam hiện đang bị dồn vào chân tường.

Năm 1864, Lincoln bổ nhiệm Grant làm chỉ huy của toàn bộ lực lượng Liên bang. Lực lượng Liên bang tăng lên do chế độ nghĩa vụ quân sự, và sức mạnh công nghiệp khổng lồ của họ cung cấp đạn dược và vật tư vô tận. Grant lúc này đã tiến hành một cuộc chiến tranh tiêu hao tàn khốc chống lại miền Nam bị suy yếu do tình trạng thiếu hụt nhân lực không thể thay thế và sự phong tỏa hiệu quả của Liên bang. Khi Grant tiến về Virginia, các trận chiến lớn đã diễn ra vào tháng 5 và tháng 6 tại Wilderness, Spotsylvania Courthouse và Cold Harbor, và đến tháng 6 năm 1864, quân Liên bang đã bao vây Petersburg, gần Richmond.

Trong khi đó, Tướng William Tecumseh Sherman, lúc này là chỉ huy của lực lượng Liên bang ở phía tây, đã được cử đi tấn công nhà ga đường sắt chính và thành phố tiếp tế Atlanta, Georgia. Ông đã đạt được mục tiêu này vào tháng 9, và sau đó ông đã mở một chiến dịch hành quân nổi tiếng qua miền Nam đến bờ biển Savannah, Georgia, để lại phía sau một con đường chết chóc và tàn phá dài 300 dặm (485 km) và rộng 60 dặm (95 km).

Vào tháng 3 năm 1865, quân đội của Lee bị đánh bại tại Petersburg, và Richmond thất thủ ngay sau đó. Lee đầu hàng quân đội của mình trước Grant tại Tòa án Appomattox ở Virginia vào ngày 9 tháng 4. Lực lượng lớn cuối cùng của Liên minh miền Nam, lực lượng Tướng Joseph E. Johnston, đầu hàng Sherman gần Durham, Bắc Carolina, vào ngày 18 tháng 4.

Nhưng Lincoln đã bị ám sát bởi một người miền Nam quá khích John Wilkes Booth tại Washington, D.C., vào ngày 14 tháng 4, khiến đất nước bị chiến tranh tàn phá này có một tương lai bất định. Sau một thời kỳ Tái thiết đầy tham nhũng và có tính trả thù nhiều hơn là chữa lành, miền Nam sẽ mất ít nhất một thế kỷ  mới có thể hoàn toàn tái gia nhập Liên bang. Những vết sẹo của chiến tranh, đặc biệt là về mặt phân biệt chủng tộc và tâm thức “xa cách” của miền Nam, vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

TRONG BA NGÀY THÁNG 7, MIỀN NAM BỊ CHẶN ĐỨNG – VÀ MỘT NGÔI LÀNG PENSYLVANIA ĐÃ TRỞ THÀNH BẤT TỬ

Trận chiến Gettysburg: Tháng 7 năm 1863

Vào tháng 6 năm 1863, những người lính tinh nhuệ nhất trên lục địa Bắc Mỹ – hoặc họ tự nhận mình như vậy – bắt đầu đổ về những cánh đồng xanh tươi và yên bình ở miền nam-trung Pennsylvania. Họ thuộc Quân đoàn Bắc Virginia, gồm 75.000 quân Liên minh miền Nam, và họ đã hành quân về phía tây và phía bắc từ Virginia, qua Maryland, và thấy chính mình đang ở trong vùng đất giàu có của kẻ thù.

Tướng của họ, Robert E. Lee, đã cấm cướp bóc, nhưng những người lính này đói và họ cần đồ tiếp tế. Vì vậy, họ lấy những gì họ có thể – thức ăn, quần áo, ngựa và thậm chí cả tiền mà họ “trưng dụng” từ các ngân hàng và cửa hàng – để lại các giấy nợ của Liên minh miền Nam. Khi một phụ nữ nông dân phàn nàn sau khi gia súc bị đánh cắp, Tướng James Longstreet lịch sự nói với bà: “Vâng, thưa bà, thật đáng buồn, rất đáng buồn, và những chuyện như thế này đã xảy ra ở Virginia hơn hai năm nay, rất đáng buồn.”

Nhìn lại, nhiều binh lính Liên minh miền Nam đã coi tháng 6 dễ chịu này – những ngày dường như vô tận có thời tiết đẹp, ấm áp và sữa bơ Yankee (người Bắc) béo ngậy – như một giấc mơ bình dị. Trên thực tế, những binh lính nổi loạn dưới quyền một chỉ huy sư đoàn của Lee, A.P. Hill, cảm thấy vô cùng tự tin khi họ tiến đến một thị trấn ngã tư nhỏ có tên là Gettysburg. Họ đã tiêu diệt quân Liên bang tại Fredericksburg, Virginia, vào tháng 12 trước đó và đánh bại họ tại Chancellorsville, Virginia, chỉ một tháng trước đó. Bây giờ họ đang tiến về phía bắc để mang cuộc chiến đến với kẻ thù đáng ghét và giành độc lập cho các tiểu bang miền Nam.

Nhưng trước tiên họ sẽ dừng lại ở Gettysburg. Có một nhà máy sản xuất giày ở đó, và một thứ mà người của A.P. Hill cần là da giày tốt.

Bọn Người Đó”

Chiến tranh không thể tách rời khỏi chính trị, và khi Lee cùng quân lính của mình tiến về phía bắc vào cuối mùa xuân năm đó, ông đã có những mục tiêu chính trị to lớn trong đầu. Lee rất muốn gây ấn tượng với đảng hòa bình miền Bắc, Copperheads, bằng thiện chí của mình đến nỗi ông đã ra lệnh cho binh lính không được làm hại dân thường hoặc cướp bóc tài sản của họ.

Quan trọng hơn, Lee muốn tiêu diệt Quân đoàn Potomac dưới quyền Joseph Hooker, người mà ông đã đánh bại dễ dàng tại Chancellorsville. Hooker giờ đây đang chậm trễ theo sau Quân đội Bắc Virginia khi nó tiến vào lãnh thổ Liên bang. Một khi Lee đánh bại Quân đoàn Potomac, ông chắc chắn rằng các nước ngoài như Anh và Pháp sẽ công nhận Liên minh miền Nam và Washington sẽ xin cầu hòa.

Đây là những mục tiêu chính trị tốt đẹp, nhưng một vị tướng vĩ đại như Lee lại cho phép mình quên rằng việc đổ máu để đạt được mục đích chính trị là một vấn đề không thể đoán trước. Lee có thể đã tin vào sự bất khả chiến bại của quân đội mình và rằng “bọn người đó”, như Lee gọi binh lính Yankee miền Bắc, sẽ quay đầu bỏ chạy, như họ đã từng làm trước đây. Nhưng lực lượng của Lee không phải là không có điểm yếu. Tướng chỉ huy táo bạo và hung hăng nhất của ông, Stonewall Jackson, đã bị giết chết bởi hỏa lực của phe mình vào tháng 5 tại Chancellorsville sau khi về cơ bản đã giành chiến thắng trong trận chiến đó cho Lee. Và mắt và tai của Lee, kỵ binh của Jeb Stuart, giờ không ở bên ông. Stuart đã lợi dụng lệnh của Lee để thực hiện một cuộc tránh né điên cuồng xung quanh toàn bộ Quân đoàn Liên bang của Hooker.

Vì vậy, khi Lee hành quân về phía bắc, ông không biết Quân đoàn Potomac đang ở đâu, cũng không biết rằng, vào ngày 28 tháng 6, Lincoln đã thay thế Hooker bằng Tướng George Gordon Meade, một sĩ quan Liên bang đã từng bước thăng tiến trong hàng ngũ bằng các chiến tích xuất sắc. Meade quyết tâm ngăn chặn Lee và – với lực lượng kỵ binh của mình – nhanh chóng phát hiện ra rằng Liên minh miền Nam đã tiến vào Pennsylvania.

Meade đã khẩn trương di chuyển quân đoàn 90.000 người của mình về phía bắc từ Maryland, tại đó họ  đóng quân, để đối đầu với Liên minh miền Nam.

Lee đã chia nhỏ lực lượng của mình để đạt được mục tiêu ở Pennsylvania, bao gồm chiếm thủ phủ Harrisburg của tiểu bang và phá hủy các cây cầu đường sắt quan trọng. Nhưng khi Lee cuối cùng nhận được tin về quân của Meade đang tiến đến, ông đã ra lệnh cho tất cả các chỉ huy của mình đưa lực lượng của họ đến Gettysburg. Điều này không phải vì Lee muốn chiến đấu ở đó, mà đơn giản là vì thị trấn này là trung tâm của nhiều xa lộ.

Trận chiến bắt đầu

Nhưng khi quân của A.P Hill đến Gettysburg vào sáng ngày 1 tháng 7, họ không quan tâm đến chiến lược lớn hơn này. Họ muốn giày, và họ nghĩ rằng họ sẽ có được giày mới trước khi phần còn lại của quân đội Liên minh miền Nam xuất hiện. Nhưng thay vì một vài dân quân Liên bang mà họ mong đợi, họ thấy hai lữ đoàn kỵ binh Liên bang dưới quyền John Buford, người đã cưỡi ngựa vào thị trấn vào ngày hôm trước đi trước lực lượng Liên bang. Buford được công nhận là một trong những anh hùng Liên bang của trận chiến, những người hành động độc lập, nhìn thấy cơ hội và nắm bắt chúng. Ông nhận ra rằng những ngọn đồi và dãy núi gần Gettysburg là những điểm phòng thủ quan trọng và ông quyết tâm giữ chúng.

TRẬN ANTIETAM 1862 ĐÃ DIỄN RA MỘT KẾT QUẢ HÒA ĐỔ MÁU. GIỮ CHÂN LEE TIẾN VỀ PHÍA BẮC, NHƯNG MẤT 22.000 NGƯỜI Ở CẢ HAI BÊN.

TRẬN GETTYSBURG, GÂY RA TỔN THẤT NẶNG CHO CẢ HAI BÊN, LÀ MỘT THẢM BẠI QUYẾT ĐỊNH CHO LIÊN MINH MIỀN NAM VÀ ĐÃ THAY ĐỔI CỤC DIỆN  CỦA CUỘC NỘI CHIẾN.

Và thế là Buford xuống ngựa và bố trí quân lính của mình trên vùng đất cao phía tây bắc Gettysburg. Khi binh lính của A.P. Hill xuất hiện, quân Buford đã chiến đấu, giữ chân họ trong hai giờ cho đến khi một lữ đoàn bộ binh Liên bang xuất hiện để tăng viện cho họ. Cuộc giao tranh dữ dội đã bắt đầu trở thành một trận chiến thực sự, khi cả hai bên đều cử người đưa tin để tung thêm quân.

Đến chiều ngày 1 tháng 7, 24.000 quân Liên minh miền Nam đã chiến đấu với 19.000 quân Yankee dọc theo các dãy núi phía tây bắc thị trấn. Lee nhận ra rằng ông đã áp đảo được quân địch và có thể phá vỡ được phòng tuyến của chúng. Ông đã phát động một cuộc tấn công của Liên minh miền Nam khiến sườn phải của quân Yankee bị vỡ và cuối cùng buộc phòng tuyến của chúng phải sụp đổ. Lực lượng Liên bang rút lui qua thị trấn Gettysburg đến Đồi Nghĩa trang, ở phía nam.

Tuy nhiên, trận chiến vẫn chưa kết thúc. Lee biết rằng Quân đoàn Potomac gần như chắc chắn sẽ di chuyển nhanh đến Gettysburg. Ông cần chiếm được vùng đất cao trên Gò  Nghĩa trang trước khi kẻ thù có thể đào hầm ở đó với lực lượng mạnh. Vào chiều ngày 1 tháng 7, Lee ra lệnh cho Tướng Richard Ewell, chỉ huy của Lữ đoàn Quân 2 và người thay thế Stonewall Jackson, tấn công Đồi Nghĩa trang “nếu có thể.” Do đó, đây là một lệnh tùy ý, và Ewell cho rằng kẻ thù đã củng cố quá vững chắc và do đó đã từ chối. Mặc dù Ewell là một chỉ huy có năng lực, nhưng ông ta thiếu sự nhạy bén và tính hung hăng của Jackson. Nhưng nếu Ewell tấn công vào buổi chiều hôm đó, ông ta gần như chắc chắn sẽ phá vỡ được phòng tuyến của Liên bang.

Kẻ thù đang ở đó”

Đêm đó, Meade và phần còn lại của lực lượng Liên bang đã xuất hiện và xây dựng một tuyến công sự phòng thủ dài vài dặm. Phòng tuyến Liên bang kéo dài qua Đồi Nghĩa trang và Gò Nghĩa trang, cho đến tận một ngọn đồi có tên là Chóp Tròn Nhỏ

Vào sáng ngày 2 tháng 7, Longstreet và Lee đã khảo sát các tuyến phòng thủ này và sau đó hai người có các ý kiến tranh chấp đầu tiên, nhưng không phải là cuối cùng, vềh trận chiến. Longstreet cảm thấy rằng phòng tuyến của Liên bang hiện đã quá mạnh để tấn công. Ông muốn Lee đánh vào sườn quân Yankee ở phía nam và chiếm giữ các vị trí phòng thủ. Điều này sẽ đặt toàn bộ Quân đoàn Bắc Virginia giữa Washington, D.C. và Gettysburg, điều này chắc chắn sẽ khiến quân Yankee phải rời khỏi các vị trí phòng thủ của họ và tấn công. Một khi họ làm vậy, quân Liên minh miền Nam sẽ cắt họ thành từng mảnh.

Lee không muốn điều này. Ông nghĩ rằng việc phòng thủ sẽ khiến quân lính của mình, rõ ràng đang muốn  tấn công kẻ thù, sẽ mất đi khí thế. Lee chỉ vào Gò Nghĩa trang và nói với Longstreet, “Kẻ thù ở đó, và tôi sẽ tấn công hắn ở đó.”

Longstreet trả lời, “Nếu anh ta ở đó, thì đó là vì anh ta nóng lòng muốn chúng ta tấn công anh ta; theo tôi, đó là lý do chính đáng để không làm như vậy.”

Nhưng Lee đã bác bỏ điều này và ra lệnh cho Longstreet tấn công. Bực bội vì bị phản kháng, Longstreet mất gần cả ngày để chuẩn bị lực lượng, vì vậy cuộc tấn công không thể bắt đầu cho đến 4 giờ chiều. Longstreet đã cử 15.000 binh lính dày dạn kinh nghiệm của mình hét lên tiếng hô xung phong xông thẳng về phía phòng tuyến của Liên bang. Cuộc chiến diễn ra ác liệt, tại những cứ điểm đã trở nên nổi tiếng trong lịch sử Hoa Kỳ như Vườn đào, Cánh đồng lúa mì và một đống đá lớn được người dân thị trấn địa phương gọi là Hang ổ của Quỷ.

Mặc dù cuộc tấn công diễn ra muộn, Liên minh miền Nam vẫn tìm thấy cơ hội phi thường. Không thể giải thích được, Liên minh đã bỏ qua việc chiếm Chóp Tròn Nhỏ, ngọn đồi neo giữ sườn phía nam của tuyến phòng thủ của họ. Nếu quân của Longstreet có thể đến được đó, họ sẽ có thể bắn xuống quân Yankee và gửi một lực lượng đánh vào phía sau Liên minh miền Bắc.

Quân miền Nam nhận ra điều này và chạy đua đến ngọn đồi. Cùng lúc đó, một sĩ quan công binh Liên bang là Tướng Gouverneur K. Warren cũng nhìn thấy vấn đề. Phi nước đại đến lữ đoàn Liên bang gần nhất, ông thuyết phục các sĩ quan của lữ đoàn này cử người xông lên phía bên kia của Chóp Tròn Nhỏ. Họ lên đến đỉnh ngay trước khi quân Liên minh miền Nam kịp đến, và một trận chiến ác liệt đã xảy ra. Trong hơn hai giờ, trên sườn đồi phủ đầy đá và cây cối và bị cắt bởi các khe núi, một trung đoàn Alabama và một trung đoàn Maine đã giao chiến dữ dội.

Chỉ huy trung đoàn Maine là một anh hùng Liên bang khác của trận Gettysburg, Đại tá Joshua L. Chamberlain, cựu giáo sư khoa tu từ học tại Cao đẳng Bowdoin. Khi hoàng hôn buông xuống, Chamberlain phát hiện ra một phần ba quân lính của mình đã bị thương vong và số còn lại đang nhanh chóng hết đạn. Xuống đồi, qua làn khói súng bay lơ lửng và tiếng rên rỉ của những thương binh nằm rải rác trên sườn dốc, Chamberlain có thể thấy quân Alabama đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công khác.

Và thế là Chamberlain đã đưa ra một trong những quyết định quan trọng nhất của cuộc chiến: Ông ra lệnh cho quân lính của mình lắp lưỡi lê và xung phong. Khi chạy xuống đồi trong cơn điên cuồng, quân Maine đã bất ngờ tấn công quân Liên minh miền Nam, phá tan đợt xung phong của họ và buộc hầu hết quân Liên minh phải đầu hàng. Chóp Tròn Nhỏ đã được cứu vì quân Liên bang lần này đã hành động không giống như quân Liên bằng mà quân miền Nam từng biết: Họ đã từ chối đầu hàng.

“Cuộc thảm sát vô vọng”

Các cuộc tấn công của Liên minh miền Nam vào tuyến Liên bang vào ngày 2 tháng 7 đã được phối hợp kém, và chúng đã không thọc sâu được vào phòng tuyến kẻ thù. Vào cuối buổi tối hôm đó, khi cả hai bên đều đang liếm láp vết thương (18.000 quân miền Nam và miền Bắc đã chết hoặc bị thương vào ngày hôm đó), Lee đã triệu tập một cuộc họp với các sĩ quan của mình. Họ rất ngạc nhiên, khi Lee nói với họ rằng ý định của ông là tấn công vào trung tâm phòng tuyến của Meade vào ngày hôm sau. Lee tin rằng chỉ huy Liên bang miền Bắc đã làm suy yếu trung tâm của mình khiến hai bên sườn của ông ta còn đủ mạnh để đương đầu với các cuộc tấn công của Liên minh miền Nam.

Các sĩ quan miền Nam khác, đặc biệt là Longstreet, không thấy logic trong việc này, và họ đã phản đối, nhưng vô ích. Có lẽ đã suy yếu vì một cơn tiêu chảy mà ông đang mắc phải hoặc thiếu thông tin tình báo mà Jeb Stuart (lính của ông ta chỉ vừa mới về doanh trại, vô cùng mệt mỏi sau chuyến đi ngựa đường dài) có thể đã cung cấp, Lee vẫn quyết tâm thúc đẩy trận chiến này để đạt được mục tiêu của mình.

Một lần nữa, Longstreet phải chuẩn bị cho cuộc tấn công này, và một lần nữa, ông lại chần chừ. “Trái tim tôi nặng trĩu,” sau này ông viết, “Tôi có thể thấy bản chất tuyệt vọng và vô ích của cuộc xung phong và cuộc tàn sát vô vọng mà nó sẽ gây ra.” Nhưng vào lúc 1 giờ chiều, Longstreet ra lệnh cho các khẩu pháo của Liên minh miền Nam khai hỏa dữ dội vào các phòng tuyến của Liên bang, đây là cuộc pháo kích lớn nhất của quân miền Nam trong cuộc chiến.

Sau hai giờ, cuộc tấn công được gọi là Trận Xung kích của Pickett, theo tên của Tướng George Pickett, người chỉ huy một sư đoàn Virginia trong cuộc tấn công, bắt đầu. Chín lữ đoàn Liên minh miền Nam tham gia – với các tướng Pickett, Isaac Trimble và James Johnston Pettigrew. Các lữ đoàn xếp hàng, cờ tung bay, trên một mặt trận dài 1 dặm (1,5 km) với ba phần tư dặm (1 km) cánh đồng thoai thoải trước mặt. Ở đằng xa, quân Yankee chờ đợi sau hàng rào đá và chướng ngại vật.

Theo lệnh của Pickett, quân miền Nam tiến lên. Những người có mặt ở cả hai bên đều kinh ngạc trước vẻ đẹp của cuộc xung phong, mà theo như nhà sử học James M. McPherson đã nói, có vẻ như “một bức tranh về chiến tranh”. Nhưng bức tranh đó không kéo dài được lâu. Đạn pháo của Liên minh miền Nam không gây hại đáng kể cho pháo binh Yankee. Và khi pháo binh Yankee có được tầm bắn, nó liền bùng nổ đáp trả, phá tan hàng ngũ hoàn hảo của quân xám. Rồi, khi quân miền Nam vừa xông tới vừa la hét về phía phòng tuyến của Yankee, quân Liên bang nổ súng từ khoảng cách 200 yard (185 m). Như Longstreet đã dự đoán, đó là một trận thảm sát, với binh lính bị thổi bay khỏi chỗ họ đang đứng. Các trung đoàn Liên bang lao ra khỏi vị trí của họ ở hai bên chiến trường để tấn công vào sườn quân Liên minh miền Nam bằng hỏa lực. Quân Liên minh bị mắc kẹt trong một vùng chết chóc, thậm chí khó có thể di chuyển mà không bị trúng đạn.

VÒNG HÀO QUANG BẤT KHẢ CHIẾN BẠI CỦA QUÂN ĐOÀN BẮC VIRGINIA ĐÃ TAN TÁC. LIÊN BANG ĐƯỢC TRAO NIỀM HY VỌNG MỚI.

Nửa giờ sau kể từ khi cuộc tấn công bắt đầu, 200 quân miền Nam, do Tướng Lewis Armistead chỉ huy, đã tiến qua phòng tuyến của Liên bang miền Bắc. Tất cả đều bị giết sạch trong vòng vài phút. Armistead chết khi tay đang đặt trên một khẩu pháo của Yankee – được cho là “mức nước cao nhất” trong nỗ lực của Liên minh miền Nam trong Nội chiến. Những binh lính miền Nam sống sót sau cuộc tấn công đã đổ về phòng tuyến của Liên minh. Trong số 14.000 quân miền Nam tấn công, chỉ có 7.000 người quay trở lại. Bản thân Lee đã gặp những người lính sống sót và nói với họ: “Tất cả là lỗi của tôi. Chính tôi là người đã để thua cuộc chiến này.”

Lee dự kiến ​​Meade sẽ tấn công vào ngày hôm sau, ngày 4 tháng 7, nhưng vị tướng mới và lực lượng Liên bang của ông đã kiệt sức và chỉ đuổi theo binh lính của Lee đang rút lui một cách chiếu lệ. Trời mưa như trút nước khi quân miền Nam rút lui, mang theo những người bị thương. Binh lính Nội chiến lưu ý trời thường mưa sau một trận chiến lớn, và họ đưa ra giả thuyết rằng có thể là do những đám mây bị nhiễu loạn bởi hỏa lực pháo binh.

Liên minh tổn thất 28.000 người tử trận, mất tích hoặc bị thương (tổn thất của Liên bang là 23.000 người), nhưng thực tế, họ đã mất nhiều hơn thế. Vầng hào quang bất khả chiến bại của Quân đoàn Bắc Virginia đã bị phá vỡ. Liên bang (cũng được khích lệ bởi chiến thắng lớn của Grant tại Vicksburg vào ngày 4 tháng 7) đã được tiếp thêm hy vọng.

Lee trở về Richmond, tại đó ông nộp đơn từ chức cho tổng thống miền Nam Jefferson Davis. “Không ai,” ông viết, “biết rõ hơn tôi về sự bất lực của tôi đối với nhiệm vụ của mình.” Davis từ chối chấp nhận điều này, và Lee tiếp tục chiến đấu. Lee đã thể hiện xuất sắc trong hai năm cuối của cuộc chiến, nhưng ông sẽ không bao giờ thấy mình một lần nữa có một đội quân bất bại sau lưng, tiến vào lãnh thổ của kẻ thù với chiến thắng trong tầm tay.

TƯỚNG ULYSSES S. GRANT: NGƯỜI ANH HÙNG DO THỜI THẾ TẠO RA ĐÃ LÀM THAY ĐỔI VẬN MẠNG CỦA LIÊN BANG

Ulysses S. Grant đã trải qua những chuyến đi tuyệt vọng trong cuộc đời mình, điều này có thể khiến nhân vật cùng tên với ông – chàng Ulysses anh hùng trong Odyssey – hẳn phải nản lòng. Cyclops (bọn khổng lồ một mắt, đối thủ của Ulysses) của Grant là toàn bộ quân đội Liên minh miền Nam, và Siren (Mỹ nhân cư với tiếng hát lung lạc Ulysses) của ông là tiếng gọi quyến rũ của rượu.

Grant sinh năm 1822 trong một cabin hai phòng ở Point Pleasant, Ohio, nơi cha ông điều hành một xưởng thuộc da. Tuổi thơ của Grant chủ yếu không có gì nổi bật ngoại trừ tình yêu dành cho ngựa, và ông là một kỵ sĩ tuyệt vời trong suốt cuộc đời mình. Tuy nhiên, ông đã xoay xở để đảm bảo được một chỗ ngồi tại Học viện Quân sự Hoa Kỳ ở West Point, nơi ông tốt nghiệp, ở hạng giữa lớp, vào năm 1843. Ông tiếp tục phục vụ một cách dũng cảm trong Chiến tranh Mexico-Mỹ năm 1846-1848, đây là nơi thử thách cho nhiều sĩ quan Liên bang và Liên minh tương lai. Trong cuộc chiến đó, Grant được thăng hàm đại úy.

Nhưng sau chiến tranh, Grant trở thành một sĩ quan hợp đồng, phục vụ tại các tiền đồn miền Tây hoang vắng và buồn tẻ, tại thời điểm đó, ông bắt đầu uống rượu rất nhiều. Grant rời quân đội vào năm 1854 và sau khi làm nông và người thu tiền, ông đã đưa vợ mình, Julia, và gia đình đang lớn dần của mình đến Galena, Illinois, nơi ông đến làm việc tại cửa hàng đồ da của gia đình với tư cách là trợ lý cho em trai mình.

Grant là một người thấp bé, thô lỗ và khá ít nói, đã phải chịu đựng cuộc sống như chốn lưu đày ở Galena.

Ông vẫn tiếp tục uống rượu (mặc dù bao nhiêu thì vẫn còn tranh cãi) và có lẽ đã mắc phải một dạng trầm cảm lâm sàng nào đó, khi  thấy mình, ở tuổi 38 tuổi vào năm 1860, vẫn còn lủi thủi làm việc trong cửa hàng gia đình. Nhưng khi Nội chiến nổ ra, vào thời điểm cần đến các sĩ quan Liên bang giàu kinh nghiệm, Grant đã sử dụng mối quan hệ mà ông đã tạo dựng được với Nghị sĩ Elihu Washburne của Illinois để trở thành một chuẩn tướng của Trung đoàn Illinois 21.

Vào tháng 2 năm 1862, được hỗ trợ bởi tàu chiến, Grant đã bắt đầu một chiến dịch đánh chiếm các pháo đài quan trọng của Liên minh miền Nam là Henry và Donelson, án ngữ sông Tennessee và Cumberland, các tuyến đường thủy chính của Liên minh. Vào thời điểm Liên bang không nhận được nhiều tin tốt lành nho nhỏ, Grant đã chiếm được các pháo đài, và ông trở nên nổi tiếng khi nói với chỉ huy Liên minh miền Nam của Pháo đài Donelson rằng: “Không có điều khoản nào ngoại trừ đầu hàng vô điều kiện và ngay lập tức là có thể được chấp nhận.”

Bất ngờ, chữ U.S. trong tên viết tắt của Grant có nghĩa là “Unconditional Surrender, Đầu hàng vô điều kiện”. Granı, sau khi bao vây và chiếm Vicksburg, đang trên đường trở thành vị tướng Liên bang hàng đầu của cuộc chiến. Ông là một chiến binh vào thời điểm Liên bang vô cùng cần đến những con người này. Ông không kết bạn được nhiều với tính cách thô lỗ của mình, và những câu chuyện về việc ông uống rượu rất nhiều, phần lớn trong số đó là bịa đặt. Có vẻ như Grant có thể không uống rượu trong thời gian dài, nhưng khi ông chạm vào rượu, ông lại say xỉn. May mắn thay, vợ ông, Julia, và Tham mưu trưởng John A. Rawlins đã có thể giữ ông tránh xa rượu hầu hết thời gian.

Người ủng hộ nhiệt thành khác của Grant là Tổng thống Abraham Lincoln. Lincoln có thể đã không nói (với những người phàn nàn về việc Grant uống rượu): “Hãy tìm hiểu xem ông ấy uống loại rượu whisky nào; Tôi muốn gửi một ít cho tất cả các vị tướng của tôi!” nhưng chắc chắn ông đã tuyên bố: “Những gì tôi muốn là những vị tướng sẽ chiến đấu và giành chiến thắng… Grant đã làm được điều này, và tôi đề xuất sẽ ủng hộ ông ấy.”

Đây là một động thái khôn ngoan của Lincoln. Sau khi Grant được bổ nhiệm làm tổng tư lệnh của tất cả các đội quân Liên bang vào đầu năm 1864, ông đã tấn công mạnh mẽ vào đội quân đang suy yếu của Robert E. Lee, cử William Tecumseh Sherman chiếm Atlanta trong khi tấn công bằng Quân đoàn Potomac vào Virginia, dồn Lee vào chân tường và buộc ông phải đầu hàng vào năm 1865. Một quốc gia biết ơn đã biến Grant thành một anh hùng trường tồn và hai lần bầu ông làm tổng thống, vào năm 1868 và 1872. Chính quyền của ông không thành công lắm. Mặc dù bản thân Grant là một người đàn ông trung thực, nhưng ông đã bị bao quanh bởi những vụ bê bối. Nhưng không phải nói quá khi cho rằng Grant là một trong những chỉ huy quân sự quan trọng nhất trong lịch sử Hoa Kỳ.

ULYSSES S. GRANT ĐƯỢC XEM LÀ MỘT TRONG SỐ ÍT NHỮNG VỊ CHỈ HUY QUÂN SỰ QUAN TRỌNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ HOA KỲ.

TƯỚNG ROBERT E. LEE: MỘT VỊ TƯỚNG XUẤT SẮC CHIẾN ĐẤU VÔ ÍCH CHO LIÊN MINH MIỀN NAM

Mặc dù Robert E. Lee là vị tướng thua cuộc trong nỗ lực chiến tranh lớn và mang tính hủy diệt, ít nhất một phần nhằm bảo vệ chế độ nô lệ, Lee vẫn được tôn kính như một thiên tài quân sự và anh hùng.

Không giống như Grant, cuộc sống của Lee trước chiến tranh là một cuộc sống thuận buồm xuôi gió. Sinh ra tại Virginia vào năm 1807, là con trai của người anh hùng Chiến tranh Cách mạng “Light-Horse Harry” Lee, Robert E. Lee tốt nghiệp West Point với vị trí thứ hai trong khóa, được giao nhiệm vụ vào Quân đoàn Công binh Lục quân và chiến đấu anh dũng trong Chiến tranh Mexico-Mỹ, nổi lên với cấp bậc đại tá và sự ngưỡng mộ của cấp chỉ huy , Tướng Winfield Scott, người gọi ông là “quân nhân giỏi nhất mà tôi từng thấy trên chiến trường”.

Sau cuộc chiến đó, Lee được bổ nhiệm làm Giám đốc West Point, và sau đó ông phục vụ với tư cách là một đại tá kỵ binh ở Tây Texas. Lee ở lại quân đội chính quy cho đến khi Virginia ly khai khỏi Liên bang. (Chính trong cương vị này, Lee và trung úy của ông, Jeb Stuart, đã bắt giữ người theo chủ nghĩa bãi nô John Brown tại Harpers Ferry). Khi Virginia ly khai, Lee đã từ chức, nói rằng ông không thể chiến đấu chống lại vùng đất nơi ông sinh ra.

Lee sớm được phong làm tướng chính thức của quân đội Liên minh miền Nam, và ông phục vụ với tư cách là cố vấn quân sự cho Tổng thống Liên minh miền Nam Jefferson Davis. Lee đã lập kế hoạch cho chiến dịch Thung lũng Shenandoah của Stonewall Jackson. Lee nắm quyền chỉ huy Quân đoàn Bắc Virginia vào mùa xuân năm 1862 và nhiều lần đẩy lùi những nỗ lực của Tướng George McClellan nhằm đánh chiếm Richmond vào mùa hè năm đó.

Vào mùa thu, cuộc xâm lược Maryland của Lee đã bị chặn lại tại trận chiến khốc liệt ở Antietam – ngày đẫm máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, nơi ông phải chịu 10.000 thương vong so với 12.000 thương vong của McClellan. Nhưng với một đội quân chỉ có 38.000 người, Lee đã có thể đe dọa lực lượng Liên bang của McClellan gồm khoảng 75.000 người. Năm sau, Lee giành chiến thắng vang dội tại Chancellorsville, nơi ông chia quân trước quân đoàn Liên bang lớn hơn của Joseph Hooker và gửi Jackson đột phá vào sườn phải phía bắc.

Một số nhà sử học tin rằng chuỗi chiến thắng quan trọng của Lee vào năm 1862 và đầu năm 1863 không liên quan nhiều đến sự nhạy bén về chiến thuật của ông mà liên quan đến sự nhút nhát của các chỉ huy Liên bang mà ông đối đầu. Nhưng Lee chắc chắn biết cách khai thác điểm yếu của đối thủ một cách tích cực. Mặc dù Lee có phong thái của một quý ông miền Nam, ông là một chỉ huy cứng rắn và tiến hành chiến tranh một cách quyết liệt.

Sau khi đẩy lui Ambrose Burnside tại Fredericksburg, Virginia, Lee đã chứng kiến ​​cảnh những binh lính Liên bang bị tàn sát khi xông vào các chiến hào cố thủ của Liên minh miền Nam và nói với Tướng James Longstreet: “Chiến tranh rõ thật là khủng khiếp. Rồi chúng ta sẽ trở nên thích thú với nó.” Nhưng bản thân Lee cũng đã phạm phải sai lầm tương tự khi tấn công một kẻ thù cố thủ được trang bị súng trường hiện đại vào tháng 7 năm 1863 tại Gettysburg, Pennsylvania, nơi ông đã phái một cuộc tấn công bộ binh lớn vào phòng tuyến Liên bang trong cái gọi là Trận Xung kích của Pickett. Kết quả là ông đã thất bại và mở đầu cho sự kết thúc của Liên minh miền Nam.

Ngày càng bị Grant dồn vào chân tường, Lee đã chiến đấu trong một loạt các hoạt động phòng thủ hậu phương xuất sắc nhưng tốn kém vào năm 1864, trước khi cuối cùng đầu hàng Grant tại Tòa án Appomattox vào tháng 4 năm 1865. Lee trở thành hiệu trưởng của Cao đẳng Washington (nay là Đại học Washington and Lee) ở Virginia, một tiểu bang nơi ông được tôn kính. Bằng thái độ và thành tích quân sự của mình, ông đã khiến cho sự nghiệp của Liên minh miền Nam có vẻ như là một sự nghiệp thiêng liêng, mặc dù cuối cùng, ông đã không giành được chiến thắng duy nhất cần thiết để khuất phục miền Bắc. Lee qua đời vào năm 1870 vì suy tim. Trên thực tế, ông đã nộp đơn xin Chính phủ Liên bang khôi phục quyền công dân của mình, nhưng đơn đã bị mất. Đơn đã được tìm thấy lại vào năm 1970 và được cấp sau khi ông qua đời.

ROBERT E. LEE VẪN ĐƯỢC XEM LÀ MỘT TRONG NHỮNG NHÀ LÃNH ĐẠO QUÂN SỰ ĐƯỢC TÔN KÍNH NHẤT CỦA MIỀN NAM. KHAO KHÁT CHIẾN THẮNG CỦA ÔNG ĐÃ DẪN ĐẾN SỰ PHÁN ĐOÁN KÉM TRONG TRẬN GETTYSBURG.

ABRAHAM LINCOLN VÀ BÀI DIỄN VĂN NỔI TIẾNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ MỸ

Một trong những bài diễn văn vĩ đại nhất từng được phát biểu trong lịch sử Hoa Kỳ cũng là một trong những bài diễn văn ít được chú ý nhất vào thời điểm nó được phát biểu.

Ngày đó là ngày 19 tháng 11 năm 1863. Địa điểm là Nghĩa trang Quốc gia Chiến sĩ đang được khánh thành bên ngoài thị trấn Gettysburg, Pennsylvania, nơi mà bốn tháng trước đó, hàng ngàn chiến sĩ ở cả miền Bắc và miền Nam đã hy sinh trong một trận chiến cuối cùng đã ngăn chặn được cuộc tiến quân về phía bắc của Quân đoàn Virginia của Robert E. Lee. Xác các binh lính miền Nam đã bị ném thô bạo vào các ngôi mộ tập thể. Xác các bình sĩ miền Bắc được đào lên từ những ngôi mộ chôn cất vội vã cho họ vào mùa hè năm đó, được xác định một cách khó khăn bằng cách tìm ra đơn vị của họ đến từ tiểu bang nào (nếu có thể), và sau đó được cải táng trong những ngôi mộ sắp xếp theo những vòng cung bán nguyệt rộng xung quanh một tượng đài tưởng niệm lòng quả cảm của họ.

:Abraham Lincoln đã đến vào đêm trước để phát biểu trước đám đông tại buổi lễ, nhưng ông không phải là diễn giả chính. Vinh dự đó thuộc về Edward Everett nổi tiếng, người đã phát biểu trong hơn hai giờ. Đây không phải là sự khinh thường đối với Lincoln, như truyền thuyết kể lại, mà chỉ đơn thuần là sự phản ánh thực tế rằng, vào thời điểm đó, các tổng thống Hoa Kỳ ít tham gia vào các vấn đề nhà nước. Tuy nhiên, Lincoln đã đứng lên phát biểu sau khi Everett phát biểu xong, và chỉ trong ba phút với 272 từ đã tập trung cử tọa vào mục đích đằng sau những thương vong khủng khiếp minh chứng là những nấm mồ của những liệt sĩ đang nằm xung quanh họ, đó là tạo ra một quốc gia “của nhân dân, do nhân dân, và vì nhân dân”.

Mặc dù hầu hết sự chú ý vào thời điểm đó đều tập trung vào Everett, nhưng Lincoln mới là người tóm tắt ý nghĩa của ngày trọng đại này bằng những từ ngữ đã đi vào lịch sử. Trên thực tế, Everett đã viết thư cho tổng thống vào ngày hôm sau, nói rằng: “Tôi sẽ rất vui, nếu tôi có thể tự tâng bốc mình, rằng tôi đã đạt đến gần ý tưởng chính của sự kiện trong hai giờ, trong khi ngài chỉ làm trong hai phút.

LÍNH DA ĐEN: CHIẾN ĐẤU VÌ LIÊN BANG CÓ NGHĨA LÀ PHẢI MẠO HIỂM MỌI THỨ VÌ TỰ DO

Abraham Lincoln đã ban hành Tuyên ngôn Giải phóng Nô lệ vào ngày đầu năm mới năm 1863, giải phóng tất cả nô lệ và kêu gọi họ gia nhập Quân đội và Hải quân Liên bang.

Điều này nói thì dễ hơn làm vì có rất nhiều định kiến ​​tồn tại ở phía Liên bang đối với người da đen. Trớ trêu thay, Bộ Chiến tranh miền Bắc gọi cuộc xung đột này là “cuộc chiến của người da trắng” và ban đầu từ chối chấp nhận người da đen vào lực lượng vũ trang với tư cách là lính. Điều này không chỉ đơn thuần là do phân biệt chủng tộc. Người ta thừa nhận rằng những người da đen có vũ trang là cơn ác mộng tồi tệ nhất của Liên minh miền Nam và rằng họ sẽ chiến đấu hết mình chống lại Liên bang nếu những người lính da đen được gửi đến chống lại họ. Tuy nhiên, những người theo chủ nghĩa bãi nô và những người Cộng hòa cấp tiến hơn đã sớm gây đủ áp lực lên Bộ Chiến tranh và việc tuyển dụng những người lính da đen bắt đầu.

Trung đoàn da đen nổi tiếng nhất là trung đoàn 54 Massachusetts, do một người da trắng, con trai của một gia đình bãi nô nổi tiếng, Đại tá Robert Gould Shaw chỉ huy. Vào tháng 7 năm 1864, trung đoàn 54 đã tấn công Fort Wagner, một pháo đài của Liên minh miền Nam bảo vệ lối vào Cảng Charleston. Trong cuộc tấn công trực diện này, Shaw đã tử thương, và trung đoàn 54 mất gần một nửa quân số. Nhưng đơn vị đã cố gắng giữ pháo đài trong một giờ trước khi rút lui trước một cuộc phản công.

Các tờ báo miền Bắc so sánh trận chiến này với Bunker Hill về tầm quan trọng của nó đối với phong trào bãi nô, nhưng phe Liên minh miền Nam không hề lay chuyển. Họ từ chối trả lại thi thể của Shaw cho gia đình ông, nói rằng “chúng tôi đã chôn ông ấy cùng với những tên da đen của ông ta”. Trong chiến tranh binh lính Liên minh miền Nam nhiều lần  dùng lưỡi lê đâm những lính da đen của Liên bang khi họ đã ra đầu hàng. Nhưng đến cuối chiến tranh, 130.000 bộ binh và thủy thủ da đen đã chiến đấu cho Liên bang, những người mà theo như Lincoln nói, đã “đặt cược mạng sống” của mình cho đất nước.

WILLIAM NELSON, LÍNH DA ĐEN THUỘC LỰC LƯỢNG BỘ BINH MASSACHUSETTS 54, VỐN LÀ TRUNG ĐOÀN CHIẾN BINH DA ĐEN NỔI TIẾNG NHẤT, BAN ĐẦU CÓ SỰ PHẢN ĐỐI TỪ BỘ CHIẾN TRANH, TIN RẰNG ĐỂ LÍNH DA ĐEN CHIẾN ĐẤU CHỐNG LẠI LIÊN MINH SẼ CHỈ LÀM QUÂN MIỀN NAM NỔI GIẬN VÀ GÂY THÊM KHÓ KHĂN CHO LỰC LƯỢNG LIÊN BANG.

19  THẾ CHIÊN I  1914-1918

MỘT LOẠT CÁC LIÊN MINH CẤU KẾT ĐẶT CHÂU ÂU VÀO TRUNG TÂM CỦA MỘT CUỘC XUNG ĐỘT LÀM TỬ VONG 20 TRIỆU NGƯỜI, PHÁ HỦY CÁC ĐẾ CHẾ TỒN TẠI HÀNG THẾ KỶ VÀ TẠO TIỀN ĐỀ CHO THẾ CHIẾN II

TỔNG QUAN: “MỘT CUỘC XUNG ĐỘT BI KỊCH VÀ KHÔNG CẦN THIẾT” ĐÃ PHÁ HỦY TRẬT TỰ CŨ VÀ THAY ĐỔI TIẾN TRÌNH CỦA THẾ KỶ XX

Chiến tranh thế giới thứ nhất là cuộc đụng độ lịch sử gây ra đổ máu chưa từng có, chủ yếu là do sự kết hợp giữa ngoại giao và kỳ vọng của thế giới cũ với hỏa lực hiện đại và quân đội đông đảo.

Khi thế kỷ XX bắt đầu, sự trỗi dậy về quân sự và kinh tế của Đức kể từ Chiến tranh Pháp-Phổ vẫn tiếp tục không suy giảm. Sự trỗi dậy này được Nga, Anh và Pháp theo dõi một cách lo lắng, họ đã hình thành một thỏa thuận hỗ trợ lẫn nhau nếu bị tấn công, được gọi là Hiệp ước Tam hùng. Trong khi đó, đồng minh Đức, Áo-Hung, ngày càng lo ngại về các lực lượng theo chủ nghĩa dân tộc ở Balkan, về phía nam, đặc biệt là ở Serbia, đồng minh của Nga.

Đức, Áo-Hung và Ý đã thành lập Liên minh Ba Bên để bảo vệ lẫn nhau trong trường hợp xảy ra chiến tranh. Tất cả các liên minh cấu kết này, theo một số cách, đều nhằm mục đích khuyến khích chiến tranh. Các quốc gia liên quan đều cảm thấy rằng họ có thể đạt được điều gì đó thông qua một cuộc xung đột hạn chế. Pháp và Anh cảm thấy mình có thể kiềm chế Đức, Áo-Hung muốn dập tắt chủ nghĩa dân tộc Baltic một lần và mãi mãi, và Đức muốn tăng vị thế của mình trên thế giới.

Vì vậy, khi người theo chủ nghĩa dân tộc Serbia Gavrilo Princip giết chết người thừa kế ngai vàng Áo-Hung, Đại công tước Franz Ferdinand, vào ngày 28 tháng 6 năm 1914, hầu hết những người quan tâm đều nghĩ rằng một cuộc chiến tranh ngắn có thể không phải là điều tồi tệ nhất sẽ xảy ra. Điều này là do họ đang đi theo tiêu chuẩn chiến tranh của thế kỷ 19. Nhưng kết quả là một cuộc chiến tranh thế kỷ 20 mà nhà sử học John Keegan đã gọi là “một cuộc xung đột bi thảm và không cần thiết”.

Vào ngày 28 tháng 7 năm 1914, Áo-Hung tuyên chiến với Serbia. Ngay sau đó, Nga huy động lực lượng để lâm chiến với Đức, Đức tuyên chiến với Nga và Pháp, và Pháp tuyên chiến với Đức và Áo-Hung. Vào ngày 4 tháng 8, Đức tuyên chiến với Bỉ trung lập và xâm lược như một phần của động thái bên sườn phải, một động thái xoay vòng khổng lồ để tấn công Pháp từ phía đông bắc, nằm ở cốt lõi của Kế hoạch Schlieffen nổi tiếng nhằm vô hiệu hóa nước Pháp trong sáu tuần. Kết quả của cuộc xâm lược này là Anh tuyên chiến với Đức và các bên liên minh với nhau.

Các cường quốc Trung tâm – được gọi như vậy vì chúng nằm giữa Nga và Pháp – là Đức và Áo-Hung, sau đó sẽ sớm được Đế chế Ottoman (Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Đông) gia nhập. Các đồng minh là Pháp, Nga và Vương quốc Anh, sau đó kéo theo Ý – quốc gia đã quay xe không chịu đứng về phe của các cường quốc Trung tâm – và Hoa Kỳ và nhiều quốc gia nhỏ khác.

Hầu như mọi quốc gia tham gia vào cuộc xung đột đều có sẵn một kế hoạch chiến tranh. Đức, hiểu rõ vấn đề phải chiến đấu trên hai mặt trận với Nga và Pháp, đã tìm cách đánh bại Pháp trước bằng Kế hoạch Schlieffen, được đặt theo tên người soạn thảo ra nó, cựu Tham mưu trưởng Đức Alfred von Schlieffen. Kế hoạch này kêu gọi một đội quân chặn đường để đối mặt với quân Pháp ở phía tây, trong khi bảy nhóm quân Đức khác di chuyển về phía đông bắc qua Luxembourg và Bỉ để tấn công vào Pháp và chiếm Paris. Nhưng người kế nhiệm von Schlieffen, Tướng Helmuth von Moltke, đã làm suy yếu nghiêm trọng cuộc tấn công vì đã rút bớt quân số của đội quân đang càn quét qua Bỉ để củng cố các vị trí phòng thủ phía tây của Đức.

Pháp và Anh đã ngăn chặn được cuộc tấn công của Đức trong Trận Marne lần thứ nhất vào tháng 9, bắt đầu một thế bế tắc ở Pháp kéo dài trong bốn năm. Tuy nhiên, vào tháng 8, quân Đức đã gây ra 150.000 thương vong cho quân Nga trong Trận Tannenberg, ở Đông Phổ (gần thị trấn Olsztyn ngày nay của Ba Lan). Điều này dẫn đến việc quân Nga gần như bị tiêu diệt hoàn toàn ở khu vực đó và cầm chân họ gần một năm.

Ở mặt trận phía tây, một tuyến chiến hào phát triển nhanh chóng, cuối cùng dài 470 dặm (756 km), uốn lượn từ Thụy Sĩ đến Biển Bắc, chứa quân đội của cả hai bên. Một loạt các trận chiến tiêu hao sau đó đã diễn ra. Trong Trận Ypres lần thứ nhất (tháng 10-tháng 11 năm 1914), quân Đức mất 130.000 thương vong, quân Anh và Pháp mất 108.000. Trận Ypres lần thứ hai (tháng 4-tháng 5 năm 1915) chứng kiến ​​khí clo độc được quân Đức sử dụng chống lại quân Pháp. Từ tháng 2 đến tháng 12 năm 1916, Trận Verdun, ở vùng Lorraine thuộc miền đông nước Pháp đã diễn ra, khiến quân Pháp, Anh và Đức thiệt hại 1 triệu thương vong. Trận Somme, ở miền bắc nước Pháp (tháng 7-tháng 11 năm 1916) đã gây ra 57.000 thương vong cho quân Anh chỉ trong ngày đầu tiên – trở thành ngày đẫm máu nhất trong lịch sử chiến tranh – trong khi cuối cùng tổng cộng có 1.265.000 người Pháp, Anh và Đức thiệt mạng và bị thương.

Những cách thức tiến hành chiến tranh cũ, đặc biệt là tấn công trực diện, đã đối đầu với các loại vũ khí hiện đại, chẳng hạn như súng máy bắn nhanh, sức mạnh của pháo hạng nặng, khí độc, xe tăng và sức mạnh không quân. Các chỉ huy ở cả hai bên đều phát hiện ra rằng quy mô lớn của quân đội hiện đại và diện tích chiến trường tương đối nhỏ gần như không có chỗ để điều động bằng cách tấn công vào sườn của đối phương.

Các cuộc tấn công trực diện gây ra số thương vong lớn gần như tận thế. Nhà sử học Dennis Showalter đã viết rằng việc giết chóc cuối cùng có vẻ “cơ học”, như thể các thi thể chỉ đơn giản là được đưa vào bộ máy chiến tranh. Đào sâu hơn và sâu hơn vào lòng đất dẫn đến bế tắc. Khi quân đồng minh cố gắng phá vỡ bế tắc bằng cách tấn công người Thổ Nhĩ Kỳ ở Bán đảo Gallipoli – hy vọng giành được chỗ đứng ở Đông Nam Âu và cuối cùng là kéo quân Đức ra khỏi mặt trận phía tây – nó đã thất bại thảm hại.

Sự bế tắc tương tự cũng xảy ra ở mặt trận phía đông khi quân Đức, Nga và Áo-Hung giao chiến với nhau dọc theo 900 dặm (1.448 km) chiến hào. Tuy nhiên, với một lãnh thổ rộng lớn hơn để điều động, quân Đức đã đánh úp quân Nga vào tháng 6 năm 1915 và đẩy họ ra khỏi Ba Lan. Một năm sau, Nga đã phục hồi bằng một cuộc tấn công vào Áo-Hung, thành công trong việc đẩy lùi kẻ thù 50 dặm (80 km) dọc theo mặt trận dài 250 dặm (402 km). Nhưng quân đội Nga, gặp khó khăn bởi tinh thần sa sút, đào ngũ và thiếu nguồn cung cấp từ chính phủ Sa hoàng đang lung lay ở quê nhà, đã buộc phải dừng lại trước khi đạt được mục tiêu.

Xa khỏi châu Âu, người Đức, người Pháp và người Anh đã chiến đấu để giành quyền sở hữu của Đức ở châu Phi cận Sahara, trong khi người Anh chiếm ưu thế trên các vùng đất của Thổ Nhĩ Kỳ ở Trung Đông, cuối cùng đã lật đổ Đế chế Ottoman cũ. Trên biển khơi, Vương quốc Anh đã áp đặt một lệnh phong tỏa thành công ở Biển Bắc để giữ mọi tàu thuyền tránh xa Đức. Từ ngày 1 tháng 5 đến ngày 31 tháng 6 năm 1916, cuộc đụng độ hải quân mà nhiều người đã dự đoán giữa các thiết giáp hạm hạng nặng của Vương quốc Anh và Đức đã diễn ra tại Trận Jutland. Cả hai hạm đội đều chiến đấu với tỷ số hòa, mặc dù người Anh vẫn có thể giữ được quyền tối cao của mình ở Biển Bắc.

Đến tháng 1 năm 1917, người Đức đã quyết định sử dụng chính sách chiến tranh tàu ngầm không hạn chế, đánh chìm bất kỳ tàu nào của bất kỳ quốc gia nào, tàu buôn hay tàu chiến, tiếp cận các cảng của Vương quốc Anh. Người ta nghĩ rằng chính sách này sẽ buộc Vương quốc Anh phải đệ đơn cầu hòa trong vòng năm tháng. Thay vào đó, nó đã giúp đưa Hoa Kỳ trước đây trung lập vào cuộc chiến.

Năm 1915, người Đức đã phóng ngư lôi vào tàu biển chở khách Lusitania của Anh, chở theo 128 người Mỹ. Hoa Kỳ chỉ phản đối sự cố này. Nhưng tuyên bố của Đức rằng họ sẽ bắt đầu chiến tranh tàu ngầm không hạn chế, kết hợp với việc Anh chặn và giải mã Bức điện Zimmerman (trong đó thứ trưởng ngoại giao Đức khuyến khích Mexico tuyên chiến với Hoa Kỳ) đã khiến Hoa Kỳ tuyên chiến vào tháng 4 năm 1917. Theo quan điểm của Đồng minh, điều đó là đúng lúc. Lực lượng Anh và Pháp đã kiệt sức sau nhiều năm đổ máu, và sự phong tỏa của Đức đã gây ra thiệt hại. Lực lượng Viễn chinh Hoa Kỳ gồm 500.000 người đến Pháp vào tháng 6 đã truyền thêm sức mạnh mới cho lực lượng Anh và Pháp. Riêng người Pháp đã kiệt sức, mất hàng trăm nghìn người trong một cuộc tấn công mùa xuân thất bại khiến quân đội nổi loạn.

Người Anh mất 60.000 thương vong trong ngày đầu tiên của trận chiến Somme, trở thành ngày đẫm máu nhất trong lịch sử quân đội Anh. Ở đây, binh lính Đức phản công từ các vị trí phòng thủ vững chắc của họ.

Cách mạng Nga đã gây ra sự sụp đổ của chính phủ lâm thời Nga vào tháng 10 năm đó, và các lực lượng Áo-Đức đã đánh bại quân Ý trong Trận Caporetto, do đó giải phóng quân đội và tài nguyên của Đức cho mặt trận phía tây. Vào mùa xuân năm 1918, quân Đức đã phát động Cuộc tấn công Ludendorff cuối cùng, do Erich Ludendorff thiết kế để buộc Anh và Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán hòa bình trước khi quân Mỹ đến với toàn bộ lực lượng. Tuy nhiên, lực lượng kết hợp của Pháp, Anh và cuối cùng là quân Mỹ đã có thể đẩy lùi quân Đức.

Vào tháng 9, quân Đồng minh đã phát động cuộc tấn công lớn cuối cùng của cuộc chiến, chủ yếu do quân đội Hoa Kỳ tiến hành ở vùng Meuse-Argonne của Pháp. Khi họ đẩy quân Đức ngày càng lùi xa hơn, Đế chế Ottoman đã cầu hòa, cũng như Áo-Hung. Chỉ chiến đấu một mình, cuối cùng quân Đức đã đồng ý đình chiến khi những công dân mệt mỏi vì chiến tranh nổi loạn. Kaiser Wilhelm II thoái vị vào ngày 9 tháng 11 và một hiệp định đình chiến được ký kết vào ngày 11 tháng 11 năm 1918.

Sau Thế chiến thứ nhất, thế giới đã chứng kiến ​​những thay đổi chính trị to lớn. Chế độ quân chủ Nga sụp đổ, Đế chế Ottoman cuối cùng cũng sụp đổ, và Đế chế Áo-Hung bị chia cắt thành nhiều quốc gia nhỏ. Hiệp ước Versailles, chấm dứt chiến tranh, buộc Đức phải thừa nhận tội gây chiến, từ bỏ 25.000 dặm vuông (64.750 km vuông) lãnh thổ, bồi thường thiệt hại nặng nề và giới hạn quân đội của mình ở mức 100.000 quân mà không có vũ khí hạng nặng, tàu ngầm hoặc máy bay. Sự phẫn nộ của người Đức đối với những gì họ coi là điều kiện trừng phạt khắc nghiệt là một yếu tố góp phần đáng kể vào sự bùng phát Thế chiến thứ hai.

LÍNH RA TRẬN BẰNG XE TAXI VÀ CỨU NGƯỜI PHÁP KHỎI BỊ TIÊU DIỆT

Trận chiến Marne lần thứ nhất: 1914

Vào ngày cuối cùng của tháng 8 năm 1914, người dân Paris nghe thấy tiếng vo ve nhỏ, nghe rất khó chịu như tiếng một con ong bị mắc kẹt sau tấm kính trong cái nóng mùa hè đang dần tắt. Tiếng ồn ngày càng lớn hơn. Khi họ nhìn lên bầu trời, họ thấy một chiếc máy bay hai tầng cánh của Đức đang bay trên thành phố. Chiếc máy bay lượn vòng ngày càng thấp hơn, ngạo mạn phớt lờ những phát súng trường  của những người lính Pháp leo lên mái nhà bắn vào nó. Khi máy bay đến quảng trường lớn có tên là Invalides Esplanade, nó thả một thông điệp buộc vào một thanh sắt, vẫy cánh và bay đi với tốc độ nhàn nhã.

Tin nhắn có nội dung: “Quân đội Đức sẽ đến sau ba ngày nữa.”

Hầu như không ai ở Paris nghi ngờ điều này. Trên khắp vùng nông thôn nước Pháp, Lực lượng Viễn chinh Pháp và Anh (BEF) đã phải lùi bước trước cuộc tấn công dữ dội của Đức. Đức đã tung năm quân đoàn xuống Bỉ như “một kim giờ lớn chuyển động ngược chiều kim đồng hồ”, như một nhà sử học đã nói. Ngay lúc đó đầu kim giờ là Quân đoàn số 1 của Đức, ở phía bắc và phía tây Paris, đang ào ạt tiến chiếm thủ đô với Quân đoàn số 2 ở bên trái, phía đông bắc thủ đô.

Khi quân Đức tiến lên, những con đường quanh thủ đô đầy binh lính đang rút lui, vẫn mặc quân phục màu đỏ và xanh tươi. Nhưng giờ đây, không ai khác hơn Tổng tư lệnh quân đội Pháp Joseph Joffre nhận thấy khi đang kiểm tra quân lính của mình, “chiếc quần đỏ đã phai thành màu gạch nhạt, áo khoác thì rách rưới và tả tơi, giày thì đóng bùn, đôi mắt trũng sâu trên khuôn mặt đờ đẫn vì kiệt sức…. Hai mươi ngày chiến dịch dường như đã khiến những người lính già đi nhiều tuổi như vậy”.

Hôm nay là ngày thứ 35!”

Để gần hơn với diễn biến của cuộc chiến tranh mới, Kaiser Wilhelm II đã chuyển bộ chỉ huy của mình từ Berlin đến Luxembourg, cách Paris khoảng 170 dặm (274 km) về phía bắc. Vào ngày 4 tháng 9, ông đã rất phấn khởi. “Hôm nay là ngày thứ 35”, ông nói với một phái đoàn chính trị gia Đức. Khi nói như vậy, ông muốn nói rằng quân đội Đức đang ở giữa giai đoạn mà Kế hoạch Schlieffen kêu gọi một trận chiến quyết định cho Paris. 31 ngày nữa, quân đội sẽ tiến gần đến thủ đô của Pháp, và điều này thực sự đang xảy ra. Theo Schlieffen, trong vòng 40 ngày, sẽ có một trận chiến để làm chủ thủ đô.

Hoàng đế Đức và hầu hết các sĩ quan trong bộ tư lệnh cấp cao của Đức đã tuân theo lịch trình xâm lược của Bá tước Albert Graf von Schlieffen gần như thể đó là Kinh thánh. Cựu tham mưu trưởng của quân đội Đức, von Schlieffen về cơ bản đã hoàn thành kế hoạch của mình vào năm 1905 nhưng vẫn tiếp tục sửa đổi cho đến khi ông qua đời vào năm 1913. Kế hoạch này kêu gọi một lực lượng chặn đường gồm 2 quân đoàn Đức được bố trí trên biên giới phía tây của Đức với Pháp, để ngăn chặn bất kỳ cuộc tấn công nào, trong khi 5 quân đoàn khác sẽ tràn xuống qua Bỉ và vào Pháp, tiêu diệt quân đội Pháp và chiếm Paris trong vòng 6 tuần.

Lịch trình này rất quan trọng vì Schlieffen đã tính toán rằng sẽ mất 40 ngày trước khi quân đội Nga có thể tiến hành một cuộc tấn công từ phía đông, tại thời điểm đó, họ lo ngại Đức sẽ phải chiến đấu trên cả hai mặt trận. Vì vậy, việc chiếm Paris trong khoảng thời gian 40 ngày này là điều cần thiết. Nhưng bất chấp sự vội vã đến Paris của quân Đức, vẫn có một số vấn đề nhất định. Đầu tiên, quân Đồng minh, trong khi rút lui, đã rút lui về phía các tuyến tiếp tế của họ, trong khi quân Đức đang di chuyển ra xa tuyến tiếp tế của họ. Thứ hai, quân Đức đã kiệt sức. Một tù binh người Pháp sau đó đã viết rằng anh ta đã thấy quân Đức của Tướng Alexander von Kluck, người đứng đầu Quân đoàn số 1, được cho là sẽ chiếm Paris, đã sức cùng lực kiệt  sau một cuộc hành quân dài vào ngày 3 tháng 9. “Họ ngã xuống kiệt sức, lẩm bẩm trong cơn choáng váng, Bốn mươi cây số! Bốn mươi cây số!’ Đó là tất cả những gì họ có thể nói.”

Nhưng cuối cùng và quan trọng nhất, vào thời điểm áp chót, người Đức đã quyết định thay đổi kế hoạch.

Thay đổi kế hoạch

Tham mưu trưởng Đức Helmuth von Moltke – người đã ở cùng với hoàng đế ở Bỉ, chỉ đạo chiến dịch, nhưng hẳn có thể đã phục vụ tốt hơn nếu ở gần mặt trận hơn – đã thay đổi Kế hoạch Schlieffen một lần, làm suy yếu lực lượng tấn công của mình để tăng cường cho biên giới của Đức, điều này khiến tiến trình qua Bỉ chậm hơn so với von Schlieffen dự định. Nhưng bây giờ, cách đó nhiều dặm khi tình hình chiến thuật đang diễn ra nhanh chóng, von Moltke lại chấp nhận thay đổi kế hoạch một lần nữa.

Các mặt trận của Thế chiến thứ nhất trải dài qua các châu lục, với châu Âu là trung tâm của cuộc xung đột sẽ cướp đi 20 triệu sinh mạng, phá hủy các đế chế tồn tại hàng thế kỷ và tạo tiền đề cho cuộc xung đột toàn cầu tiếp theo.

Quân đoàn số 1 của Kluck – kiệt sức nhưng vẫn di chuyển với ý chí về phía tây Paris – đã chứng kiến ​​Quân đoàn số 6 của Pháp dưới quyền Tướng Michel-Joseph Maunoury rút lui về cách thủ đô 30 dặm (48 km). Quân đoàn số 6 của Pháp là Lực lượng Viễn chinh Anh của Tướng Sir John French, lực lượng đã bị đánh bại trong một số trận đánh lớn và đang vội vã rút lui. Người Pháp, nản lòng muốn buông xuôi, nghĩ rằng cuộc chiến đã thua. Ba đội quân Pháp khác, bị đánh bại nặng nề nhưng không chịu đầu hàng, đang chạy về từ phía đông để giúp bảo vệ thủ đô.

Theo Kế hoạch Schlieffen, quân đội Đức ở cực tây – Quân đoàn số 1 của Kluck sẽ quành về phía tây Paris trước khi quay sang chiếm thủ đô từ phía nam. Nhưng vào ngày 31 tháng 8, khi thấy lực lượng đối đầu với mình đang trong tình trạng hỗn loạn, Kluck nghĩ rằng mình có một ý tưởng tốt hơn. Ông đã liên lạc qua radio với von Moltke báo rằng thay vì tấn công Paris, ông muốn tiến về phía bắc thủ đô để đập tan những tàn quân của lực lượng Maunoury và French và cắt đứt họ khỏi Paris, cũng như ngăn chặn những lực lượng Pháp hiện đang đến từ phía đông. Sau khi hoàn thành việc này, ông có thể hợp nhất với Quân đoàn  số 2 của Đức, dưới quyền Tướng Karl von Bülow, và tấn công thủ đô  Pháp và kết thúc chiến tranh ở mặt trận phía tây.

Chúng dâng sườn cho chúng ta!”

Von Moltke, người tin vào việc trao cho các chỉ huy chiến trường của mình một quyền hạn rộng rãi, đã đồng ý với kế hoạch này, mặc dù ông và Kluck nhận ra rằng điều đó sẽ khiến sườn phải của Quân đoàn  số 1 bị lộ ra trước lực lượng phòng vệ thủ đô. Nhưng họ tin rằng điều đó không quan trọng vì dù sao thì quân Pháp cũng đã bị đánh bại. Những lực lượng nào có thể thách thức được quân Đức?

Von Moltke và Kluck đã không tính đến Tướng Joseph Gallieni, thống đốc quân sự của Paris trong tình trạng khẩn cấp hiện tại. Gallieni, sinh năm 1849, có thành tích trong các cuộc chiến tranh thuộc địa của Pháp, khá giống với Tướng Joseph Joffre. Trên thực tế, hai người đàn ông này là đối thủ, với Joffre hơi ghen tị với ảnh hưởng của Gallieni và sự tôn trọng mà ông nhận được từ hầu hết các sĩ quan trong quân đội Pháp. Gallieni đã được đề nghị làm tổng tư lệnh, nhưng ông đã từ chối, với lý do sức khỏe kém, và nghỉ hưu khỏi quân đội vào tháng 4 năm 1914. Joffre đã đưa ông trở lại và phong ông làm thống đốc quân sự của Paris khi quân Đức đe dọa, điều đó có nghĩa là Gallieni chịu trách nhiệm chỉ huy bất kỳ lực lượng Pháp nào bảo vệ thành phố.

Gallieni ngay lập tức bắt tay vào xây dựng hàng rào chắn và hố súng trường và sửa chữa các công sự cũ. Ông tổ chức lại Quân đoàn quân số 6 của Maunoury, tăng cường lực lượng bằng bất kỳ binh sĩ nào mà mình thể có trên tay. Gallieni,  một trong số ít người trong quân đội Pháp hiểu được tầm quan trọng của máy bay đối với hoạt động trinh sát, đã gửi phi đội máy bay hai tầng cánh nhỏ của mình ra khỏi thành phố, thăm dò lực lượng Đức. Và đến ngày 3 tháng 9, Gallieni nhận ra rằng quân đội của Kluck không còn tiến về phía tây thành phố nữa mà giờ đã ở phía bắc Paris, di chuyển về phía đông.

Khi tin tức này được đưa ra, Gallieni và các sĩ quan của ông nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ khổng lồ trên tường của sở chỉ huy, cuộc tiến công của quân Đức được đánh dấu bằng những chiếc ghim màu. “Chúng dâng sườn cho  chúng ta!” Tham mưu trưởng của Gallieni, Tướng Clergerie, kêu lên. Quân Đức không đặt lực lượng chặn nào giữa họ và thủ đô. Họ có thể bị tấn công, và bị tấn công dữ dội, vào phía sau và hai bên dễ bị tổn thương của họ trong khi sự chú ý của họ đang tập trung ở nơi khác.

Gallieni lập tức hành động. Với trách nhiệm của mình, ông ra lệnh cho Tướng Maunoury chuẩn bị tấn công. Sau đó, ông gọi điện cho Joffre và cố gắng thuyết phục ông ta qua điện thoại về tầm quan trọng của các cánh quân hở sườn của Kluck và cách quân Pháp phải tận dụng lợi thế này. Chậm chạp trong động thái – và không tin tưởng đối thủ của mình – Joffre nói rằng mình sẽ phải suy nghĩ về điều đó.

Để tìm kiếm sự ủng hộ cho một cuộc tấn công như vậy, Gallieni lên xe và hướng đến trụ sở BEF để hội đàm với Sir John French, nhưng French không có ở đó và Gallieni thấy các sĩ quan Anh mà ông nói chuyện có thái độ chán nản và bi quan. Họ nghi ngờ người đàn ông nhỏ bé, lắm mồm, đeo kính, có bộ ria mép rậm và mặc quân phục khá luộm thuộm.

“Không ai nhìn thấy người lính Anh nào nói chuyện với một diễn viên hài như vậy”, một người có mặt cho biết.

Nhưng danh hài này không chịu bỏ cuộc, ngay cả khi lực lượng của French và Joffre đang rút lui. Gallieni liên tục đưa ra lập luận của mình cho đến khi Joffre từ bỏ sự miễn cưỡng ban đầu. Joffre thậm chí đã đích thân đến trụ sở BEF để cố gắng thuyết phục Sir John French, có lúc nắm lấy tay vị chỉ huy người Anh và khẩn khoản xin ông cho quân đội của mình tham gia cuộc tấn công. French xúc động đến nỗi nước mắt lăn dài trên má. Ông cố gắng nói bằng tiếng Pháp, nhưng không được. “Chết tiệt, tôi không thể giải thích được”, ông nói với một phiên dịch viên. “Nói với ông ấy rằng tất cả những gì người ta có thể làm được thì đồng đội của chúng ta sẽ làm được”. Joffre – người sau này sẽ nhận công lao cho những ý tưởng sáng giá mà Gallieni đưa ra – sau đó đã gửi một bức điện tín đến bộ chiến tranh ở Paris: “Cuộc đấu tranh sắp diễn ra có thể có hậu quả quyết định. Nó cũng có thể, trong trường hợp ngược lại, gây ra hậu quả nghiêm trọng nhất đối với đất nước.

Những Chiếc Taxi của Paris

Người Anh đã tụt lại quá xa để có thể tham gia ngay vào cuộc tấn công, vì vậy, nhiệm vụ này thuộc về người Pháp. Joffre đã cử Maunoury và Quân số 6 của ông tiến lên, và các đơn vị tiên phong quân đoàn này đã tiếp cận với Quân đoàn số 1 của Đức vào cuối ngày 5 tháng 9. Nhưng một chỉ huy quân đoàn Đức cảnh giác đã kháng cự dữ dội khi ông cảm nhận được cuộc phản công của Pháp, và quân Pháp đã khựng lại.

Kluck và von Moltke giờ đây bắt đầu lo ngại về mạn sườn hở trước Paris và quyết định rút Quân đoàn  số 1 xa hơn về phía bắc, nhưng đã quá muộn. Sáng ngày 6 tháng 9, Quân đoàn số 6 của Pháp đã tấn công dữ dội vào họ trong khi Quân đoàn số 5 tấn công Quân đoàn số 2 của Đức dưới quyền von Bülow. Quân Pháp dồn hết sức lực vào cuộc tấn công. Gallieni đã lùng sục khắp Paris để tìm từng người lính Pháp cuối cùng đang ở nhà nghỉ phép, từng quân nhân dự bị cuối cùng, từng kẻ trốn tránh nghĩa vụ cuối cùng. Ông phát hiện ra rằng một đoàn tàu chở Sư đoàn Algeria số 45 của Bắc Phi, vẫn mặc quân phục Zouave quá sặc sỡ, đang hướng về phía đông, và ông đã chỉ huy đoàn tàu và đưa nó đến Paris.

Nhưng Gallieni không có cách nào đưa những binh sĩ này và những quân lính khác ra mặt trận, cách đó khoảng 40 dặm (64 km), vì xe tải thiếu hụt và đường sắt quá tải. Vào lúc đó, Gallieni nảy ra ý định sử dụng xe taxi của Paris và những tài xế nổi tiếng nóng tính của họ để vận chuyển quân lính đến nơi giao tranh đang diễn ra khi quân Đức bắt đầu từ từ rút lui về phía bắc và phía đông của Paris về phía sông Marne. Gallieni đã cử quân lính ra khắp Paris để chặn xe taxi, trục xuất những hành khách phản đối và bảo họ tập trung tại Invalides Esplanade, cùng địa điểm mà chiếc máy bay hai tầng cánh hỗn láo của Đức đã thả thông điệp xúc phạm.

VỚI QUÁ NHIỀU ÁP LỰC LÊN HỆ THỐNG XE TẢI VÀ ĐƯỜNG SẮT CỦA PARIS. TƯỚNG GALLIENI TÌM RA MỘT PHƯƠNG ÁN THAY THẾ VỚI XE TAXI. ĐẶT NĂM CHIẾN BINH VÀO MỖI TAXI, HỌ BẮT ĐẦU HÀNH TRÌNH 40 DẶM ĐẾN TIỀN TUYẾN.

Khi đến nơi, Gallieni chất binh sĩ vào xe, năm người một xe, và đưa họ đi theo một đoàn dài ra tiền tuyến. Khi những tài xế muốn biết ai sẽ trả tiền cho họ, Gallieni nói với họ, “Nước Pháp sẽ trả tiền cho các anh!” và sau đó chế giễu: “Các anh có sợ tiếng súng không?” Khi những chiếc taxi rời khỏi quảng trường, hàng trăm thường dân Pháp đã reo hò. Chỉ có 6.000 quân Pháp thực sự đến được trận chiến theo cách này, không đủ để ảnh hưởng đáng kể đến kết quả của trận chiến, nhưng truyền thuyết về những chiếc taxi anh hùng của Paris đã trở thành động lực tinh thần to lớn cho nước Pháp trong cuộc chiến tranh dài sắp tới.

Trận chiến Marne

Và lý do khiến cuộc chiến kéo dài – lý do khiến cuộc chiến không kết thúc vào đầu tháng 9 nóng nực đó – là do trận chiến mà quân đội Pháp và Anh đã chiến đấu trong bốn ngày tiếp theo, trận chiến mà Winston Churchill đã nhắc đến như một trong những trận chiến quan trọng nhất trong lịch sử thế giới. Tuyến đầu trải dài 100 dặm (161 km) từ Verdun ở phía đông đến Paris ở phía tây, hầu hết các cuộc giao tranh diễn ra xung quanh Sông Marne và các nhánh của nó. Khu vực này là một quang cảnh tuyệt đẹp với những dòng suối, đồng cỏ, thung lũng sâu và những ngọn đồi có nhiều cây cối, mặc dù nó bị chia cắt ở phía đông và phía bắc Paris bởi đầm lầy St. Gond, một dải đất ngập nước rộng lớn khi đó gần như không thể đi qua. Trận Marne là một loạt các cuộc giao tranh nhanh chóng, dữ dội giữa các lực lượng biết rõ kết quả của nó sẽ quan trọng như thế nào. Người Pháp biết rằng thua trận có nghĩa là thua cuộc chiến, trong khi người Đức hiểu rằng bất kỳ thất bại nào trong việc chiếm Paris cũng có nghĩa là thất bại của Kế hoạch Schlieffen. Khi quân Đồng minh tấn công quân đoàn 1 và 2 của Đức, một khoảng cách dần dần nới rộng giữa các đội quân Đức. Quân Đồng minh đã khai thác khoảng cách đó bằng các cuộc tấn công của Lực lượng Viễn chinh Anh (BEF) của Pháp và Quân đoàn  số 9 của Tướng Ferdinand Foch. Sau đó, quân của Foch đã chống lại các cuộc phản công dữ dội của Đức tại đầm lầy St. Gond. Thời tiết đã chuyển từ nóng và nắng sang lạnh và mưa, và đầm lầy trở thành một bãi lầy khủng khiếp nơi những thương binh chết đuối trong các hố đạn pháo trong khi những người khác chiến đấu tay đôi, ngập sâu đến đầu gối trong bùn.

Đây không phải là cuộc chiến tranh chiến hào kinh điển sắp bắt đầu – mà là một cuộc chiến tranh cơ động hơn của tấn công và phản công, của những cuộc giao tranh chết chóc trong rừng và thung lũng, của các cuộc tấn công bằng lưỡi lê vào các vị trí trang trại. Những binh sĩ ở cả hai bên đều kiệt sức, sử dụng hết những gram năng lượng cuối cùng của họ. Một sĩ quan Pháp mô tả “những người đàn ông gầy gò, rách rưới và tả tơi, hầu hết không có ba lô, nhiều người không có súng trường, hành quân đau đớn, dựa vào gậy….” Tuy nhiên, người Pháp vẫn trụ vững. Dần dần nhận ra vị trí của mình không thể giữ vững, quân Đức rút lui về các vị trí phía sau Sông Aisne. Họ đã chịu 250.000 thương vong, người Pháp cũng vậy, trong khi BEF chịu khoảng 12.000 thương vong. Nhưng Paris đã được cứu. Tuy nhiên, cả người Đức và Đồng minh đều nhận ra rằng sườn phía bắc của họ không được giữ chặt. Bây giờ cuộc đua đến Biển Bắc bắt đầu, với người Đức tìm cách quay sang sườn của Đồng minh và đánh chiếm các cảng kênh đào, còn các đồng minh thì chiến đấu để ngăn họ làm như vậy. Mười trận chiến riêng biệt đã diễn ra trong suốt mùa thu năm 1914, không bên nào giành được lợi thế, cho đến khi đạt được thế bế tắc, các chiến hào được đào và cuộc chiến ở mặt trận phía tây, như chúng ta biết, bắt đầu.

Ngay sau Trận Marne, Tướng Helmuth von Moltke đã viết thư cho vợ mình: “Những khó khăn khủng khiếp của tình hình hiện tại của chúng ta treo trước mắt anh như một tấm rèm đen mà qua đó anh không thể nhìn thấy gì cả.” Trong vòng vài ngày, ông đã bị suy nhược thần kinh và bị cách chức chỉ huy. Trên thực tế, trận chiến kết thúc với tỷ số hòa, nhưng trên thực tế, việc quân đội Đức không đột phá được sẽ mở đường cho cuộc chiến tranh tiêu hao kéo dài mà cuối cùng phe đồng minh sẽ giành chiến thắng. Theo nghĩa đó, Trận Marne là trận chiến đã cứu nước Pháp và phe đồng minh khỏi thất bại.

CHIẾN TRANH TRÊN BIỂN: CUỘC ĐỐI ĐẦU KHỦNG KHIẾP VỚI NHỮNG CON QUÁI THÚ THÉP VÀ NHỮNG KẺ SĂN MỒI LÉN LÚT DƯỚI MẶT NƯỚC

Người Đức và người Anh đã phải vật lộn để phát triển những thiết giáp hạm lớn hơn và tốt hơn trong một thời gian. Chúng được gọi là dreadnought, theo tên của HMS Dreadnought, được chế tạo vào năm 1906, vượt trội hơn mọi tàu chiến trên biển cả vào thời điểm đó. Cuộc chạy đua vũ trang hải quân này đã góp phần rất lớn vào căng thẳng giữa Anh và Đức, đặc biệt là vì người ta biết rằng việc phát triển hạm đội hải quân tốt nhất trên thế giới là nỗi ám ảnh của Kaiser Wilhelm II. Vào đầu cuộc chiến, cả hai quốc gia đều có hạm đội chứa các thiết giáp hạm bọc thép hạng nặng hiện được gọi là lớp “siêu thiết giáp hạm” – được trang bị súng 12 hoặc 15 inch (30 hoặc 38 cm) có thể bắn đạn pháo hạng nặng ở khoảng cách 17.000 yard (16 km).

CẢ ANH VÀ ĐỨC ĐỀU CÓ HẠM ĐỘI THIẾT GIÁP HẠM LỚP SUPER-DREADNOUGHT, MỘT CHIẾC NHƯ VẬY ĐƯỢC THẤY TRONG HÌNH TRÊN.

Câu hỏi đặt ra là phải làm gì với chúng? Cuộc chạy đua vũ trang trên biển đã được dự đoán dựa trên lý thuyết rằng cốt lõi của quốc phòng một quốc gia hiện đại là một lực lượng hải quân hùng mạnh. Nhưng Thế chiến thứ nhất, với những trận chiến trên bộ lớn, đã không diễn ra theo cách đó. Hạm đội Biển khơi Đức là hạm đội đầu tiên bị Hạm đội Grand của Anh giam giữ ở Biển Bắc. Người Anh có nhiều thiết giáp hạm hơn, điều đó có nghĩa là họ gần như chắc chắn sẽ giành chiến thắng trong bất kỳ trận chiến quy mô lớn nào giữa hai hạm đội, vì vậy người Đức hy vọng sẽ dụ được người Anh vào bãi mìn hoặc các hành động mà trong đó các tàu có thể bị phá hủy từng phần.

Hai năm đầu của cuộc chiến là một thế bế tắc (một phần là do người Anh đã đọc được mã hải quân của Đức và do đó biết được kế hoạch của họ). Nhưng vào năm 1916, hai hạm đội hùng mạnh cuối cùng đã đụng độ trong Trận Jutland, đây là trận chiến duy nhất từng diễn ra giữa các thiết giáp hạm trong Thế chiến thứ nhất. Vào ngày 31 tháng 5, một nhóm hải quân Anh đã tiếp xúc vào khoảng 3:30 chiều với một phần hạm đội Đức và tham gia vào một trận đấu súng chạy với nó. Cuộc đụng độ đã đưa hạm đội chính của Đức vào, đuổi theo các tàu của Anh, gây ra thiệt hại nghiêm trọng và đánh chìm hai tàu. Nhưng bây giờ hạm đội chính của Anh đã được đưa vào trận chiến. Đến 6 giờ chiều, cuộc giao tranh đầu tiên và duy nhất giữa các thiết giáp hạm đã xảy ra, với việc Anh mất ba tàu tuần dương chiến đấu, nhưng cuối cùng người Đức đã rút lui. Hóa ra đó là một trận hòa về mặt chiến thuật, mặc dù thực tế là hạm đội Anh vẫn tiếp tục kiểm soát Biển Bắc đã mang lại cho họ chiến thắng cuối cùng.

Điều bất ngờ đối với cả hai bên là vũ khí hải quân có ảnh hưởng nhất của Thế chiến thứ nhất lại là tàu ngầm. Về mặt lý thuyết, tàu ngầm đã tồn tại trong nhiều thế kỷ, với những chiếc tàu ngầm thô sơ được sử dụng từ thời Cách mạng Hoa Kỳ, nhưng chiếc tàu ngầm hoạt động đầy đủ đầu tiên, có thể lặn, di chuyển trên mặt nước bằng động cơ diesel và phóng ngư lôi, đã được một người Mỹ gốc Ireland tên là J.P. Holland phát minh vào năm 1901. Nó đã nhanh chóng được các lực lượng hải quân trên thế giới sử dụng. Vào đầu Thế chiến thứ nhất, Anh và Pháp có đội tàu ngầm lớn nhất, tổng cộng khoảng 300 tàu, trong khi Đức chỉ có 29 tàu ngầm U-boat (Unterseeboots). Nhưng người Đức đã chế tạo 390 tàu ngầm U-boat trong suốt cuộc chiến và họ là những người thực hành chiến tranh dưới nước hiệu quả nhất.

Vào đầu cuộc chiến, các chỉ huy tàu ngầm Đức sẽ cảnh báo các tàu buôn trước khi đánh chìm chúng, cho phép thủy thủ đoàn của họ rời khỏi tàu, nhưng khi cuộc chiến trở nên chết chóc hơn, điều này đã bị bỏ rơi. Không chỉ vậy, người Đức, khi họ phong tỏa nước Anh, bắt đầu thực hành chiến tranh tàu ngầm “không hạn chế”, điều đó có nghĩa là họ đánh ngư lôi bất kỳ tàu nào, dân sự hay quân sự, đang tiến đến các cảng của Anh. Điều này rất hiệu quả cho mục đích phong tỏa, nhưng nó có tác động rất tiêu cực đến nỗ lực chiến tranh của Đức, vì nó giúp đưa Hoa Kỳ vào cuộc.

CUỘC CHIẾN TRÊN KHÔNG: MỘT LOẠT CÁC CHIẾC ĐẦU TIÊN-NHỮNG CHIẾN ĐẤU CƠ ĐẦU TIÊN, NHỮNG CHIẾC MÁY BAY NÉM BOM ĐẦU TIÊN

Lần đầu tiên sử dụng hàng không trong quân sự là trong Chiến tranh Cách mạng Pháp khi người Pháp sử dụng khinh khí cầu quan sát để do thám người Áo. Khí cầu đã được sử dụng để quan sát trong nhiều cuộc chiến tranh kể từ thời điểm đó. Nhưng vào năm 1900, Bá tước Ferdinand von Zeppelin đã phát triển “tàu bay cứng có điều khiển” – nói cách khác, một khí cầu có động cơ cơ học, có thể sử dụng để trinh sát có mục đích. Sau khi anh em nhà Wright phát triển máy bay cánh cố định vào năm 1903, bầu trời bắt đầu tràn ngập vũ khí.

Vào đầu cuộc chiến, người Pháp, người Anh và người Đức đều có các đơn vị chỉ huy không quân quân sự, trong đó máy bay hai cánh cố định chủ yếu được sử dụng để trinh sát. Tuy nhiên, ngay sau đó, phi hành đoàn của những chiếc máy bay này bắt đầu bắn nhau (trong một trường hợp, ném gạch đá vào nhau), và họ sớm được trang bị súng máy.

Nhà thiết kế máy bay người Đức Anthony Fokker đã phát triển thiết bị “interrupter”, để súng máy có thể bắn xuyên qua cánh quạt của máy bay. Điều này ban đầu mang lại cho người Đức một lợi thế lớn so với máy bay Anh và Pháp, những máy bay có súng được gắn trên hai cánh hoặc được bắn bởi các xạ thủ ngồi ở ghế sau. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, các máy bay như Sopwith Camel và Spad 13 đã cân bằng thế trận và kỷ nguyên của những phi công xuất sắc bắt đầu. Những phi công như Manfred von Richthofen (Nam tước Đỏ), Ernst Udet, René Fonck, William Bishop và Eddie Rickenbacker đã thu hút trí tưởng tượng của công chúng khi họ chỉ huy các phi đội vào trận chiến trên không ở mặt trận phía tây.

TRONG QUÁ KHỨ, CHIẾN TRANH DIỄN RA TRÊN MẶT ĐẤT VÀ TRÊN BIỂN, NHƯNG GIỜ ĐÂY, VỚI PHÁT MINH MÁY BAY CÓ CÁNH CỐ ĐỊNH CỦA ANH EM WRIGHT VÀO NĂM 1903, CÁC TRẬN CHIẾN SẼ DIỄN RA TRÊN BẦU TRỜI.

Trong ảnh là máy bay một chỗ ngồi với súng Vickers và Lewis, do Hispano-Sulan sản xuất, 1914-18,

Bởi vì máy bay cánh cố định vào thời điểm đó tương đối nhỏ, các cuộc ném bom tầm xa của Đức vào đầu chiến tranh được thực hiện bằng khí cầu Zeppelin, có tốc độ tối đa hơn 100 dặm (161 km) một giờ và có thể thả 4.000 pound (1.814 kg) bom. Cuộc tấn công đầu tiên bằng khí cầu Zeppelin xuống London vào tháng 5 năm 1915 đã giết chết 28 người. Các cuộc tấn công sau đó đã giết chết tới 600 người Anh, nhưng khí cầu Zeppelin tỏ ra quá dễ bị tổn thương trước các cuộc tấn công của máy bay chiến đấu và phòng không của Anh, vì vậy Bộ tư lệnh tối cao Đức đã dừng các cuộc tấn công như vậy vào năm 1917, sau khi mất 77 khí cầu Zeppelin. Vua George V đã từ chối sơ tán trong các cuộc tấn công này, mặc dù được các cố vấn thúc giục, đưa ra một tấm gương truyền cảm hứng cho người dân Anh, những người chỉ sau hơn 20 năm nữa phải chịu đựng những cuộc ném bom tồi tệ hơn nhiều.

CUỘC SỐNG TRONG CHIẾN HÀO TỰ SÁT

Chiến hào – “hào tự sát” theo cách gọi của những người lính Anh ở tuyến đầu – là biểu tượng của Thế chiến thứ nhất ở mặt trận phía tây, nơi binh lính ở cả hai bên sống trong bùn, những cái hố trên mặt đất, từ đó họ vượt lên trên, thường là để chết.

Đối diện nhau trên một vùng đất không người có chiều rộng trung bình khoảng 200 yard (183 m), nhưng đôi khi có thể chỉ ngắn tới 50 feet (15 m), các chiến hào uốn lượn khắp châu Âu từ Thụy Sĩ đến Biển Bắc.

Có lẽ tổng cộng 12.000 dặm (19.312 km) chiến hào đã được đào ở mặt trận phía tây. Một số là những công trình phức tạp. Các chiến hào của Đức sau này trong chiến tranh là những đường hầm sâu, liên kết với nhau, rải rác các lô cốt bê tông cốt thép, nhưng nhiều chiến hào chỉ là những chỗ trũng nông trên mặt đất. Tuy nhiên, hầu hết các chiến hào đều là một phần của một hệ thống. Chiến hào tiền tuyến, với bậc bắn bằng gỗ được xây dựng bên trong, nơi binh sĩ có thể bắn kẻ thù, được hỗ trợ bởi các chiến hào tiếp tế xa hơn ở phía sau, và tất cả đều được kết nối bằng các chiến hào thông tin liên lạc.

Mục đích của tất cả các chiến hào, tất nhiên, là để ẩn náu khỏi hỏa lực pháo binh dữ dội trút xuống cả hai bên. Giữa các cuộc pháo kích và tấn công, những người lính tuân theo những thói quen mới hàng ngày vô cùng khó chịu, bao gồm việc tẩy rận cho nhau với nến, điều trị “chân chiến hào” hoặc chân ngâm nước, một căn bệnh nghiêm trọng do tiếp xúc lâu dài với các vũng nước chắc chắn hình thành ở đáy chiến hào, và nhìn sang phía bên kia qua ống tiềm vọng – thò đầu ra ngoài không thể tránh khỏi việc bị bắn tỉa. Vào ban đêm, vùng đất không người này tràn ngập các nhóm trinh sát, mỗi nhóm ra ngoài để tìm kiếm thông tin và bắt giữ tù binh.

Ở khắp mọi nơi, bạn đồng hành thường trực của người sống là người chết. Bị bỏ lại ở vùng đất không người, vì việc di dời họ thường quá nguy hiểm, người chết trở thành một phần của cảnh quan. Sĩ quan Anh Edwin Vaughan đã viết trong nhật ký của mình về việc ngồi trong chiến hào nhìn chằm chằm vào một xác chết: “Anh ta có một lỗ hình thoi trên trán, qua đó một túi não nhỏ treo lủng lẳng, và đôi mắt thì cụp xuống. Trông anh ấy rất kinh khủng, nhưng tôi đã sớm quen với anh ta.”

ẢNH Ở ĐÂY LÀ NHỮNG NGƯỜI LÍNH TRONG CHIẾN HÀO CỦA HỌ, CHIẾN HÀO THƯỜNG ĐƯỢC GỌI LÀ “HÀO TỰ SÁT” VÀ NÓ TRỞ THÀNH BIỂU TƯỢNG CỦA CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT Ở MẶT TRẬN PHÍA TÂY.

TRẬN TANNENBERG: NGƯỜI ĐỨC TIÊU DIỆT NGA TRONG MỘT TRẬN CHIẾN LỚN Ở MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG

Sa hoàng Nicholas II gọi đó là “một tai họa lớn”, và đúng là như vậy mặc dù đối với người Đức, đó là chiến thắng hoàn toàn và mang tính quyết định nhất của họ trong cuộc chiến, chiến thắng mà họ sẽ không có được ở mặt trận phía tây sau Trận Marne lần thứ nhất. Tuy nhiên, gần như chắc chắn là kết quả sẽ ngược lại.

Khi quân Đức dồn phần lớn lực lượng của mình vào cuộc tấn công Bỉ và Pháp, họ chỉ còn lại một quân đoàn, Quân đoàn số 8, để bảo vệ Đông Phổ. Quân đoàn số 8 bị áp đảo về quân số so với hai quân đoàn của Nga. đối mặt với nó. Do đó, khi quân Nga xâm lược Phổ vào tháng 8 năm 1914, lẽ ra Quân đoàn số 1 và số 2 của họ chỉ cần tóm gọn Quân đoàn  số 8 của Đức trong thế gọng kìm và bóp chết nó là điều dễ dàng. Nhưng các chỉ huy người Nga, Tướng Rennenkampf của Quân đoàn số 1 và Tướng Samsonov của Quán đoàn số 2, không ưa nhau, kể từ khi Samsonov phàn nàn rằng Rennenkampf đã không hỗ trợ sư đoàn của ông trong Trận Mukden năm 1905. Trên thực tế, hai người đàn ông đã xảy ra xung đột vì sự cố này.

Mối cựu thù này đã khiến người Nga phải trả giá đắt, nhưng lúc đầu không thành vấn đề vì hai đội quân tiến lên trên các cánh riêng biệt, thăm dò các sườn quân Đức khi họ rút lui. Nhưng sau đó, chỉ huy Quán đoàn số 8 của Đức đã được thay thế bởi Thống chế Pavel von Hindenburg, người đã được triệu tập trở lại khi đang nghỉ hưu, và ông ta đã mang theo tham mưu trưởng của mình, Tướng Erich Ludendorff.

Hai nhân vật này, đặc biệt là Lundendorff, đã thay đổi dòng chảy của lịch sử. Nhờ vào trí thông minh vượt trội, các tướng lĩnh Đức nhận ra rằng hai quân đoàn Nga, mà chỉ huy của chúng không liên lạc với nhau, đã trôi dạt xa nhau hơn những gì mỗi bên biết rõ. Do đó, Hindenburg và Ludendorff đã tập trung lực lượng của họ vào riêng quân đoàn của Samsonov, bao vây và tiêu diệt nó trong hai ngày vào cuối tháng Tám, trong khi Rennenkampf, vẫn còn nuôi mối hận thù cũ, không có động thái nào để hỗ trợ cho Quân đoàn số 2.

95.000 lính Nga bị bắt, 50.000 người bị giết hoặc bị thương, và có lẽ 10.000 người trốn thoát. Samsonov, không thể nhìn mặt sa hoàng, đã tự sát. Hindenburg và Ludendorff sau đó tiếp tục đẩy lùi quân đoàn của Rennenkampf  trở lại Nga. Cục diện cuối cùng của trận chiến trên mặt trận phía Đông – được gọi là chiến thắng hoàn toàn nhất của Đức trong cuộc chiến – là cho phép người Đức tập trung vào mặt trận phía Tây, biết rằng mình không phải đối mặt với mối đe dọa nghiêm trọng nào từ phía đông. Đối với người Nga, thất bại tại Tannenberg đã góp phần đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền sa hoàng, vốn đã đặt hy vọng sự tồn vong vào chiến thắng trước Đức.

TRẬN TANNENBERG LÀ CHIẾN THẮNG LỚN CỦA ĐỨC Ở MẶT TRẬN PHÍA ĐÔNG, CHỨNG MINH NĂNG LỰC QUÂN SỰ CỦA ĐỨC TRƯỚC NGA.

Bình luận về bài viết này