
Annie Jaconsen
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG MƯỜI TÁM
Sự sụp đổ
Vào mùa thu năm 1951, cuộc sống của Tiến sĩ Leopold Alexander ở Boston đã trở lại bình thường. Đã bốn năm trôi qua kể từ khi ông làm cố vấn chuyên môn cho Bộ trưởng Chiến tranh trong phiên tòa xét xử các bác sĩ Nuremberg. Kể từ khi trở về nhà, Tiến sĩ Alexander tiếp tục lên tiếng phản đối các tội ác y khoa, các thí nghiệm cưỡng bách trên người và nền y học dưới chế độ toàn trị. Ông là đồng tác giả của Bộ luật Nuremberg, bộ nguyên tắc nghiên cứu hiện đang hướng dẫn các bác sĩ trên toàn thế giới. Nguyên tắc đầu tiên của Bộ luật Nuremberg là yêu cầu phải có sự đồng ý tự nguyện được thông tin đầy đủ theo chuẩn mực tuyệt đối. Tiến sĩ Alexander đã thuyết trình, viết báo và hành nghề y. Phiên tòa xét xử các bác sĩ đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông, bằng chứng là gần 500 trang nhật ký. Bất cứ khi nào có dịp, ông đều cung cấp dịch vụ miễn phí cho các nạn nhân của chế độ Đức Quốc xã.
Một ngày mùa thu năm 1951, Tiến sĩ Alexander được một nhóm cứu trợ có tên là Văn phòng Cứu hộ Quốc tế liên lạc. Nhóm này đang tổ chức hỗ trợ y tế cho một số người sống sót sau trại tập trung trước đây đã bị các bác sĩ Đức Quốc xã thí nghiệm trong chiến tranh và hỏi liệu Tiến sĩ Alexander có thể giúp được không. Tiến sĩ Alexander đã liên lạc với người bạn và đồng nghiệp của mình tại Bệnh viện Beth Israel ở Boston, bác sĩ phẫu thuật trưởng Tiến sĩ Jacob Fine, và hai người đã giúp sắp xếp để những nạn nhân sống sót đó đến Massachusetts điều trị y tế. Trong số đó có một phụ nữ là Janina Iwanska, 27 tuổi, một cựu tù nhân tại trại tập trung Ravensbrück. Vào ngày 14 tháng 11 năm 1951, Iwanska đã đến Cảng New York trên một tàu biển của Hy Lạp, SS Neptunia.
Tại phiên tòa xét xử bác sĩ, Janina Iwanska đã từng đưa ra phần lớn lời khai của mình với Tiến sĩ Alexander đứng cạnh cô, chỉ vào những vết thương của mình và cung cấp cho các thẩm phán một bản phân tích y khoa chuyên nghiệp về những gì các bác sĩ Đức Quốc xã làm với cô trong chiến tranh. Lời khai của Iwanska thường được coi là một trong những bằng chứng mạnh mẽ nhất được trình bày tại phiên tòa. Tại Ravensbrück, cô đã bị bác sĩ phẫu thuật Waffen-SS, Tiến sĩ Karl Gebhardt, bẻ gãy và cắt bỏ các mảnh xương ống chân. Sau đó, Tiến sĩ Gebhardt cố tình ra lệnh làm lây nhiễm vi khuẩn vào vết thương phẫu thuật của Iwanska khiến nó hoại tử, để ông có thể điều trị bằng thuốc sulfa để xem thuốc có hiệu quả không. Thật là một phép màu khi Janina Iwanska vẫn sống sót. Bây giờ, chín năm sau, cô vẫn tiếp tục phải chịu đựng nỗi đau thể xác khủng khiếp. Cô đi khập khiễng vì xương ống chân bị cắt đứt. Mục đích của chuyến đi đến Hoa Kỳ là để Iwanska có thể phẫu thuật tại Bệnh viện Beth Israel ở Boston nhằm giúp giảm bớt cơn đau này.
Tiến sĩ Gebhardt là cấp dưới trực tiếp của Thiếu tướng Tiến sĩ Schreiber tại Ravensbrück. Gebhardt là một trong 23 bị cáo bị xét xử tại phiên tòa xét xử các bác sĩ. Y bị kết án, bị tuyên án tử hình và bị treo cổ tại sân Nhà tù Landsberg vào tháng 6 năm 1948. Còn Tiến sĩ Schreiber thì đang làm việc cho Không quân Hoa Kỳ tại Texas.
Ngay trong tháng Janina Iwanska đến Hoa Kỳ, một ghi chú ngắn xuất hiện trên một tạp chí y khoa nêu rằng một bác sĩ người Đức tên là V Schreiber vừa gia nhập đội ngũ nhân viên của Trường Y khoa Không quân Hoa Kỳ tại Texas. Thật ngẫu nhiên, Tiến sĩ Leopold Alexander là độc giả thường xuyên của tạp chí này. Khi tình cờ thấy tên của Schreiber – cái tên quen thuộc vì ông đã từng nghe qua lời khai của Tiến sĩ Schreiber tại phiên tòa xét xử những tên trùm tội phạm chiến tranh ở Nuremberg, Alexander đã vô cùng kinh hãi. Ông liền viết thư cho giám đốc của Hiệp hội Y khoa Massachusetts ngay lập tức. “Tôi coi nhiệm vụ của mình là thông báo với ông rằng hồ sơ cho thấy Tiến sĩ Schreiber là một sự bổ sung hoàn toàn không mong muốn vào Y khoa Hoa Kỳ – thực tế là một sự bổ sung không thể chấp nhận được”, Alexander giải thích. “Ông ta đã từng là đồng phạm và người bao che những tội ác chiến tranh y khoa tồi tệ nhất do Chính phủ Đức Quốc xã thực hiện trong chiến tranh, và là một nhân vật chủ chốt trong việc làm sai lệch các tiêu chuẩn đạo đức của các thành viên trong ngành y tại Đức trong chiến tranh”. Tiến sĩ Alexander yêu cầu ngăn cấm Tiến sĩ Walter Schreiber hành nghề y tại Hoa Kỳ. Khi không nhận được phản hồi như mong đợi, ông đã đưa vấn đề này lên tờ Boston Globe.
Vào khoảng hơn 10:30 tối ngày 8 tháng 12 năm 1951, tại San Antonio, Texas, Tiến sĩ Walter Schreiber nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Ông đã ở Mỹ được ba tháng, và đây là giờ bất thường để ông nhận được một cuộc gọi điện thoại. Không phải như thể Tiến sĩ Schreiber là một bác sĩ bệnh viện trực chờ để nghe tin về một bệnh nhân bị bệnh. Với tư cách là một bác sĩ nghiên cứu tại Căn cứ Không quân Randolph, ông dành phần lớn thời gian để giảng về các vấn đề được phân loại cho một nhóm nhỏ các bác sĩ khác.
Đôi khi, ông khoe khoang với các bác sĩ khác về lĩnh vực chuyên môn cực kỳ hiếm có của mình. Ông thường nói với các đồng nghiệp rằng mình đặc biệt có giá trị đối với quân đội Hoa Kỳ vì kiến thức của ông rất bí truyền. Tiến sĩ Schreiber biết mọi thứ cần biết về chiến tranh mùa đông và chiến tranh sa mạc. Về vệ sinh, vắc-xin và bệnh dịch hạch. Tại câu lạc bộ sĩ quan tại Trường Y khoa Hàng không, nơi ông giảng bài, ông có thể to mồm khoác lác, kể một phiên bản rất trong sạch về cuộc sống đầy màu sắc của mình. Ông thích kể những câu chuyện dài dòng về bản thân mình: ông đã từng là tù nhân của Liên Xô sau khi Berlin sụp đổ như thế nào; ông đã dành nhiều năm trong nhà tù Lubyanka khét tiếng ở Moscow ra sao; và cách thức ông đã chữa bệnh cho Thống chế Paulus trong một ngôi nhà an toàn của Nga khi Paulus bị ốm như thế nào. Nhưng điều mà Tiến sĩ Schreiber không bao giờ thảo luận với bất kỳ ai tại Căn cứ Không quân Randolph là những gì ông đã làm trước khi Berlin sụp đổ – từ năm 1933 đến năm 1945.
Schreiber bắt điện thoại và nhận được lời chào hỏi từ một người đàn ông tự xưng tên là Brown.
“Tôi gọi từ tờ Boston Globe“, Brown nói.
Ông Brown không hỏi tên Schreiber. Thay vào đó, Brown hỏi có phải đây là “số điện thoại 61-210 ở San Antonio, Texas” không. Bác sĩ Schreiber nói với Brown rằng số đó là đúng.
Có một khoảng lặng. Sau này Tiến sĩ Schreiber kể lại với tình báo quân sự rằng mình đã hỏi ông Brown rằng ông ta gọi mình có chuyện gì vào thời điểm này trong đêm.
“Ông có phải là người đã thực hiện thí nghiệm trên cơ thể những cô gái Ba Lan còn sống bị giam giữ trong các trại tập trung của Đức trong Thế chiến thứ II không?” Brown hỏi.
Schreiber nói với Brown rằng mình chưa bao giờ liên quan theo bất kỳ cách nào đến các thí nghiệm có bản chất như vậy. “Tôi chưa từng làm việc trong trại tập trung”, Schreiber nói. “Tôi chưa bao giờ trong suốt cuộc đời mình tiến hành, ra lệnh hoặc dung túng cho các thí nghiệm trên con người thuộc bất kỳ quốc tịch nào”.
Brown nói với Schreiber mình cho rằng Schreiber đã vượt qua cuộc điều tra trước khi được đưa đến Mỹ để tiến hành công việc bí mật của Không quân Hoa Kỳ.
Schreiber cho biết: “Tôi đã được điều tra kỹ lưỡng”.
Brown cảm ơn Schreiber. Ông cho biết ông chỉ đang kiểm tra một câu chuyện được một bác sĩ ở Boston, Tiến sĩ Leo Alexander, chuyển tiếp cho ông.
Bác sĩ Schreiber cúp máy. Ông không nói với ai về cuộc gọi đêm đó.
Sáng hôm sau, tờ Boston Globe đăng một bài viết gây chấn động với tiêu đề gây chú ý: “Cựu quan lớn Đức Quốc xã tại Không quân Hoa Kỳ, theo lời một bác sĩ ở đây”. Tin tức nhanh chóng lan đến Texas. Bác sĩ Schreiber được triệu tập đến Văn phòng Điều tra Đặc biệt (OSI) tại Căn cứ Không quân Randolph để cung cấp thông tin chi tiết về cuộc gọi điện thoại với ông Brown vào tối hôm trước. Schreiber xác nhận rằng “trong Thế chiến II, ông đã giữ một chức vụ trong Wermacht tương tự như Tổng Y sĩ của Quân đội Hoa Kỳ”. Nhưng câu chuyện của ông, cuộc đấu tranh của ông, ông nói với viên chức điều tra, còn hơn thế nữa. Schreiber kể lại việc ông bị bắt ở Berlin, cuộc sống của ông như một tù nhân chiến tranh ở Liên Xô và cách ông “làm nhân chứng truy tố trong Phiên tòa xét xử Tội ác chiến tranh Nuremberg”. Schreiber giải thích rằng do “giả vờ tuân thủ” với người Nga nên ông đã được “trao một chức vụ cao tại Sở Cảnh sát Đông Đức”. Thay vì nhận công việc đó, ông đã trốn thoát. Schreiber đã nói dối Văn phòng Điều tra Đặc biệt và nói rằng ông đã gặp Dr Alexander tại Nuremberg. Rằng ông đã được “chính Bác sĩ Alexander xác nhận là khỏe mạnh”.
Schreiber nói với điều tra viên không quân rằng mình chắc chắn người Nga đứng sau tất cả những chuyện này. Ông vừa viết một bản thảo có tên “Behind the Iron Curtain (Đằng Sau Bức Màn Sắt)”, Schreiber nói, và mặc dù ông vẫn chưa tìm được nhà xuất bản, ông tin rằng người Nga đã có được một bản sao của nó. “Ông ấy cho rằng Tình báo Liên Xô có lẽ đang cố gắng vu khống ông bằng cách ám chỉ rằng ông đã tham gia vào các thí nghiệm tàn bạo trên đối tượng là con người”, viên chức điều tra viết trong báo cáo của mình. Tuyên bố đầy đủ của Schreiber đã được chuyển đến trụ sở không quân. Các nhân viên an ninh tại Căn cứ Không quân Randolph không có quyền hạn cho phép họ tiếp cận hồ sơ JIOA của Tiến sĩ Schreiber hoặc báo cáo an ninh OMGUS của ông. Họ không biết Schreiber thực sự là ai. Họ chắc chắn không biết rằng ông là một nhà tư tưởng Đức Quốc xã và là cựu Tổng Y sĩ của Đệ tam Đế chế. Tất cả những gì mọi người tại Trường Y học Hàng không có thể đều biết là ông là một nhà khoa học người Đức tham gia Chiến dịch Kẹp giấy. Cơ sở này đã tuyển dụng 34 nhà khoa học người Đức.
Vào ngày 14 tháng 12, FBI đã vào cuộc điều tra. Tiến sĩ Leopold Alexander, người tố cáo Schreiber tại Boston, là một chuyên gia nổi tiếng thế giới về tội phạm y khoa. Những lời cáo buộc của ông phải được xem xét nghiêm túc. Nhưng lực lượng không quân không muốn từ bỏ Tiến sĩ Schreiber ngay lập tức. Để thu hút sự ủng hộ cho ông, một bản ghi nhớ được phân loại là Bí mật đã được lưu hành trong số những người liên quan, báo trước “Trình độ chuyên môn và cá nhân của Tiến sĩ Walter Schreiber”. Bản ghi nhớ nêu rõ, “Ông ấy sở hữu một tư duy phân tích, khả năng phán đoán phê phán, tính khách quan và rất nhiều thông tin chi tiết, chính xác”. Schreiber sở hữu “bí quyết về các biện pháp y tế phòng ngừa, quân sự và dân sự, trong điều kiện chiến tranh toàn diện”. Ông đã “có thông tin chi tiết về các vấn đề y tế liên quan đến chiến tranh sa mạc và ‘Bắc Cực'” và đã “đóng góp cho Zeiss Atlas of Epidemology (Bộ Bách Khoa về Dịch tễ học“. Ông đã là “tù nhân chiến tranh ‘chủ chốt’ ở Nga trong ba năm rưỡi [và] ông có khả năng cung cấp thông tin có thẩm quyền và làm cố vấn về các vấn đề y tế cực kỳ quan trọng ở Nga.”
Với sự phẫn nộ của công chúng về bài báo của Globe, tình hình leo thang nhanh chóng. Lầu Năm Góc đã vào cuộc và vấn đề được chuyển đến văn phòng của Tổng Y sĩ của Không quân Hoa Kỳ. Vị trí đó hiện do không ai khác ngoài Harry Armstrong, người mới được thăng chức thiếu tướng, nắm giữ. Armstrong biết rằng tình hình có thể nhanh chóng vượt khỏi tầm kiểm soát. Và hầu như không ai có nhiều thứ để mất, cả về mặt cá nhân và nghề nghiệp, hơn ông. Với sự hỗ trợ của Tiến sĩ Hubertus Strughold, Harry Armstrong đã đích thân tuyển dụng 58 bác sĩ Đức Quốc xã cũ để làm việc tại Trung tâm Y tế Hàng không Không quân Hoa Kỳ ở Heidelberg, 5 người trong số họ đã bị bắt vì tội ác chiến tranh, 4 người đã bị xét xử tại Nuremberg, 2 người trong số họ đã bị kết án tại Nuremberg, và 1 người trong số họ đã được Không quân Hoa Kỳ tha bổng và sau đó được Không quân Hoa Kỳ thuê lại để làm việc tại Hoa Kỳ trước khi bị phát hiện là thiếu năng lực và bị sa thải. Điều đó không nói lên điều gì về 34 bác sĩ đã được thuê làm việc tại Trường Y khoa Hàng không, nhiều người trong số họ là những người theo chủ nghĩa Đức Quốc xã cũng như cựu thành viên của SS và SA. Vụ bê bối Schreiber có thể gây ra hiệu ứng domino, làm sáng tỏ lý lịch đáng ngờ của Tiến sĩ Strughold, Tiến sĩ Benzinger, Tiến sĩ Konrad Schäfer, Tiến sĩ Becker-Freyseng, Tiến sĩ Schröder, Tiến sĩ Ruff và nhiều người khác.
Thiếu tướng Harry Armstrong đã viết thư cho giám đốc tình báo của không quân về Thiếu tướng Tiến sĩ Schreiber. “Tôi đã được tư vấn bởi Chỉ huy, Trường Y khoa Hàng không Không quân Hoa Kỳ, Căn cứ Không quân Randolph, Texas, rằng họ gần đây đã chuyển đến văn phòng của ngài một yêu cầu về một hợp đồng mới cho Bác sĩ Walter Schreiber cho đến tháng 6 năm 1952,” Armstrong viết. “Thông tin gần đây cho thấy Bác sĩ Schreiber có thể đã bị liên lụy vào các tội ác chiến tranh y khoa ở Đức trong Thế chiến II, và sự hiện diện của ông ở đất nước này đã gây ra rất nhiều chỉ trích. Do đó, văn phòng này có quan điểm kiên quyết rằng Dịch vụ Y tế Không quân không thể cộng tác với Bác sĩ Schreiber quá hợp đồng sáu tháng mà ông ta hiện đang được thuê làm.” Armstrong nói thêm, “Tốt hơn là nên chấm dứt hợp đồng này ngay cả trước khi hết hạn.” Armstrong đảm bảo rằng chỉ huy Trường Y khoa Hàng không, Thiếu tướng Otis Benson, “sẽ đồng ý với khuyến nghị này.” Tướng Benson cũng có lý do tương tự để muốn vụ bê bối Schreiber lặng lẽ biến mất. Sau chiến tranh, Benson đã từng là giám sát viên kỹ thuật của các nhà khoa học Đức làm việc tại Trung tâm Y tế Hàng không Không quân Lục quân ở Heidelberg.
Hai tuần sau khi vụ bê bối nổ ra, Tiến sĩ Schreiber được thông báo rằng hợp đồng của ông sẽ không được gia hạn. Tướng Benson đã đích thân báo tin. Theo Schreiber, Benson cũng đề xuất một kế hoạch thay thế bí mật liên quan đến sự nghiệp tương lai của Schreiber tại Hoa Kỳ. Trong một bản tuyên thệ, Schreiber tuyên thệ rằng Tướng Benson “tuyên bố rằng ông cảm thấy chắc chắn rằng các dịch vụ của tôi có thể được sử dụng trong các nhánh khác của chính phủ hoặc trong các trường y, và đề nghị hỗ trợ trong việc tìm kiếm một vị trí cho tôi.”
Ở Boston, vấn đề này tiếp tục gây xôn xao báo chí. Câu chuyện về Janina Iwanska là tin tức mà mọi người quan tâm muốn đọc. Bất chấp những gì đã xảy ra với cô trong chiến tranh, Janina Iwanska vẫn là một phụ nữ trẻ năng động, xinh đẹp và đáng tin cậy; gần như không thể không kinh ngạc trước sức chịu đựng của cô. Sau khi được giải phóng khỏi Ravensbrück, cô đã chuyển đến Paris, nơi cô làm việc với tư cách là một nhà báo cho Đài phát thanh Châu Âu Tự do. Cô cũng làm phóng viên tại Paris cho một số tờ báo Ba Lan ở Tây Âu.
Khi Iwanska bị làm vật thí nghiệm ở Ravensbrück, cô mới chỉ mười bảy tuổi. Trong thời gian bị giam giữ ở đó, cô và một số tù nhân nữ khác đã có những bước đi đáng chú ý để đưa thông tin ra bên ngoài trại về những gì các bác sĩ Đức Quốc xã đang làm tại Ravensbrück. Với mục tiêu truyền đạt thông điệp của họ đến Vatican, BBC và Hội Chữ thập đỏ Quốc tế, Iwanska và bốn phụ nữ khác đã gửi những tin nhắn bí mật cho người thân của họ bên ngoài trại. Đáng chú ý, một tù nhân người Pháp tên là Germaine Tillion đã chụp ảnh vết thương của những người phụ nữ, sau đó lén mang cuộn phim ra khỏi trại. Câu chuyện được in trên báo chí ngầm của Ba Lan trong chiến tranh, thông báo cho thế giới về các thí nghiệm y tế ở Ravensbrück. Câu chuyện cuối cùng đã được BBC đưa tin, như những người phụ nữ đã hy vọng.
Bây giờ, với câu chuyện Schreiber đang thu hút sự chú ý, vào tháng 1 năm 1951, các đặc vụ FBI đã sắp xếp để phỏng vấn Janina Iwanska tại Boston. Dưới lời tuyên thệ và từ một bức ảnh, cô đã xác định Tiến sĩ Schreiber là một bác sĩ cấp cao đã giám sát các thí nghiệm y khoa tại Ravensbrück.
“Làm sao bà biết được Tiến sĩ Schreiber, người mà bà nhìn thấy ở Trại tập trung ở Đức năm 1942 và 1943, chính là Tiến sĩ Walter Schreiber hiện đang ở San Antonio?” một đặc vụ FBI hỏi bà.
“Ba tuần trước, nhà báo đến từ Boston Post cho tôi xem khoảng năm mươi (50) bức ảnh và họ hỏi tôi có biết bức nào là Tiến sĩ Schreiber không,” Iwanska nói. Cô mô tả cách cô không gặp khó khăn gì khi chọn ra bức ảnh của Schreiber trong số 50 bức ảnh được đưa cho cô. “Tôi đã nhìn thấy khuôn mặt này trong nhóm bác sĩ ở Ravensbrück,” cô nói. “Sau đó, họ hỏi tôi có biết tên Schreiber không. Tôi nói với họ, ‘Tôi biết tên Schreiber. “
Tiến sĩ Schreiber, trong một cuộc phỏng vấn riêng, tuyên bố rằng ông không liên quan gì đến các thí nghiệm ở Ravensbrück, rằng ông thậm chí chưa từng đến thăm trại tập trung nào, và rằng ông chưa từng gặp Janina Iwanska, người đã cáo buộc ông về những hành động vô lý. Đáp lại, Janina Iwanska đã nói như sau: “Tôi đã được Tiến sĩ Gebhart phẫu thuật chân…. Trong lần băng bó đầu tiên sau các ca phẫu thuật, tôi đã nói chuyện với ông ấy. Tôi hỏi Tiến sĩ Gebhart tại sao họ lại thực hiện ca phẫu thuật đó và họ trả lời, ‘Chúng tôi có thể thực hiện thí nghiệm vì bạn bị kết án tử.’ Con số [xăm trên] chân tôi là T. K. M. III. Nếu Tiến sĩ Schreiber không nhớ tên tôi, tôi chắc có lẽ ông ấy có thể nhớ con số thí nghiệm của tôi.”
Janina Iwanska cho biết bà chắc chắn rằng Tiến sĩ Schreiber đang ở trại tập trung; bà đã tận mắt nhìn thấy ông. Sau khi thực hiện các ca phẫu thuật trên 74 phụ nữ, bà giải thích, có một hội nghị bác sĩ tại trại tập trung.
“Cô có tham dự Hội nghị Bác sĩ không?” Đặc vụ FBI hỏi.
“Có, bởi vì mọi phụ nữ tham gia thí nghiệm đều được cho vào [phòng hội nghị] và Gebhart đã giải thích với các bác sĩ khác về những gì ông đã làm.”
“Bạn có nhớ ngày diễn ra hội nghị này của Tiến sĩ Gebhart và Tiến sĩ Schreiber về thí nghiệm của bạn không?”
Janina Iwanska cho biết: “Tôi nghĩ sự việc xảy ra khoảng ba tuần sau chiến dịch ngày 15 tháng 8 năm 1942”.
“Có ai trong số những người bị thí nghiệm tử vong vì thí nghiệm không?”
“Có. Năm người đã chết 48 giờ sau ca phẫu thuật và sáu người bị bắn sau ca phẫu thuật”, Iwanska nói.
“Bạn có biết tên những người đã chết trong cuộc phẫu thuật này không?”
“Tôi có danh sách ở nhà. Tôi đã gửi tên đến Liên Hiệp Quốc. Họ có tất cả các tài liệu. Có 74 người đã tham gia thí nghiệm.”
“Bạn có biết Tiến sĩ Schreiber có ra lệnh thực hiện những thí nghiệm này không?”
“Tôi không biết liệu ông ấy có ra lệnh hay không. Tôi chỉ biết là ông ấy rất quan tâm đến việc đó”, bà nói.
Trở lại Texas, Tiến sĩ Schreiber bắt đầu lên kế hoạch trốn sang Argentina. Ông viết thư cho cô con gái đã kết hôn của mình, Elisabeth van der Fecht, đang sống tại San Isidro, Buenos Aires. Ông yêu cầu cô cung cấp thông tin về cách ông có thể xin thị thực nhanh chóng. FBI đã chặn thư của Schreiber.
“Con sẽ có thể xin được thị thực cho tất cả mọi người trong vòng 14 ngày”, con gái của Schreiber hứa. “Thành thật mà nói, chúng ta luôn lo sợ điều gì đó tương tự sẽ xảy ra… Mọi thứ bắt đầu rất tốt và có vẻ tuyệt vời. Ngôi nhà đẹp của cha, đồ đạc mới của cha….” Cô đảm bảo với cha mình rằng cô có thể giúp lấy giấy tờ cần thiết để vào Argentina. “Nếu cha muốn chúng con thực hiện các bước, hãy gửi cho chúng con các giấy tờ cần thiết”, Elisabeth viết. “Dù sao thì rủi ro cũng sẽ ít hơn nhiều so với việc cha phải đến Đức. Vì Chúa, cha đừng quay lại.”
Vào giữa tháng 1, JIOA đã cân nhắc. Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân đã quyết định rằng cần phải hồi hương Tiến sĩ Schreiber. “Lý do yêu cầu hồi hương: Tiến sĩ Schreiber về cơ bản không phải là nhà khoa học nghiên cứu, và do đó, tính hữu ích của ông chỉ giới hạn ở Trường Y khoa Hàng không”, một bản ghi nhớ viết. “Những lời chỉ trích gần đây và công luận thù địch đã nhắm đến Trường Y khoa Hàng không, trong việc cáo buộc Tiến sĩ Schreiber, với tư cách là một Sĩ quan Y khoa cấp cao của Đức Quốc xã, đã có liên quan đến các thí nghiệm tàn bạo trên các nạn nhân trại tập trung. Trường Y khoa Hàng không và Tổng Y sĩ không muốn chịu trách nhiệm về Schreiber… vì những lời chỉ trích trên.”
Bộ tư lệnh quân đội tại Heidelberg, Đức, không đồng ý. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1952, quân đội đã gửi một bức điện tín có ghi chú “Bí mật” tới JIOA, được viết tắt. “Đề nghị hành động để giữ Schreiber ở lại Hoa Kỳ. Đối tượng có thông tin vô giá về bản chất tình báo liên quan đến Nga và nổi bật trong lĩnh vực chuyên môn của mình.”
Văn phòng Cao ủy Hoa Kỳ đã cân nhắc: “Tất cả các khoản bồi thường cho nhân viên kẹp giấy trừ khi tự nguyện đều có một số tác động tiêu cực [đến] các chương trình của JIOA”, một bản ghi nhớ nêu rõ. “Yêu cầu phối hợp với Quân đội G2 trước khi đưa ra quyết định cuối cùng về việc hồi hương”. Tại trụ sở không quân, một ý tưởng khác đang nhận được sự ủng hộ. Tại sao không giúp Tiến sĩ Schreiber “di cư” đến Argentina? Để đạt được mục đích này, một thiếu tá tên là D. A. Roe, từ Cơ quan Tình báo Quân đội, G-2, đã liên lạc với Tướng Argentina Aristobulo Fidel Reyes để thảo luận về “việc sử dụng các dịch vụ của Tiến sĩ Walter Paul Schreiber, Tiến sĩ Y khoa”. Thiếu tá Roe đã hỏi liệu “bằng cách nào … tài năng của ông có thể được sử dụng ở Argentina”. Thiếu tá Roe giải thích rằng ban đầu quân đội có ý định cho phép Tiến sĩ Schreiber tài năng nhập cư vào Hoa Kỳ, nhưng thật không may, điều đó đã thay đổi. Thiếu tá Roe giải thích rằng “Theo luật hiện hành, khả năng được chấp nhận nhập cư vào Hoa Kỳ của ông là đáng ngờ vì mối quan hệ chặt chẽ này với Quân đội Đức Quốc xã”, Thiếu tá Roe làm rõ. Argentina không có cùng loại luật nhập cư cấm nhập cảnh đối với những cựu quan chức Đức Quốc xã cấp cao. Sẽ thật tuyệt nếu họ có thể giúp đỡ.
Trước sự phản đối của Cao ủy John J. McCloy, JIOA đã thay đổi lập trường hồi hương và thay vào đó đưa ra lý do để gia hạn thời gian lưu trú của Tiến sĩ Schreiber.
“Gia đình Schreiber có thể phải chịu sự trả thù do ông đã trốn thoát khỏi sự kiểm soát của Nga trước đó”, JIOA viết. “Nếu việc hồi hương là không nên, hãy tin rằng Schreiber có thể bị giữ lại đây bằng cách cấp thị thực. Trên đây là lý do bổ sung cho mong muốn nhập cảnh bằng thị thực nhập cư”. Nhưng sau đó, một tài liệu mới xuất hiện, được đánh dấu là JIOA chỉ dành để đọc, và được lưu giữ trong hồ sơ mật của Schreiber. Người vợ bốn mươi năm của Schreiber, Olga, cũng là một đảng viên Quốc xã thời xưa. Theo giấy tờ chính thức của NSDAP, bà đã gia nhập Đảng Quốc xã vào ngày 1 tháng 10 năm 1931, nhiều năm trước khi Hitler lên nắm quyền.
Mỗi tuần trôi qua đều mang lại sự tập trung hơn vào chủ đề này. Công chúng ngày càng phẫn nộ với ý kiến cho rằng một cựu tướng Đức Quốc xã và bị cáo buộc là tội phạm chiến tranh vẫn đang sống ở Hoa Kỳ, và việc ông ta có được Không quân Hoa Kỳ tuyển dụng hay không vẫn còn chưa chắc chắn.
Diễn đàn Bác sĩ, một nhóm bác sĩ đại diện cho ba mươi sáu tiểu bang, đã viết thư cho Thượng viện. “Nếu Bác sĩ Schreiber bị phát hiện và bắt giữ tại thời điểm Tòa án Quân sự Nuremberg”, các bác sĩ viết, “thì gần như chắc chắn rằng ông ta sẽ bị đưa ra xét xử cùng với các cộng sự của mình, nhiều người trong số họ đã bị kết án tù chung thân hoặc bị treo cổ vì tội ác của họ. Thay vào đó, cá nhân này hiện đang ở Hoa Kỳ làm việc cho Không quân của chúng ta”. Các bác sĩ nhất trí khuyến nghị “tiến hành trục xuất ngay lập tức Bác sĩ Schreiber khỏi Hoa Kỳ [và] điều tra kỹ lưỡng các tình tiết dẫn đến việc Bác sĩ Schreiber nhập cảnh vào quốc gia này và được phân công vào Không quân”.
Yêu cầu cuối cùng đe dọa không quân nhiều hơn nhiều so với những gì các bác sĩ của Diễn đàn Bác sĩ có thể biết. Nếu Thượng viện tổ chức phiên điều trần để điều tra “các cuộc bổ nhiệm tương tự của các bác sĩ Đức trước đây giữ các vị trí quan trọng trong lực lượng vũ trang Đức trong Thế chiến II”, toàn bộ chương trình Kẹp giấy có thể bị tiết lộ. Đầu sẽ lăn. Câu chuyện của Schreiber có thể đi đến tận Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, vụ bê bối này có thể đi đến tận Tổng thống Hoa Kỳ.
Với mức độ kiêu ngạo đáng kinh ngạc, Tiến sĩ Schreiber đã trả lời phỏng vấn báo chí liên tục, tuyên bố vô tội và gọi mọi cáo buộc chống lại ông là “dối trá”.
“Tôi không đấu tranh để gia hạn hợp đồng”, Schreiber nói với tờ Washington Post, “Tôi đấu tranh cho công lý, và tôi sẽ tiếp tục đấu tranh cho đến khi nào tôi còn sống”. Ông đã đưa ra một tuyên bố sai sự thật một cách trắng trợn, rằng “Tôi chưa bao giờ là thành viên của ban tham mưu của bộ tư lệnh tối cao Wehrmacht”. Trong một cuộc phỏng vấn khác, ông nói rằng “Tôi chưa bao giờ làm việc trong trại tập trung”. Sau đó trong cuộc phỏng vấn, ông làm rõ rằng mình thực sự chỉ “thăm” trại tập trung đúng một lần, ở miền đông Pomerania, mà không biết đó là trại tập trung. Công việc rất ngắn ngủi của ông ở đó là kiểm tra “báo cáo về phương pháp điều trị diệt chấy”, cho một nhóm các cô gái “đã được khử trùng bằng DDT”, Schreiber nói. “Sau khi tôi đến đó, bốn ngày sau, các cô gái được kiểm tra sạch sẽ và không có chấy”, Schreiber nói.
Tiến sĩ Schreiber đã gây nhiều vất vả cho lực lượng không quân và Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, và ông có lẽ biết điều đó. Nếu bất kỳ một viên chức chính phủ cấp cao nào của Hoa Kỳ bị buộc phải thừa nhận những gì thực sự được biết về Schreiber – những gì đã được biết từ lâu – thì đó sẽ là một vụ bê bối cấp độ một. Thay vào đó, lời nói dối được phép mở rộng. “Cho đến khi chúng ta đưa ra một số sự thật cơ bản”, giám đốc JIOA, Đại tá Benjamin W. Heckemeyer nói với tạp chí Time, trong một cuộc phỏng vấn riêng với một phóng viên tên là Cô Moran, “một người đàn ông nên được đối xử theo kiểu Mỹ ở đây và không được tống khứ”.
Đằng sau hậu trường, Harry Armstrong, Tổng Y sĩ của không quân, đã chỉ đạo việc loại bỏ Schreiber. Nhưng trong các tuyên bố với báo chí, ông vẫn giữ vẻ ủng hộ. “Không có bằng chứng nào cho thấy ông ta có tội ngoài việc phục vụ đất nước trong chiến tranh giống như tôi đã làm”, Tướng Armstrong nói với hãng tin Associated Press. Nhà báo chuyên mục huyền thoại Drew Pearson không nhìn nhận mọi việc theo cách tương tự. Ông đã lấy biên bản từ phiên tòa xét xử các bác sĩ Nuremberg và trích dẫn chúng trong chương trình “Washington Merry-Go-Round“. “Đây là những sự thật liên quan đến bác sĩ Đức Quốc xã đã trốn thoát khỏi phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh Nuremberg và hiện đang làm việc cho Không quân tại Randolph Field, Texas”, Pearson viết, những cô gái trẻ Ba Lan vừa vùng vẫy vừa la hét đã bị bọn SS giữ chặt và cưỡng bức phẫu thuật…. Tài liệu số 619 của Nuremberg cũng cho thấy Schreiber đứng thứ hai trong danh sách các sĩ quan y tế nổi tiếng được biệt phái đến SS trong hai ngày…. Các nạn nhân là con người cũng được sử dụng trong các thí nghiệm sốt phát ban tại các trại tập trung Buchenwald và Natzweiler. Virus chết người đã được truyền từ người sang chuột và ngược lại nhằm mục đích sản xuất vắc-xin sống.” Schreiber trả lời rằng, “Tòa án quân sự Nuremberg đã truy tố và bắt giữ những kẻ chịu trách nhiệm về tội ác này.”
Tuyên bố đó càng làm Tiến sĩ Leo Alexander và luật sư Boston Alexander Hardy, cựu công tố viên trưởng tại phiên tòa xét xử các bác sĩ tức giận hơn nữa. Hai người đàn ông đã soạn một lá thư dài mười trang gửi cho Tổng thống Truman. “Ông ta không phải là bị cáo [nhưng] chắc chắn ông ta phải chịu trách nhiệm về các tội ác y tế”, Hardy và Alexander giải thích. “Ông ta chắc chắn biết rõ rằng các tù nhân trại tập trung đang bị các bác sĩ của Dịch vụ Y tế, mà ông ta là một vị Tướng, tiến hành thí nghiệm một cách có hệ thống…. Các cấp dưới của Schreiber đã thực hiện các thí nghiệm do Schreiber khuyến khích”, đổi lại ông ta cung cấp “vật liệu và tài chính và tổ chức các hội nghị”.
Hardy và Alexander đã trích dẫn lời khai từ năm bác sĩ đồng nghiệp của Schreiber, họ đã làm chứng tại phiên tòa xét xử bác sĩ Nuremberg rằng Schreiber đã giám sát một loạt các chương trình y tế của Đế chế liên quan đến “vệ sinh” trong đó vô số con người đã bị hiến tế nhân danh nghiên cứu. Bao gồm các chi tiết về các thí nghiệm sốt vàng da, các thí nghiệm vàng da dịch tễ, chất kháng khuẩn sulfanilamide, thi hành việc an tử bằng các thí nghiệm phenol và chương trình vắc-xin sốt phát ban khét tiếng “với tỷ lệ tử vong 90%”. Bức thư của Alexander Hardy và Tiến sĩ Alexander gửi cho Tổng thống Truman đã mô tả Thiếu tướng Tiến sĩ Walter Schreiber không chỉ là một tên tội phạm chiến tranh tồi tệ nhất mà còn là một kẻ tàn bạo và nói dối. Một số phần của bức thư đã được công khai. “Truman được thúc giục trục xuất bác sĩ”, một tiêu đề trên tờ New York Times viết. Harry Armstrong đã viết thư cho Diễn đàn Bác sĩ đảm bảo với họ rằng Schreiber sẽ được đưa trở lại Đức ngay lập tức.
Giám đốc JIOA, Đại tá Heckemeyer, được tạp chí Time hỏi rằng lực lượng không quân sẽ làm gì nếu sau khi hoàn tất cuộc điều tra, họ phát hiện Tiến sĩ Schreiber phạm tội ác chiến tranh. “Tôi sẽ phải xin chỉ đạo từ Văn phòng Bộ trưởng Quốc phòng về việc này”, Heckemeyer nói. Phóng viên của Time hỏi Schreiber có thể bị truy tố không?
“Chúng tôi sẽ không tiến hành phiên tòa Nuremberg sau khi chúng đã kết thúc ba năm rồi”, Heckemeyer nói. Cuối cùng, bộ trưởng không quân, Thomas Finletter, đã đưa ra thông báo công khai rằng Tiến sĩ Schreiber sẽ bị loại khỏi hợp đồng và bị quân đội giam giữ. Ông sẽ rời khỏi Hoa Kỳ ngay lập tức.
Nhưng Tiến sĩ Schreiber từ chối rời khỏi Hoa Kỳ. Thay vào đó, ông đã thu dọn đồ đạc cho gia đình, rời Texas và lái xe đến San Francisco. Tại đó, gia đình Schreiber chuyển đến sống cùng Dorothea, và chồng cô, William Fry, tại ngôi nhà của họ ở số 35 Ridge Road, tại San Anselmo. Cũng giống như Dorothea đã từng làm việc tại Trại King khi cha cô là bác sĩ cơ sở ở đó, người chồng mới của cô, William Fry, đã từng phục vụ tại Trại King, với tư cách là một điều tra viên tình báo quân đội. Sau khi chuyển đến Mỹ vào tháng 7 năm 1951, hai người đã sống ở California kể từ đó.
Hơn một tháng đã trôi qua. Diễn đàn Bác sĩ đã nhận được thông tin mới về Schreiber, họ đã gửi thông tin này cho Tổng thống Truman vào ngày 24 tháng 4 năm 1952, cùng với một bức điện tín có ghi chú “Khẩn cấp”. Họ đã đính kèm một tài liệu cho thấy Chuẩn tướng Otis Benson, tướng chỉ huy tại Trường Y khoa Hàng không Randolph Field, “đã tìm kiếm việc làm liên tục cho Tiến sĩ Schreiber tại Hoa Kỳ, tốt nhất là một ‘vị trí bổ nhiệm tại đại học'”, sau khi không quân đã hứa rằng Schreiber sẽ sớm rời khỏi Hoa Kỳ.
Phần vô lý, các bác sĩ cho biết, là Không quân Hoa Kỳ đã thông đồng để giữ Schreiber ở lại Hoa Kỳ. Trong bức thư gửi Tổng thống Truman, họ đã trích dẫn Tướng Benson từ một bức thư mà ông đã viết cho hiệu trưởng Trường Y tế Công cộng Minnesota, tìm kiếm một công việc mới cho Schreiber trong khu vực tư nhân. “Tôi thích và tôn trọng người đàn ông này nhưng quá rắc rối nếu giữ ông ta ở đây bằng tiền công quỹ”, Tướng Benson nói về Schreiber. Ông ta nói rằng báo chí xấu không kém “một phong trào y tế có tổ chức chống lại ông ấy xuất phát từ Boston bởi những người làm nghề y có tổ tiên là người Do Thái”. Hội đồng quản trị của Diễn đàn Bác sĩ yêu cầu Tổng thống Truman ra lệnh cho tổng chưởng lý mở một cuộc điều tra về vụ án.
Vài ngày sau, một trung tá tên là G. A. Little, đại diện cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, đã bay đến California để thăm Tiến sĩ Schreiber tại nhà con gái ông, “với mục đích cố gắng thuyết phục Tiến sĩ Schreiber đến Buenos Aires ngay lập tức, bất kể cơ hội việc làm có thể hoặc không thể được phát triển thông qua văn phòng của chúng tôi.” Theo Little, chuyến thăm đã diễn ra tốt đẹp.
“Chúng tôi được Tiến sĩ Schreiber tiếp đón rất nồng hậu và dành khoảng hai giờ để trò chuyện với ông ấy”, Trung tá G. A. Little viết trong một báo cáo mật gửi cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Để đổi lấy “phương tiện di chuyển đến Nam Mỹ” và “tiền đi lại” và “tiền trợ cấp đi lại cho Nhóm Gia đình Schreiber”, Tiến sĩ Schreiber đồng ý rời khỏi Hoa Kỳ ngay lập tức. “Việc Schreiber tự nguyện và ngay lập tức rời đi Buenos Aires sẽ mang lại giải pháp thỏa đáng cho tất cả những người liên quan”. Số tiền Schreiber được trả để rời đi không bao giờ được tiết lộ và không được đề cập trong hồ sơ giải mật của ông về Chiến dịch Kẹpgiấy.
Vào ngày 22 tháng 5 năm 1952, Tiến sĩ Schreiber và gia đình ông đã được máy bay quân sự đưa từ Căn cứ Không quân Travis, California, đến New Orleans, Louisiana. Tại đó, họ lên một con tàu đến Argentina. Khi đến Buenos Aires, họ được đưa bằng ô tô đến lãnh sự quán Hoa Kỳ và được cấp các giấy tờ cho phép họ ở lại. Các sắp xếp được thực hiện bởi Tướng Aristobulo Fidel Reyes. Không quân đã trả tiền cho cảnh sát bảo vệ Tiến sĩ Schreiber và gia đình ông trong suốt thời gian chuyển tiếp. Điều quan trọng là quá trình tái định cư của gia đình Schreiber ở Nam Mỹ diễn ra suôn sẻ. Có quá nhiều quan chức Hoa Kỳ mà danh tiếng của họ sẽ không bao giờ được giữ nguyên nếu sự thật được tiết lộ.
Các phiên điều trần của Thượng viện không bao giờ diễn ra, và tổng chưởng lý không hề mở một vụ án. Ở Argentina, Tiến sĩ Schreiber đã mua một ngôi nhà và đặt tên là Sans Souci (“Chẳng Lo phiền”), tên của cung điện mùa hè ở Potsdam, ngoại ô Berlin, của Frederick Đại đế, vua của nước Phổ. Theo các tài liệu gia đình cá nhân, nhiệm vụ cuối cùng của Schreiber là chứng minh rằng mình sinh ra là một nam tước và là hậu duệ của hoàng gia Phổ. “Từ những gì cuộc điều tra chính thức phát hiện ra, ngoài những thành tựu đáng khen ngợi phi thường của riêng mình”, các tài liệu gia đình viết, “Oberstabsarzt [Bác sĩ quân y] Walter P. Schreiber đã được ‘chính thức’ cho phép thêm ‘von’ vào tên của mình”. Các giấy tờ cá nhân không nói rõ ai đã cấp phép chính thức này. Schreiber qua đời vào tháng 9 năm 1970 tại San Carlos de Bariloche, Río Negro, Argentina.
CHƯƠNG MƯỜI CHÍN
Huyết thanh sự thật
Khi Tiến sĩ Schreiber đi tàu đến Argentina, chương trình thẩm vấn Chiến dịch Bluebird tại Trại King đã mở rộng để bao gồm “việc sử dụng thuốc và hóa chất trong thẩm vấn phi truyền thống”. Tiến sĩ Kurt Blome là bác sĩ của Trại King trong thời gian này. Theo một bản ghi nhớ trong hồ sơ vụ án nhà khoa học nước ngoài đã được giải mật của ông, Blome đã làm việc cho “Quân đội, 1952, Dự án 1975”, một dự án Tối mật mà bản thân nó chưa bao giờ được giải mật. Hồ sơ của Blome trở nên trống rỗng sau đó.
“Bluebird được đổi tên thành Artichoke”, John Marks, cựu quan chức Bộ Ngoại giao và là người có thẩm quyền về các chương trình kiểm soát tâm trí của CIA, viết. Mục tiêu của chương trình thẩm vấn Artichoke, Marks giải thích, là “thay đổi hành vi thông qua các biện pháp bí mật”. Theo người quản lý chương trình, Richard Helms – giám đốc tương lai của CIA – sử dụng ma túy là phương tiện để đạt được mục đích đó. “Chúng tôi cảm thấy rằng trách nhiệm của chúng tôi là để tụt hậu so với người Nga hay người Trung Quốc trong lĩnh vực này, cách duy nhất để tìm ra rủi ro là thử nghiệm những thứ như LSD và các loại thuốc khác có thể được sử dụng để kiểm soát hành vi của con người,” Helms nói với nhà báo David Frost trong một cuộc phỏng vấn năm 1978. Các cơ quan tình báo khác của Hoa Kỳ đã được đưa vào để giúp tiến hành các thí nghiệm thẩm vấn gây tranh cãi này. “Năm 1951, Giám đốc CIA đã phê duyệt việc liên lạc với tình báo của Lục quân, Hải quân và Không quân để tránh trùng lặp nỗ lực”, Marks viết. “Lục quân và Hải quân đều đang tìm kiếm thuốc khai sự thật trong khi mối quan tâm chính của Không quân là các kỹ thuật thẩm vấn được sử dụng đối với các phi công bị bắn rơi”. Kể từ khi chiến tranh kết thúc, nhiều nhánh quân đội Hoa Kỳ đã phát triển các chương trình cứu hộ trên không, trên bộ và trên biển tiên tiến, một phần dựa trên nghiên cứu do các bác sĩ Đức Quốc xã tiến hành. Nhưng Liên Xô cũng đã đạt được những tiến bộ lớn trong các chương trình cứu hộ và điều này đã gây ra một mối quan tâm mới nghiêm trọng. Nếu một phi công hoặc binh lính Hoa Kỳ bị bắn rơi được người Nga cứu, thì người đó gần như chắc chắn sẽ phải chịu các kỹ thuật thẩm vấn không quy ước, theo CIA. Mục đích của Chiến dịch Bluebird là cố gắng dự đoán những loại phương pháp nào Liên Xô có thể sử dụng chống lại binh lính và phi công Mỹ. Một trong những loại thuốc được gọi là huyết thanh sự thật mà CIA tin rằng Liên Xô tham gia nhiều nhất vào nghiên cứu là LSD. Một báo cáo của CIA, sau đó được chia sẻ với Quốc hội, nêu rằng “Liên Xô đã mua một lượng lớn LSD-25 từ Công ty Sandoz… được cho là đủ cho 50 triệu liều.” Hoặc CIA nghĩ vậy. Một phân tích thông tin sau đó xác định rằng nhà phân tích của CIA làm việc trên báo cáo đã mắc lỗi dấu thập phân khi thực hiện các phép tính liều lượng. Trên thực tế, Liên Xô đã mua đủ LSD từ Sandoz cho một vài nghìn lần thử nghiệm, một con số rất nhỏ so với năm mươi triệu.
Đối với các thí nghiệm Chiến dịch Bluebird liên quan đến LSD và các loại thuốc khác, CIA đã hợp tác với Quân đoàn Hóa học Lục quân. Nghiên cứu và phát triển ban đầu được thực hiện bởi các sĩ quan của Bộ phận Hoạt động Đặc biệt, những người làm việc bên trong một cơ sở được phân loại là Tòa nhà số 439, một tòa nhà bê tông một tầng nằm giữa các tòa nhà có vẻ ngoài tương tự tại Trại Detrick để dễ che giấu. Hầu như không ai bên ngoài Bộ phận Hoạt động Đặc biệt biết về công việc Tối mật đang diễn ra bên trong. Bộ phận này được trả tiền bởi Đội ngũ Dịch vụ Kỹ thuật (TSS) của CIA, một đơn vị trong Dịch vụ Bí mật của CIA; nhiều đặc vụ thực địa của đơn vị này được tuyển chọn từ một nhóm các nhà vi khuẩn học cấp cao tại Detrick. Một trong những đặc vụ thực địa của Bộ phận này là Tiến sĩ Harold Batchelor, người đứng sau Quả bóng Tám (Eight Ball), người đã tham khảo ý kiến của Tiến sĩ Kurt Blome tại Heidelberg vào năm 1947. Một đặc vụ khác của Bộ phận là Tiến sĩ Frank Olson, một cựu sĩ quan quân đội và nhà vi khuẩn học đã chuyển sang làm đặc vụ của Cơ quan, người đã đột ngột qua đời vào năm 1953 gần như đã khiến CIA sụp đổ. Hai người đàn ông được phân công tham gia chương trình tại Trại King liên quan đến các kỹ thuật thẩm vấn phi truyền thống.
Vào tháng 4 năm 1950, Frank Olson được cấp hộ chiếu ngoại giao. Olson không phải là nhà ngoại giao; hộ chiếu cho phép ông mang theo các vật dụng trong túi ngoại giao mà không bị các viên chức hải quan khám xét. Frank Olson bắt đầu thực hiện các chuyến đi đến Đức, bay đến Frankfurt và lái xe một đoạn ngắn đến Trại King. Trong một trong những tài liệu chính thức hiếm hoi còn sót lại từ chương trình, Phó giám đốc Tình báo Trung ương Allen Dulles đã gửi một bản ghi nhớ bí mật cho Richard Helms và Phó giám đốc Kế hoạch CIA Frank Wisner về các loại kỹ thuật thẩm vấn cụ thể sẽ được sử dụng. “Trong cuộc trò chuyện của chúng ta vào ngày 9 tháng 2 năm 1951, tôi đã phác thảo cho bạn những khả năng tăng cường các phương pháp thẩm vấn thông thường bằng cách sử dụng thuốc, thôi miên, sốc, v.v., và nhấn mạnh các khía cạnh phòng thủ cũng như các cơ hội tấn công trong lĩnh vực khoa học y tế ứng dụng này”, Dulles viết. “Các tập tài liệu kèm theo, ‘Kỹ thuật thẩm vấn’, đã được chuẩn bị tại Khoa Y của tôi để cung cấp cho bạn một bối cảnh phù hợp.” Trại King là địa điểm hoàn hảo để tiến hành các thử nghiệm này. Các địa điểm ở nước ngoài được ưu tiên cho các cuộc thẩm vấn ở Artichoke, vì các chính phủ nước ngoài “cho phép một số hoạt động mà chính phủ Hoa Kỳ không cho phép (ví dụ như bệnh than, v.v.).”
Chuyến đi tiếp theo được ghi nhận của Frank Olson diễn ra vào ngày 12 tháng 6 năm 1952. Olson đến Frankfurt từ sân bay quân sự Hendon ở Anh và lái xe một đoạn ngắn về phía tây đến Oberursel. Tại đó, các thí nghiệm thẩm vấn Artichoke đang diễn ra tại một ngôi nhà an toàn có tên là Haus Waldorf. “Từ ngày 4 tháng 6 năm 1952 đến ngày 18 tháng 6 năm 1952, một nhóm IS&O [Văn phòng Thanh tra và An ninh CIA]… đã áp dụng các kỹ thuật Artichoke vào hai trường hợp hoạt động trong một ngôi nhà an toàn”, một bản ghi nhớ của Artichoke, được viết cho giám đốc CIA Dulles, và là một trong số ít bản ghi nhớ hành động được ghi nhận không bị Richard Helms hủy khi ông còn là giám đốc CIA. Hai cá nhân bị thẩm vấn tại ngôi nhà an toàn Camp King “có thể được xếp vào loại điệp viên chuyên nghiệp, giàu kinh nghiệm và bị tình nghi làm việc cho Tình báo Liên Xô”. Đây là những điệp viên Liên Xô bị Tổ chức Gehlen bắt giữ, hiện do CIA điều hành. “Trong trường hợp đầu tiên, liều lượng thuốc nhẹ kết hợp với thôi miên đã được sử dụng để tạo ra trạng thái thôi miên hoàn toàn”, bản ghi nhớ tiết lộ. “Trạng thái thôi miên này được duy trì trong khoảng một giờ bốn mươi phút thẩm vấn với kết quả là mất trí nhớ hoàn toàn sau đó”. Kế hoạch rất đơn giản: cho các điệp viên dùng thuốc, thẩm vấn các điệp viên và khiến họ mất trí nhớ để họ quên đi.
Một bản ghi nhớ còn sót lại khác từ chương lịch sử Chiến tranh Lạnh này không được báo cáo là của Tiến sĩ Henry Knowles Beecher, bác sĩ gây mê trưởng tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts ở Boston và là cố vấn của CIA-lục quân-hải quân về các kỹ thuật Artichoke. Beecher đã đến Đức để quan sát những gì đang diễn ra tại Trại King. Ông là đồng nghiệp của Tiến sĩ Leopold Alexander ở Boston và giống như Alexander, là người ủng hộ mạnh mẽ Bộ luật Nuremberg, nguyên tắc đầu tiên của bộ luật này là sự đồng ý được thông báo. Tuy nhiên, trong một trong những trường hợp che giấu kỳ lạ nhất của Chiến tranh Lạnh, Tiến sĩ Beecher đã tham gia vào các thí nghiệm y tế bí mật do chính phủ tài trợ mà không liên quan đến sự đồng ý. Beecher được CIA và hải quân trả tiền để tư vấn về cách tốt nhất để gây mất trí nhớ ở các điệp viên Liên Xô sau khi họ bị cho dùng thuốc và thẩm vấn để họ quên những gì đã xảy ra với họ.
Tiến sĩ Frank Olson trở về văn phòng của mình ở Detrick từ Đức trong tình trạng bối rối về mặt đạo đức, theo lời đồng nghiệp Detrick của ông là nhà vi khuẩn học Norman Cournoyer. “Ông ấy đã có một thời gian khó khăn sau khi rời Đức… ma túy, tra tấn, tẩy não,” Cournoyer giải thích nhiều thập kỷ sau đó, trong một bộ phim tài liệu cho truyền hình Đức được thực hiện vào năm 2001. Cournoyer nói rằng Olson cảm thấy xấu hổ về những gì ông đã chứng kiến, và rằng các thí nghiệm tại Trại King nhắc nhở ông về những gì đã được thực hiện với những người trong các trại tập trung. Trở lại Mỹ, Olson đã cân nhắc đến việc nghỉ việc. Ông nói với các thành viên trong gia đình rằng ông đang cân nhắc một nghề nghiệp mới, trở thành nha sĩ. Thay vào đó, ông ở lại cơ sở vũ khí sinh học, trở thành giám đốc của Bộ phận Hoạt động Đặc biệt trong một thời gian. Ông tiếp tục làm việc về các chương trình vũ khí sinh học và hóa học tuyệt mật tại văn phòng CIA tại Detrick, Tòa nhà số 439.
Frank Olson không hay biết là CIA đã mở rộng chương trình Artichoke theo những cách mới, bao gồm mở rộng việc sử dụng LSD trong “các cuộc thẩm vấn phi truyền thống” thông qua các phương tiện bí mật. Trói một điệp viên Liên Xô bị tình nghi vào ghế và cho anh ta dùng thuốc, như đã làm tại Trại King’s Haus Waldorf, là một cách tiếp cận để khiến một điệp viên tiết lộ bí mật của mình. Nhưng CIA tự hỏi điều gì sẽ xảy ra nếu một điệp viên địch được đưa cho một tác nhân gây mất khả năng như LSD một cách lén lút, mà không biết rằng mình đã bị cho dùng thuốc. Liệu loại chứng mất trí nhớ này có hiệu quả không? Liệu nó có tạo ra lòng trung thành không? Liệu có thể nhớ được bao nhiêu, nếu có, về trải nghiệm này? Đây là những câu hỏi mà CIA muốn có câu trả lời. Giám đốc của Đội ngũ Dịch vụ Kỹ thuật (TSS), Tiến sĩ Sidney Gottlieb, một người nói lắp và khoèo chân, đã quyết định rằng các cuộc thử nghiệm thực địa đầu tiên nên được tiến hành trên những người từ Bộ phận Hoạt động Đặc biệt mà không cho họ biết về điều đó. Một trong những người được nhắm đến để thử nghiệm là Tiến sĩ Frank Olson.
Một tuần trước Lễ Tạ ơn, vào tháng 11 năm 1953, sáu đặc vụ của Bộ phận bao gồm Frank Olson và giám đốc mới của Bộ phận, Vincent Ruwet, được mời đến một nơi nghỉ dưỡng cuối tuần tại một ngôi nhà an toàn của CIA ở phía tây Maryland có tên là Hồ Deep Creek. Tại đó, những người nhân viên từ Detrick đã được giám đốc TSS Sidney Gottlieb và phó của ông, Robert Lashbrook, một nhà hóa học, đón tiếp. Một phần của chương trình nghị sự là thảo luận về các phương tiện bí mật mới nhất để đầu độc mọi người bằng các tác nhân sinh học và các chất độc hại, bao gồm cả những chất đã được Fritz Hoffmann, nhà khoa học của Chiến dịch Kẹp giấy thuộc Quân đoàn Hóa học thu thập từ khắp nơi trên thế giới. Mục tiêu thứ hai là bí mật cho sáu người của Bộ phận Hoạt động Đặc biệt dùng LSD và ghi lại những gì đã xảy ra. Sau bữa ăn tối vào đêm thứ hai, Robert Lashbrook đã bí mật thêm LSD vào một chai Cointreau. Tất cả các đối tượng thử nghiệm không hề hay biết đều được mời uống một ly, và tất cả trừ hai sĩ quan của Bộ phận HĐĐB chỉ uống rượu khai vị, một người bị bệnh tim và người kia kiêng rượu. Frank Olson đã có phản ứng khủng khiếp sau khi bị chuốc thuốc LSD. Ông ta trở nên bất ổn về mặt tâm lý và không thể ngủ được. Xếp của ông ta, Vincent Ruwet, người cũng bị chuốc thuốc, đã mô tả trải nghiệm ngộ độc LSD của riêng mình là “trải nghiệm đáng sợ nhất mà tôi từng có hoặc hy vọng sẽ có”. CIA đã có ít nhất một câu trả lời cho câu hỏi của họ; ngộ độc LSD bí mật không gây mất trí nhớ.
Khi sáng thứ hai đến, Ruwet đi làm việc lúc 7:30, như thường lệ. Bên trong Tòa nhà số 439 của Detrick, ông thấy Tiến sĩ Frank Olson rất kích động đang đợi ông. Olson nói với Ruwet rằng ông đã bị hủy hoại bởi những gì đã xảy ra tại Hồ Deep Creek. Ông muốn nghỉ việc hoặc bị sa thải. Ruwet bảo ông hãy cho vấn đề này một chút thời gian và quay lại làm việc. Nhưng khi Ruwet đến làm việc vào sáng hôm sau lúc 7:30, ông lại thấy Frank Olson đang đợi mình. Trạng thái tinh thần của Olson đã xấu đi đáng kể và Ruwet quyết định ông ta cần được giúp đỡ y tế. Ông gọi đến trụ sở Cơ quan, ở Washington, D.C., và nói với Robert Lashbrook những gì đang xảy ra. Frank Olson đã biết về các chương trình điều chỉnh hành vi và kiểm soát tâm trí gây tranh cãi nhất của CIA. Nếu ông ta bị loạn thần kinh ở nơi công cộng, ông ta có thể vô tình nói ra điều cần giữ bí mật – thật trớ trêu kinh khủng, vì việc moi ra bí mật của một người chính là mục đích của chương trình đầu độc LSD này. Nếu Frank Olson lên tiếng, Cơ quan này sẽ gặp ác mộng.
“Bác sĩ Olson đang gặp rắc rối nghiêm trọng và cần được chăm sóc chuyên nghiệp ngay lập tức”, Lashbrook viết trong báo cáo của CIA sau sự cố. Lashbrook bảo Vincent Ruwet đưa Olson đến trụ sở ngay lập tức. Từ đó, hai người đưa Olson đến một căn nhà phố ở Thành phố New York, tại số 133 Phố East số 58. Tại đó, Olson gặp một bác sĩ do CIA trả lương tên là Harold Abramson. Abramson không phải là bác sĩ tâm thần. Ông là bác sĩ chuyên khoa dị ứng và miễn dịch học, người đã làm việc trong các thí nghiệm về khả năng chịu đựng LSD cho CIA, và ông cũng có giấy phép Thông quan An ninh của riêng mình. Frank Olson nói với Bác sĩ Abramson rằng mình bị mất trí nhớ, lú lẫn, cảm giác bất lực và tội lỗi khủng khiếp. Bác sĩ Abramson lưu ý rằng Olson dường như có trí nhớ hoàn hảo và có thể nhớ mọi người, địa điểm và sự kiện một cách dễ dàng khi cần. Nói cách khác, tất cả các vấn đề của Frank Olson đều nằm trong tâm trí ông.
Sáng hôm sau, Robert Lashbrook và Vincent Ruwet đưa Frank Olson đi thăm một nhân viên hợp đồng khác của CIA, John Mulholland, một ảo thuật gia khá nổi tiếng của thành phố New York. Giống như Tiến sĩ Abramson, ảo thuật gia John Mulholland đã có giấy phép Thông quan An ninh với TSS. Mulholland đã dạy các điệp viên CIA cách áp dụng “nghệ thuật của nhà ảo thuật vào việc che giấu các hoạt động”. Trong chuyến thăm, Olson nghi ngờ những gì đang diễn ra và yêu cầu rời đi. Đến ngày hôm sau, Frank Olson nghe thấy những tiếng nói. Ông nói với Bác sĩ Abramson rằng CIA đang cố đầu độc ông, điều mà họ đã làm ít nhất một lần. Vincent Ruwet trở về Maryland để ở cùng gia đình trong Lễ Tạ ơn; Abramson và Lashbrook quyết định đưa Frank Olson đến bệnh viện điều dưỡng Chestnut Lodge, ở Rockville, Maryland. Thật tiện lợi, CIA có bác sĩ làm việc tại đó.
Robert Lashbrook và Frank Olson đã dành một đêm cuối cùng ở Thành phố New York, tại Khách sạn Statler, trên Đại lộ số Bảy và Phố Ba mươi ba. Họ được cấp phòng 1018A, trên tầng mười. Sau khi ăn tại nhà hàng của khách sạn, Olson và Lashbrook trở về phòng của họ để uống một ly và xem tivi. Olson gọi điện cho vợ lần đầu tiên kể từ khi ông rời khỏi nhà và bảo cô đừng lo lắng, ông sẽ sớm về nhà. Sau đó, ông đi ngủ.
Vào khoảng 2:30 sáng, Olson đã phóng qua cửa sổ khách sạn và rơi xuống hơn một trăm bộ và tử vong trên đường phố bên dưới. Theo báo cáo của giám định y khoa, Olson ngã xuống đất, hai chân xuống trước, như thể đang đứng, ngã ngửa ra sau và vỡ hộp sọ. Người quản lý đêm của Khách sạn Statler, Armand Pastore, nghe thấy tiếng va chạm và chạy ra ngoài. Ông thấy Olson nằm trên vỉa hè, vẫn còn sống. Mắt ông ấy vẫn mở, Pastore nói với cảnh sát, và ông ấy cố gắng nói điều gì đó. Nhưng không có lời nào thốt ra, và sau vài phút, Frank Olson đã trút hơi thở cuối cùng.
Pastore nhìn lên để xem Olson đã đi ra từ phòng nào. Ông ta có thể thấy một trong những tấm rèm cửa sổ ở một căn phòng cao đang nhô ra, như thể tấm rèm đang buông xuống khi Olson đâm sầm vào nó. Pastore lưu ý vị trí căn phòng. Khi cảnh sát đến, ông đưa họ lên tầng mười và vào phòng 1018A, sử dụng chìa khóa của người quản lý để vào trong. Ở đó, bên trong phòng tắm, đặc vụ CIA Robert Lashbrook ngồi trên bệ bồn cầu trong bộ đồ lót, ôm đầu trong tay. Lashbrook đã thực hiện hai cuộc gọi điện thoại. Cuộc gọi đầu tiên là cho giám đốc Đội ngũ Dịch vụ Kỹ thuật của CIA, Sidney Gottlieb, người đã cùng Lashbrook đầu độc Frank Olson bằng LSD hơn một tuần trước đó một chút. Cuộc gọi thứ hai là đến quầy lễ tân của khách sạn, để báo cáo về vụ tự tử của Olson. Khi thanh tra cảnh sát thành phố New York James W. Ward đến hiện trường, ông hỏi Robert Lashbrook nhiều câu hỏi và Lashbrook chỉ trả lời bằng những từ “có” và “không”. Lashbrook không xác nhận mình là một đặc vụ CIA.
Tiến sĩ Lashbrook đã bị đưa đi thẩm vấn; vẫn chưa loại trừ khả năng giết người. Tại đồn cảnh sát, Thám tử Ward yêu cầu Lashbrook lục túi. Trong số những thứ bên trong có các giấy tờ ghi địa chỉ của Bác sĩ Harold Abramson, ở Thành phố New York, và bệnh viện điều dưỡng Chestnut Lodge, ở Rockville, Maryland. Khi được hỏi về nghề nghiệp của mình, Lashbrook nói với Thám tử Ward rằng ông là một nhà hóa học của Bộ Chiến tranh và Frank Olson là một nhà khoa học tại Trại Detrick – và Olson bị bệnh tâm thần. Thám tử Ward đã gọi cho Bác sĩ Abramson, người đã xác minh câu chuyện của Lashbrook, không nói rằng mình cũng làm việc cho CIA.
Hai ngày sau, Thám tử Ward đã nộp Vụ án số 125124 cho trưởng đồn của mình. Cái chết của Frank Olson được xác định là tự tử. Vụ án đã được khép lại.
Nếu triết gia Hy Lạp Heraclitus đúng khi cho rằng chiến tranh là cha đẻ của mọi thứ, thì chương trình khoa học gia Đức Quốc xã của Mỹ là đứa con bất chính của Thế chiến thứ hai. Chiến dịch Kẹp giấy lần lượt tạo ra một loạt những đứa con quái dị, bao gồm Chiến dịch Bluebird, Artichoke và MKUltra. Trước khi Frank Olson tham gia vào các chương trình đầu độc và thẩm vấn của CIA, ông đã tiến hành nghiên cứu và phát triển phương pháp phát tán vũ khí sinh học bằng đường hàng không. Olson đã làm việc trong lĩnh vực nghiên cứu vũ khí sinh học từ năm 1943. Ông được giám đốc đầu tiên của Detrick, Ira Baldwin, tuyển dụng trong chiến tranh. Sau chiến tranh, Tiến sĩ Olson trở thành một nhà khoa học dân sự tại Detrick. Ông gia nhập Bộ phận Hoạt động Đặc biệt vào năm 1950 và là thành viên của một nhóm bí mật thử nghiệm cách một tác nhân sinh học được vũ khí hóa có thể phát tán như thế nào nếu được sử dụng chống lại người Mỹ.
Vào cuối những năm 1940 và đầu những năm 1950, Olson đã đi khắp Hoa Kỳ để giám sát các cuộc thử nghiệm thực địa nhằm phân tán các tác nhân sinh học từ máy bay và máy phun thuốc trừ sâu ở San Francisco, Trung Tây và Alaska. Một số cuộc thử nghiệm thực địa liên quan đến các chất mô phỏng vô hại và một số khác liên quan đến các tác nhân gây bệnh nguy hiểm, như các phiên điều trần của Thượng viện sau đó đã tiết lộ. Một trong những thí nghiệm nguy hiểm như vậy đã được Olson và đồng nghiệp Detrick của ông là Norman Cournoyer tiến hành. Hai người đàn ông đã đến Alaska và giám sát việc phun vi khuẩn ra khỏi máy bay để xem các tác nhân gây bệnh sẽ phân tán như thế nào trong môi trường tương tự như mùa đông khắc nghiệt của Nga. “Chúng tôi đã sử dụng một bào tử”, Cournoyer giải thích, “rất giống với bệnh than, vì vậy ở mức độ đó, chúng tôi đã làm một điều không hợp lệ. Bởi vì chúng tôi đã phát hiện ra nó có mặt ở khắp [Hoa Kỳ] nhiều tháng sau khi chúng tôi thực hiện các cuộc thử nghiệm”. Một người thứ ba tham gia vào các cuộc thử nghiệm bí mật với Cournoyer và Olson là Tiến sĩ Harold Batchelor, nhà vi khuẩn học đã học được các kỹ thuật phun thuốc trong không khí từ Tiến sĩ Kurt Blome, người mà Batchelor đã tham khảo ý kiến tại Heidelberg. Olson và Batchelor cũng đã tiến hành các cuộc thử nghiệm thực địa bí mật trong không gian kín trên khắp nước Mỹ, bao gồm cả trong tàu điện ngầm và Lầu Năm Góc. Đối với các cuộc thử nghiệm này, Bộ phận Hoạt động Đặc biệt đã sử dụng một tác nhân gây bệnh tương đối vô hại để mô phỏng cách một tác nhân gây bệnh chết người sẽ phát tán ra sao. Một cuộc điều tra của quốc hội về các cuộc thử nghiệm giấu giếm này đã thấy chúng”thật kinh hoàng” trong mức độ dối trá của chúng.
Bằng cách trở thành một phần của nhóm đầu độc bí mật, dù là ở ngoài vùng lãnh nguyên Alaska hay bên trong một ngôi nhà an toàn tại Trại King ở Đức, Tiến sĩ Frank Olson và các đồng nghiệp của ông đã vi phạm Bộ luật Nuremberg, yêu cầu phải có sự đồng ý được thông báo. Với tình cảnh đã xảy ra, bi kịch lớn nhất trong cuộc đời và cái chết của Frank Olson là quyền bất khả chuyển nhượng được bảo vệ khỏi nguy hiểm từ chính phủ và bác sĩ của mình đã bị vi phạm theo lệnh của chính những người mà ông đã dành cả cuộc đời cống hiến.
Cuộc chiến tranh mới này, Chiến tranh Lạnh, giờ đây chính là cha đẻ của những sự kiện đen tối.