Chiến dịch Kẹp Giấy: Kế hoạch Tình báo Đưa các Khoa học gia Quốc xã đến Mỹ (Bài 5)

Annie Jaconsen

Trần Quang Nghĩa dịch

CHƯƠNG TÁM 

Đen, Trắng và Xám

Tại Washington, với chính sách hiện đã được thiết lập không chính thức, cuộc tranh luận về chương trình khoa học gia Đức Quốc xã trở nên căng thẳng bên trong Ủy ban Điều phối Nhà nước-Chiến tranh-Hải quân (SWNCC). Giống như tổ chức kế nhiệm của nó, Hội đồng An ninh Quốc gia, SWNCC hoạt động như diễn đàn chính của tổng thống để giải quyết các vấn đề liên quan đến chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia. Bộ Ngoại giao đã lên tiếng phản đối chương trình này. Làm trầm trọng thêm tình hình đối với Bộ Ngoại giao là một vấn đề song song mà họ mới vướng vào gần đây. Các quốc gia Nam Mỹ, đặc biệt là Argentina và Uruguay, được biết đến là đã cung cấp nơi ẩn náu an toàn cho những tên tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã trốn thoát khỏi Đức vào những ngày cuối chiến tranh. Bộ Ngoại giao đã gây áp lực buộc các quốc gia này phải trục xuất những tên tội phạm Đức Quốc xã trở lại châu Âu để đối mặt với các cáo buộc về tội ác chiến tranh. Nếu Bộ Ngoại giao không chỉ cung cấp nơi ẩn náu an toàn mà còn cung cấp cơ hội việc làm cho các nhà khoa học Đức Quốc xã tại Hoa Kỳ, thì đó sẽ là nguyên nhân gây ra một vụ tai tiếng quốc tế. Và trong khi một số tướng lĩnh và đại tá trong Bộ Chiến tranh kiên quyết ủng hộ các chương trình khoa học của Đức Quốc xã, những người khác về cơ bản lại phản đối ý tưởng này. Một cuộc trò chuyện được ghi âm bí mật giữa hai vị tướng tại Lầu Năm Góc đã tóm tắt cuộc xung đột mà chính ý tưởng mời các nhà khoa học Đức về làm việc cho quân đội Hoa Kỳ đã tạo ra.

“Một trong những nguyên tắc cơ bản để đưa họ sang là việc này chỉ mang tính tạm thời và khi đã khai thác họ xong, họ sẽ được đưa trở lại Đức”, một vị tướng giấu tên cho biết.

Vị tướng thứ hai đồng ý. “Tôi bị phản đối và Pop Powers [biệt danh của một viên chức Lầu Năm Góc] bị phản đối, toàn bộ Bộ Chiến tranh bị phản đối”, ông nói. “Mở rộng vòng tay và đưa các kỹ thuật viên Đức vào và đối xử với họ như những vị khách danh dự” là một ý tưởng rất tồi.

Bộ Tư pháp không hài lòng về khối lượng công việc khổng lồ được yêu cầu nhằm kiểm tra lý lịch những người nước ngoài từng là kẻ thù.  Bộ Lao động quan ngại về luật quản lý lao động nước ngoài, và Bộ Thương mại quan ngại về quyền sáng chế. Trong nỗ lực xoa dịu tranh chấp, Thứ trưởng Bộ Chiến tranh Robert Patterson đã gửi một bản ghi nhớ tới Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh nêu rõ rằng người làm trung gian hòa giải các vấn đề này là John J. McCloy, trợ lý bộ trưởng chiến tranh và chủ tịch của SWNCC.

John J. McCloy sẽ trở thành một nhân vật đặc biệt quan trọng trong Chiến dịch Kẹp Giấy bắt đầu từ năm 1949. Nhưng lúc này, vào mùa hè năm 1945, ông đã đội hai chiếc mũ liên quan đến vấn đề các nhà khoa học Đức Quốc xã. Một mặt, Thứ trưởng Bộ Chiến tranh Robert Patterson đã giao cho McCloy phụ trách điều phối chính sách liên quan đến các nhà khoa học Đức Quốc xã đến Hoa Kỳ để làm việc. Mặt khác, sếp của Patterson, Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Henry Stimson, đã giao cho McCloy nhiệm vụ giúp phát triển chương trình tội ác chiến tranh. Quan điểm của McCloy về việc khai thác khoa học và các nhà khoa học Đức Quốc xã rất rõ ràng. Ông tin rằng chương trình sẽ giúp thúc đẩy ưu thế quân sự của Hoa Kỳ trong khi tạo ra sự thịnh vượng kinh tế. Đối với McCloy, những mục đích đó biện minh cho mọi phương tiện. Không phải McCloy tin rằng Đức Quốc xã sẽ không bị trừng phạt, ít nhất là không phải vào mùa hè năm 1945. Vì lý do đó, McCloy là người ủng hộ mạnh mẽ Tòa án Quân sự Quốc tế (IMT) và ý tưởng về phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh. Nhưng ông là người coi hai phạm trù này là đen và trắng. Có những nhà khoa học và cũng có những tội phạm chiến tranh.

Trong mắt McCloy, một tội phạm chiến tranh là một Himmler, một Hess, một Göring hoặc một Bormann. Các nhà khoa học, giống như các nhà công nghiệp, là xương sống của một nền kinh tế lành mạnh trong thế giới hậu chiến mới này. Vào mùa hè năm 1945, McCloy thường xuyên được thông báo về việc bắt giữ và giam giữ những tên tội phạm chiến tranh này khi họ bị tập hợp lại và đưa đến một cơ sở thẩm vấn tuyệt mật ở Luxembourg, có mật danh là Ashcan, nơi họ sẽ bị moi thông tin trước khi phải đối mặt với phán quyết tại Nuremberg.

John Dolibois, một sĩ quan của Cục Tình báo Lục quân, G-2, Bộ phận Thu thập và Phổ biến, đã dành phần lớn thời gian trong tám tháng cuối của cuộc chiến để xem đi xem lại Triumph of the Will, bộ phim tuyên truyền của Đức Quốc xã dài ba giờ của nhà làm phim được Hitler yêu thích, Leni Riefenstahl. Mỗi tối thứ năm, bên trong phòng chiếu phim tại Trại Ritchie, Trung tâm Đào tạo Tình báo Quân sự Hoa Kỳ, nằm cách Washington 80 dặm về phía bắc tại Dãy núi Catoctin, Dolibois, 26 tuổi, đã sử dụng bộ phim này để dạy về thứ tự chiến đấu của Đức và hệ thống cấp bậc Đảng Quốc xã cho các đại tá, tướng lĩnh và sĩ quan tình báo chuẩn bị ra trận.

Phim tài liệu Triumph of the Will là một công cụ giảng dạy lý tưởng và cho phép Dolibois chỉ ra cho học viên của mình cách các cá nhân trong hệ thống phân cấp của Đảng Quốc xã nói và ra hiệu, họ đeo phù hiệu gì, ai là cấp dưới của ai. Giữa những bài phát biểu đầy thù hận và những cuộc diễu hành bất tận, vòng tròn bên trong nịnh hót và các cuộc mít tinh ở Nuremberg, John Dolibois đã trở nên quá quen thuộc với vòng tròn bên trong của Hitler đến nỗi anh gần như có thể tự mình đọc thuộc lòng các bài phát biểu của họ.

Anh thích giảng dạy, nhưng giống như nhiều người Mỹ tận tụy khác cùng thế hệ, Dolibois muốn được trải nghiệm ​​hành động ở nước ngoài. Cũng vì có một chút ghen tị. Anh vẫn giữ liên lạc với những đồng nghiệp cũ của mình từ Trường đào tạo sĩ quan, hầu hết trong số họ đều được cử đến châu Âu từ nhiều tháng trước. Nhiều người đã được thăng hàm đại úy và thiếu tá. Khi chiến tranh ở châu Âu sắp kết thúc, John Dolibois đã an phận rằng rất có thể mình sẽ không được cử ra nước ngoài làm thành viên của một đội thẩm vấn, được gọi là đội IPW, để tra xét những tù nhân chiến tranh mới bị bắt. Sau đó, vào Chủ Nhật Phục Sinh, ngày 1 tháng 4 năm 1945, anh nhận được lệnh lên tàu cùng với biệt đội tiếp theo. Chỉ vài ngày sau, khi rời khỏi cảng New York, lúc đang đứng trên boong tàu Île de France, có người đưa cho anh một bức điện tín. Anh đã được thăng hàm trung úy.

Mọi thứ diễn ra nhanh chóng sau khi anh vượt Đại Tây Dương. Ngày 13 tháng 4, tàu của Dolībois cập bến Tây Scotland. Mọi tàu thuyền trong bến cảng đều hạ buồm xuống một nửa; Tổng thống Roosevelt vừa qua đời vào ngày hôm trước. Một chuyến tàu hỏa nhanh chóng đến London đã chứng kiến ​​”sự tàn phá khủng khiếp”. Những đống đổ nát chất đầy hai bên đường phố. Chuyến vượt eo biển của Dolibois diễn ra dưới ánh trăng tròn, và anh rất biết ơn khi đến được cảng Le Havre, Pháp đang bị chiến tranh tàn phá, mà không gặp sự cố nào. “Cho đến lúc đó, việc di chuyển của chúng tôi từ Trại Ritchie đến Le Havre đã được sắp xếp rất tốt,” .Dolibois giải thích. “Bây giờ thì hỗn loạn bắt đầu xảy ra”. Khi lái xe vào Munich, xe vộ và vũ khí bị phá hủy nằm rải rác trên đường. Trên những khoảng đất trống trong rừng, những phi đội máy bay Luftwaffe bị phá hủy nằm la liệt, cánh bị xé toạc và thân máy bay đầy lỗ thủng. Xác chết thối rữa trong mương. Dolibois nhớ lại: “Đột nhiên, chiến tranh trở nên rất thực tế”.

Nhiệm vụ đầu tiên của anh là tại trại tập trung Dachau, chỉ hai ngày sau khi giải phóng. Dolibois đã được cử đến Dachau để tra xét xem trong các nhóm tù binh Đức có trà trộn vị tướng, viên chức đảng hay nhà khoa học quan trọng nào hay không. “Chủ yếu là tôi phải theo dõi những tên Đức Quốc xã cấp cao cải trang,” Dolibois nhớ lại. “Chúng tôi đã nhận được báo cáo rằng nhiều người trong số họ đã tự nhận mình là những binh lính Đức bình thường, do đó hy vọng sẽ bị bỏ qua trong sự hỗn loạn và rồi biến mất.” Công việc của anh là nhận biết trực giác một số cách đi đứng, chào hỏi và nói chuyện. Dolibois đang tìm kiếm bất kỳ ai có thể hữu ích cho Đồng minh để thẩm vấn chi tiết hơn tại một cơ sở khác.

Tại Dachau, John Dolibois cố lùng sục những khuôn mặt trong đám đông để tìm ra dấu vết tố cáo, những thứ không thể che giấu. Dấu vết rõ ràng nhất trong số đó là những vết sẹo đấu kiếm của giới tinh hoa Đức Quốc xã. Nhưng tại Trại Ritchie, Dolibois cũng đã trở thành chuyên gia về các dấu hiệu che giấu. Râu cạo gần đây hoặc miếng vá trên quân phục là những dấu hiệu cho thấy một người có điều gì đó cần che giấu. Dolibois biết rằng, sự thành thạo thực sự nằm ở việc nhận ra sắc thái.

Sau vài ngày ở Dachau, Dolibois nhận được một nhiệm vụ khác. Anh tiến đến Khu Giam giữ Tù binh Lục địa Trung tâm Số 32, hay CCPWE Số 32. Nhiệm vụ mà anh đang thực hiện được phân loại là Tối mật. Mọi người anh hỏi về CCPWE Số 32 đều nói rằng họ chưa từng nghe đến nó trước đây. Khi tài xế chở Dolibois rời khỏi biên giới Đức và bắt đầu tiến vào Luxembourg, ký ức ùa vào tâm trí Dolibois. Thật là run rủi khi được giao nhiệm vụ ở Luxembourg. John Dolibois sinh ra ở Luxembourg. Anh chuyển đến Mỹ khi mới 12 tuổi, cùng với cha mình; mẹ ông đã mất trong đại dịch cúm. Lái xe vào Luxembourg năm 1945, Dolibois lần đầu tiên nhìn thấy lại nơi chôn nhau cắt rún sau 14 năm. Khi chiếc xe jeep của quân đội tiến vào một thị trấn nghỉ dưỡng nhỏ tên là Mondorf-les-Bains, hình ảnh thời trẻ của anh tràn ngập tâm trí. Anh nhớ lại “công viên xinh đẹp Mondorf, một dòng suối yên tĩnh mà người ta có thể chèo thuyền, rất nhiều cây cổ thụ và hàng mẫu bông hoa”. Mondorf được xây dựng cách Sông Moselle vài dặm vào thời cổ đại, được người La Mã phát triển thành một khu nghỉ dưỡng. Nơi này nổi tiếng với phẩm chất phục hồi sức khoẻ, các bồn tắm nước khoáng và không khí trong lành.  Bây giờ mọi thứ trông thật khác biệt, cũng chỉ là một thành phố nhỏ khác bị tàn phá bởi chiến tranh. Hầu hết nhà cửa và cửa hàng đã bị cướp bóc hoặc phá hủy. Khi lái xe dọc theo đại lộ chính, Dolibois quan sát thấy mặt tiền của nhiều ngôi nhà đã bị thổi bay. Anh có thể nhìn thấy mọi người vẫn tiếp tục cuộc sinh tồn của mình  bên trong những gì còn sót lại của ngôi nhà.

Chỉ khi xe jeep dừng lại ở đích đến, Dolibois mới nhận ra rằng mình đã đến Khách sạn Palace. Anh không thể nhận ra nơi này. Một hàng rào cao 15 bộ trên là cuộn dây kẽm gai đôi chạy quanh tòa nhà chính,. Có một hàng rào thứ hai có vẻ như được tích điện. Lưới ngụy trang treo trên các tấm hàng rào. Những tấm vải bạt rộng được giăng từ cây này sang cây khác. Những ngọn đèn klieg khổng lồ chiếu sáng toàn bộ khu vực. Có bốn tháp canh, mỗi tháp có lính Mỹ cầm súng máy hạng nặng canh gác. Ngay cả trong ảnh, John Dolibois cũng không nhìn thấy một nhà tù Đồng minh nào ở chiến trường châu Âu được bảo vệ nghiêm ngặt như nơi này. Ở cổng trước một chiếc xe jeep, đỗ và tắt máy. Một trung sĩ vẻ mặt nghiêm nghị ngồi bên trong. Thẻ tên của anh ta ghi “Trung sĩ của Đội cận vệ, Robert Block.” Block gật đầu chào Dolibois.

“Chào buổi chiều, trung sĩ,” Dolibois nói. “Tôi đến đây để báo cáo nhiệm vụ.”

Block chỉ nhìn chằm chằm vào anh. Dolibois nhớ là mình đã hỏi đây là nơi như thế nào. Chuyện gì đang xảy ra bên trong vậy?

Block cho biết mình chưa từng vào bên trong.

Có một khoảng lặng dài, lúng túng. Cuối cùng Block lên tiếng. “Để vào đây, bạn cần một giấy thông hành do Chúa ký.” Anh ta gật đầu về phía trại tù binh phía sau. “Và nhờ ai đó xác minh chữ ký.”

Dolibois đưa giấy tờ của mình. Sau khi Block nhìn vào chúng, cánh cổng mở ra và Dolibois được vẫy vào bên trong. Mặc dù được bảo vệ nghiêm ngặt, Khách sạn Palace vẫn không hề hấn gì trước chiến tranh. Tòa nhà hình boomerang này cao năm tầng. Đài phun nước ở lối vào chính không có nước, tượng tiên nữ được chạm khắc bằng đá nhô lên từ một hồ nước cạn. Bên trong tiền sảnh khách sạn, Dolibois được hai lính canh chào đón. Một người lính thứ ba đưa cho anh một chiếc chìa khóa và chỉ lên một cầu thang. Anh ta bảo Dolibois để đồ đạc của mình ở phòng 30, trên tầng hai.

“Tôi leo lên cầu thang, tìm phòng 30 và tự mở cửa bằng chìa khóa anh ta đưa cho tôi. Đó là một phòng khách sạn bình thường”, Dolibois nhớ lại, “với giấy dán tường khá sặc sỡ”. Bên trong, hệ thống chiếu sáng sang trọng và đồ nội thất cao cấp của một khách sạn bề thế đã nhường chỗ cho một chiếc bàn gấp, hai chiếc ghế và một chiếc giường xếp quân đội. Dolibois mở túi vải thô của mình ra. Có tiếng gõ cửa.

Ashcan có thể được gia cố rất kỹ ở bên ngoài, nhưng bên trong cơ sở, các tù nhân được tự do đi lại. Dolibois mở cửa và đứng đối mặt với một người đàn ông to lớn mặc bộ đồng phục màu xám ngọc trai cũ kỹ với những bím tóc vàng trên cổ áo và phù hiệu vàng trên miếng đệm vai. Y cầm một chiếc quần dài vắt qua một bên tay. Y đánh gót chân, gật đầu và tự giới thiệu như thể đang ở một bữa tiệc, không phải trong tù. Người đàn ông mở miệng và sủa, “Göring, Reichsmarschall!”

Vậy thì đây chính là Hermann Göring. Dolibois nhận ra y ngay từ rất nhiều lần chiếu Triumph of the Will. Đây chính là nhân vật bằng xương bằng thịt. Göring được cho là người khét tiếng nhất trong số bộ hạ thân cận của Hitler vẫn còn sống. Cựu tổng tư lệnh của Luftwaffe. Giám đốc Kế hoạch Bốn năm. Người kế nhiệm được Hitler công nhận từ lâu cho đến khi có sự phản bội được nhận thấy vào phút cuối. Chính Hermann Göring đã ra lệnh cho cảnh sát trưởng an ninh Reinhard Heydrich tổ chức và phối hợp các kế hoạch để “giải quyết vấn đề Do Thái”.

“Tôi hiểu ngay nhiệm vụ của mình”, Dolibois nhớ lại. Anh ở đây tại Luxembourg để thẩm vấn những tên tội phạm chiến tranh cấp cao nhất trong Đảng Quốc xã. Đây không phải là một bộ phim tuyên truyền của Đức Quốc xã. Những cá nhân đã chiếm trọn tâm trí và các bài giảng của anh tại Trại Ritchie trong tám tháng qua đều ở đây. Và giờ đây tất cả họ đều là tù binh.

Göring đứng trước mặt Dolibois, thở hổn hển.

Göring nói rằng mình đã bị những kẻ bắt giữ lừa một cách bất công. “Người ta bảo ông ta sẽ đến một khu nghỉ dưỡng nguy nga,” Dolibois giải thích. Khi Göring đến Ashcan cùng người hầu của mình, Robert Kropp, y đang mong đợi một kỳ nghỉ. Y mang theo 11 chiếc va li và 20.000 viên thuốc Paracodin, và đảm bảo rằng móng chân và móng tay của mình được sơn bóng màu đỏ tươi trong thời gian ở đó. Việc spa ở Mondorf mất đèn chùm và biến thành một khu phức hợp nhà tù an ninh tối đa không phải là điều Göring nghĩ đến. Göring quát với Dolibois rằng nệm của y được làm bằng rơm. Y không có gối. Một người đàn ông có cấp bậc như y xứng đáng được nhiều hơn thế.

Dolibois nhìn Göring. Ghi nhận trong đầu.

“Có phải anh là nhân viên phúc lợi chịu trách nhiệm đảm bảo chúng tôi được đối xử đúng mực theo Điều lệ chiến tranh không?” Göring hỏi Dolibois.

Trong câu hỏi này, Dolibois thấy cơ hội như một người thẩm vấn. “Đúng vậy”, anh nói. Anh sẽ làm việc “theo hướng đó”. Göring hài lòng. “Ông ta lại làm một màn trình diễn tuyệt vời nữa bằng cách đánh gót chân, cúi chào và mang 280 cân thịt của mình ra khỏi phòng tôi”.

Göring quay lại với những người bạn tù của mình. Y kể với những tên Đức Quốc xã khác về sự xuất hiện của viên sĩ quan mới và trách nhiệm của hắn là phải đối xử tốt hơn với tất cả bọn họ. Đột nhiên mọi người đều muốn nói chuyện với Trung úy John Dolibois.

CCPWE số 32 chứa đầy “Bonzen” của Đức Quốc xã, những ông trùm, như Dolibois và những thẩm vấn viên khác gọi họ như vậy. Hans Frank, “Tên đồ tể Do Thái ở Cracow”, đến Ashcan trên cáng, trong bộ đồ ngủ bằng lụa đẫm máu. Hắn ta đã cố tự tử bằng cách cắt cổ họng mình. Frank bị bắt cùng với cuốn nhật ký 38 tập của mình, được viết trong chiến tranh, một lời thú tội đáng lên án về nhiều tội ác mà hắn đã phạm phải. “Mắt đen và hói”, chỉ huy của Ashcan, Đại tá Burton Andrus , lưu ý. Frank  có “bàn tay lông lá nhợt nhạt”. Những tù nhân khác bao gồm các thành viên trước đây của Bộ Tổng tham mưu Đức, Thống chế Wilhelm Keitel, chỉ huy của Oberkommando der Wehrmacht (OKW), hay Bộ tư lệnh Lực lượng vũ trang; Tướng Alfred Jodl, chỉ huy tác chiến của Keitel; Đô đốc Karl Dönitz, chỉ huy tàu ngầm và tổng tư lệnh hải quân Đức; Thống chế Albert Kesselring, cựu chỉ huy Lực lượng vũ trang Ý và sau này là Tổng tư lệnh phương Tây; Joachim von Ribbentrop, bộ trưởng ngoại giao; và Albert Speer, bộ trưởng quân khí và chiến tranh. Đây là những người đã đích thân giúp Hitler lập kế hoạch và thực hiện Chiến tranh thế giới thứ II và thảm sát Holocaust – những người không trốn thoát, không chết hoặc không tự tử.

“Trong vòng tròn thứ hai, hay bọn bè phái, có những tên găng-tơ Đức Quốc xã thực sự,” Dolibois giải thích, “những chiến binh kỳ cựu đã ở bên Hitler ngay từ khi ông ta mới lên nắm quyền.” Trong nhóm này có Robert Ley, lãnh đạo Mặt trận Lao động; Julius Streicher, biên tập viên của tờ báo Der Stürmer bài Do Thái và tuyên truyền; Alfred Rosenberg, triết gia Đức Quốc xã; Arthur Seyss-Inquart, người đã phản bội nước Áo và trở thành Reichskommissar (Ủy viên Đế chế) của Hà Lan; và Wilhelm Frick, cựu bộ trưởng nội vụ và Reichsprotektor (người bảo hộ Đế chế) của Bohemia-Moravia.

Bị tước đi quyền lực của mình, những tính cách nhỏ của họ nói lên rất nhiều điều với Dolibois. Göring sợ sấm sét. Keitel bị ám ảnh bởi việc tắm nắng và nhìn chằm chằm vào hình ảnh phản chiếu của mình trong tấm gương duy nhất ở Ashcan, tại sảnh vào. Robert Ley đã nhiều lần bị khiển trách vì thủ dâm trong bồn tắm. Joachim von Ribbentrop, được Bộ Tuyên truyền của Đức Quốc xã vinh danh là người đàn ông ăn mặc đẹp nhất nước Đức trong 9 năm liên tiếp, là một gã lười biếng luộm thuộm. Ngày này qua ngày khác, John Dolibois đã phỏng vấn họ.

“Hầu như tất cả những người ở Ashcan đều háo hức muốn nói chuyện”, Dolibois nhớ lại. “Họ cảm thấy bị bỏ rơi nếu họ không bị ai đó thẩm vấn trong nhiều ngày…. Trò tiêu khiển yêu thích của họ là đổ lỗi.” Thách thức lớn nhất đối với Dolibois và những thẩm vấn viên khác là xác định, hoặc cố gắng xác định, ai đang nói dối và ai

đang nói sự thật. “Thẩm vấn chéo. Để tù nhân này đấu với tù nhân kia”, theo Dolibois, là chiến thuật hiệu quả nhất.

“Thường thì, tôi được họ tin tưởng khi họ cần một bờ vai để khóc”, Dolibois giải thích. “Tại Mondorf, họ vẫn không thể tin rằng họ sẽ bị xét xử vì tội ác của mình”.

John Dolibois, một sĩ quan trẻ của Quân đội Hoa Kỳ và là người nói tiếng Đức lưu loát, làm việc cho tình báo quân sự (G-2). Ông đã thẩm vấn những tên tội phạm chiến tranh lớn của Đảng Quốc xã tại cơ sở giam giữ “Ashcan” ở Luxembourg (Bộ sưu tập của John Dolibois)

 

 

CHƯƠNG CHÍN

 Nhà hóa học của Hitler

Vào cuối chiến tranh, đội ngũ của Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ đã nhắm đến việc đưa các nhà hóa học của Hitler đến Hoa Kỳ. Cục này đã nhìn thấy tiềm năng vô hạn trong việc biến chương trình chất độc thần kinh của Đức Quốc xã thành của riêng mình và sẵn sàng làm mọi cách để có được bí mật của nó. Chưa đầy một tháng sau khi xe tăng Anh tiến vào Hang ổ Bọn Trộm và tìm thấy một kho bom khổng lồ chứa tabun trong các khu rừng của Münster-Nord, Cục Chiến tranh Hóa học đã lấy được một mẫu chất độc thần kinh và đang phân tích các đặc tính của nó trong Phòng thí nghiệm Phát triển của mình tại Hoa Kỳ. Công việc bắt đầu vào ngày 15 tháng 5 năm 1945 và mất hai tuần để hoàn thành. Phân tích cho thấy tabun là một kẻ giết người mang tính cách mạng có thể tiêu diệt quân đội của kẻ thù. Tướng William N. Porter, giám đốc Cục Chiến tranh Hóa học, đã yêu cầu năm quả bom chứa tabun nặng 260 kg được vận chuyển từ Hang ổ Bọn Trộm đến Hoa Kỳ “bằng đường hàng không theo mức độ ưu tiên cao nhất” để thử nghiệm thực địa. Riêng Tướng Porter đã yêu cầu Không quân Hoa Kỳ và Cục Vũ khí Lục quân Hoa Kỳ tiến hành các nghiên cứu khả thi của riêng họ để xác định xem bom tabun có thể được quân đội Hoa Kỳ sử dụng trong chiến đấu hay không.

Hầu hết mọi người đều coi chiến tranh hóa học là điều ghê tởm. Trong bài phát biểu vào tháng 6 năm 1943, chính Tổng thống Roosevelt đã nói rằng sử dụng hóa chất để giết người là vô đạo đức và vô nhân đạo. Tổng thống đã từ chối yêu cầu của các viên chức Cục Chiến tranh Hóa học về việc đổi tên cục thành Quân đoàn Hóa học vì tính lâu dài mà việc đổi tên gợi ý. Nhưng đây là tin tức thú vị cho Cục Chiến tranh Hóa học. Khi khí độc thần kinh của Đức xâm nhập vào thế giới chiến tranh hóa học, nó đem lại sự đảm bảo về một chương trình chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ trong thời bình. Theo chuyên gia về vũ khí hóa học Jonathan B. Tucker, “Vào năm 1945, sau Thế chiến II, Cục Chiến tranh Hóa học của Quân đội Hoa Kỳ đã quyết định tập trung nỗ lực nghiên cứu và phát triển các tác nhân thần kinh của Đức, những thách thức về công nghệ hứa hẹn sẽ đảm bảo sự tồn tại của tổ chức trong giai đoạn giải ngũ sau chiến tranh và ngân sách quân sự suy giảm.” Trong vòng vài tháng sau khi Đức đầu hàng, 530 tấn chất độc thần kinh Tabun đã được chuyển đến Hoa Kỳ và được sử dụng trong các cuộc thử nghiệm thực địa tuyệt mật.

Các yêu cầu đưa các nhà hóa học Đức đến Hoa Kỳ để làm việc về vũ khí nhanh chóng được đưa ra sau đó. Nhưng, giống như trường hợp của các nhà khoa học tên lửa V-2, ý tưởng cấp thị thực cho các nhà hóa học của Hitler đã gặp phải sự chống đối trong Bộ Ngoại giao. Khi người đứng đầu Bộ phận Hộ chiếu của Bộ Ngoại giao, Howard K. Travers, biết được ý tưởng này, ông đã gửi cho các đồng nghiệp của mình một bản ghi nhớ nội bộ nêu rõ, “Chúng ta nên làm mọi thứ có thể để ngăn chặn các nhà hóa học Đức và những người khác nhập cảnh vào đất nước này.”

Tại Đức, giám đốc khoa học của Alsos là Samuel Goudsmit đã theo dõi các nhà hóa học của Hitler kể từ khi quân Đồng minh vượt sông Rhine. Tương tự như vậy, nhóm vũ khí hóa học của CIOS, do Trung tá Philip R. Tarr của Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ và người đồng cấp người Anh là Thiếu tá Edmund Tilley chỉ huy, vẫn đang tiếp tục cuộc truy đuổi không ngừng nghỉ của họ. Khi Alsos tìm thấy nhà hóa học Richard Kuhn tại Viện Nghiên cứu Y khoa Kaiser Wilhelm ở Heidelberg, họ đã đến thăm ông. Kuhn từng là một nhà hóa học hữu cơ được quốc tế kính trọng, nhưng có tin đồn rằng ông đã trở thành một người theo chủ nghĩa Quốc xã cuồng nhiệt trong chiến tranh. Kuhn đã giành giải Nobel Hóa học năm 1938 nhưng đã từ chối nhận giải theo yêu cầu của Hitler, ông ta gọi đó là giải thưởng của bọn Do Thái. Bây giờ để phỏng vấn Richard Kuhn, Samuel Goudsmit có hai nhà hóa học người Mỹ, Louis Fieser của Harvard và Carl Baumann của Đại học Wisconsin. Cả hai người này đã từng làm việc với Kuhn trong phòng thí nghiệm của ông trước chiến tranh. Sau một cuộc chào hỏi thân thiện, cuộc thẩm vấn bắt đầu. Alsos tìm kiếm thông tin liên quan đến chương trình tác nhân thần kinh của Đệ tam Đế chế. Herr Kuhn biết những gì?

Kuhn, với mái tóc nâu đỏ thẳng, nụ cười xảo quyệt và vẻ ngoài của một sinh viên, đã thề rằng ông không hề có mối liên hệ nào với nghiên cứu quân sự của Đế chế. Ông nói với các đồng nghiệp cũ của mình rằng ông là một nhà khoa học thuần túy, một học giả đã dành cả cuộc chiến để nghiên cứu về hóa học của các loại thuốc hiện đại. Samuel Goudsmit đã có những nghi ngờ của mình. “Với tôi, hồ sơ của Richard Kuhn có vẻ không được trong sạch cho lắm”, Goudsmit nhớ lại sau chiến tranh. “Là chủ tịch của Hiệp hội Hóa học Đức, ông đã tuân thủ giáo điều và nghi thức của Đức Quốc xã một cách khá trung thành. Ông không bao giờ quên chào kiểu Hitler khi bắt đầu lớp học và hét lên ‘Siegheil’ như một nhà lãnh đạo Đức Quốc xã thực thụ”, Goudsmit nhớ lại. Nhưng lãnh đạo của Alsos không có đủ bằng chứng để bắt giữ Kuhn, vì vậy thay vào đó, ông ta đã cho giám sát Kuhn.

Ở nơi khác tại Đức, các điều tra viên vũ khí hóa học của CIOS là Đại tá Tarr và Thiếu tá Tilley đã tập hợp các nhà hóa học Đức và đưa họ đến các cơ sở giam giữ tù binh chiến tranh gần nơi diễn ra các vụ bắt giữ cá nhân. Bắt đầu từ ngày 1 tháng 6 năm 1945, những nhà hóa học này sẽ được đưa đến một địa điểm duy nhất là một cơ sở thẩm vấn tuyệt mật bên ngoài Frankfurt. SHAEF đang chuyển trụ sở của mình từ Versailles đến Frankfurt và sẽ bị giải thể vào giữa tháng 7. Tổ chức mới phụ trách mọi vấn đề, bao gồm cả khai thác khoa học, là Văn phòng Chính phủ Quân sự cho Đức (OMGUS), với người chỉ huy là Phó tướng Lucius D. Clay của Eisenhower. Đồng minh cũng đang tổ chức lại cách thức thu thập thông tin tình báo khoa học trong tương lai. CIOS đang chuyển đổi thành các thành tố của Mỹ và Anh: FIAT (Cơ quan Thông tin Thực địa, Kỹ thuật) và BIOS (Tiểu ban Mục tiêu Tình báo Anh). Các nhóm CIOS sẽ vẫn hoạt động trong khi họ hoàn thành các cuộc điều tra mở.

Cơ sở của trung tâm thẩm vấn mới này không đâu khác chính là Schloss Kransberg, hay Lâu đài Kransberg, trụ sở cũ của Không quân Đức của Hermann Göring và là nơi Albert Speer cùng phụ tá đã nghỉ qua đêm giao thừa cuối cùng của cuộc chiến. Quân Đồng minh đặt cho nơi này mật danh là Dustbin. Công trình thời trung cổ này được xây dựng trên dãy núi Taunus, có những căn phòng lớn, sàn gỗ cứng, lò sưởi bằng đá tuyệt đẹp và đèn chùm sáng bóng. Đây khó có thể là nơi ở kiểu gulag (nhà tù khổ sai của Liên Xô,  nơi đi dễ khó về). Về mặt phân loại an ninh, Dustbin là nơi cao nhất. Cơ sở này là trung tâm thẩm vấn được phân loại thứ hai sau Ashcan. Dustbin nằm khép kín bên trong những bức tường đá có tuổi hàng thế kỷ, và cũng giống như Ashcan, các tù nhân ở đây được tự do đi lại trong khuôn viên và trò chuyện với nhau. Karl Brandt, bác sĩ của Hitler, đã tổ chức các lớp thể dục buổi sáng trong vườn. Những người khác chơi cờ vua. Các nhà công nghiệp tổ chức các buổi thuyết trình trong phòng tiệc lớn mà Göring từng sử dụng làm sòng bạc. Speer đi dạo trong vườn táo của lâu đài, hầu như luôn đi một mình theo ý muốn. Trong khi Ashcan là nơi ở của bộ chỉ huy cấp cao của Đức Quốc xã, Dustbin có nhiều nhà khoa học, bác sĩ và nhà công nghiệp Đức Quốc xã được canh gác. Trong đó có hơn 20  nhà hóa học của IG Farben và ít nhất 6 thành viên trong ban quản trị.

Trong suốt đầu mùa hè năm 1945, một số nhân vật chủ chốt trong chương trình khí độc Tabun của Farben vẫn còn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Đối với Thiếu tá Tilley, niên biểu về cách Farben đầu tiên bắt đầu sản xuất khí độc thần kinh và cách nó chuyển thành sản xuất trên diện rộng vẫn là một bí ẩn cho đến khi một nhà hóa học Farben tên là Tiến sĩ Gerhard Schrader bị bắt và đưa đến Dustbin. Schrader là người đã tạo ra chất độc thần kinh được tìm thấy tại Hang ổ Bọn Trộm. Thông tin mà Schrader có được nằm trong số các thông tin tình báo quân sự bí mật được săn đón nhất trên thế giới. Trong khi Tilley đang chuẩn bị đón nhận sự chối bỏ quyết liệt từ nhà hóa học của Farben, thì ngạc nhiên thay, Tiến sĩ Schrader đã nói một cách thoải mái, cung cấp mọi thứ ông biết, bắt đầu với việc khám phá chất Tabun đáng kinh ngạc của vào mùa thu năm 1936.

Tiến sĩ Schrader đã làm việc tại một phòng thí nghiệm thuốc trừ sâu cho IG Farben ở Leverkusen, phía bắc Cologne, trong nhiều năm. Vào mùa thu năm 1936, ông đã có một công việc quan trọng trong tay. Bọ cánh cứng và rận lá đang phá hoại ngũ cốc trên khắp nước Đức, và Schrader được giao nhiệm vụ tạo ra một loại thuốc trừ sâu tổng hợp có thể tiêu diệt những loài gây hại nhỏ bé này. Chính phủ đã chi 30 triệu Reichsmark mỗi năm cho thuốc trừ sâu do Farben cũng như các công ty khác sản xuất. IG Farben muốn phát triển một loại thuốc diệt côn trùng có thể tiết kiệm tiền cho Reich và giúp công ty độc quyền về thuốc trừ sâu.

Tiến sĩ Schrader nói với Thiếu tá Tilley rằng tổng hợp các hợp chất hữu cơ gốc cacbon là phuong pháp thử-và-sai. Công việc này đòi hỏi nhiều công sức và nguy hiểm. Schrader, một người đàn ông của gia đình, đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa tuyệt vời để tránh tiếp xúc, luôn làm việc trong tủ hút khí độc. Ngay cả một lượng nhỏ hóa chất mà ông sử dụng cũng có tác dụng tích tụ, có khả năng gây tử vong. Schrader thường xuyên bị đau đầu và đôi khi cảm thấy khó thở. Một đêm nọ, khi đang lái xe về nhà sau khi làm việc trên một sản phẩm mới, Schrader hầu như không thể nhìn thấy con đường phía trước. Khi dừng xe để kiểm tra mắt trong gương, ông thấy đồng tử của mình đã co lại bằng kích thước của một đầu ghim. Trong vài ngày tiếp theo, thị lực của ông ngày càng kém đi. Ông bị đau nhói ở thanh quản. Cuối cùng, Schrader đã tự mình đến bệnh viện, nơi ông được theo dõi trong hai tuần trước khi được cho về nhà và được yêu cầu nghỉ ngơi.

Tám ngày sau khi nghỉ ngơi, Schrader quay trở lại làm việc. Ông đã phát triển một loại thuốc xông hơi có chứa xyanua, mà ông đặt tên mã là Preparation 9/91. Tiếp tục công việc dang dở, ông đã chuẩn bị một lượng nhỏ chất mới của mình, pha loãng thành 1 trong 200.000 đơn vị để xem liệu nó có giết được chấy bám trên lá hay không. Ông đã rất kinh ngạc khi sáng chế mới của mình giết chết 100 phần trăm chấy. Schrader

lặp lại thí nghiệm cho các đồng nghiệp của mình. Tất cả họ đều đồng ý rằng Preparation 9/91 có khả năng gây tử vong gấp trăm lần so với bất kỳ thứ gì mà bất kỳ ai tại phòng thí nghiệm Leverkusen từng bào chế trước đây.

Tiến sĩ Schrader đã gửi một mẫu thuốc xông hơi mới gây chết người này cho giám đốc vệ sinh công nghiệp của Farben, một người có tên là Giáo sư Eberhard Gross (không nên nhầm lẫn với Tiến sĩ Karl Gross, nhà vi khuẩn học của Waffen-SS có liên quan đến việc phát hiện Geraberg). Gross đã thử nghiệm chất này trên loài vượn và thực sự bị sốc trước kết quả. Sau khi một con vượn khỏe mạnh được tiêm một lượng nhỏ Preparation 9/91 – chỉ 1/10 miligam trên một kilogam trọng lượng cơ thể, con vượn đó đã chết trong vòng chưa đầy một giờ. Tiếp theo, Gross đã thử nghiệm chất này trên một con vượn bên trong một buồng hít. Ông đã chứng kiến ​​con vượn khỏe mạnh này chết trong mười sáu phút. Giáo sư Gross nói với Tiến sĩ Schrader rằng Preparation 9/91 của ông đang được gửi đến Berlin và ông nên đợi hướng dẫn thêm về hành động tiếp theo cần thực hiện.

Tại Dustbin, Schrader nói với Thiếu tá Tilley rằng khi biết hợp chất của mình có thể giết chết một con vượn khỏe mạnh thông qua tiếp xúc trên không trong vài phút, ông đã rất buồn. Schrader than thở rằng khám phá của ông sẽ không bao giờ được sử dụng làm thuốc trừ sâu. Đơn giản là nó quá nguy hiểm đối với bất kỳ động vật máu nóng hoặc con người nào tiếp xúc với nó. Schrader nói rằng mục tiêu của ông là tiết kiệm tiền cho Đế chế. Với tin tức về sức mạnh của Preparation 9/91, Schrader cảm thấy mình đã thất bại trong công việc của mình. Ông quay lại làm việc, tìm kiếm một loại thuốc xông hơi phù hợp hơn cho nhiệm vụ tiêu diệt bọ cánh cứng và rận lá.

Trong khi đó, Giáo sư Gross đã mang chất này đến cho cấp trên của mình. Bắt đầu từ năm 1935, một sắc lệnh của Đế chế yêu cầu tất cả các khám phá mới có khả năng ứng dụng trong quân sự phải được báo cáo cho Bộ Chiến tranh. Bộ Vũ khí Hóa học của Đế chế bắt đầu đánh giá Preparation 9/91 của Schrader về khả năng sử dụng trong chiến tranh hóa học. Vào tháng 5 năm 1937, Schrader được mời đến Berlin để trình diễn cách ông tổng hợp Preparation 9/91. “Mọi người đều kinh ngạc”, Schrader nói với Tilley. Đây là chất giết người bằng hóa chất có triển vọng nhất kể từ khi người Đức phát minh ra khí mù tạt. Preparation 9/91 được phân loại là Tuyệt mật và được đặt tên mã là khí tabun. Nó bắt nguồn từ từ tiếng Anh “taboo”, một thứ gì đó bị cấm kỵ.

Tiến sĩ Schrader được yêu cầu sản xuất một kilôgam cho quân đội Đức, quân đội sẽ tiếp quản việc sản xuất tabun trên quy mô lớn. Schrader được thưởng 50.000 reichsmark (trung bình một công nhân Đức trong thời kỳ này kiếm được 3.100 reichsmark một năm) và được yêu cầu quay lại làm việc. Farben vẫn cần ông phát triển thuốc diệt chấy.

Với chất độc thần kinh tabun mới của mình, các giám đốc điều hành Farben đã nhìn thấy đủ loại cơ hội kinh doanh. Karl Krauch, người đứng đầu hội đồng quản trị của Farben, bắt đầu làm việc với Hermann Göring về một kế hoạch dài hạn hơn nhằm trang bị cho Đức vũ khí hóa học, loại vũ khí cuối cùng có thể được thả xuống kẻ thù từ máy bay. Trong báo cáo gửi Göring, Krauch gọi tabun là “vũ khí của trí thông minh vượt trội và tư duy khoa học-công nghệ vượt trội”. Vẻ đẹp của chất độc thần kinh, Krauch nói với Göring, là nó có thể được “sử dụng chống lại vùng đất phía sau của kẻ thù”. Göring đồng ý, nói thêm rằng điều ông thích nhất ở vũ khí hóa học là chúng khiến mọi người khiếp sợ. Ông đã trả lời Krauch bằng văn bản, lưu ý rằng tác động chết người của các chất độc thần kinh như khí tabun có thể gây ra “thảm họa tâm lý cho dân thường, khiến họ phát điên vì sợ hãi”.

Vào ngày 22 tháng 8 năm 1938, Göring đã bổ nhiệm Karl Krauch làm Toàn quyền phụ trách các vấn đề đặc biệt về sản xuất hóa chất. Farben giờ đây đã ở vị trí xây dựng ngành công nghiệp vũ khí hóa học của Đế chế từ đầu. Hiệp ước Versailles đã buộc Đức phải phá hủy tất cả các nhà máy sản xuất vũ khí hóa học của mình sau Thế chiến thứ nhất, điều đó có nghĩa là các nhà máy phải được xây dựng bí mật. Đây là một công trình khổng lồ, hiện là một phần chính thức trong Kế hoạch bốn năm bí mật của Đức Quốc xã, và thông qua Krauch IG Farben đã biết được kế hoạch chiến tranh của Đế chế trước khi chiến tranh nổ ra.

Tại trung tâm thẩm vấn Dustbin, Thiếu tá Tilley hỏi Schrader về việc sản xuất quy mô lớn. Dựa trên việc Đồng minh phát hiện ra hàng nghìn tấn bom tabun trong các khu rừng bên ngoài Raubkammer, Farben hẳn phải có một cơ sở sản xuất bí mật khổng lồ ở đâu đó. Tiến sĩ Schrader nói rằng ông không tham gia vào việc sản xuất quy mô lớn. Đó là công việc của đồng nghiệp của ông, Tiến sĩ Otto Ambros.

Thiếu tá Tilley yêu cầu Schrader kể cho ông ta nghe thêm về Ambros. Schrader nói rằng hầu hết những gì Ambros làm đều được phân loại nhưng nếu Thiếu tá Tilley muốn biết thêm về những gì ông ta thực sự làm cho Farben, Tilley nên nói chuyện với những cá nhân ngồi trong ban giám đốc của Farben với Ambros, có thể là Tiến sĩ Karl Krauch hoặc Nam tước Georg von Schnitzler. Cả hai người này đều bị giam giữ tại Dustbin.

“Ông Ambros là ai?” Thiếu tá Tilley hỏi Nam tước Georg von Schnitzler trong một cuộc phỏng vấn sau này được đưa ra làm bằng chứng trong phiên tòa xét xử tội ác chiến tranh ở Nuremberg.

“Anh ấy là một trong những kỹ thuật viên trẻ tuổi đầu tiên của chúng tôi”, von Schnitzler nói. “Anh ấy đã phụ trách Dyhernfurt cũng như Auschwitz và Gendorg.”

Ambros hiện đang ở đâu? Tilley hỏi von Schnitzler. Nam tước bảo Thiếu tá Tilley hãy trao đổi với Karl Krauch.

Từ Krauch, Thiếu tá Tilley biết thêm khá nhiều về Ambros. Rằng ông ta đã phụ trách phát triển kỹ thuật sản xuất vũ khí hóa học tại Gendorf và Dyhernfurth. Gendorf sản xuất khí mù tạt ở quy mô công nghiệp, và Dyhernfurth sản xuất tabun. Krauch cũng tiết lộ một bằng chứng mới. Dyhernfurth sản xuất một chất độc thần kinh thứ hai, thậm chí còn mạnh hơn tabun, được gọi là sarin. Sarin là một từ viết tắt được ghép lại từ tên của bốn người chủ chốt tham gia vào quá trình phát triển nó: Schrader và Ambros từ IG Farben và, từ quân đội Đức, hai sĩ quan tên là Rüdiger và Linde. Krauch nói với Thiếu tá Tilley rằng nhà máy Dyhernfurth đã rơi vào tay người Nga.

Karl Krauch nói thêm một điều khiến Thiếu tá Tilley bất ngờ. Trước khi đến Dustbin, Krauch nói rằng ông đã ở trong bệnh viện, nơi ông được hai sĩ quan Mỹ đến thăm, một trong số đó là Trung tá Tarr. “Đánh giá từ các cuộc trò chuyện mà tôi đã có cách đây vài tháng trong bệnh viện với các thành viên của USSBS [Đại tá Snow] và Chiến tranh hóa học [Đại tá Tarr],” Krauch giải thích, “các quý ông có vẻ chủ yếu quan tâm đến sarin và tabun; họ yêu cầu tôi cung cấp kế hoạch xây dựng và thông tin chi tiết về chế tạo. Theo như tôi hiểu, họ có ý định dựng các nhà máy tương tự ở Hoa Kỳ. Tôi bảo họ nộp đơn cho Tiến sĩ Ambros và nhân viên của ông tại Gendorf.”

Thiếu tá Tilley đã bị sốc. Trung tá Tarr là cộng sự CIOS của ông, nhưng Tarr đã quên không chia sẻ với ông câu chuyện về chuyến thăm Krauch trong bệnh viện. Đây là dấu hiệu đầu tiên của Tilley cho thấy Tarr đang điều hành một nhiệm vụ riêng cho Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ, một nhiệm vụ dường như có mục tiêu khác với nhiệm vụ CIOS. Câu chuyện đầy đủ, kịch tính sắp diễn ra.

Đến tháng 6 năm 1945, Otto Ambros đã bị những sĩ quan của Tập đoàn quân số 3 thẩm vấn nhiều lần. Vì những lý do vẫn còn mơ hồ, không ai trong sư đoàn đó được thông báo về sự kiện Ambros bị truy nã vì tội ác chiến tranh, hoặc rằng ông đã từng là giám đốc sản xuất vũ khí hóa học của Farben trong suốt thời kỳ Hitler cai trị. Đối với Quân đoàn số 3, ông chỉ đơn giản là “nhà hóa học bình thường” ở ngôi làng Gendorf của Bavaria, một doanh nhân ăn mặc đẹp, tươi cười, thường cung cấp cho  binh lính Mỹ những thanh xà phòng miễn phí.

Tại Dustbin, Thiếu tá Tilley đã chuyển tiếp thông tin mới quan trọng này về Tiến sĩ Otto Ambros cho cấp trên FIAT của mình, FIAT sau đó đã gửi một thông điệp khẩn cấp đến Quân đoàn số 6, cũng ở Gendorf, ra lệnh bắt giữ ngay lập tức Tiến sĩ Ambros. Quân đoàn số 6 sẽ đưa Ambros trực tiếp đến Dustbin để Thiếu tá Tilley có thể thẩm vấn ông ta. Một tờ ghi chú đã được đặt trong hồ sơ của Ambros. Những thông tin rời rạc hiện đang dần rõ nét. “Vụ án số 21877. Tiến sĩ Otto Ambros. Có tin đồn rằng ông ta đã tham gia vào việc sử dụng tù nhân trại tập trung tập trung để thử nghiệm hiệu quả của các loại khí độc mới được phát triển tại Gendorf.”

CROWCASS đã thông báo cho SHAEF, yêu cầu bắt giữ Tiến sĩ Ambros. Là giám đốc nhà máy Buna của Farben ở Auschwitz, Otto Ambros đã có liên quan đến các hành động tàn bạo bao gồm giết người hàng loạt và chế độ nô dịch. Quân đoàn số 6 đã vào cuộc. Nhưng khi họ đến nhà của Ambros ở Gendorf, với lệnh bắt giữ trong tay, Ambros đã biến mất.

Giả định đầu tiên là Ambros đã tự mình bỏ trốn. Giả định này được chứng minh là không đúng. Y đã bị Trung tá Philip Tarr đưa đi. Ban đầu, sĩ quan chỉ huy tại Dustbin thấy điều này không thể hiểu nổi. Một chuyện là Tarr ra sức phỏng vấn Ambros trước bất kỳ chuyên gia chiến tranh hóa học nào khác. Kiểu cạnh tranh đó đã diễn ra kể từ khi các nhóm tình báo khoa học khác nhau vượt sông Rhine. Nhưng tại sao Tarr lại bất chấp lệnh của SHAEF để bắt giữ Ambros? Trong khi những người lính của Quân đoàn số 6 đứng gãi đầu ở Gendorf, Tarr và Ambros thực sự đang đi đến Heidelberg trên một chiếc xe jeep của Quân đội Hoa Kỳ. Điểm đến của họ là một trung tâm thẩm vấn của Hoa Kỳ do các sĩ quan tình báo quân đội thuộc Cục Chiến tranh Hóa học điều hành. Trong nhiều ngày, không ai ở Dustbin biết Tarr và Ambros đã đi đâu.

Otto Ambros sở hữu một trí tuệ sắc bén. Y xảo quyệt và dễ gần, ranh mãnh như một con cáo. Y hầu như lúc nào cũng cười toe toét. Công tố viên tội phạm chiến tranh người Mỹ Josiah DuBois mô tả y có “sự thân thiện của quỷ dữ”. Y cũng có thói quen gây mất tập trung, giống như thỏ là hít không khí. Ambros thấp và nặng nề, tóc trắng và bàn chân bẹt. Y là một nhà khoa học lỗi lạc đã nghiên cứu hóa học và nông học dưới sự hướng dẫn của người Do Thái đoạt giải Nobel Richard Willstätter. Là một nhà hóa học, Ambros có khả năng đưa khoa học vào những lĩnh vực trước đây chưa được khám phá. Ít ai quan trọng với IG Farben trong thời chiến như Otto Ambros.

IG Farben bắt đầu sản xuất cao su tổng hợp vào năm 1935, đặt tên là Buna theo thành phần chính của nó là butadien. Năm 1937, Farben đã giới thiệu Buna thương mại trên thị trường thế giới và giành huy chương vàng tại Triển lãm quốc tế ở Paris. Khi Đức xâm lược Ba Lan vào tháng 9 năm 1939, khả năng nhập khẩu cao su thiên nhiên của Đế chế đã giảm sút. Nhu cầu về một giải pháp thay thế tổng hợp tăng vọt, một thực tế mà Farben đã biết rõ trước cuộc tấn công của Đức. Xe tăng cần lốp, máy bay cần lốp và Farben cần sản xuất cao su. Hitler chỉ đạo Farben tăng sản lượng Buna hơn nữa. Tiến sĩ Ambros được giao phụ trách và đảm bảo rằng Farben mở nhà máy Buna thứ hai rồi đến nhà máy Buna thứ ba để cung có thể đáp ứng cầu. Khi bộ chỉ huy cấp cao của Đức bí mật lên kế hoạch xâm lược Liên Xô, Hitler một lần nữa kêu gọi ban giám đốc của Farben tăng sản lượng cao su tổng hợp. Farben cần xây dựng một nhà máy Buna mới đồ sộ. Otto Ambros cũng được giao phụ trách chỉ đạo dự án này. Địa điểm được chọn là Auschwitz.

Ngày xưa, Auschwitz là một thị trấn bình thường. “Những người dân bình thường sống ở đó, và khách du lịch đến thăm để chiêm ngưỡng các lâu đài, nhà thờ, quảng trường chợ thời trung cổ rộng lớn và giáo đường Do Thái”, các nhà sử học Debórah Dwork và Robert Jan van Pelt viết. Vào những năm 1930, du khách đã gửi bưu thiếp từ thị trấn này có nội dung “Lời chào từ Auschwitz”. Khi, vào mùa thu năm 1940, Otto Ambros nghiên cứu kỹ lưỡng các bản đồ của khu vực này, được gọi là Thượng Silesia, để tìm kiếm một địa điểm xây dựng nhà máy Buna, ông đã tìm thấy địa điểm mình đang tìm kiếm. Sản xuất cao su tổng hợp cần bốn thứ: nước, đất bằng phẳng, kết nối đường sắt tốt và nhiều lao động. Auschwitz có tất cả bốn thứ. Ba con sông gặp nhau ở Auschwitz, Sola, Vistula và Przemsza, với lưu lượng nước là 525.000 bộ khối mỗi giờ. Đất bằng phẳng và cao hơn mực nước sáu mươi lăm bộ, giúp nơi này an toàn trước lũ lụt. Kết nối đường sắt rất tốt. Nhưng quan trọng nhất là vấn đề lao động. Trại tập trung bên cạnh có thể cung cấp nguồn lao động vô tận vì những tù nhân này rẻ và có thể làm việc đến chết.

Đối với Farben, việc sử dụng lao động nô lệ có thể đưa sức mạnh kinh tế công ty lên đến mức độ chưa từng đạt được  trước đây. Đầu tiên, một thỏa thuận tài chính phải được thực hiện với SS. Ambros đóng vai trò quan trọng trong hành động này. Trong nhiều tháng, trước khi việc xây dựng nhà máy Buna được bật đèn xanh, SS và Farben đã mặc cả về các điểm giao dịch. Một số giấy tờ còn  tồn tại sau chiến tranh. Vào ngày 8 tháng 11 năm 1940, bộ trưởng kinh tế của Reich đã viết thư cho hội đồng quản trị Farben, yêu cầu họ nhanh chóng “giải quyết vấn đề liên quan đến địa điểm này”. Otto Ambros đã vận động hành lang mạnh mẽ cho Auschwitz, và vào tháng 12, IG Farben đã cử một xe buýt chở các chuyên gia cao su và công nhân xây dựng đến khảo sát địa điểm làm việc. Một nhân viên của Farben tên là Erich Santo được giao làm giám đốc xây dựng cho Otto Ambros.

“Trại tập trung hiện đang có khoảng 7000 tù nhân sẽ được mở rộng”, Santo lưu ý trong báo cáo chính thức của công ty. Đối với Ambros, thỏa thuận của Farben với SS liên quan đến lao động nô lệ vẫn còn mơ hồ; Ambros tìm kiếm sự rõ ràng. “Do đó, cần phải mở các cuộc đàm phán với Trùm SS của Đế chế [Himmler] càng sớm càng tốt để thảo luận các biện pháp cần thiết với ông ta”, Ambros viết trong báo cáo chính thức của công ty. Hai người đàn ông đã có mối quan hệ kéo dài hàng thập kỷ; Heinrich Himmler và Otto Ambros đã biết nhau từ hồi tiểu học. Ambros có thể khiến Himmler nhìn nhận giống mình về những lợi ích mà Auschwitz mang lại cho cả Farben và SS.

Trên thực tế, SS và IG Farben cần nhau. Himmler muốn có nguồn lực của Farben tại Auschwitz và háo hức thực hiện thỏa thuận cung cấp nô lệ, vì vậy các sĩ quan SS đã tổ chức một bữa tiệc tối cho các chuyên gia cao su và xây dựng của Farben tại trại tập trung Auschwitz, bên trong một phòng tiệc SS ở đó. Trong buổi tiệc, các vấn đề còn lại cuối cùng đã được thống nhất. Farben sẽ trả cho SS ba reichsmark một ngày cho mỗi lao động mà họ cung cấp, số tiền này sẽ được chuyển vào kho bạc SS, không phải cho nô lệ. “Nhân dịp tiệc tối do ban quản lý trại tập trung tổ chức cho chúng tôi, chúng tôi cũng đã xác định tất cả các sắp xếp liên quan đến sự tham gia của hoạt động trại tập trung thực sự tuyệt vời để hỗ trợ các nhà máy Buna”, Ambros viết cho ông chủ của mình, Fritz Ter Meer, vào ngày 12 tháng 4 năm 1941. “Tình bạn mới của chúng tôi với SS đang chứng tỏ rất có lợi”, Ambros giải thích.

SS đồng ý cung cấp cho Farben 1.000 nô lệ ngay lập tức. Himmler hứa rằng con số đó có thể nhanh chóng tăng lên 30.000 nếu có nhu cầu. Mối quan hệ giữa Farben và SS tại Auschwitz giờ đã được củng cố. Otto Ambros là chìa khóa để biến nhà máy Buna thành công. Với kiến ​​thức về cao su tổng hợp và kinh nghiệm quản lý của mình, y cũng điều hành các cơ sở sản xuất khí độc thần kinh bí mật của Farben, không có người nào tốt hơn Otto Ambros cho công việc tại Auschwitz.

Thiếu tá Tilley đang ở Dustbin đợi Tarr và Ambros trở về. Bây giờ ông đã tin chắc rằng không có cá nhân nào quan trọng hơn Otto Ambros đối với chương trình vũ khí hóa học của Hitler. Ambros phụ trách vũ khí hóa học tại Gendorf và Dyhernfurth, và y là giám đốc nhà máy Buna tại Auschwitz. Từ việc phỏng vấn nhiều nhà hóa học Farben bị giam giữ tại Dustbin, Tilley cũng biết được rằng loại khí được sử dụng để giết hàng triệu người tại Auschwitz và các trại tập trung khác, Zyklon B, là một sản phẩm của Farben. Farben sở hữu bằng sáng chế về Zyklon B và nó đã được công ty IG Farben bán cho Reich. Trong một cuộc phỏng vấn này, Tilley đã hỏi thành viên hội đồng quản trị IG Farben là Nam tước Georg von Schnitzler rằng Otto Ambros có biết rằng các hóa chất của Farben đang được sử dụng để giết người hay không.

“Hôm qua, ông đã nói rằng một nhân viên Farben ‘ám chỉ’ với ông rằng khí độc và hóa chất do IG Farben sản xuất đang được sử dụng để giết hại những con người bị giam giữ trong các trại tập trung”, Thiếu tá Tilley nhắc nhở von Schnitzler trong cuộc phỏng vấn của họ.

“Tôi đã hiểu như vậy,” von Schnitzler trả lời.

“Ông không hỏi thêm các nhân viên của mình về việc sử dụng các loại khí này sao?”

“Họ nói rằng họ biết nó được sử dụng cho mục đích này”, von Schnitzler cho biết.

“Ông đã làm gì khi anh ta nói với ông rằng hóa chất IG đang được sử dụng để giết chết, để sát hại những người bị giam giữ trong các trại tập trung?” Thiếu tá Tilley hỏi.

“Tôi rất kinh hoàng,” von Schnitzler nói.

“Ông đã làm gì về chuyện đó chưa?”

“Tôi giữ kín nó trong lòng vì nó quá khủng khiếp”, von Schnitzler thú nhận. “Tôi hỏi nhân viên Farben rằng anh và Ambros cùng các giám đốc khác ở Auschwitz có biết rằng khí gas và hóa chất đang được sử dụng để giết người không?”

“Anh ta trả lời ra?” Thiếu tá Tilley hỏi.

“Đúng vậy; tất cả các giám đốc IG ở Auschwitz đều biết điều này.” von Schnitzler nói.

Đối với Trung tá Philip R. Tarr, có một nhiệm vụ trong tầm tay. Đội Tình báo Thiết bị Địch Số một, nơi ông phục vụ, cần thông tin mà chỉ có Tiến sĩ Otto Ambros có. Cụ thể, nhóm cần bản thiết kế cho thiết bị cần thiết để sản xuất khí độc thần kinh tabun.

Khi Tarr và Ambros đến Heidelberg, Cục Chiến tranh hóa học của Hoa Kỳ đã bắt giữ một nhà hóa học khác của IG Farben mà họ muốn cùng Ambros làm việctrong một nhiệm vụ được phân loại. Người đàn ông này chỉ được nhắc đến trong các tài liệu là Herr Stumpfi. Ambros và Stumpfi được yêu cầu lái xe đến một công ty kim loại đặc biệt ở Hanau, nơi họ sẽ tìm thấy “30 hoặc 40 bản vẽ thiết bị tráng bạc”. Cục Chiến tranh Hóa học tin tưởng Ambros đến mức họ cử ông ta và Stumpfi đi làm nhiệm vụ này mà không có người hộ tống.

Sản xuất khí tabun là một quá trình chính xác và bí mật. Hoa Kỳ vô cùng muốn tái tạo nó, nhưng cố gắng làm như vậy mà không có công thức độc quyền của Farben và thiết bị bí mật của họ có thể là bản án tử hình tiềm tàng đối với bất kỳ nhà hóa học nào tham gia. Farben đã chi hàng triệu reichsmark cho nghiên cứu và phát triển. Hàng trăm công nhân trại tập trung đã chết trong quá trình thử-và- sai này. Khi Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ biết rằng thiết bị tráng bạc được sử dụng để sản xuất khí tabun trên quy mô lớn đã được thuê ngoài từ một công ty kim loại đặc biệt có tên là Heraus, họ thèm muốn những bản thiết kế và kế hoạch đó. Tiến sĩ Ambros và Herr Stumpfi đã đến công ty kỹ thuật này để tìm các bản vẽ và bản thiết kế này và mang chúng trở lại Heidelberg. Các đặc vụ của Cục Chiến tranh Hóa học không thể tự mình thực hiện nhiệm vụ này vì họ không biết phải tìm thiết bị nào.

Hai nhà hóa học Farben, Ambros và Stumpfi, lên đường thực hiện nhiệm vụ bí mật của họ. “Khi họ đến nhà máy ở Hanau, nhân viên của một nhóm CIC [Quân đoàn phản gián.Hoa Kỳ] có trụ sở tại Hanau, đã bắt giữ họ”, một báo cáo bí mật viết. “Khi họ giải thích nhiệm vụ của mình, nhân viên CIC liên quan đã xác nhận tuyên bố của các kỹ sư Đức bằng cách liên lạc với Heidelberg và hai người Đức đã được thả”. Ambros và Stumpfi lái xe đi. “Nhân viên CIC, lo ngại [sau khi] biết về các bản vẽ thông qua hai kỹ sư Đức, sau đó đã tịch thu các bản vẽ và mang chúng đến trụ sở của họ”, một báo cáo được phân loại của Quân đội viết. Cục Chiến tranh Hóa học không bao giờ có được các bản vẽ mà họ đang tìm kiếm. Nhưng ít nhất Tarr đã kiểm soát được Tiến sĩ Ambros, hoặc ít nhất là ông ta tin như vậy.

Thay vào đó, ở đâu đó giữa thời điểm Ambros được thả khỏi công ty kỹ thuật Heraus ở Hanau và khi ông trở về Heidelberg, ông có thể liên lạc với “mạng lưới gián điệp và người cung cấp thông tin của mình ở Gendorf.” Từ những nguồn đó, Ambros biết được rằng những người lính của Tập đoàn quân số 6 Hoa Kỳ đã có lệnh bắt giữ ông. Vì vậy, thay vì trở về dưới sự giám hộ của Tarr, Ambros lái xe đến một nhà khách sang trọng mà IG Farben quản lý bên ngoài Heidelberg có tên là Villa Kohlhof, nơi đội ngũ nhân viên của Farben phục vụ mọi nhu cầu của ông.

Các viên chức CIOS và FIAT từ Dustbin cuối cùng đã liên lạc với Tarr và ra lệnh cho ông ta quay trở lại cơ sở thẩm vấn cùng Ambros ngay lập tức. Nhưng Tarr không còn kiểm soát được Ambros nữa. Thiếu tá Tilley đã tự mình đi tìm Ambros và thấy nhà hóa học của Hitler đang cư trú tại Villa Kohlhof. Ambros nói với Thiếu tá Tilley rằng ông sẽ đồng ý tiếp tục hợp tác với Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ và các cơ quan Đồng minh khác nhau đang tìm kiếm thông tin từ ông, nhưng chỉ với một điều kiện: Tilley “đảm bảo thả tất cả nhân viên chiến tranh hóa học đã bị giam giữ tại Dustbin.” Đây là một yêu cầu vô lý.

Cấp trên của Tilley, Thiếu tá P. M. Wilson thuộc Đội Khai thác Nhân sự Địch của FIAT, đã cố gắng kiểm soát tình hình, ra lệnh đưa Ambros đến Dustbin ngay lập tức. Wilson cho biết đây không phải là vấn đề hợp tác. Có lệnh bắt giữ người đàn ông này. Trung tá Tarr đã can thiệp thay mặt cho Ambros. Ông đã vận động Bộ Cung ứng Anh (cơ quan chịu trách nhiệm về các vấn đề chiến tranh hóa học của Anh) giúp đỡ để thả những đồng nghiệp của Ambros tại Dustbin. Đối với Tarr, việc khai thác kiến ​​thức bí truyền của Ambros quan trọng hơn nhu cầu phải buộc ông ta chịu trách nhiệm về những tội ác của mình. Nhưng người Anh cũng thẳng thừng từ chối giúp đỡ Tarr. Vấn đề đã bị đình trệ.

Trung tá Tarr bay đến Paris. Đêm đó, một bức điện tín đến Dustbin, được gửi từ Paris và được cho là từ Bộ Cung ứng Anh. Bức điện tín ra lệnh thả tất cả các nhà khoa học chiến tranh hóa học Farben tại Dustbin, và được ký bởi một đại tá của Bộ Cung ứng Anh tên là J. T. M. Childs. Các sĩ quan tại Dustbin nghi ngờ có điều gì đó không ổn và đã liên lạc với Đại tá Childs về yêu cầu vô lý của ông ta. Đại tá Childs thề rằng ông ta không viết bản ghi nhớ cũng không ký và cáo buộc Trung tá Tarr làm giả.

FIAT đã tăng cường nỗ lực để bắt giữ Tiến sĩ Ambros tại Heidelberg. Những nỗ lực này đã thất bại. Ambros đã có thể trốn thoát bằng cách chạy trốn đến nơi an toàn của khu vực Pháp. Phản bội Trung tá Tarr, Otto Ambros đã đạt được thỏa thuận với các chuyên gia vũ khí hóa học của Pháp. Để đổi lấy thông tin, ông được giao một công việc là quản lý nhà máy tại nhà máy hóa chất Farben ở Ludwigshafen.

Khi các viên chức FIAT tại Dustbin biết được chuyện gì đã xảy ra, họ đã.phẫn nộ. Cuộc trốn thoát của Ambros hoàn toàn có thể ngăn chặn được. “Rõ ràng là ông ta không bị giam giữ hoặc quản thúc tại gia”, Đại úy R. E. F. Edelsten, một sĩ quan Anh thuộc Bộ Cung cấp, lưu ý. Thiếu tá P. M. Wilson nhìn nhận tình hình theo hướng đen tối hơn nhiều. Trung tá Tarr đã “thực hiện các bước để hỗ trợ [Ambros] trốn tránh việc bắt giữ”, ông viết trong một báo cáo chỉ trích gay gắt. Wilson kinh hoàng trước “cách đối xử thân thiện dành cho người đàn ông bị tình nghi phạm tội ác chiến tranh này”. Nhưng đây chỉ là lời nói. Ambros giờ đã là một người tự do, sống và làm việc tại khu vực do Pháp kiểm soát.

Mối quan hệ giữa Tarr, Ambros và Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ vẫn chưa kết thúc. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi một công ty hóa chất Hoa Kỳ biết được sự quan tâm của quân đội đối với một lĩnh vực hoàn toàn mới về vũ khí hóa học. Một nhà hóa học người Mỹ, Tiến sĩ Wilhelm Hirschkind, cũng đang ở Đức vào thời điểm này. Tiến sĩ Hirschkind đang tiến hành một cuộc khảo sát về ngành công nghiệp hóa chất của Đức cho Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ trong thời gian tạm nghỉ tại Công ty Hóa chất Dow. Tiến sĩ Hirschkind đã dành nhiều tháng để kiểm tra các nhà máy của IG Farben tại các khu vực của Hoa Kỳ và Anh và giờ đây ông đang ở Heidelberg, hy vọng được gặp Ambros. Trung tá Tarr đã liên lạc với Đại tá Weiss, chỉ huy người Pháp phụ trách nhà máy hóa chất của IG Farben tại Ludwigshafen, và một cuộc gặp đã được sắp xếp.

Vào ngày 28 tháng 7 năm 1945, Tiến sĩ Hirschkind đã gặp Tiến sĩ Ambros và Trung tá Tarr tại Heidelberg. Ambros đã mang theo phó tướng thời chiến của mình đến cuộc họp, nhà hóa học Farben Jürgen von Klenck. Chính von Klenck là người, trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến, đã giúp Ambros tiêu hủy bằng chứng, giấu tài liệu và ngụy trang nhà máy Farben ở Gendorf để có vẻ như nơi này sản xuất xà phòng chứ không phải vũ khí hóa học. Jürgen von Klenck ban đầu bị giam giữ tại Dustbin nhưng sau đó được thả. Các cuộc họp ở Heidelberg kéo dài vài ngày. Khi Tiến sĩ Wilhelm Hirschkind rời đi, ông đã nói những lời này với Ambros: “Tôi mong muốn sau khi kết thúc hiệp ước hòa bình sẽ tiếp tục mối quan hệ của chúng ta [với tư cách của tôi] là đại diện của Dow].”

Chỉ sau đó, những người thẩm vấn FIAT mới biết về cuộc họp này. Những nghi ngờ của Thiếu tá Tilley giờ đã được xác nhận. Một nhóm bên trong Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ, bao gồm cả đối tác cũ của ông, Trung tá Tarr, thực sự có động cơ thầm kín đi ngược lại với động cơ của CIOS, FIAT và Ủy ban Tội phạm Chiến tranh của Liên hiệp quốc. Cấp trên của Tilley tại Dustbin, Thiếu tá Wilson, đã xác nhận điều đen tối này và sự thật đáng lo ngại trong một báo cáo tình báo quân sự được phân loại về vụ việc Ambros. “Người ta tin rằng xung đột giữa FIAT… và Trung tá Tarr là do mong muốn của Tarr muốn sử dụng Ambros cho mục đích hóa học công nghiệp” tại Hoa Kỳ.

Tất cả các tài liệu liên quan đến vụ việc Ambros sẽ vẫn được giữ bí mật trong 40 năm tiếp theo, cho đến tháng 8 năm 1985. Việc một sĩ quan của Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ, Trung tá Tarr, đã che chở cho một tên tội phạm chiến tranh bị truy nã khỏi bị bắt sau khi Đức đầu hàng là điều đáng lên án. Việc viên sĩ quan này cũng tham gia vào các cuộc họp với kẻ chạy trốn và một đại diện của Công ty Hóa chất Dow là điều đáng xấu hổ.

Năm 1945, Cục Chiến tranh Hóa học cũng phụ trách chương trình vũ khí sinh học của Hoa Kỳ, sự tồn tại của chương trình này vẫn được giữ bí mật với công chúng Hoa Kỳ. Chương trình này rất mạnh mẽ; nếu quả bom nguyên tử không thể chấm dứt chiến tranh ở Nhật Bản, thì đã có những kế hoạch được đưa ra để tiến hành chiến tranh sinh học chống lại các loại cây trồng của Nhật Bản. Sau khi Đế chế sụp đổ, đội ngũ của Cục Chiến tranh Hóa học bắt đầu thẩm vấn những người chế tạo vũ khí sinh học của Hitler, nhiều người trong số họ đã bị giam giữ tại Dustbin. Cục Chiến tranh Hóa học nhìn thấy tiềm năng to lớn trong việc biến chương trình vũ khí sinh học của Đức Quốc xã thành của riêng mình và tìm kiếm bất kỳ thông tin tình báo khoa học nào mà họ có thể có được. Người đàn ông bị truy nã gắt gao nhất trong nỗ lực này là chuyên gia vũ khí sinh học hàng đầu của Hitler, Tiến sĩ Kurt Blome.

Vào ngày 29 tháng 6 năm 1945, Blome được đưa đến Dustbin. Các sĩ quan được giao nhiệm vụ thẩm vấn ông ta là Bill Cromartie và J. M. Barnes của Chiến dịch Alsos. Mỗi người đều rất quen thuộc với lý lịch của Blome. Cromartie đã ở trong căn hộ của Tiến sĩ Eugen Haagen tại Strasbourg vào tháng 11 năm 1944 khi ông và giám đốc khoa học của Alsos, Samuel Goudsmit, đã phát hiện ra điều kinh hoàng rằng Đế chế đã thử nghiệm trên người sống trong chiến tranh (Blome được nêu tên trong hồ sơ của Haagen). Và chính Cromartie và Barnes đã chỉ đạo cuộc điều tra về cơ sở Geraberg, một tiền đồn nghiên cứu bị bỏ hoang, trông kỳ lạ ẩn trong Rừng Thuringian. Cả Cromartie và Barnes đều kết luận rằng Geraberg là một phòng thí nghiệm nghiên cứu vũ khí sinh học của Đế chế và Tiến sĩ Blome là người phụ trách.

Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên tại Dustbin, Blome đã từ chối hợp tác. “Khi bị thẩm vấn lần đầu, ông ta rất né tránh”, Cromartie và Barnes viết. Nhưng vài ngày sau, khi bị thẩm vấn chi tiết hơn, “thái độ của Blome đã thay đổi hoàn toàn và ông ấy có vẻ nóng lòng muốn kể lại đầy đủ không chỉ về những gì ông ấy thực sự đã làm mà còn về những gì ông ấy đang nghĩ đến cho công việc trong tương lai.” Cromartie và Barnes không chắc liệu có nên vui mừng trước thái độ có vẻ như thay đổi của Blome hay nên nghi ngờ điều đó. Blome đã được nhìn thấy trong phòng ăn Dustbin trò chuyện rất lâu với Tiến sĩ Heinrich Kliewe, đặc vụ phản gián của Reich phụ trách các vấn đề chiến tranh vi khuẩn. Có lẽ hai người này đang dựng lên một kế hoạch thông tin sai lệch.

Trong chiến tranh, công việc của Tiến sĩ Kliewe là theo dõi tiến trình phát triển vũ khí sinh học của kẻ thù, đáng chú ý nhất là của Nga. “Kliewe tuyên bố rằng chính mình đã đánh giá tất cả các báo cáo nhận được và xác định hướng hành động mà bộ phận của ông nên thực hiện từ nay trở đi”, các nhà điều tra đã viết trong hồ sơ Dustbin của Kliewe. Kliewe nói với Blome rằng ông có thể sẽ bị đưa đến Heidelberg để thẩm vấn kéo dài với các điệp viên của Alsos, giống như Kliewe đã từng.

Nếu Cromartie và Barnes ngạc nhiên trước việc Blome đột ngột sẵn lòng nói chuyện, họ cũng biết rằng hầu hết những gì ông ta nói với họ đều không thể được xác minh độc lập. “Hoàn toàn không thể kiểm tra nhiều tuyên bố của ông ấy và những gì tiếp theo là lời kể của ông ấy”, một ghi chú trong hồ sơ Dustbin của Blome viết. Những gì Blome kể lại là một câu chuyện đen tối về các kế hoạch chiến tranh sinh học do Heinrich Himmler chỉ đạo.

Himmler có một sự say mê của một con người bình thường với chiến tranh sinh học. Từng là nông dân nuôi gà, Reichsführer-SS đã học về nông nghiệp ở trường. Theo Blome, chính Himmler là người thúc đẩy chính đằng sau chương trình vũ khí sinh học của Reich. Blome nói rằng Hitler không chấp thuận chiến tranh sinh học và không được cho biết về các kế hoạch cụ thể. Blome nói rằng lĩnh vực mà Himmler say mê nhất là bệnh dịch hạch.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 1943, Göring đã tạo ra một nhiệm sở nghiên cứu ung thư do Blome đảm nhiệm. Trong 19 tháng tiếp theo, Blome giải thích, ông đã gặp Himmler năm lần.

Trong cuộc họp đầu tiên của họ, diễn ra vào mùa hè năm 1943 – Blome nhớ lại rằng đó là tháng 7 hoặc tháng 8, Himmler đã ra lệnh cho Blome nghiên cứu nhiều phương pháp phát tán vi khuẩn dịch hạch khác nhau cho chiến tranh tấn công. Theo Blome, ông đã chia sẻ với Himmler nỗi sợ hãi của mình về hiệu ứng boomerang nguy hiểm mà một quả bom dịch hạch có thể gây ra cho Đức. Himmler nói với Blome rằng trong trường hợp đó, ông nên bắt tay vào sản xuất vắc-xin ngay lập tức để ngăn ngừa điều đó. Để đẩy nhanh nghiên cứu vắc-xin, Blome nói, Himmler đã ra lệnh cho ông sử dụng con người.”

Himmler đã cấp cho Blome một khu y tế tại một trại tập trung như Dachau, nơi ông có thể hoàn thành công việc này. Blome cho biết mình đã nói với Himmler rằng ông biết “có một số nhóm phản đối mạnh mẽ” việc sử dụng con người trong các thử nghiệm vắc-xin bào chế. Himmler nói với Blome rằng việc thử nghiệm trên con người là cần thiết trong nỗ lực chiến tranh. Khước từ cũng tương đương với tội phản quốc.”

Rất tốt, Blome nói. Ông tự coi mình là một người Đức Quốc xã trung thành, và ông có ý định giúp Đức giành chiến thắng trong cuộc chiến. “Lịch sử cho chúng ta thấy những ví dụ về bệnh tật của con người ảnh hưởng đến kết quả của các cuộc chiến tranh”, Blome nói với những người thẩm vấn Alsos của mình, dành một chút thời gian để thuyết giảng cho họ về lịch sử. “Chúng ta biết rằng từ thời cổ đại cho đến thời điểm diễn ra các cuộc chiến tranh của Napoléon, chiến thắng và thất bại thường được xác định bởi dịch bệnh và nạn đói”, Blome nói. Việc lây lan một căn bệnh truyền nhiễm có thể dẫn đến sự sụp đổ của một đội quân cướp bóc, và Blome nói rằng sự thất bại của Napoleon trong chiến dịch Nga “phần lớn là do ngựa của ông bị nhiễm Glanders”, một căn bệnh do vi khuẩn rất dễ lây lan. Bỏ qua lịch sử, Blome cho biết ông đã tư vấn cho Himmler rằng về thực tế trại tập trung là một nơi khủng khiếp để thử nghiệm bệnh dịch hạch vì dân số ở đây quá đông đúc.

Blome sau đó nói với Himmler rằng nếu cần phải thử nghiệm với vi khuẩn dịch hạch, ông ta sẽ cần một viện nghiên cứu của riêng mình, một cơ sở biệt lập cách xa các trung tâm dân cư. Himmler và Blome đồng ý rằng Ba Lan sẽ là một nơi tốt, và họ đồng ý chọn Nesselstedt, một thị trấn nhỏ bên ngoài Đại học Poznań trước đây (lúc đó do Reich điều hành). Viện nghiên cứu của Blome sẽ được gọi là Viện Vi khuẩn học tại Nesselstedt.

Trong thời gian tạm thời, tại Berlin, Blome đã giám sát một cuộc thử nghiệm thực địa bằng cách sử dụng chuột, vật mang bệnh dịch hạch truyền thống trong lịch sử. Một cuộc tranh luận đã diễn ra bên trong Viện Vệ sinh của Waffen-SS về việc liệu chuột có phải là vật mang bệnh dịch hạch tốt nhất hay không. Ý tưởng của Himmler là “đưa những con chuột bị nhiễm bệnh lên tàu ngầm U-boat và thả chúng gần bờ biển của kẻ thù để chúng có thể bơi vào đất liền”. Blome nghi ngờ khả năng bơi xa của chuột. Ông tin rằng chúng chỉ có thể bơi được chừng nào không khí trong lông của chúng còn giữ cho chúng nổi. Để chứng minh quan điểm của mình, Blome đã sắp xếp một cuộc thử nghiệm trên một hồ nước ở Berlin. “Khoảng 30 con chuột được đưa ra hồ trên một chiếc thuyền cảnh sát và thả ở các khoảng cách khác nhau từ bờ để bơi theo hướng gió và ngược gió”. Blome nói rằng những con chuột này ngu ngốc hơn ông nghĩ; khi được thả xuống nước, “chúng không biết bờ biển ở đâu và bơi vòng quanh theo nhiều hướng khác nhau.” Một số con chết đuối trong 10 phút. Con chuột bơi lâu nhất là 30 phút. Trong số những con được thả cách bờ biển hơn nửa dặm một chút, chỉ có một phần ba vào được đất liền. Đối với Blome, ý tưởng phân tán từ tàu ngầm U-boat của Himmler là không thực tế.

Cuộc họp thứ hai diễn ra sau đó một hoặc hai tháng, vào tháng 9 hoặc tháng 10 năm 1943, và phần lớn là lặp lại cuộc họp đầu tiên, ít nhất là theo Blome. Tuy nhiên, có một diễn biến đáng kể. Himmler hỏi Blome xem ông có cần trợ lý không. Blome đồng ý rằng một nhà vi khuẩn học sẽ hữu ích. Himmler đã chỉ định Tiến sĩ Karl Gross, trước đây là nhân viên tại Viện Vệ sinh Waffen-SS.

Hai bác sĩ không hợp nhau. Blome tin rằng Tiến sĩ Gross đã được Himmler cử đến để do thám ông. Ông nói với những người thẩm vấn rằng ông đang chịu áp lực rất lớn để làm việc nhanh hơn. Himmler liên tục “nhắc lại rằng các phương pháp tiến hành BW [chiến tranh sinh học] phải được nghiên cứu để hiểu được cách phòng thủ chống lại nó”. Điều này có nghĩa là Himmler muốn Blome lây nhiễm bệnh dịch hạch cho các đối tượng thử nghiệm là con người để xem điều gì sẽ xảy ra với họ.

Cuộc họp thứ ba diễn ra bốn hoặc năm tháng sau đó, vào tháng 2 năm 1944. Vào thời điểm này, Blome nói, cơ sở tại Nesselstedt đã được xây dựng. Có nhà ở cho nhân viên, phòng thí nghiệm được trang bị tốt và trang trại chăn nuôi. Khu vực tiến hành việc thử nghiệm bao gồm phòng khí hậu, phòng lạnh, cơ sở khử trùng và phòng cho các thí nghiệm “sạch” và “bẩn”. Có một bệnh viện cách ly cho 16 người trong trường hợp nhân viên của Blome mắc bệnh. Blome nói rằng công việc tiến triển chậm chạp và Himmler trở nên tức giận. Tin đồn về cuộc xâm lược của Đồng minh vào lục địa châu Âu đã trở thành cái gai thường trực trong mắt Reichsführer-SS. Tại sao chương trình vũ khí sinh học của Reich không tiến triển nhanh hơn, Himmler muốn biết. Ông hỏi Blome liệu có thể “làm gì đó ngay bây giờ không – ví dụ như phát tán bệnh cúm để trì hoãn cuộc xâm lược của Anh-Mỹ ở phương Tây”. Theo Blome, ông đã nói với Himmler rằng “không thể làm bất cứ điều gì theo hướng này”. Himmler đề xuất một ý tưởng khác: Thế còn việc phát tán chủng bệnh lở mồm long móng độc hại thì sao? Hay bệnh tularemia, còn gọi là sốt thỏ, ảnh hưởng đến con người theo cách tương tự như bệnh dịch hạch? Blome nói với Himmler rằng đây là những ý tưởng nguy hiểm, vì bất kỳ đợt bùng phát nào chắc chắn cũng sẽ ảnh hưởng đến quân đội Đức. Đế chế cần một kho dự trữ vắc-xin khổng lồ trước khi có thể triển khai một cách khả thi cuộc tấn công sinh học.

Himmler đã mở rộng suy nghĩ của mình để nhắm vào quân Đồng minh trên chính đất của họ. Thế còn việc lây lan bệnh dịch tả gia súc, còn gọi là rinderpest, ở Mỹ hoặc Anh thì sao? Himmler nói với Blome rằng việc lây nhiễm nguồn cung cấp thực phẩm của kẻ thù sẽ có tác động xấu đến quân địch. Blome đồng ý và nói rằng ông sẽ điều tra những gì cần thiết để bắt đầu một trận dịch bệnh giữa những con bò của kẻ thù. Tuy nhiên, Blome giải thích rằng có một vấn đề. Một thỏa thuận quốc tế cấm lưu trữ các loại vi-rút rinderpest ở bất kỳ nơi nào tại châu Âu. Các chủng bệnh dịch tả gia súc chỉ có ở thế giới thứ ba.

Himmler nói rằng chính mình sẽ đem về bệnh dịch hạch ở gia súc. Ông ta đã cử Tiến sĩ Erich Traub, một bác sĩ thú y từ Viện Nghiên cứu Nhà nước của Đế chế, nằm trên đảo Riems, đến Thổ Nhĩ Kỳ. Tại đó, Tiến sĩ Traub đã lấy được một chủng virus gây bệnh dịch tả trâu bò gây chết người.

Dưới sự chỉ đạo của Blome, các thử nghiệm lây nhiễm bệnh dịch tả trâu bò cho những con bò khỏe mạnh đã bắt đầu. Riems, ở miền bắc nước Đức tại Vịnh Greifswald, hoàn toàn biệt lập và khép kín. Đây là nơi hoàn hảo cho những thử nghiệm nguy hiểm này. Bộ phận thú y đã sử dụng máy bay để phun virus dịch tả trâu bò trên các cánh đồng cỏ của hòn đảo, nơi bò gặm cỏ. Blome cho biết ông không biết nhiều về chương trình hoặc kết quả của nó – chỉ biết rằng Tiến sĩ Traub, người chỉ huy thứ hai tại cơ sở nghiên cứu, đã bị quân Nga bắt khi Hồng quân đánh chiếm

Riems vào tháng 4 năm 1945.

Cuộc gặp thứ tư của Blome với Himmler diễn ra vào tháng 4 hoặc tháng 5 năm 1944.

Himmler lúc này đã trở nên hoang tưởng, Blome nói. Ông ta tin rằng quân Đồng minh đang âm mưu tấn công bằng vũ khí sinh học vào Đế chế. “Blome đã được triệu tập qua điện thoại để gặp Himmler gấp. Himmler đã nhận được một số báo cáo kỳ lạ. Cỏ đã trôi nổi trên bầu trời ở một số vùng của Áo và một con bò ăn một ít cỏ đó đã chết.” Blome nói với Himmler rằng ông sẽ điều tra. Himmler tâm sự với Blome rằng còn có những sự kiện kỳ ​​lạ khác. “Một số quả bóng bay nhỏ đã được tìm thấy gần Salzberg và Berchtesgaden” không xa nơi ở trên núi của Hitler, Berghof. Và bọ khoai tây đã được thả xuống Normandy. Blome hứa sẽ nghiên cứu từng sự cố.

Blome nói với Himmler rằng ông cũng có một vấn đề cấp bách của riêng mình. Với đà tiến công của Hồng quân, ông nghĩ rằng nên chuyển viện nghiên cứu bệnh dịch hạch của mình tại Posen (Poznań) đến một nơi nào đó bên trong nước Đức. Địa điểm mà Blome đề xuất là Geraberg, trong khu rừng Thuringian, ở rìa dãy núi Harz. Himmler nói rằng người Nga sẽ không bao giờ đến được Posen. Đến đầu mùa thu, ông đã thay đổi quyết định. Vào tháng 10, một cơ sở nghiên cứu vũ khí sinh học mới đang được xây dựng, ẩn bên trong một khu rừng thông ở làng Geraberg.

Trong khi đó, Blome nói với những người thẩm vấn mình rằng công việc về vắc-xin đang tiến triển – không phải ở bất kỳ viện nghiên cứu nào của ông mà thay vào đó là trong quân đội. Göring đã chuyển quyền kiểm soát dịch bệnh sang thẩm quyền của một thiếu tướng tên là Tiến sĩ Walter Schreiber, Tổng Y sĩ của Đế chế. Blome giữ chức vụ phó Tổng Y sĩ của Đế chế, nhưng hai người có chức vụ ngang nhau dưới quyền Göring, Blome giải thích. Ông, Blome, chịu trách nhiệm tạo ra vũ khí sinh học; Tiến sĩ Schreiber chịu trách nhiệm bảo vệ người Đức khỏi vũ khí sinh học, nếu chúng được sử dụng Thiếu tướng Tiến sĩ Schreiber chuyên về kiểm soát dịch bệnh. Thanh kiếm và lá chắn.

Alsos rất quan tâm đến các loại vắc-xin này. Blome nói rằng Thiếu tướng Tiến sĩ Schreiber là người có thể nói chuyện về vấn đề đó. Ông ấy có thể được tìm thấy ở đâu? Blome nói rằng Schreiber lần cuối được nhìn thấy ở Berlin. Có tin đồn rằng ông ấy đã đầu hàng Hồng quân và hiện là tù nhân của họ.

Blome còn nói thêm một điều nữa khiến những người thẩm vấn lo lắng. Trong chiến tranh, Tiến sĩ

Kliewe nói với Blome rằng chính người Nga mới là phe có chương trình vũ khí sinh học hùng hậu nhất thế giới, một chương trình thậm chí còn tiên tiến hơn cả chương trình của người Nhật. Hơn nữa, người Nga đã chiếm được mọi thứ từ phòng thí nghiệm của Tiến sĩ Traub tại Riems, bao gồm cả chủng bệnh dịch hạch gia súc Thổ Nhĩ Kỳ của Tiến sĩ Traub. Sau đó, vào mùa đông năm 1945, người Nga đã chiếm được viện vi khuẩn học của Blome tại Nesselstedt, bên ngoài Posen. Điều này có nghĩa là người Nga hiện có cơ sở nghiên cứu và phát triển vũ khí sinh học tiên tiến nhất của Đế chế, với các phòng hơi nước, máy ấp, tủ lạnh và thiết bị đông lạnh sâu. Họ cũng có tất cả các mầm bệnh là vi-rút và vi khuẩn mà Blome đã nghiên cứu khi ông chạy trốn về phía tây.

Alsos hiện có hai thông tin quan trọng: Người Nga có phòng thí nghiệm từ Posen và họ có bác sĩ phụ trách vắc-xin, Thiếu tướng Tiến sĩ Walter Schreiber. Họ có cả khoa học và nhà khoa học.

Bình luận về bài viết này