Các Cuộc Chiến Tranh Vĩ Đại Nhất trong Lịch Sử (Bài 5)

NHỮNG XUNG ĐỘT HOÀNH TRÁNG TẠO NÊN DIỆN MẠO THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI

Joseph Cummins

Trần Quang Nghĩa dịch

8.  Các cuộc thập tự chinh 1095-1291

MỘT CUỘC CHIẾN TÔN GIÁO MỞ RỘNG GIỮA CÁC LỰC LƯỢNG CƠ ĐỐC GIÁO VÀ HỒI GIÁO ĐỂ CHIẾM GIỮ JERUSALEM VÀ VÙNG ĐẤT THÁNH

TỔNG QUAN: CUỘC ĐẤU TRANH THEN CHỐT GIỮA HAI TÔN GIÁO VÌ ĐẤT THÁNH

Sau nhiều thế kỷ dưới sự kiểm soát của người theo đạo Cơ đốc, thành phố Jerusalem đã rơi vào tay lực lượng Hồi giáo vào năm 638 và từ cuối thế kỷ thứ 11, thành phố này được cai trị bởi người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk. Sau khi kiểm soát Syria và Palestine (thế kỷ tiếp theo sẽ chứng kiến ​​họ kiểm soát cả Ai Cập), người Seljuk đã tấn công về phía bắc vào Đế chế Byzantine, tiêu diệt một đội quân Byzantine vào năm 1071 tại nơi hiện là Armenia.

Năm 1095, bị đe dọa bởi người Seljuk từ bên ngoài và bởi cuộc nội chiến từ bên trong, Hoàng đế Byzantine Alexius I Comnenus đã gửi đến phương Tây lời kêu gọi giải cứu khẩn cấp. Mặc dù Giáo hội Chính thống giáo của ông đang trong tình trạng ly giáo công khai với Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã của Giáo hoàng Urban II, ông đã cầu xin Urban giúp ông huy động viện trợ quân sự để đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ ngoại giáo. Urban đã cảm nhận được một cơ hội. Ông đã nghe nói rằng những người theo đạo Cơ đốc đang phải chịu đựng trong các cuộc chiến tranh nội bộ của người Hồi giáo và ông cũng muốn các hiệp sĩ chiến binh của châu Âu hướng tính hiếu chiến của mình ra bên ngoài, thay vì nhắm vào nhau. Vì vậy, vào tháng 11 năm 1095, ông đã có bài phát biểu tại Hội đồng Clermont ở Pháp, kêu gọi những người theo đạo Cơ đốc chiến đấu chống lại mối đe dọa của người Hồi giáo không chỉ ở Byzantium mà còn trên khắp Trung Đông.

Kết quả là Cuộc Thập tự chinh đầu tiên (1095-99). Đáp lại lời kêu gọi của Urban, có lẽ 100.000 người bắt đầu di chuyển về phía đông qua châu Âu trong một làn sóng giáo dân được thúc đẩy bởi sự kết hợp giữa thói tham cướp bóc và lòng cuồng tín  khao khát được cứu rỗi – Urban đã đề nghị “xá tội ngay lập tức” cho tất cả những chiến binh hy sinh trong cuộc thập tự chinh.

Làn sóng đầu tiên, chủ yếu gồm những nông dân, cái gọi là Cuộc Thập tự chinh Nhân dân – đã đến Constantinople vào mùa hè năm 1096, nhưng đã bị đánh bại thảm hại bởi một đội quân Seljuk dày dạn kinh nghiệm. Nhưng lực lượng hiệp sĩ chính của cuộc thập tự chinh, do các nhà quý tộc châu Âu dẫn đầu bao gồm Bá tước Robert II xứ Flanders; Bá tước Stephen xứ Blois; và Godfrey xứ Bouillon, Công tước xứ Lorraine, sau đó đã tiến về Đất Thánh qua ngõ Constantinople. Ở đó, họ đã liên minh với những nhà cai trị Hồi giáo trước đây của Jerusalem, nhà Fatimid của Ai Cập, đánh chiếm Antioch, tấn công và chiếm Jerusalem vào năm 1099. Godfrey xứ Bouillon sau đó cai trị Jerusalem và thành lập ba thái ấp – Edessa, Tripoli và Antioch – cùng với Jerusalem, được gọi là các quốc gia Latinh hoặc quốc gia Thập tự chinh.

Sau khi người Thổ Nhĩ Kỳ Seljuk dưới quyền Imad ad-Din Zangi chiếm lại Edessa vào năm 1144, Cuộc Thập tự chinh lần thứ hai (1147-49) đã được phát động. Dẫn đầu bởi quân đội Pháp và Đức dưới quyền Vua Louis VII và Hoàng đế La Mã Thần thánh Conrad III, lực lượng Cơ đốc giáo đã thực hiện một cuộc tấn công thiếu sáng suốt vào Damascus, và cuối cùng buộc phải rút lui trong hỗn loạn. Được khích lệ bởi những thắng lợi này, chiến binh Hồi giáo vĩ đại Saladin đã chiếm Damascus từ tay người Cơ đốc giáo và đánh bại họ một cách quyết liệt tại trận Hattin vào năm 1187. Sau đó, ông đã giành lại hầu hết vùng Đất Thánh.

Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba (1189-92) được Giáo hoàng Gregory VIII thúc đẩy và do Hoàng đế La Mã Thần thánh Frederick I Barbarossa, Vua Richard I (Tim Sư Tử) của Anh và Vua Philip II của Pháp lãnh đạo. Tuy nhiên, Barbarossa đã chết đuối khi băng qua Sông Saleph ở Anatolia, và Philip đã rời đi sau khi bất hòa với Richard, để lại Richard một mình dẫn đầu cuộc thập tự chinh. Nhưng Richard không thể chiếm lại Jerusalem và buộc phải ký kết một thỏa thuận ngừng chiến với Saladin và rời đi.

Cuộc Thập tự chinh lần thứ tư (1198-1204) được Giáo hoàng Innocent III phát động, nhưng đã chuyển hướng đến Constantinople khi Alexius IV, con trai của hoàng đế Byzantine bị phế truất, đề nghị trả tiền cho  Thập tự quân giúp ông lật đổ chú mình, Angelus, kẻ cướp ngôi Alexius III. Quân Thập tự đã cướp phá Constantinople, giết chết hàng ngàn người và thành lập Giáo hội Latinh tại Byzantium. Điều này trái với mong muốn của giáo hoàng và khiến cho việc hòa giải giữa Giáo hội Công giáo La Mã và Giáo hội Chính thống giáo Đông phương trở nên bất khả thi. Và quân Thập tự không bao giờ đến được Đất Thánh.

Được hứa hẹn hỗ trợ bởi Hoàng đế La Mã Thần thánh Frederick II, Giáo hội La Mã đã sớm phát động Cuộc Thập tự chinh thứ năm (1217-21). Quân Thập tự đã tấn công Ai Cập với hy vọng giành quyền kiểm soát phía đông Địa Trung Hải và sau đó tấn công Jerusalem bằng đường biển. Nhưng lực lượng Cơ đốc giáo của Frederick đã bị một trận dịch bệnh hoành hành nên phải trì hoãn; và  Thập tự quân, sau khi chiếm được Damietta và tìm cách tiến về Cairo, đã bị mắc kẹt bởi lũ lụt sông Nile và buộc phải chấp nhận các điều khoản hòa bình bất lợi.

Để chuộc lại lỗi lầm vì không tham gia Cuộc Thập tự chinh thứ năm, Federick đã lãnh đạo Cuộc Thập tự chinh thứ sáu (1228-29). Đây là một nhiệm vụ ngoại giao hơn là quân sự; trong các cuộc đàm phán với Quốc vương Ai Cập al-Malik al-Kamil, Frederick đã giành được quyền kiểm soát Jerusalem, Bethlehem và một vùng đất trải dài từ Jerusalem đến Địa Trung Hải, mặc dù người Hồi giáo vẫn giữ quyền kiểm soát các địa điểm linh thiêng của Jerusalem.

Sau nhiều cuộc thập tự chinh nhỏ do nhiều hiệp sĩ châu Âu lãnh đạo, Jerusalem một lần nữa bị người Hồi giáo chiếm giữ vào năm 1244, khiến Vua Louis IX phải phát động cuộc Thập tự chinh thứ bảy (1248-54), một lần nữa tấn công Ai Cập nhưng đã bị đánh bại. Sau đó, Louis phát động cuộc Thập tự chinh thứ tám vào năm 1270, lần này tấn công Bắc Phi, nhưng đã chết vì bệnh tật tại đó, khiến bước tiến của quân Thập tự phải dừng lại. Cuộc Thập tự chinh thứ chín (1271-72) do Hoàng tử Edward của Anh lãnh đạo, với hy vọng giúp được Vua Louis IX, nhưng đã đến quá muộn, không đạt được gì và trở về nhà sau khi kế vị ngai vàng với tên gọi Edward I.

Sau khi Tripoli thất thủ năm 1289 và Acre – thành trì cuối cùng của người Cơ đốc giáo – rơi vào tay quân Mamluk hùng mạnh của Ai Cập và Syria vào năm 1291, các cuộc Thập tự chinh đã chính thức kết thúc.

TRẬN CHIẾN KẾT THÚC MỘT THẾ KỶ KIỂM SOÁT JERUSALEM

Trận chiến Hattin, 1187

Cuối cùng, cơ hội được mong đợi từ lâu để đối đầu với lực lượng Cơ đốc giáo đã đến. Trong bốn năm, trong khi ông tìm cách củng cố chiến thắng của mình trước lực lượng trung thành với Nur al-Din và trở thành lãnh chúa không thể tranh cãi của Syria và Ai Cập, Saladin đã duy trì một loạt các thỏa thuận ngừng chiến vì lợi ích với các quốc gia Thập tự chinh. Cái chết của Vua Baldwin IV của Jerusalem vào năm 1185 và việc Guy of Lusignan sau đó chiếm đoạt ngai vàng từ đối thủ Raymond xứ Tripoli đã bộc lộ sự yếu kém và chia rẽ trong thế giới Cơ đốc giáo. Nhưng Saladin, luôn là một con người trọng danhf dự, vẫn giữ đúng các thỏa thuận của mình.

CÁC CUỘC THÁNH CHIẾN CỦA VUA RICHARD TIM SƯ TỬ ĐƯỢC MÔ TẢ TRÊN BẢN ĐỒ.

 

Tuy nhiên, kể từ đầu năm 1187, một trong những người ủng hộ nhiệt thành nhất của Guy, Reginald xứ Châtillon, lãnh chúa của các lâu đài Kerak và Montreal, đã tấn công một cách trắng trợn vào đoàn lữ hành của Saladin, một hành vi vi phạm rõ ràng các hiệp ước. Một yêu cầu bồi thường đã đáp trả bằng một lời khước từ  ngạo mạn từ Reginald. Saladin đã buộc phải ra tay, và số phận của Reginald cùng những đội quân Cơ đốc giáo còn lại đã được định đoạt.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1187, Saladin đã cử một đạo quân đột kích Saracen dũng mãnh để tiêu diệt một nhóm gồm 150 Hiệp sĩ Đền Thánh tại Suối Cresson, gần Nazareth ở Judaea. Và sau màn dạo đầu này, vào tháng 7 vị chúa tể vô địch mới của Hồi giáo đã tiến vào Đất Thánh với 30.000 chiến binh Saracen, sẵn sàng chiến đấu.

Quân Saracen trước tiên bao vây thành phố Tiberias, một nơi tương đối không quan trọng ngoại trừ sự kiện là nơi đây có vợ của Raymond xứ Tripoli, Eschiva, trong khi bản thân Raymond, giờ đã hợp lực với Vua Guy để đối đầu với mối đe dọa vương quốc này, cách đó 16 dặm (26 km) về phía tây, tại vùng suối Saffuriyah, một vị trí vững chắc với nhiều nước. Động thái của Saladin cho thấy ông ta rất sáng suốt: biết được sự chia rẽ giữa các lực lượng Cơ đốc giáo, ông ta đã cố tình sử dụng Eschiva làm mồi bẫy, do đó biến vấn đề chung thành vấn đề cá nhân. Raymond sẽ phải lựa chọn liệu có nên rời đi cùng binh lính của mình và đến giải cứu vợ hay không. Và Guy cũng sẽ phải quyết định: liệu có nên đi theo đồng minh của mình hay bám chặt ở một nơi an toàn.

Hội đồng nổi giận

Nhìn chung, lực lượng của Guy và Raymond, cùng với lực lượng của Reginald xứ Châtillon và một lực lượng nhỏ của Hiệp sĩ dòng Đền, có khoảng 1.300 hiệp sĩ và 12.000 bộ binh. Họ bị Saladin áp đảo về số lượng, và ông ta hiện đã ra lệnh các cánh quân đến Saffuriyah, với hy vọng dụ dỗ người Cơ đốc chuyển quân.

Vào đêm ngày 2 tháng 7, bên trong doanh trại Cơ đốc xảy ra một hội đồng nổi giận, các lính canh phòng  và những người gần đó có thể nghe thấy tiếng la hét bên trong lều của Guy khi các chỉ huy đang họp, vung tay điên cuồng bên trong, bóng họ in rõ dưới ánh lửa. Raymond xứ Tripoli đang suy nghĩ bằng cái đầu chứ không phải bằng trái tim: lời khuyên dành cho ông là không nên điều quân đến Tiberias – suy cho cùng, ông luôn có thể chuộc lại vợ mình trở về – mà hãy ở lại nơi có nhiều nước và vị trí phòng thủ tốt và chờ lực lượng Hồi giáo héo úa vì cái nóng và quay trở lại Ai Cập. Reginald xứ Châtillon, ngược lại, đã tranh luận một cách quyết liệt về việc tấn công. Đây là lực lượng lớn nhất mà vương quốc Cơ đốc giáo có thể tập hợp; mặc dù họ bị áp đảo về quân số, nhưng bây giờ là lúc tiêu diệt Saladin và giành chiến thắng lẫy lừng cho Cơ đốc giáo.

Cuối cùng, Vua Guy, một nhà cai trị mới, trước đây đã bị cáo buộc là hành động quá thận trọng trước sự xâm lược của người Saracen, đã dập tắt những tiếng nói phản đối bằng cách đưa ra quyết định. Ngày hôm sau, họ sẽ hành quân đến Tiberias và dẹp tan cuộc bao vây thành phố.

Các nhà sử học từ lâu đã bối rối trước kế hoạch của Guy, vì ông dường như có ý định rời khỏi nguồn nước duy nhất trong nhiều dặm xung quanh và hành quân 16 dặm (26 km) qua cái nóng như thiêu đốt trong một ngày. Trong mọi trường hợp, ông không bao giờ đến được Tiberias. Trong khi ông hành quân ở vị trí dẫn đầu đội quân của mình – 1.300 hiệp sĩ của ông tạo thành hạt nhân, bao quanh bằng bộ binh – thì lực lượng kỵ binh của Saladin đã bao vây họ và tấn công vào đội hậu quân khi họ đang vật lộn trên con đường chủ yếu là lên dốc.

Vào buổi tối ngày 3 tháng 7, Guy dừng lại, quân đội của ông tản ra xung quanh ông, binh lính của ông khát nước và kiệt sức. Ngay cả những Hiệp sĩ Đền Thánh khét tiếng dạn dày cũng không thể tiến xa hơn. Một đêm kinh hoàng đã xảy ra với người Frank. Họ có thể nghe thấy lực lượng Hồi giáo di chuyển trong bóng đêm, thỉnh thoảng tiến sát để tiêu diệt những kẻ thù đang tụt hậu – tiếng la hét của binh sĩ Frank đáng thương đã khiến những đồng đội nằm trong bóng tối chờ đợi lạnh sống lưng. Nhiều người trong số họ tụ tập quanh một mảnh gỗ – được cho là mảnh gỗ vụn từ Cây Thánh giá đích thực của Chúa Jesus mà họ đã mang theo bên mình để đảm bảo an toàn.

Vào ngày 4 tháng 7, quân Saracen đợi cho đến khi mặt trời lên cao và nhiệt độ trở nên dữ dội, mới phát lệnh tấn công. Mặc dù có rất ít ghi chép về cuộc giao tranh thực tế, nhưng có vẻ như bộ binh Cơ đốc giáo đã bị dồn vào một vùng đất đặc biệt ảm đạm: một ngọn đồi có đỉnh là hai mũi đá được gọi là Sừng Hattin. Quân Saracen đốt cháy đám cỏ khô bao phủ ngọn đồi, sau đó tấn công xuyên qua làn khói, bắn tên và hét lớn những  tiếng kêu tàn sát. Các hiệp sĩ Cơ đốc giáo, bị bỏ lại dưới chân đồi mà không có bộ binh bảo vệ, đã chiến đấu dũng mãnh nhưng đã bị các cung thủ Hồi giáo tiêu diệt từng người một. Vua Guy đã chỉ huy hai cuộc tấn công dữ dội cố gắng phá vỡ phòng tuyến của quân Saracen nhưng không thành công, còn Raymond thì xoay sở tìm cách trốn thoát với khoảng ba nghìn người.

VIỆC ĐÁNH MẤT THÁNH GIÁ,  MỘT BỨC TRANH CỦA  HỌA SĨ PHÁP VÀO THẾ KỶ XV VỀ CUỘC TÁI CHINH PHỤC JERUSALEM CỦA NGƯỜI HỒI GIÁO SAU TRẬN CHIẾN HATTIN

“Giống như đá giữa đá”

Hậu quả của trận chiến thật khủng khiếp. Một người Ả Rập mục kích đã viết, “Đồng bằng tràn đầy tù nhân và xác chết, lộ ra khi lớp bụi lắng xuống và chiến thắng trở nên rõ ràng. Người chết nằm rải rác trên núi và thung lũng, nằm bất động trên các bờ đá, bị chém nát và đứt lìa, với sọ đầu bị nứt toang, cổ họng bị cắt, xương sống bị đập vỡ, tứ chi bị gãy lìa, áo bị xé toạc, khuôn mặt vô hồn, vết thương hở, da bị róc… “như đá giữa đá.”

Bị quân Saracen bắt giữ, Reginald xứ Châtillon và Vua Guy bị giải đến lều của Saladin. Nhà cai trị Hồi giáo hỏi Reginald làm sao ông có thể biện minh cho việc phá vỡ hiệp ước của mình; Reginald ngạo mạn trả lời rằng ông là một vị vua (thực ra, ông chỉ là một lãnh chúa) và đã hành động như những vị vua vẫn luôn hành động. Nghe vậy, Saladin đưa cho Guy một cốc nước đá, điều đó có nghĩa là, theo các quy tắc hiếu khách của Trung Đông, ông ta không thể lấy mạng Guy. Guy uống và đưa cốc cho Reginald, người cũng uống, nhưng Saladin nói với Reginald, “Không phải ta là người đã cho ngươi uống”, rồi đứng dậy và chặt đầu ông ta. Sau đó, ông giam cầm Guy, giữ ông ta để đòi tiền chuộc, và tiến lên bờ biển để chiếm Jerusalem vào mùa thu năm đó.

Chiến thắng của Saladin tại đồi Sừng Hattin đã chấm dứt gần một thế kỷ kiểm soát của Thập tự quân đối với Jerusalem. Và mặc dù trận chiến này đã tạo bối cảnh cho Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba và cuộc đối đầu huyền thoại giữa quân đội của Richard I và Saladin, theo một nghĩa nào đó, sau Hattin, các cuộc Thập tự chinh đã kết thúc. Chiến thắng của Saladin đã đảm bảo quyền kiểm soát của Hồi giáo đối với Trung Đông trong nhiều thế kỷ sau đó.

VUA RICHARD I: TRÁI TIM SƯ TỬ HUYỀN THOẠI – NHÀ LÃNH ĐẠO VĨ ĐẠI, VỊ VUA KÉM CỎI

Vua Richard I của Anh chỉ sống đến 42 tuổi, nhưng giống như người đồng cấp của mình, Saladin, ông đã để lại dấu ấn sâu sắc qua nhiều thời đại. Sinh năm 1157, là con trai thứ ba của Henry II và Eleanor xứ Aquitaine, Richard trở thành người thừa kế ngai vàng sau khi hai người anh trai của ông qua đời. Sau khi đăng quang, ông thề sẽ giữ lời hứa chưa thực hiện của cha mình là chiếm lại Jerusalem và lên đường tham gia Cuộc Thập tự chinh lần thứ ba vào ngày 4 tháng 7 năm 1190. Sau cái chết của Frederick I và sự ra đi của Philip II khỏi Đất Thánh, Richard bắt đầu chiến dịch có thể nói là đã tạo nên huyền thoại về Tim Sư Tử, dẫn dắt đội quân của mình giành chiến thắng này đến chiến thắng khác trước quân Saracen khi ông hành quân về phía nam hướng đến Jerusalem. Trong một thời gian, có vẻ như không gì có thể ngăn cản ông; thực tế, nhiều binh lính ông tin rằng ông được Chúa sắc phong để trở thành Vua của Thành phố Thánh. Bản thân Richard dường như không được thúc đẩy bởi lòng mộ đạo mà là mong muốn vinh quang và chiến thắng, cũng như tình yêu mãnh liệt với trận chiến. Nhưng Richard đã gặp đối thủ xứng tầm của mình là Saladin và cuối cùng buộc phải xin hòa ước.

Năm 1192, nghe tin em trai John đang âm mưu chiếm ngai vàng nước Anh, Richard trở về quê nhà. Biển động buộc ông phải cập bến Corfu và đi đường bộ qua Trung Âu, nơi ông bị Leopold V của Áo bắt giữ và giam cầm. Leopold đã giao nộp ông như một tù nhân cho Hoàng đế La Mã Thần thánh Henry VI, người muốn sử dụng Richard làm đòn bẩy trong cuộc đấu tranh giành quyền lực với nước Anh. Cuối cùng, Richard được mẹ mình, Eleanor, chuộc lại với số tiền khổng lồ là một 100.000 mác, có lẽ gấp đôi thu nhập hàng năm của nhà vua  Anh.

Người ta cho rằng John, em trai của Richard, lại đề nghị trả cho Henry VI một nửa số tiền đó để giữ Richard làm tù nhân cho đến tháng 9 năm 1194, nhưng Henry đã thả Richard vào tháng 2 năm đó.

Richard trở về vương quốc của mình ở Anh và, vì nhu cầu chính trị, đã hòa giải với John, mặc dù, tất nhiên, ông không bao giờ tin tưởng em trai mình nữa. Ông đã dành phần lớn những năm còn lại của mình để chiến đấu ở Pháp chống lại Philip II; trong một cuộc bao vây tương đối không quan trọng vào năm 1199, ông đã bị trúng tên và tử trận.

Hầu hết các nhà sử học đánh giá Richard là một vị vua kém cỏi, ông có lẽ chỉ dành sáu tháng ở Anh trong thời gian trị vì – nhưng là một chiến binh và nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại. Một trong những truyền thuyết xuất hiện xung quanh ông sau Cuộc Thập tự chinh thứ ba là ông đã nhận được biệt danh Tim Sư Tử này sau khi một mình giết chết một con sư tử trong trận chiến; nhưng trên thực tế, cái tên này bắt nguồn từ lòng quả cảm của ông trên chiến trường (mặc dù ông đã từng bị một con lợn rừng khổng lồ tấn công và giết chết nó bằng con dao của mình). Và kẻ thù của Richard đánh giá cao ông. Một nhà sử học Hồi giáo đương thời, Ibn al-Athir, gọi ông là “nhân vật đáng chú ý nhất trong thời đại của mình vì lòng dũng cảm, mưu trí, năng động và tính thận trọng”

SALADIN: NGƯỜI ANH HÙNG HỒI GIÁO ĐÃ THỐNG NHẤT THẾ GIỚI HỒI GIÁO CHỐNG LẠI NGƯỜI CƠ ĐỐC GIÁO

Nhà cai trị Hồi giáo có tên đầy đủ là Salah al-Din Yusuf Ibn Ayyud, nhưng được lịch sử gọi là Saladin, sinh năm 1138 trong một gia đình quý tộc quân sự người Kurd, cha ông là một thống đốc tỉnh và chú của ông là tướng người Kurd Shurkuh, sĩ quan đáng tin cậy nhất của nhà cai trị Hồi giáo Nur al-Din. Sau khi Shurkuh trở thành tể tướng của Ai Cập, rồi qua đời vài tuần sau đó, Saladin đầy tham vọng đã nắm quyền kiểm soát đất nước và sau đó cạnh tranh với Nur al-Din để giành quyền làm chủ Trung Đông. Cái chết của Nur al-Din vào năm 1174 đã cứu họ khỏi một cuộc đấu tranh giành quyền lực công khai, và Saladin, sau khi thống nhất lực lượng của Ai Cập và Syria, đã quay sang đối mặt với các Nhà nước Thập tự chinh.

Saladin là thiên tài khi thống nhất thế giới Hồi giáo đằng sau ý tưởng về một cuộc thánh chiến thống nhất, chống lại những kẻ xâm lược. Tuy nhiên, trong khi mục tiêu cuối cùng của ông là lật đổ những người theo đạo Cơ đốc, thì trên thực tế, ông đã dành phần lớn thời gian của mình để chiến đấu với những người Hồi giáo khác, đặc biệt là dòng họ và những tay chân của Nur al-Din ở Syria, điều này đã khiến ông phải ký kết các thỏa thuận hưu chiến tạm thời với những lực lượng Cơ đốc. Chính việc phá vỡ một hòa ước như vậy của Reginald xứ Châtillon, vị tướng chính và cố vấn của Vua Baldwin IV (vua của Jerusalem, người được biết nhiều vì mắc bệnh phong), đã thúc đẩy Saladin cuối cùng phải đối đầu với quân đội Cơ đốc giáo vào năm 1187. Khi đó, như một nhà sử học Hồi giáo đương thời đã viết, “mang cái chết của người theo đạo Cơ đốc đến với kẻ thù mắt xanh”, ông đã giành được chiến thắng quyết định trong trận chiến Hattin và tiếp tục chiếm lại phần lớn Đất Thánh.

Chiến lược của Saladin chống lại Richard I trong cuộc Thập tự chinh lần thứ ba đã khẳng định thêm thiên tài quân sự của ông. Sau khi chịu một thất bại trong trận Arsuf năm 1191, Saladin đã khéo léo rút quân vào các ngọn đồi Judaean. Khi quân Richard tiến về Jerusalem, Saladin đốt mùa màng và chặn các con suối chảy xuống bờ biển. Cuối cùng, Richard hết nguồn cung cấp và buộc phải rút lui.

Bất chấp sự ganh đua chết người này, và tính tàn nhẫn khét tiếng của Saladin cùng sự tuân thủ chặt chẽ của ông đối với khái niệm về một cuộc thánh chiến, nhà lãnh đạo Hồi giáo đã thể hiện sự lịch sự tuyệt vời đối với Richard trong suốt cuộc đấu tranh của họ. Khi chiến mã của Richard bị giết, Saladin đã gửi cho ông một con ngựa khác; khi Richard bị sốt, Saladin đã gửi cho ông tuyết từ trên núi để làm mát trán. Một phần là do hậu quả của những hành động này, những người theo đạo Cơ đốc đã trở nên say mê Saladin đến mức người ta đã bịa ra những truyền thuyết xung quanh ông – ví dụ, ông đã bí mật cho phép mình được Richard I phong tước hiệp sĩ và rằng ông có quan hệ tình ái với Nữ hoàng Pháp.

Năm tháng sau khi đạt được thỏa thuận ngừng chiến với Richard, vào tháng 3 năm 1193, Saladin qua đời vì bệnh tại Damascus. Điều thú vị là, vì ông là người Kurd từ Iraq đã chiến đấu với gia tộc Seljuk cầm quyền, nhiều sử gia Hồi giáo vẫn tiếp tục coi ông là kẻ cướp ngôi. Danh tiếng của ông không được họ đánh giá cao cho đến thế kỷ XX, khi ông được đánh giá lại là một anh hùng thánh chiến đã đẩy lùi phương Tây.

NHỮNG TU SĨ CHIẾN BINH HUNG HÃN LÀM HỒI GIÁO KHIẾP SỢ

Khi các cuộc Thập tự chinh tiếp diễn, hai tổ chức quân sự Kitô giáo độc đáo đã ra đời: Hiệp sĩ Đền Thánh và Hiệp sĩ Cứu Tế, vừa là chiến binh vừa là tu sĩ. Cả hai đều xuất phát từ Jerusalem như những hội huynh đệ tôn giáo nhằm chăm sóc và bảo vệ khách hành hương. Các Hiệp sĩ Cứu Tế có trụ sở tại một bệnh viện gần một tu viện Công giáo, các Hiệp sĩ Đền Thánh đóng chốt trong một tòa nhà gần một công trình được cho là Đền thờ Solomon. Các Hiệp sĩ dòng Đền mới đầu có nhiệm vụ tuần tra các con đường gần Jerusalem để giữ an toàn cho khách hành hương; nhưng đến những năm 1130, họ đã trở thành những chiến binh trước, sau đó mới là những người hoạt động tôn giáo. Với mối đe dọa liên tục của Hồi giáo, các Hiệp sĩ Cứu Tế đã biến thành những chiến binh hiếu chiến khoảng hai mươi năm sau đó.

Cả hai dòng Đền và Cứu Tế đều chấp nhận các hiệp sĩ từ khắp châu Âu tìm kiếm sự cứu rỗi, và các dòng trở nên giàu có nhờ tiền quyên góp, do đó tài sản của họ nhanh chóng mở rộng khắp Đất Thánh. Tuy nhiên, các hiệp sĩ riêng lẻ sống một cuộc sống giản dị và khắc khổ như những “tu sĩ chiến binh”.

Tại Jerusalem, hai dòng tu này cộng lại có lẽ chỉ có 600 hiệp sĩ tại bất kỳ thời điểm nào, nhưng đây là những chiến binh hung dữ được cả thế giới Hồi giáo khiếp sợ. Sau trận chiến Hattin, Saladin được cho là đã nói, “Ta sẽ thanh tẩy vùng đất này khỏi hai chủng tộc ô uế này!” và ra lệnh xử tử tất cả các tù binh thuộc cả hai dòng. Tuy nhiên, hai dòng tu hiệp sĩ vẫn tồn tại và là lực lượng Thập tự chinh cuối cùng đồn trú tại Acre trước khi nơi này sụp đổ vào năm 1291. Sau đó, các hiệp sĩ dòng Cứu Tế định cư tại Rhodes, rồi Malta, nơi họ xây dựng thủ đô Valletta; bị Napoleon lật đổ, họ chuyển đến Rome, nơi dòng tu Hiệp sĩ Malta vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, Hội Đền Thánh đã bị Vua Philip IV của Pháp giải tán bằng vũ lực vào đầu thế kỷ XIV, vì lo sợ quyền lực của họ và muốn chiếm đoạt tài sản của họ.

MỘT HIỆP SĨ ĐANG LÀM LỄ GIA NHẬP VÀO ĐỀN THÁNH

NHỮNG TAY SÁT THỦ LÉN LÚT GIEO SỢ HÃI CHO BẠN VÀ THÙ

Từ đầu thế kỷ thứ 12, cả lực lượng Hồi giáo và Cơ đốc giáo đều bị khủng bố bởi một giáo phái Hồi giáo cực đoan được gọi là Assassin. Những người Hồi giáo dòng Shiite này tuân theo lời dạy của một bậc thầy vĩ đại, hay iman, được gọi là Hasan-e Sabbah, bọn Assassin đã lan rộng khắp Ba Tư vào thế kỷ thứ 11 và chiếm đóng các pháo đài ở miền bắc Syria vào đầu thế kỷ thứ 12. Ở đó, một bậc thầy vĩ đại người Syria được gọi là Lão Gia Trên Núi thống lĩnh tổ chức  Assassin từ pháo đài Masyaf.

Mặc dù tín ngưỡng tôn giáo chính xác của Assassin không được biết đến, nhưng mong muốn của họ là mọi người đều phải tuân theo vị  iman của mình; họ lên đường hạ thủ bất kỳ ai không chịu khuất phục. Thông thường, họ đạt được điều này không phải bằng cách chiến đấu công khai trên chiến trường, mà bằng cách ám sát những vị lãnh đạo đối thủ, và họ là bậc thầy về tàng hình, ngụy trang và đầu độc. Họ thậm chí còn tiếp cận được Saladin, người hầu như luôn được bảo vệ cẩn mật – một buổi sáng năm 1175, ông thức dậy trong lều của mình và phát hiện ra một con dao găm tẩm độc cắm bên cạnh mình trên gối, một lời cảnh báo ghê rợn của Assassin về cái chết sắp xảy ra.

Nhưng Saladin vẫn sống, có lẽ vì ông đã trả tiền cho tổ chức Assassin. Hầu hết các nhà lãnh đạo Thập tự chinh đều làm như vậy. Những người châu Âu duy nhất từ ​​chối là Hiệp sĩ Đền Thánh và Cứu Tế. Nhưng bản thân họ đã có uy danh đáng sợ đến mức có tin đồn rằng người Assassin phải mua chuộc họ bằng một khoản cống nạp hàng năm. Về sau, họ bị người Mông Cổ chinh phục sau khi họ tìm cách ám sát Khả hãn Mông Kha, cuối cùng tổ chức Assassins đã bị lực lượng Mamluk cầm quyền dẹp tan.

Người ta cho rằng, các Assassin đã thực hiện hành vi giết người của mình trong khi đang phê cần sa (hashish), từ đó mà có cái tên “assassin” bắt nguồn từ nhóm Thập Tự quân khiếp sợ, rồi về sau từ “assassin” mới mang nghĩa rộng rãi là “sát thủ” được sử dụng phổ biến cho đến ngày nay.

9 CUỘC CHINH PHỤC CỦA NGƯỜI MÔNG CỔ 1206-81 CN

NỬA THẾ KỶ CỦA NHỮNG CHIẾN TÍCH LẪY LỪNG TRÊN KHẮP CHÂU Á, ĐÃ TẠO NÊN MỘT ĐẾ CHẾ RỘNG LỚN TRÊN TOÀN BỘ LỤC ĐỊA

TỔNG QUAN: Người Mông Cổ đã càn quét khắp Châu Á và gần như chinh phục trọn thế giới được biết đến

Trước khi Temujin, sau này được gọi là Thành Cát Tư Hãn, ra đời vào năm 1162, người Mông Cổ là một nhóm bộ lạc hiếu chiến không thống nhất. Họ sống du mục, chăn thả trên cao nguyên Trung Á, một khu vực cao khoảng 3.000-5.000 feet (900-1.500 m) bao gồm đồng bằng phía bắc của Ngoại Mông, sa mạc Gobi và thảo nguyên rộng lớn của Nội Mông. Sau khi chinh phục và thống nhất các bộ lạc xung quanh mình và được phong là Thành Cát Tư Hãn (Lãnh tụ Vĩ đại) vào năm 1206, Temujin đầy tham vọng và nhẫn tâm đã bắt đầu chinh phục Trung Quốc, khi đó do triều đại nhà Kim cai trị. Trung Quốc là kẻ thù truyền thống – Vạn Lý Trường Thành đã được xây dựng một phần để ngăn chặn người Mông Cổ nhưng chưa bao giờ trải qua một cuộc tấn công có tổ chức của người Mông Cổ như vậy – và phần phía bắc của đất nước đã sụp đổ vào năm 1210 (mặc dù phải mất đến năm 1234 mới buộc nhà Kim cúi đầu hàng phục hoàn toàn).

Năm 1217, Thành Cát Tư Hãn ra lệnh xâm lược đất nước Hồi giáo Khwarezm, bao phủ phần lớn Ba Tư, Afghanistan và miền đông Ấn Độ. Hàng triệu người đã thiệt mạng trong chiến dịch kéo dài ba năm và đất nước này trở thành thuộc địa của Mông Cổ.

Năm 1220, Thành Cát Tư Hãn đã phái các chỉ huy cấp cao của mình là Subotai và Jebe cùng với 30 ngàn người đi “do thám bằng vũ lực” vào Đông Âu. Họ tiến vào Armenia và Georgia, đánh bại Vua George IV theo đạo Cơ đốc  và đội quân gồm 10 ngàn hiệp sĩ của ông, sau đó tiến về phía bắc, đánh bại người Thổ Nhĩ Kỳ Kipchak trên thảo nguyên Volga và người Bulgar trên Thượng Volga. Trong một trận chiến gần Sông Kalka, họ đã tiêu diệt một lực lượng 80 ngàn người do Hoàng tử Kiev phái đi để đối đầu với họ.

Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227 và truyền lại vương quốc cho Ögödei (Oa Khoát Đài), người con trai thứ ba trong bốn người con trai của ông. Ögödei tiếp tục mở rộng lãnh thổ của người Mông Cổ ở Trung Quốc, khuất phục Triều Tiên và tiến vào miền đông Ba Tư để chuẩn bị cho chiến dịch chống lại người Hồi giáo ở Trung Đông.

Năm 1236, Ögödei cử Subotai (Tốc Bất Đài) và một lực lượng Mông Cổ tiến về phía tây. Đầu tiên, họ xé toạc một dải đất qua nước Nga, phá hủy Moscow và Kiev vào năm 1240. Sau đó, họ đánh bại các lực lượng Hungary và Ba Lan chống lại họ trong các trận chiến Mohi và Liegnitz năm 1241, tại thời điểm đó châu Âu mở toang cửa để bị chiếm giữ. Nhưng sau đó Ögödei đột ngột qua đời, và theo phong tục, quân Mông Cổ buộc phải quay trở lại và bầu một hãn mới. Người này hóa ra là con trai của Ögödei là Güyük (Quý Do), người sẽ được thay thế bởi em họ của ông, Möngke (Mông Kha), vào năm 1251.

Dưới thời Mông Kha, người Mông Cổ theo đuổi chiến dịch bành trướng truyền thống. Em trai của Mông Kha là Kublai (Hốt Tất Liệt) đã chinh phục phần lớn miền Nam Trung Quốc, trong khi một người anh khác, Hülegü, đã chinh phục phần lớn Syria và Ba Tư, tiêu diệt giáo phái Assassin và tàn phá Baghad, Aleppo và Damascus. Năm 1259, một lực lượng Mông Cổ gồm 300 nghìn người dưới quyền Hülegü đã chuẩn bị xâm lược Ai Cập, điều này sẽ mở ra cánh cửa đến Bắc Phi và bành trướng vào châu Âu thông qua Tây Ban Nha, nhưng Mông Kha đã mất và một lần nữa, lực lượng Mông Cổ buộc phải trở về cố hương để bầu một hãn mới. Hülegü đã để một lực lượng gồm 20 nghìn người ở lại để chờ ông trở về; nhưng lực lượng này đã bị quân Mamluk của Ai Cập tiêu diệt trong trận Ain Jalut, và người Mông Cổ không bao giờ có thể giành được chỗ đứng ở Trung Đông nữa.

Tuy nhiên, sau một loạt các cuộc chinh phạt, Hốt Tất Liệt cuối cùng đã chinh phục được nhà Tống cũ của Trung Quốc vào năm 1279, lập nên nhà Nguyên. Lực lượng Mông Cổ của Hốt Tất Liệt thậm chí còn đạt được những thành tựu khiêm tốn trong việc mở rộng lãnh thổ vào Miến Điện và Việt Nam. Nhưng hai cuộc xâm lược Nhật Bản được tiến hành từ Triều Tiên vào năm 1280 và 1281 đã thất bại khi một trận bão phá hủy tàu thuyền của quân Mông Cổ, khiến hơn một trăm nghìn người thiệt mạng.

THÀNH CÁT TƯ HÃN (1247-1318) RA TRẬN, TRONG HÌNH MINH HỌA BA TƯ THẾ KỶ XIV

Vào cuối thế kỷ thứ 13, người Mông Cổ tiếp tục thống trị Tây Á và Trung Á. Tuy nhiên, đế chế này đã chia thành các tỉnh riêng biệt, được gọi là hãn quốc và do hậu duệ của Đại Hãn cai trị. Đến những năm 1350, khi người Mông Cổ thể hiện khuynh hướng thích chiến tranh hơn là cai trị, các tỉnh này rơi vào tình trạng gần như tan rã và cuối cùng thành lập các quốc gia riêng biệt: Il-Hãn quốc, bao phủ Iran ngày nay; Chagatai Hãn quốc ở Trung Á; nhà Nguyên ở Trung Quốc; và Kim Trướng Hãn quốc ở nơi hiện là miền trung và miền tây nước Nga.

TRẬN CHIẾN ĐÃ NGĂN CHẶN NGƯỜI MÔNG CỔ CHINH PHỤC CHÂU ÂU

 

Trận chiến Ain Jalut, 1260

Vào giữa thế kỷ thứ 13, không xa thị trấn Nazareth, ở Judaea, có một suối nước ngọt giải tỏa cơn khát của những lữ khách mệt mỏi trên đường đến và đi từ các thánh địa linh thiêng của khu vực, bao gồm Bethlehem và Jerusalem. Tên tiếng Ả Rập của nơi này là Wadi Ain Jalut, có nghĩa là “Suối của Goliath”, vì đây được cho là nơi David giết Goliath. Trên thực tế, nhiều trận chiến lịch sử đã diễn ra ở đây, vì đồng bằng phẳng rộng 3 dặm (5 km) và nguồn nước dồi dào khiến nơi đây trở thành điểm gặp gỡ thường xuyên cho các đội quân xung đột. Vào thế kỷ 12, nơi đây từng là chiến trường diễn ra ít nhất hai cuộc giao tranh giữa lực lượng Hồi giáo của Saladin và Thập tự quân. Vào tháng 9 năm 1260, trong tháng lễ Ramadan linh thiêng của người Hồi giáo, Ain Jalut đã trở thành bối cảnh của một trong những cuộc chạm trán quan trọng nhất: một trận chiến hoành tráng giữa quân Mông Cổ xâm lược và những người cai trị Mamluk của Trung Đông, trận chiến sẽ quyết định tương lai không chỉ của khu vực này mà còn của cả thế giới đã biết.

Vào mùa xuân năm 1260, Sultan al Muzaffar Sayf ad-Din Qutuz, chiến binh nô lệ Mamluk vừa lật đổ nhà cai trị trẻ tuổi của Cairo để trở thành Sultan của Ai Cập đã được bốn sứ giả của Hãn Mông Cổ Hülegü, cháu trai của Thành Cát Tư Hãn, người chỉ huy lực lượng Mông Cổ khi đó đang cướp bóc khắp Trung Đông, đến thăm. Họ đọc cho ông nghe một công hàm của Hülegü, được viết bằng loại ngôn ngữ khiến những nhà cai trị hùng mạnh khắp Châu Á, Trung Đông và Châu Âu run sợ:

Các ngươi nên nghĩ đến những gì đã xảy ra với các nước khác… và mau chóng đầu hàng ta. Các ngươi sẽ chạy trốn ở đâu? Các ngươi sẽ dùng con đường nào để thoát khỏi tay ta? Ngựa của bọn ta nhanh nhẹn, mũi tên của bọn ta sắc bén, thanh kiếm của bọn ta như sấm sét, trái tim của bọn ta cứng rắn như núi… Những lời cầu nguyện của các ngươi với Chúa sẽ không có tác dụng gì với ta. Bọn ta sẽ phá hủy các thánh đường Hồi giáo của các ngươi và vạch trần sự yếu đuối của Chúa các ngươi, rồi bọn ta sẽ cùng nhau giết chết con cái và  người già của các ngươi.

Sau khi nghe họ nói, Qutuz yêu cầu đưa bức công hàm và xem xét nó trong một lúc. Sau đó, một cách lịch sự, ông yêu cầu người Mông Cổ cho ông thời gian riêng tư hội kiến các cố vấn của mình. Trong một phòng riêng, ông gặp một số phó tướng Mamluk, tất cả đều cầu xin ông gửi lại một thông điệp cho Hülegü xin đầu hàng mà không cần phải đắn đo. Vì những người này biết rõ sức mạnh phi thường của người Mông Cổ.

Với một đội quân khoảng 300 ngàn người, Hülegü đã tiến quân khắp Trung Đông kể từ năm 1253, khi người anh họ của ông, Đại hãn Möngke, ra lệnh cho ông đưa một lực lượng xâm lược “đến tận biên giới Ai Cập”. Ở Ba Tư, vào năm 1256, ông đã phá hủy các lâu đài của giáo phái Assassin đáng sợ, một thành viên của giáo phái này đã cố ám sát Möngke. Sau đó, ông đã san bằng Baghdad, thảm sát toàn bộ dân số ngoại trừ người đạo Cơ đốc (những người mà Mông Cổ nhận ra có thể là đồng minh có giá trị chống lại người Mamluk), một sự kiện có tác động sâu sắc đến người Hồi giáo ở Trung Đông, vì trong khi Ai Cập đã trở thành trung tâm quyền lực chính trị của người Hồi giáo, Baghdad vẫn là trái tim tinh thần và trí tuệ của đạo Hồi.

Sau đó, quân Mông Cổ đã vượt sông Tigris và Euphrates và tiến hành một cuộc tấn công đẫm máu vào thành phố Aleppo vào tháng 1 năm 1260. Sau đó, Damascus đầu hàng, và Hülegü diễu hành chiến thắng vào thành phố cùng với Bohemond VI, Hoàng tử Thập tự chinh của Antioch, vốn tin rằng người Mông Cổ sẽ cải sang Cơ đốc giáo, quy phục giáo hoàng và giúp châu Âu tiêu diệt Hồi giáo. Chính từ Damascus, Hülegü đã gửi bức thư đáng sợ của mình đến Qutuz.

Một phản ứng mạnh mẽ

Sau khi lắng nghe các cố vấn hoảng loạn của mình trong vài giờ, Qutuz đã quyết định. Ông sải bước trở lại phòng ngai vàng của mình, nơi các sứ giả Mông Cổ đang đợi, và mỉm cười với họ. Tiếp theo, ông ra lệnh cho lính canh đưa các sứ giả ra sân và chặt đầu họ, sau đó ông bêu đầu họ lên những ngọn giáo cắm trên cổng chính của thành phố.

Giết một sứ giả Mông Cổ là sự sỉ nhục tồi tệ nhất có thể đối với triều đình Mông Cổ, sự sỉ nhục có thể khiến những kẻ thủ ác bị xóa sổ khỏi mặt đất. Nhưng Qutuz lớn lên như một nô lệ, và ông đã quyết định rằng mình sẽ chết như một người tự do thay vì sống như một chư hầu của người Mông Cổ.

Là những kỵ sĩ xuất chúng, người Mông Cổ sử dụng kỵ binh tấn công chớp nhoáng để áp đảo đối thủ.

Qutuz bắt đầu tăng cường phòng thủ Cairo, chuẩn bị cho thành phố và cư dân tự vệ đến chết. Nhưng rồi tin tức phi thường đã đến: Đại hãn Mông Kha đã chết và Hülegü phải rút phần lớn lực lượng của mình để trở về châu Á và giành lấy ngai vàng. Hülegü có ý định quay trở lại, kết liễu Ai Cập và đích thân chặt đầu Qutuz; nhưng, tạm thời, ông đã để lại phó tướng chính của mình, Kitbuga, phụ trách một lực lượng trấn giữ khoảng 20 ngàn chiến binh được tuyển chọn kỹ lưỡng.

Ngay lập tức, Qutuz nhận ra mình có cơ hội để tấn công.

Tập hợp một đội quân khoảng 120.000 người và nhờ sự hỗ trợ của đối thủ chính của mình, một chiến binh Mamluk tên là Baybars, Qutuz hành quân về phía đông bắc từ Ai Cập khi Kitbuga tiến về phía nam. Hai lực lượng này đụng đầu vào đầu tháng 9, tại Ain Jalut. Qutuz đến ngay trước quân Mông Cổ và cử các đơn vị kỵ binh của mình án ngữ các ngọn đồi nhìn xuống đồng bằng. Sau đó, ông chỉ thị cho Baybars tiến lên cùng với một phần lớn lực lượng Ai Cập.

Ở phía bên kia đồng bằng, Kitbuga cẩn thận quan sát người Ai Cập đang tiến đến. Một nhân vật thú vị, Kitbuga là người Thổ Nhĩ Kỳ và là người cải đạo sang Cơ đốc giáo, người tin rằng mình là hậu duệ trực tiếp của một trong ba nhà thông thái, hay những người thánh thiện, đã mang quà tặng đến cho Chúa Jesus Hài đồng. Ông đã hoạt động như một người liên lạc của Hülegü với cộng đồng Thập tự chinh, những người đang hồi hộp chờ đợi kết quả của cuộc chạm trán này tại thành trì cuối cùng còn lại của họ, Acre.

Kitbuga quan sát kỵ binh Mamluk tiến lên phía trước, kéo theo một đám bụi mù khổng lồ, và nghe thấy tiếng la hét và tiếng kèn xung phong của Mamluk. Sự ngạo mạn của những chiến binh Hồi giáo này đã xúc phạm ông, với tư cách là một chiến binh Mông Cổ và một người theo đạo Thiên chúa. Bỏ qua thực tế là mình bị áp đảo về số lượng, ông ra lệnh cho quân lính lao thẳng về phía trước, đích thân dẫn đầu họ vào trận chiến.

Hai lực lượng tấn công nhau bằng một cuộc đụng độ đẫm máu, quân Mông Cổ bắn một loạt tên liên tục và quân Mamluk vung những thanh kiếm cong sáng bóng. Sau nửa giờ giao tranh đẫm máu, Baybars ra lệnh cho kỵ binh Mamluk rút lui và họ quay đầu bỏ chạy qua đồng bằng.

Hương vị thuốc của riêng họ

Kitbuga, nghĩ rằng toàn bộ quân đội Mamluk đang rút lui, đã ra lệnh cho binh sĩ mình đuổi theo, và họ đã đuổi theo quân Ai Cập cho đến tận các con suối. Ở đó, Baybars đột nhiên ra lệnh cho quân lính của mình quay lại và tấn công quân Mông Cổ. Cùng lúc đó, Qutuz, đóng quân trên các ngọn đồi xung quanh, ra lệnh kỵ binh xông xuống, ào ạt đánh úp quân Kitbuga ở cả hai bên sườn,

Kitbuga đã mắc lừa đúng theo sách binh pháp của người Mông Cổ – giả vờ rút lui. Mặc dù vậy, với lòng kiêu hãnh mãnh liệt như bất kỳ chiến binh Mông Cổ nào, ông ta không chịu bỏ cuộc.

Tập hợp quân lính, ông ra lệnh tấn công vào cánh trái của quân Mamluk, nơi đã bắt đầu dao động trong cuộc giao tranh tuyệt vọng xảy ra sau đó.

Vào thời điểm này, Qutuz cưỡi ngựa ra trước hàng quân, giật mũ sắt để họ có thể nhìn thấy khuôn mặt của mình, và hét lớn, “Hỡi người Hồi giáo! Hỡi người Hồi giáo! Hỡi người Hồi giáo!” – một cụm từ mà ông đã gắn liền với lịch sử Hồi giáo kể từ đó. Sau đó, ông dẫn đầu một cuộc phản công cuối cùng đã đánh tan quân Mông Cổ.

Kitbuga bị bắt, bị đưa đến trước mặt Qutuz và bị chặt đầu. Phần còn lại của quân Mông Cổ chạy trốn về phía đông, qua Syria và qua sông Euphrates. Vài ngày sau, Qutuz giải phóng Damascus và các thành phố Syria bị giam cầm khác.

Mặc dù Qutuz sau đó bị Baybars giết, chiến thắng của ông là một chiến thắng phi thường. Người ta hiếm khi thấy trận chiến Ain Jalut được nhắc đến trong các sách lịch sử phương Tây, nhưng một số các nhà sử học cho rằng trận chiến này cũng quan trọng như Thermopylae hay Poitiers. Vì nếu người Mông Cổ có thể chinh phục Ai Cập, họ sẽ dễ dàng càn quét qua Bắc Phi và từ đó vào Tây Ban Nha, và rất có thể sẽ chiếm luôn cả châu Âu. Chiến thắng của Qutuz không chỉ ngăn chặn điều này mà còn phá vỡ huyền thoại về sự bất khả chiến bại và lòng tự phụ của người Mông Cổ. Sau trận Ain Jalut, họ chỉ thực hiện một vài cuộc xâm lược nhỏ vào Syria, và không bao giờ đe dọa người Mamluk nữa, những người sẽ tiếp tục cai trị Ai Cập cho đến thế kỷ thứ 18,

ĐẾ CHẾ MÔNG CỔ TỪ 1287-1405, ĐƯỢC HIỂN THỊ TRÊN BẢN ĐỒ, BAO PHỦ GẦN MỘT PHẦN SÁU DIỆN TÍCH TRÁI ĐẤT TỪ ĐÔNG ÂU ĐẾN BỜ BIỂN PHÍA ĐÔNG CỦA CHÂU Á. ĐẾ CHẾ BAO GỒM KHOẢNG 110 TRIỆU NGƯỜI, CHỈ BỊ ĐẾ CHẾ ANH VƯỢT QUA VỀ KÍCH THƯỚC TỔNG THỂ VÀ PHẠM VI

THÀNH CÁT TƯ HÃN: NHÀ CAI TRỊ VĨ ĐẠI ĐÃ LÀM THAY ĐỔI TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA THẾ GIỚI

Khi một đứa trẻ tên là Temujin được sinh ra trong một gia đình du mục vào năm 1162 – theo truyền thuyết – nắm chặt một cục máu đông trong nắm tay nhỏ bé của mình, dân số  Mông Cổ ước tính có tới hai triệu người, và được chia thành vô số gia tộc, mỗi gia tộc có một khan (hãn) hoặc thủ lĩnh riêng, và liên tục tranh chấp nhau. Khoảng 60 năm trước khi Temujin chào đời, tổ tiên của ông là Kubal Khan đã cố gắng thống nhất các bộ lạc này, nhưng liên minh của họ đã tan rã sau khi lực lượng của họ bị người Trung Quốc đánh bại.

Khi Temujin lên chín, cha ông bị giết bởi kẻ thù, và Temujin cùng gia đình ông buộc phải lang thang trong vùng hoang dã. Nhưng Temujin đã lớn lên thành một chàng trai trẻ mạnh mẽ, lôi cuốn và đầy tham vọng, người có thể đánh bại kẻ thù một cách tàn nhẫn và tập hợp các gia tộc khác dưới ngọn cờ của mình. Đến năm 1206, ông đã chinh phục tất cả các bộ lạc ở Trung Á – Naiman, Merkit và Tatar và được phong là Genghis Khan hay “Người cai trị vĩ đại”.

Vào thời điểm này, Thành Cát Tư Hãn bắt đầu một chiến dịch chinh phục toàn cầu, tấn công Trung Quốc, Khwarezm, Nga và Đông Âu liên tiếp. Thành Cát Tư Hãn và quân Mông Cổ của ông sớm nổi tiếng là gần như siêu nhiên, dường như xuất hiện từ hư không trước cổng của bất kỳ thành phố nào. Lòng thương xót có thể được ban phát cho ai chịu đầu hàng ngay lập tức, nhưng bất hạnh thay cho bất kỳ nhà cai trị hoặc dân tộc nào thách thức họ, vì họ thường sẽ thẳng tay tiêu diệt.

Thành Cát Tư Hãn đã tự nói rằng “niềm vui lớn nhất mà một người đàn ông có thể có là chiến thắng”, và có lẽ ông tin rằng đó là số mệnh thiêng liêng của mình để thực hiện những tham vọng chưa thành hiện thực của tổ tiên Kubal Khan. Tuy vậy Genghis Khan là một con người khá khiêm tốn, sống trong căn lều tròn của dân du mục, thích dành thời gian cho thân nhân trong gia tộc trực hệ; tránh xa các danh hiệu; và thể hiện sự quan tâm đến việc tạo ra luật lệ để cai trị và mang lại lợi ích cho thần dân. Và mặc dù ông yêu cầu lòng trung thành tuyệt đối về mặt thế tục từ những người bị chinh phục, ông vẫn khoan dung với các tôn giáo và phong tục khác. Bản thân ông đã lấy hơn 500 người vợ và làm cha của rất nhiều con; thực tế, các nhà khoa học ước tính rằng DNA của ông được mang bởi khoảng 16 triệu người đang sống ngày nay.

Năm 1227, Đại Hãn, gần 70 tuổi, qua đời vì nguyên nhân tự nhiên. Thi hài của ông được đưa đến một địa điểm bí mật tại quê hương Mông Cổ, nơi ông được chôn cất mà không có bia mộ. Người Mông Cổ tin rằng sau khi một người qua đời, thi hài của họ không nên bị quấy rầy, vì vậy một khu vực rộng vài trăm dặm vuông xung quanh ngôi mộ đã được đánh dấu và canh gác bởi các chiến binh được đào tạo đặc biệt. Trong nhiều thế kỷ sau đó, không ai được phép vào khu vực Ikh Khorig hay “Đại Kỵ” này. Ngay cả trong thế kỷ XX, Liên Xô chỉ dám tiếp cận khu vực này một cách hạn chế để ngăn chặn những người theo chủ nghĩa dân tộc sử dụng nó làm điểm tập hợp. Đó chính là sức mạnh lâu dài của Đại Hãn.

MAMLUK – NHỮNG CHIẾN BINH DUY NHẤT CÓ THỂ SO SÁNH VỚI NGƯỜI HỒI GIÁO VỀ TÍNH HUNG DỮ

Thuật ngữ mamluk trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là “sở hữu” và ban đầu được dùng để chỉ những cậu bé từ các bộ lạc Trung Á bị các khalip của Syria và Ai Cập bắt làm nô lệ và mua về để nuôi dạy thành chiến binh. Khi Saladin lật đổ triều đại Fatimid vào năm 1174 và thay thế bằng triều đại Ayyubid, ông đã thay thế bộ binh châu Phi thường không đáng tin cậy được Fatimid sử dụng bằng một quân đoàn chiến binh Mamluk, những người mà ông cho mặc quân phục màu vàng tươi đặc trưng. Những người kế vị ông vẫn tiếp tục thực hiện điều này, cho đến khi cuối cùng những chiến binh này đã chiến đấu hết mình cho Ai Cập và Syria. Không có gì ngạc nhiên khi lực lượng Mamluk ngày càng hùng mạnh cho đến khi, không lâu trước khi quân Mông Cổ tiến vào Ai Cập, thủ lĩnh Mamluk Qutuz đã phế truất vị vua Ayyubid yếu đuối mới 15 tuổi và tự mình trở thành người đứng đầu Ai Cập.

Những người Mamluk chiến đấu với người Mông Cổ vào năm 1260 chủ yếu là thành viên của bộ tộc Kipchak người Thổ Nhĩ Kỳ đã bị những kẻ buôn nô lệ người Mông Cổ bán làm nô lệ; cải sang đạo Hồi Sunni; và được dạy nói, đọc và viết tiếng Ả Rập. Thông thường, người Mamluk hoàn toàn tận tụy với chủ nhân của mình, người mà họ gọi là “cha”, và họ đặt mạng sống ông ta lên trên mạng sống của chính mình. Đổi lại, chủ nhân đối xử với người Mamluk ít giống nô lệ mà giống như những thành viên trong gia đình họ hơn.

Mamluk đã được tôi luyện, và rèn luyện bản thân, thành những chiến binh siêu việt. Họ được đào tạo mọi ban võ nghệ bao gồm  bắn cung, đấu giáo, và chiến thuật, đến cưỡi ngựa, sử dụng hóa chất để phun lửa độc, và cách tốt nhất để điều trị vết thương thậm chí cả những câu thần chú ma thuật nào để khống chế kẻ thù, khi mọi cách khác đều thất bại. Là những tay kiếm đáng sợ, họ đã tăng cường sức mạnh cho cánh tay  thông qua các bài tập như chặt qua các thanh chì hoặc đống đất sét, đôi khi hàng trăm lần một ngày, bằng cách sử dụng một thanh kiếm đặc biệt nặng.

Hoàn toàn khép theo kỷ luật và sống theo kiểu, như một người đương thời đã viết, “chỉ để cướp bóc, săn bắn, cưỡi ngựa… đoạt chiến lợi phẩm  và xâm lược các nước khác”, người Mamluk theo nhiều cách phản ánh người Mông Cổ – đó có thể là lý do tại sao cuối cùng họ có thể đánh bại được người Mông Cổ.

MỘT CHIẾN BINH MAMLUK ĐANG LUYỆN TẬP

Sơn dầu của Robert Bơyer thế kỷ 19

LỊCH SỬ BÍ MẬT PHI THƯỜNG CỦA NGƯỜI MÔNG CỔ

Nguồn thông tin duy nhất về cuộc sống thời thơ ấu của Thành Cát Tư Hãn là Lịch sử Bí mật của Người Mông Cổ, được viết có lẽ 20 năm sau khi ông qua đời và được các học giả coi là một phần sử thi, một phần huyền thoại sáng thế, một phần lịch sử chi tiết phong phú.

Lịch sử Bí mật được viết bằng chữ Uighur, mà người Mông Cổ đã học từ người Thổ Nhĩ Kỳ, mặc dù những bản sao duy nhất còn sót lại có vẻ là bản phiên âm của các học giả Trung Quốc thời nhà Minh. Lịch sử Bí mật bắt đầu từ lâu trước khi Thành Cát Tư Hãn chào đời, với những huyền thoại sáng thế của người Mông Cổ: “Lúc khởi đầu có một con sói xám xanh được sinh ra với Số mệnh được Trời cao sắp đặt.”

Nhưng nó cũng ghi lại những cảnh tượng phi thường trong cuộc đời của Đại Hãn, chẳng hạn như khoảnh khắc vào năm 1206 khi ba trong số những thủ lĩnh vĩ đại nhất của người Mông Cổ đã cúi mình trước ông với tư cách là Đại Hãn:

Một hội đồng toàn thể các thủ lĩnh được triệu tập, và ba nhân vật đáng chú ý nhất trong số họ, Hoàng tử Altan, Khuchar và Sacha Beki, đã tiến lên. Họ đã chính thức thưa chuyện với Temujin theo cách sau:

Chúng tôi sẽ phong cho ngài làm khan; ngài sẽ cưỡi ngựa dẫn đầu chúng tôi, chống lại kẻ thù của chúng tôi. Chúng tôi sẽ lao vào kẻ thù của ngài như tia chớp. Chúng tôi sẽ mang đến cho ngài những phụ nữ và thiếu nữ đẹp nhất, những căn lều sang trọng như cung điện. Từ mọi dân tộc và quốc gia, chúng tôi sẽ mang đến cho ngài những cô gái xinh đẹp và những chú ngựa cao. Khi ngài săn thú dữ, chúng tôi sẽ lùa chúng về phía ngài; chúng tôi sẽ bao vây chúng, thúc mạnh vào gót chân chúng. Nếu vào ngày lâm trận, chúng tôi không vâng lời ngài, hãy lấy đàn gia súc của chúng tôi, phụ nữ và trẻ em của chúng tôi, và ném những cái đầu vô giá trị của chúng tôi xuống thảo nguyên. Nếu trong thời bình, chúng tôi không vâng lời ngài, hãy tách chúng tôi khỏi những bộ hạ và tôi tớ của chúng tôi, vợ và con trai của chúng tôi. Hãy bỏ rơi chúng tôi và đuổi chúng tôi đi, vô chủ, trên trái đất bị ruồng bỏ …


Joseph Cummins

Trần Quang Nghĩa dịch

Bình luận về bài viết này