Chiến dịch Kẹp Giấy: Kế hoạch Tình báo Đưa các Khoa học gia Quốc xã đến Mỹ (Bài 4)

Annie Jaconsen

Trần Quang Nghĩa dịch

PHẦN II

Quy mô mà khoa học và kỹ thuật đã được khai thác để trở thành cỗ xe hủy diệt ở Đức thực sự đáng kinh ngạc. Có rất nhiều điều cần phải học ở Đức vào thời điểm hiện tại.” -W. S. Farren, chuyên gia hàng không người Anh với Cơ sở Phi cơ Hoàng gia

CHƯƠNG SÁU 

Khai thác cỗ xe hủy diệt

Phải làm gì với các nhà khoa học cũ của Hitler? Cuộc chiến đã dừng lại, và quân Đồng minh đang chuyển từ một đội quân chinh phục sang một lực lượng chiếm đóng. Đức sẽ bị giải giáp, phi quân sự hóa và phi phát xít hóa để khả năng gây chiến của nước này sẽ giảm xuống mức bằng không, và khoa học và công nghệ là trọng tâm của vấn đề. “Rõ ràng là khoa học của Đức phải bị kiềm chế”, Trung tá Không quân John O’Mara lưu ý, trong báo cáo CIOS mà ông viết về sự trỗi dậy của Luftwaffe. “Nhưng bằng cách nào?” Thế chiến thứ nhất đã kết thúc bằng một hiệp ước hòa bình, trong đó, cùng với các hạn chế khác, “nhằm tìm cách ngăn chặn sự trỗi dậy của Sức mạnh Không quân Đức bằng cách cấm các chuyến bay có động cơ. Kết quả”, O’Mara giải thích, “vừa nực cười vừa bi thảm”. Vào thời điểm Đức bắt đầu Thế chiến thứ II, lực lượng không quân của nước này là lực lượng mạnh nhất thế giới. Sai lầm không thể lặp lại, và các hướng dẫn thủ tục của Hoa Kỳ cho một nước Đức bị chiếm đóng, được nêu trong một chỉ thị được gọi là JCS (Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân) 1076. hứa sẽ vô hiệu hóa khát vọng chiến tranh của Đức. Mọi nghiên cứu quân sự sẽ phải dừng lại. Các nhà khoa học bị bắt giữ và đưa đến các trung tâm giam giữ để thẩm vấn mở rộng.

Trên khắp Đế chế cũ, SHAEF đã thành lập các trung tâm giam giữ nơi hơn 1.500 nhà khoa học hiện đang bị giam giữ tách biệt với các tù nhân chiến tranh Đức khác. Quân đội Hoa Kỳ đã giam giữ khoảng 500 nhà khoa học tại Garmisch-Partenkirchen, ở dãy núi Alps của Bavaria, bao gồm nhóm von Braun và Dornberger; có 444 người bị giam giữ tại Heidenheim, phía bắc Munich; 200 người ở Zell am See, Áo: 30 người bị giam giữ tại Château du Grande Chesnay, Pháp. Hải quân Hoa Kỳ có 200 nhà khoa học và kỹ sư tại một cơ sở giam giữ ở Kochel, Đức, bao gồm nhiều chuyên gia về đường hầm gió. Không quân có 150 kỹ sư và kỹ thuật viên của Luftwaffe ở Bad Kissingen, Đức, phần lớn trong số họ đã bị Đại tá Donald Putt bắt giữ. CIOS có 50 nhà khoa học, bao gồm Werner Osenberg, tại Versailles. Nhưng không có chính sách rõ ràng về biện pháp đối với các nhà khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên đang bị Đồng minh giam giữ, và Tướng Eisenhower đã tìm cách làm rõ vấn đề này. Từ Bộ Tư lệnh Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh tại Pháp, ông đã gửi một bức điện tín đến Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh tại Washington, D.C., yêu cầu chỉ đạo cụ thể về các mục tiêu dài hạn. “Rõ ràng là phải kiềm chế và kiểm soát các cuộc điều tra khoa học và kỹ thuật trong tương lai của Đức”, Tướng Eisenhower viết, “nhưng bộ tư lệnh này không có hướng dẫn về vấn đề này và không sẵn sàng để xây dựng chính sách dài hạn”. Nhóm người này có bị giam giữ vô thời hạn không? Hay chỉ bị thẩm vấn rồi thả ra?

Bộ Chiến tranh đã trả lời bức điện của Eisenhower bằng cách cho ông biết rằng câu hỏi của ông được coi là “vấn đề cấp bách”. Trách nhiệm tạm thời được giao cho Chi nhánh Nhân sự và Vật tư bị Bắt giữ của Cục Tình báo Quân sự, Châu Âu. Bây giờ nhóm đó chịu trách nhiệm giám sát các nhu cầu cơ bản của các nhà khoa học, bao gồm nơi ở, thực phẩm và trong một số trường hợp là tiền lương. Nhưng phải mất thêm hai tuần nữa Bộ Chiến tranh mới có thể trả lời Tướng Eisenhower với bất kỳ tuyên bố nào về chính sách. Trong khi đó, một số sự kiện đang diễn ra ở Mỹ và Đức sẽ ảnh hưởng đến việc ra quyết định của Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh.

Trong trường hợp không có chính sách, các ý tưởng đã được đưa ra tại Lầu Năm Góc. Một số người, như Thiếu tướng Kenneth B. Wolfe, của Không quân, đã tự mình giải quyết vấn đề. Tướng Wolfe là giám đốc kỹ thuật và mua sắm của Bộ Tư lệnh Dịch vụ Kỹ thuật Không quân tại Wright Field, và ông đã ủng hộ Thiếu tướng Knerr và Đại tá Putt trong nhiệm vụ thu giữ chiến lợi phẩm của Luftwaffe được phát hiện tại Völkenrode. Nhưng Tướng Wolfe hình dung ra một chương trình khai thác khoa học thậm chí còn lớn hơn và cảm thấy bức bách rằng chính sách cần phải được thiết lập ngay bây giờ. Wolfe đã bay đến trụ sở SHAEF ở Pháp để gặp phó tướng của Eisenhower, Tướng Lucius D. Clay, nhằm thúc đẩy ý tưởng của mình.

Tướng Clay nói với Tướng Wolfe rằng ông không phản đối một chương trình như vậy nhưng bây giờ không phải là thời điểm thích hợp để đề cập đến nó. “Bị bao vây bởi vô số yêu cầu và các điều kiện hỗn loạn liên quan đến việc chấm dứt chiến tranh, và sự phức tạp nặng nề của việc lập kế hoạch cho hòa bình, Clay coi những nỗ lực như vậy là sớm hơn sáu tháng”, nhà sử học Clarence Lasby giải thích. Tướng Clay bảo Tướng Wolfe quay lại và nói chuyện với ông sau sáu tháng nữa. Thay vào đó, Wolfe lên đường đến Nordhausen, Đức, nơi đồng nghiệp của ông tại Lầu Năm Góc, Đại tá Gervais William Trichel, đang chỉ đạo Nhiệm vụ Đặc biệt V-2, hoạt động tình báo khoa học tuyệt mật của Cục Vũ khí Quân đội Hoa Kỳ, Chi nhánh Tên lửa.

Bên trong cơ sở sản xuất tên lửa bị bỏ hoang trong khu phức hợp đường hầm ngầm tại Nordhausen, Nhiệm vụ Đặc biệt V-2 vừa mới bắt đầu. Khi Tướng Wolfe nhìn thấy số lượng lớn vũ khí V bị bỏ lại, ông càng tin rằng một chương trình của Hoa Kỳ nhằm khai thác khoa học của Đức Quốc xã phải được thực hiện ngay bây giờ. Khi trở về Washington, D.C., Tướng Wolfe đã viết thư cho Tướng Clay với một ý tưởng được sửa đổi. Wolfe cho biết quân đội Hoa Kỳ không chỉ cần hành động ngay lập tức để thu giữ vũ khí của Đức Quốc xã mà nước Mỹ còn cần thuê “các nhà khoa học và kỹ sư người Đức” đã tạo ra vũ khí đó và đưa họ vào Hoa Kỳ sử dụng. “Nếu thực hiện các bước đi theo mục đích này, ta đạt được mục đích kép là ngăn chặn sự trỗi dậy trở lại của Đức Quốc xã như một cường quốc chiến tranh và đồng thời có thể thúc đẩy được tương lai công nghiệp của chúng ta.” Clay không trả lời; ông đã yêu cầu Tướng Wolfe lui lại trong sáu tháng. Trong khi đó, công việc đang diễn ra tại Nordhausen dưới sự bảo trợ của Nhiệm vụ Đặc biệt V-2 sẽ ảnh hưởng rất lớn đến tương lai của tất cả các chương trình khoa học của Đức Quốc xã sau này.

Người phụ trách Nhiệm vụ Đặc biệt V-2, Thiếu tá Robert B. Staver, 28 tuổi, không lạ gì với tầm quan trọng về mặt quân sự của tên lửa Đức Quốc xã. Trong khi chuẩn bị cho Nhiệm vụ Đặc biệt V-2 ở London vào mùa đông trước, Staver đã suýt chết vì một quả tên lửa. Anh và một đồng nghiệp người Anh đang làm việc bên trong một văn phòng tại 27 Quảng trường Grosvenor vào một buổi chiều tháng hai thì một tiếng nổ long trời đánh ngã cả hai xuống sàn. Staver đi đến cửa sổ và nhìn thấy “một đám khói tròn lớn nơi một quả V-2 phát nổ trên cao”. Nhìn những mảnh kim loại cháy rơi xuống từ bầu trời, Staver đã tính toán trong đầu và xác định rằng quả V-2 có khả năng đã hướng “rất trực tiếp” đến tòa nhà nơi anh đang làm việc khi nó phát nổ sớm. Vài tuần sau, Thiếu tá Staver đang ngủ trong một phòng khách sạn gần Marble Arch thì bị một vụ nổ lớn khác hất văng khỏi giường. Một quả V-2 đã đâm sầm xuống Công viên Hyde gần đó và giết chết 62 người.

Những trải nghiệm cận tử khiến anh ngày càng tận tụy hơn với Nhiệm vụ Đặc biệt V-2. Trong sáu tuần, Staver làm việc 12 giờ một ngày, 7 ngày một tuần, nghiên cứu các bức không ảnh chụp Nordhausen do người Anh cung cấp và tìm hiểu mọi thứ có thể về vũ khí V. Ngay khi lực lượng Đồng minh giải phóng hệ thống đường hầm, Thiếu tá Staver là một trong những sĩ quan tình báo đầu tiên bước vào bên trong.

Bây giờ, cuối cùng, anh đã ở đây tại Nordhausen. Lúc đó là ngày 12 tháng 5 năm 1945, và mặc dù nhiệm vụ của anh gần như hoàn thành, thời gian đang cạn dần, vì quân Nga sắp tiến vào khu vực này. Theo tính toán của Quân đội Hoa Kỳ, rất có thể họ sẽ đến trong vòng 18 ngày từ Berlin.

Cục Hậu cần Quân đội Hoa Kỳ tin rằng tên lửa V-2 có thể giúp giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh Thái Bình Dương, và trong gần hai tuần, Staver đã làm việc chăm chỉ. Anh đã giám sát việc thu thập 400 tấn các bộ phận tên lửa, được chất lên toa tàu để chuyển đến cảng Antwerp, từ đó chúng sẽ được vận chuyển đến Hoa Kỳ. Nhưng với bằng kỹ sư cơ khí của Đại học Stanford, Staver biết rằng tên lửa V-2 còn hơn cả tổng số các bộ phận tạo thành nó. Nếu không có bản thiết kế hoặc bản vẽ kỹ thuật, rất khó có khả năng các kỹ sư người Mỹ có thể chỉ cần ghép các bộ phận tên lửa lại với nhau và khiến V-2 bay được. Các bản vẽ và bản thiết kế phải được cất giấu ở đâu đó gần Nordhausen. Nếu Thiếu tá Staver có thể tìm được một nhà khoa học người Đức để hối lộ, anh có thể tìm ra nơi cất giấu các tài liệu quan trọng.

Trong hai tuần nay, Staver đã đi qua Dãy núi Harz, tham quan các nhà máy vũ khí ngầm, tìm kiếm manh mối hoặc đầu mối về rất nhiều câu chuyện khác nhau. Một số người nói về việc giấy tờ bị đốt cháy. Những người khác nói về những xe tải chở đầy rương kim loại được giấu trong các tòa nhà bỏ hoang, trong các quán bia và trong các bức tường thành. Nhưng tất cả chỉ là tin đồn. Không ai có thể đưa ra manh mối cụ thể, và không khó để hiểu tại sao. Các nhà điều tra tội phạm chiến tranh cũng có mặt ở Nordhausen để hỏi người dân địa phương rất nhiều câu hỏi. Và trong khi Staver tìm kiếm các nhà khoa học tên lửa, binh lính Mỹ tiếp tục đào các ngôi mộ tập thể chôn hàng nghìn xác chết được tìm thấy tại trại lao động nô lệ Nordhausen-Dora. Toàn bộ thị trấn Nordhausen vẫn nồng nặc mùi tử khí.

Trong khi lái xe đi săn lùng, Staver chở theo những chiếc hộp ở phía sau xe jeep của quân đội, chứa đầy thuốc lá, rượu và hộp thịt Spam. Những hàng hóa chợ đen có giá trị này rất hữu ích để đổi lấy thông tin, và cuối cùng, Staver đã có được manh mối mà anh đang tìm kiếm. Một nguồn tin cho anh biết rằng có một nhà khoa học tên lửa V-2 tên là Karl Otto Fleischer sống gần đó. Fleischer từng là một kỹ sư làm việc bên trong đường hầm Nordhausen cũng như là quản đốc của Wehrmacht, và ông ta biết nhiều hơn những gì ông ta tiết lộ. Fleischer báo cáo trực tiếp với Tướng Dornberger; ông ta biết nhiều thứ. Staver lái xe đến nơi ở của nhà khoa học với một đề xuất mạnh mẽ hơn một hộp Spam.

Thiếu tá Staver nói với Karl Otto Fleischer rằng ông ta có thể hợp tác hoặc vào tù. Staver nói rằng các tài liệu quan trọng về V-2 đã được giấu ở đâu đó quanh Nordhausen. Nếu có ai biết thì đó là Fleischer, Staver đoán vậy. Dieter Huzel và Bernhard Tessmann thực sự đã nói với Fleischer về kho tài liệu trong mỏ Dörnten trước khi họ chạy trốn đến dãy núi Alps của Bavaria. Nhưng lòng trung thành của Fleischer là với các đồng đội của mình, vì vậy y đã nói dối Staver  rằng mình không biết Staver đang đề cập đến chuyện gì. Y chỉ tay vào một đồng nghiệp khác, một kỹ sư và người phó của von Braun tên là Tiến sĩ Eberhard Rees. Hãy hỏi Rees, Fleischer nói.  Ông ta là cựu giám đốc phụ trách dây chuyền lắp ráp Peenemünde. Khi được Staver phỏng vấn, Tiến sĩ Eberhard Rees đã chơi lá bài thông tin sai lệch của riêng mình, sử dụng ảnh hưởng của Thiếu tá Staver để giúp giải thoát một đồng nghiệp thứ ba khỏi tù. Walther Riedel, giám đốc thiết kế kết cấu và động cơ tên lửa V-2, là một trong bốn người đàn ông được vinh danh tại sự kiện Castle Varlar vào tháng 12 năm trước. Lúc này Riedel đang bị đối xử thô bạo trong một nhà tù cách đó 80 dặm, ở Saalfeld. Ông đã bị tình báo quân đội nhầm tưởng là giám đốc vũ khí sinh học của Hitler. Các đặc vụ của Quân đoàn Phản gián đã đánh gãy một số răng cửa của Riedel. Báo cáo an ninh của ông liệt kê ông là “một người Quốc xã tích cực mặc quân phục và phù hiệu đảng. Nhiệt thành.” Riedel gia nhập Đảng Quốc xã vào năm 1937 và là thành viên của năm tổ chức Quốc xã. Trong một loạt các cuộc phỏng vấn với Riedel, Thiếu tá Staver thấy ông là một con chim lạ. Riedel bị ám ảnh bởi các phương tiện không gian vũ trụ, mà ông gọi là “tên lửa chở khách”.  Trong một cuộc phỏng vấn, Riedel khẳng định ông đã thiết kế những tên lửa chở khách này cho “những chuyến đi ngắn quanh mặt trăng” và rằng ông đã theo đuổi “những tấm gương không gian có thể được sử dụng cho mục đích tốt và có thể là xấu”. Riedel cho biết ông biết ít nhất 40 nhà khoa học tên lửa ngoài ông nên được đưa đến Mỹ để hoàn thành công trình mang tính đột phá này. Nếu người Mỹ không hành động, Riedel nói, thì người Nga chắc chắn sẽ làm. Staver hỏi Riedel rằng ông có biết bản vẽ kỹ thuật của V-2 được giấu ở đâu không. Riedel nói rằng ông không biết.

Walther Riedel là một kỹ sư của cục thiết kế vũ khí V và là thành viên của nhóm tên lửa von Braun. Người thẩm vấn của Quân đội đã phân loại ông là “một tên phát xít cuồng nhiệt”, nhưng sau khi Riedel đe dọa người quản lý của ông rằng ông sẽ làm việc cho người Nga, ông đã được thuê và đưa đến Mỹ. Hợp đồng Kẹp giấy: Quân đội Hoa Kỳ, Texas. (NARA)

Staver đang giải quyết một số vấn đề, tất cả đều phức tạp hơn bởi thực tế là người Nga đang đến. Điều đó là sự thật. Nordhausen đã được người Mỹ giải phóng và ban đầu được chỉ định thuộc  khu vực của Mỹ. Nhưng Stalin phản đối, cho rằng Nga đã mất 17 triệu người trong cuộc chiến và xứng đáng được bồi thường nhiều hơn cho những tổn thất lớn hơn mà mình phải chịu. Đồng minh đã đồng ý giao một vùng rộng lớn lãnh thổ Đức do Mỹ nắm giữ cho Liên Xô vào ngày 1 tháng 6. Lãnh thổ này bao gồm toàn bộ Nordhausen và mọi thứ trong đó.

Nhưng Staver còn nhiều điều phải lo lắng hơn là người Nga. Vào ngày 18 tháng 5 năm 1945, một chiếc máy bay đến, mang theo một nhà vật lý và chuyên gia về vũ khí là Tiến sĩ Howard Percy “H. P.” Robertson. Robertson từng là chỉ huy nhóm của Chiến dịch Alsos, và hiện ông đang phục vụ Tổng thống Eisenhower   với tư cách là trưởng Ban Cố vấn Tình báo Khoa học thuộc SHAEF. Tiến sĩ H. P. Robertson nói với Thiếu tá Staver rằng ông có ý định đưa các kỹ sư tên lửa Fleischer, Riedel và Rees đến Garmisch-Partenkirchen để thẩm vấn, nơi họ sẽ bị giam giữ cùng với Tướng Dornberger và Wernher von Braun cho đến khi Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh quyết định chính sách liên quan đến các nhà khoa học Đức Quốc xã.

Thiếu tá Staver từ chối giao Fleischer, Riedel và Rees. Anh nói với Robertson rằng họ là những người được mình quản lý. Về việc khai thác khoa học của Đức Quốc xã để phục vụ cho mục đích của người Mỹ, Staver và Robertson có cùng quan điểm. Nhưng về việc trao cho các nhà khoa học Đức Quốc xã những đặc quyền đặc biệt, hai người đàn ông này lại ở hai phía đối lập. Ý tưởng này khiến Robertson phẫn nộ, ông vốn coi các nhà khoa học Đức Quốc xã là những kẻ cơ hội vô đạo đức, “thù địch với sự nghiệp của Đồng minh”.

Tiến sĩ Robertson là một nhà vật lý toán học đã xin nghỉ phép khỏi vị trí giáo sư tại Đại học Princeton để hỗ trợ nỗ lực chiến tranh. Ông là một người đàn ông vui vẻ, nhẹ nhàng, thích trò chơi ô chữ, các trận bóng đá Ivy League và rượu Scotch, Robertson nói tiếng Đức lưu loát và được giới tinh hoa học thuật Đức kính trọng không chỉ vì những thành tựu khoa học mà còn vì ông đã học ở Göttingen và Munich vào năm 1925. Trước chiến tranh, Tiến sĩ Robertson coi nhiều nhà khoa học Đức hàng đầu là bạn của mình. Thế chiến II đã thay đổi quan điểm của ông, đặc biệt là đối với bất kỳ nhà khoa học Đức nào ở lại và làm việc cho Hitler.

Trong thời gian ở Princeton, Tiến sĩ Robertson đã trở nên thân thiết với Albert Einstein. Hai người đã cùng nhau làm việc về các dự án lý thuyết và dành thời gian thảo luận về Hitler, Chủ nghĩa Quốc xã và chiến tranh. Einstein, sinh ra ở Đức, đã làm việc ở đó cho đến năm 1933, trở thành giám đốc của Viện Vật lý Kaiser Wilhelm và giáo sư tại Đại học Berlin. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, Einstein ngay lập tức từ bỏ quyền công dân của mình để chống lại Đảng Quốc xã và di cư đến Hoa Kỳ. Tiến sĩ Robertson chia sẻ quan điểm cốt lõi của Einstein. Các nhà khoa học Đức có nhiệm vụ phản đối chính sách phân biệt chủng tộc của Hitler, bắt đầu từ năm 1933. Bất kỳ ai từng phục vụ cho cỗ máy chiến tranh của Đế chế sẽ không được H. P. Robertson cho phép đi lại tự do

Quyết tâm giữ các nhà khoa học Đức Quốc xã trong sự giam giữ của mình, Staver đã chơi lá bài Nga. Robertson có thể chống Đức Quốc xã, nhưng ông cũng rất yêu nước. Với quyền truy cập vào thông tin tình báo bí mật của Alsos, Robertson nhận thức rõ rằng sự phát triển tên lửa của Nga là một mối đe dọa hợp pháp và ngày càng gia tăng. Cả hai người đàn ông đều biết rằng chỉ trong 12 ngày nữa, người Nga sẽ đến Nordhausen. Nếu Staver không thể tìm thấy các tài liệu V-2 vào thời điểm đó, thì cuối cùng người Nga sẽ tìm thấy chúng. Thiếu tá Staver khẩn khoản với Tiến sĩ Robertson, lập luận rằng việc mình giữ Fleischer, Riedel và Rees là nỗ lực cuối cùng và tốt nhất của quân đội để tìm ra các tài liệu V-2 được giấu kín. Cuối cùng, Tiến sĩ Robertson đã đồng ý. Trong lời yêu cầu tha thiết cuối cùng, Staver hỏi Robertson rằng liệu Robertson có thể cung cấp điều gì để giúp anh trong việc tìm kiếm kho V-2 không. Một số manh mối hoặc chi tiết mà Staver có thể bỏ qua?

Thật vậy. Sự thông thạo khoa học của Tiến sĩ Robertson và sự quen thuộc của ông với tình báo khoa học Đức cho đến nay đã khiến ông trở thành một người thẩm vấn cực kỳ hiệu quả đối với giới tinh hoa khoa học và quân sự của Đức Quốc xã. Các tướng lĩnh Wehrmacht, sĩ quan SS và các nhà khoa học nổi tiếng háo hức được nói chuyện với ông. Khi nghe Staver nói, Tiến sĩ Robertson nảy ra một ý tưởng. Ông rút một tập giấy nhỏ ra khỏi túi áo sơ mi và xem qua các ghi chú của mình. Trong một cuộc thẩm vấn trước đó đối với một nhà khoa học tên lửa tên là von Ploetz, Robertson đã có được một manh mối thú vị. Ông quyết định chia sẻ nó với Thiếu tá Staver.

“Von Ploetz nói rằng Tướng Dornberger đã nói với Tướng Rossman [trưởng phòng Quân khí của quân đội Đức] rằng các tài liệu về sản xuất vũ khí V được giấu tại Kaliwerke [mỏ muối] ở  Bleicherode, được xây bịt lại trong đường hầm nào đó”, Robertson đọc từ ghi chú của mình. Robertson đề nghị Staver khai thác thông tin đó. Ông đồng ý để Fleischer, Riedel và Rees ở lại với Thiếu tá Staver trong khi ông đến Garmisch-Partenkirchen để phỏng vấn Tướng Dornberger và Wernher von Braun.

Tại Garmisch-Partenkirchen, Robertson thấy các nhà khoa học tên lửa đang tắm nắng ở dãy Alps. Khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Bavarian xinh đẹp này là nơi Adolf Hitler đã tổ chức Thế vận hội mùa đông năm 1936. Hiện giờ, Quân đội Hoa Kỳ đã bố trí hàng trăm nhà khoa học tại một doanh trại quân đội cũ ở đây. Thức ăn rất dồi dào, không khí trong lành và sạch sẽ. “Mùa xuân trên núi”, Dieter Huzel nhớ lại trong hồi ký của mình. “Lúc này, cây cối đã khoác lên mình những bông hoa xanh tươi mới ở khắp mọi nơi, xa tít tầm mắt nhìn từ cửa sổ và ban công. Mưa không thường xuyên và hầu như ngày nào cũng có thể tắm nắng trên sân cỏ”. Huzel chỉ phàn nàn rằng mình không nhận được thư và không thể gọi điện thoại.

Wernher von Braun, Tướng Dornberger và nhóm của họ đã ở đây kể từ khi được chuyển từ trụ sở CIC ở Reutte. Bị cô lập trong dãy Alps, hai nhà khoa học đã làm những người thẩm vấn họ thất vọng, cản trở và che giấu thông tin. Tiến sĩ Robertson đã đến để xem liệu ông có thể moi được thông tin nào tốt hơn từ các nhà khoa học hay không. Hầu hết nhóm tên lửa đều ở đây, bao gồm cả hai người đã cất giấu tài liệu V-2 mà Staver hiện đang tìm kiếm, Dieter Huzel và Bernhard Tessmann. Cả Huzel và Tessmann đều không chia sẻ với von Braun hay Dornberger sự thật là  họ đã nói với Karl Otto Fleischer về vị trí cất giấu trong mỏ Dörnten. Dornberger và von Braun cho rằng họ nắm giữ tất cả các con bài mặc cả.

Sĩ quan tình báo Walter Jessel cảm thấy có điều gì đó không ổn giữa Dornberger và von Braun khi hai nhà khoa học tên lửa này đang chơi trò chơi.

“Dornberger đã kiểm soát quá trình điều tra của CIOS”, Jessel lưu ý trong một báo cáo. “Những chỉ thị đầu tiên của Dornberger [cho các nhà khoa học khác], có lẽ là dưới suy nghĩ là toàn bộ nhóm sẽ được đưa ngay lập tức đến Hoa Kỳ, nên phải hợp tác đầy đủ với các nhà điều tra”, Jessel giải thích. Nhưng khi những ngày trôi qua và không có thỏa thuận nào được đưa ra từ phía Đồng minh, Jessel thấy Dornberger trở nên khó bảo. “Một thời gian sau, ông ấy [Dornberger] đã ra lệnh [cho những người khác] giữ lại thông tin và nói càng ít càng tốt”. Các nhà khoa học đang đi trên lưỡi dao. Nếu họ nói quá nhiều, nhiều người trong số họ có thể bị liên lụy vào tội ác chiến tranh về lao dịch nô lệ, như trường hợp của Arthur Rudolph, giám đốc điều hành Mittelwerk.

Đối với Rudolph, tốt nhất là nói càng ít càng tốt. Y mô tả thời gian của mình tại Garmisch-Partenkirchen là thú vị vì nó có nghĩa là những ngày chạy trốn khủng khiếp đã kết thúc.” Nhiều năm sau, y mô tả những tuần bị giam giữ ở dãy Alps là những tuần mà cuối cùng y có thể “tận hưởng vài ngày thư giãn”, nhưng sự thư giãn này không kéo dài được lâu do “đầu óc hoạt động không ngừng nghỉ” của y. Rudolph đòi hỏi nhiều hơn ở bản thân mình ngoài việc tắm nắng, y nói sau đó. “Đã có tin đồn người Mỹ sẽ đưa chúng tôi đến Hoa Kỳ. Vì vậy, tôi quyết định  mình cần phải học tiếng Anh.”

Người thẩm vấn Arthur Rudolph nhìn Rudolph khác với cách y nhìn nhận chính mình. Trong các tài liệu tình báo quân sự, Rudolph được mô tả là “100% Đức Quốc xã”, một “kiểu người nguy hiểm”. Người ta phải đưa ra quyết định: sử dụng Rudolph làm nguồn tin tình báo hay giam giữ y để phi phát xít hóa và điều tra các tội ác chiến tranh có thể xảy ra. Phi phát xít hóa là một chiến lược của Đồng minh nhằm dân chủ hóa và phi quân sự hóa nước Đức và Áo sau chiến tranh thông qua các phiên tòa tại các tòa án dân sự địa phương (Spruchkammern) được thành lập để xác định vị thế của từng bị cáo. Mỗi người Đức bị xét xử đều được đánh giá là thuộc một trong năm loại hoặc nhóm sau: (1) những kẻ phạm tội nghiêm trọng; (2) những người hoạt động trong đảng, những người theo chủ nghĩa quân phiệt và những kẻ đầu cơ trục lợi; (3) những cá nhân ít đáng buộc tội hơn; (4) những người theo Đảng Quốc xã; (5) những người được minh oan. Người thẩm vấn Rudolph không tin rằng một người Đức Quốc xã tận tụy như Arthur Rudolph sẽ trở thành một nguồn tin tình báo khả thi và ông ta đã viết, “đề xuất giam giữ”.

Rudolph hy vọng mình sẽ được người Mỹ thuê. Y tìm thấy một  quyển tiểu thuyết trinh thám trong thư viện Garmisch-Partenkirchen, The Green Archer, và cố gắng học tiếng Anh vì y tin rằng, và đúng là như vậy, mình sẽ có một công việc mới.

Trở lại Nord Nordhaus công việc của Thiếu tá Staver đang có tiến triển. Làm việc với thông tin mới từ Tiến sĩ Robertson, Staver lái xe đến gặp nguồn tin mới của mình, Karl Otto Fleischer, trong bãi đậu xe. Lần này, Staver có mang Walther Riedel đi cùng. Trong bãi đậu xe, Staver rút một cuốn sổ tay ra khỏi túi áo ngực, giống như Tiến sĩ Robertson đã làm với anh ta. Staver đọc to một câu chuyện mà anh ta đã sáng tác, một phần là sự thật và một phần là hư cấu. “Von Braun, [Ernst] Steinhoff và tất cả những người khác chạy trốn về phía nam đã bị giam giữ tại Garmisch”, Thiếu tá Staver nói với hai tù nhân của mình. “Các sĩ quan tình báo của chúng tôi đã nói chuyện với von Ploetz, Tướng Dornberger, Tướng Rossman và Tướng Kammler”, Staver cũng nói một phần là sự thật. “Họ nói với chúng tôi rằng nhiều bản vẽ và tài liệu quan trọng của anh đã được chôn dưới lòng đất trong một mỏ ở đâu đó quanh đây và Riedel, hoặc anh, Fleischer, có thể giúp chúng tôi tìm chúng,” Staver nói, câu đó hoàn toàn bịa ra.

Staver nói với hai người đàn ông rằng họ nên cân nhắc thật kỹ lưỡng về động thái tiếp theo. Họ có thể hợp tác, anh nói, và tiết lộ vị trí của các tài liệu V-2. Hoặc họ có thể cản trở và có nguy cơ bị bỏ tù vì che giấu thông tin. Họ có một đêm để cân nhắc lời đề nghị. Staver sẽ gặp hai người đàn ông vào sáng hôm sau, tại cùng bãi đậu xe, đúng 11:00.

Khi Staver đến điểm hẹn vào ngày hôm sau, anh ta đã nản lòng khi thấy Riedel đang đợi anh ta nhưng không có Fleischer. Thậm chí còn kỳ lạ hơn, Riedel nói rằng anh ta có một thông điệp từ Fleischer để chuyển tiếp: Fleischer đang đợi Thiếu tá Staver ở Haynrode, một ngôi làng gần đó, với “một số tin tức rất quan trọng”. Staver cần phải đi đến Haynrode, tìm một nhà trọ tên là Ba Cây Chanh  và yêu cầu gặp người gác cổng. Đây có phải là một loại bẫy hay chỉ là một cuộc săn ngỗng trời khác?

Staver và Walther Riedel cùng lái xe đến quán trọ Ba Cây Chanh. Ở đó, họ gặp chủ quán trọ, người đưa cho họ một tin nhắn từ Fleischer. Staver và Riedel sẽ đi bộ qua thị trấn, đi qua một con hẻm dài và đi đến rìa làng, nơi họ sẽ đến nhà của một linh mục địa phương. Staver và Riedel đi theo dấu vết, cuối cùng đến nhà của linh mục. Ở đó, bằng tiếng Anh hoàn hảo, vị linh mục nói với Thiếu tá Staver rằng Fleischer sẽ sớm gặp anh. Fleischer xuất hiện ở đầu cầu thang, đi xuống và yêu cầu Staver đi theo y ra ngoài để hai người có thể nói chuyện riêng dưới một cây táo. Ở đó, “bằng giọng điệu gần như không nghe rõ, có phần hối lỗi, Fleischer thừa nhận rằng mình đã không hoàn toàn thẳng thắn” về nơi cất giấu tài liệu V-2, Staver giải thích. Trên thực tế, y biết chúng được giấu ở đâu và “tin rằng mình là người duy nhất ở Nordhausen biết được”. Nhưng Fleischer cho biết có một vấn đề. Y mô tả với Staver cách người quản lý mỏ đã dùng thuốc nổ phá một bức tường đổ nát che lối vào để không ai có thể tìm thấy chúng. Người đàn ông này là một người theo chủ nghĩa Quốc xã cuồng nhiệt và sẽ không bao giờ giao nộp tài liệu cho một sĩ quan Mỹ như Thiếu tá Staver. Fleischer nói rằng y sẽ đưa Tiến sĩ Rees đi cùng để làm việc. Mặc dù không đáng tin cậy, Staver quyết định tin lời Fleischer. Anh đã cấp cho y giấy thông hành cho phép đi lại quanh Nordhausen cũng như đủ xăng để đi lại giữa Nordhausen và mỏ. Fleischer và Rees đã thành công trong việc thuyết phục người quản lý mỏ, Herr Nebelung, hợp tác. Fleischer trả tiền cho thợ mỏ địa phương bằng tiền của Quân đội Hoa Kỳ để khai quật đống đổ nát và lấy lại các tài liệu được giấu trong mỏ.

Kho vũ khí rất lớn, những thùng hàng nặng hơn mười bốn tấn. Chỉ có điều bây giờ lại có một rào cản mới cần vượt qua. Những binh lính Anh đã được sắp xếp đến Nordhausen vào ngày 27 tháng 5 để giám sát quá trình chuyển giao sang chế độ cai trị của Hồng quân. Điều này có nghĩa là Thiếu tá Staver phải nhanh chóng chuyển các tài liệu ra ngoài. Thỏa thuận ban đầu giữa Anh và Mỹ là hai Đồng minh sẽ chia sẻ với nhau mọi thứ họ biết về vũ khí V. Nếu người Anh phát hiện ra Staver đang có kế hoạch bí mật vận chuyển một trăm tên lửa V-2 trở lại Hoa Kỳ, họ có thể coi đó là hành vi phản bội. Thiếu tá Staver cần phải đến Paris. Đó là cách duy nhất để anh ta có thể tiếp cận được những chiếc xe tải mười tấn cần thiết để di chuyển một kho vũ khí lớn như vậy trong một thời gian ngắn như vậy.

Staver giao cho một đồng nghiệp giám sát hoạt động khai thác mỏ Dörnten trong khi anh tìm cách đi nhờ một chiếc P-47 Thunderbolt đến Paris. Phi công nói rằng việc ấy là không thể – Thunderbolt là máy bay chiến đấu một chỗ ngồi. Staver nói rằng nhiệm vụ của mình rất cấp bách và đề nghị chiếm  một khoảng trống nhỏ phía sau ghế phi công. Cuối cùng, phi công đã đồng ý. Tránh thời tiết xấu ở trên cao, họ đã bay suốt chặng đường đến Paris ở “tầm cao ngang ngọn cây” và đến sân bay Orly an toàn. Staver có giang đi xuống đại lộ Champs-Élysées bằng một chiếc xe jeep của Quân đội Hoa Kỳ. Tại Trụ sở Quân nhu, anh đã tìm thấy chính xác người mà anh đang tìm kiếm, Đại tá Joel Holmes, đang ngồi ở bàn làm việc của mình. Là người đứng đầu Sư đoàn Kỹ thuật, Đại tá Holmes có thẩm quyền cấp cho Thiếu tá Staver những chiếc xe kéo mà anh cần để di tản kho dự trữ của mỏ Dörnten trước khi quân Anh và quân Nga đến.

Nhưng Staver cũng có một kế hoạch thứ hai mà anh đã hình thành, và như anh sẽ giải thích sau này, khoảnh khắc này ở Paris là cơ hội tuyệt vời để anh hành động. Anh nói với Đại tá Holmes rằng có một yếu tố thứ ba cần thiết để biến chương trình tên lửa V-2 ở Mỹ thành công. Staver đã định vị các bộ phận tên lửa và các tài liệu cần thiết để lắp ráp chúng một cách chính xác. Nhưng để tên lửa bay, người Mỹ cần các nhà khoa học Đức. Quân đội cần đưa những nhà khoa học này đến Hoa Kỳ, Staver giải thích. Kiến thức vượt trội của họ có thể được sử dụng để giúp giành chiến thắng trong cuộc chiến ở Nhật Bản.

“Anh viết điện tín và tôi sẽ ký,” Staver nhớ lại lời Đại tá Holmes đã nói. Ở Paris, Staver ngồi xuống và viết một điện tín sẽ có sức tác động lớn đến tương lai của chương trình khoa học của Đức Quốc xã. “Đã giam giữ hơn 400 nhân viên phát triển nghiên cứu hàng đầu của Peenemünde. Đã phát triển V-2”, Staver viết. “Suy nghĩ của các giám đốc khoa học của nhóm này đi trước Hoa Kỳ 25 năm…. Phiên bản sau này của tên lửa này sẽ cho phép phóng từ Châu Âu đến Hoa Kỳ.” Với ý tưởng to lớn này vào năm 1945, rằng một ngày nào đó tên lửa thực sự có thể bay từ lục địa này sang lục địa khác, Staver thúc đẩy: “Khuyến nghị hành động ngay lập tức để ngăn chặn việc mất toàn bộ hoặc một phần nhóm này vào tay các bên quan tâm khác. Yêu cầu trả lời khẩn cấp càng sớm càng tốt.”

Bức điện tín được gửi đến văn phòng của Đại tá Trichel tại Lầu Năm Góc, và Thiếu tá Staver trở về Nordhausen. Các tài liệu được chất lên xe và được chở đến Paris dưới sự bảo vệ có vũ trang. Từ đó, chúng được chuyển đến Trung tâm Đánh giá Tài liệu Nước ngoài tại Bãi Kiểm nghiệm Aberdeen, Maryland. Nhiệm vụ Đặc biệt V-2 được tuyên bố là thành công. Cơ quan Vũ khí Quân đội Hoa Kỳ, Rocket Branch, hiện có 100 tên lửa và 14 tấn tài liệu kỹ thuật trong tay. Nhưng Staver không coi Nhiệm vụ Đặc biệt V-2 là hoàn thành đầy đủ. Anh vẫn để mắt đến các nhà khoa học tên lửa.

Chỉ còn chưa đầy 48 giờ nữa là quân Liên Xô đến Nordhausen Staver đã nhận được sự chấp thuận mà anh đã chờ đợi từ trụ sở SHAEF. Anh đến Garmisch-Partenkirchen, đón von Braun và trở về Nordhausen. Thời gian đang trôi nhanh. Staver cần sự giúp đỡ của von Braun để đưa mọi nhà khoa học tên lửa cuối cùng ra khỏi Harz trước khi quân Liên Xô đến.

“Chúng tôi vừa hạ cánh là cắm đầu chạy,” Tiến sĩ Richard Porter, thành viên nhóm của Staver, nhớ lại.

Trở lại Nordhausen, những thành viên bắt tay vào công việc tìm kiếm các nhà khoa học vẫn còn sống trong khu vực. Staver có cả một chồng thẻ ghi với tên và địa chỉ của các kỹ sư V-2. Anh chỉ thị cho mọi binh sĩ Mỹ trưng dụng bất cứ thứ gì có bánh xe, xe tải, xe máy và xe lừa kéo  và cử những binh lính tản ra khắp Harz. Các nhà khoa học và gia đình họ đã nhận được một lời đề nghị. Họ có thể được đưa ra khỏi nơi mà sẽ sớm trở thành khu vực của Nga, hoặc họ có thể ở lại.

Vợ của Arthur Rudolph đang ở Stepferhausen, 85  dặm về phía nam của Nordhausen, khi một người lính Hoa Kỳ đến. “Một người lính da đen lái xe tải vào thị trấn để tìm tôi”, Martha Rudolph nhớ lại. “Anh ta có một danh sách tên và tên của tôi nằm trên đó. Anh ấy bảo tôi rằng nếu tôi muốn rời đi thì hãy chuẩn bị. Anh ấy sẽ quay lại sau 30 phút để đón tôi. Bạn bè tôi đều nói, “Đi đi, đi đi, bọn Nga đang đến. Tại sao bạn muốn ở lại đây? Vì vậy, tôi đã đóng gói những gì tôi có thể và rời đi trên xe tải khi lính Mỹ quay lại.” Con gái của Rudolph, Marianne, đi cùng bà đến ga tàu.

Cảnh tượng ở nhà ga thật siêu thực, gợi nhớ đến cuộc vận chuyển tù nhân kinh hoàng trong chiến tranh nhưng với vai trò bị đảo ngược, số phận và kết quả đã bị đảo lộn. Hơn một nghìn nhà khoa học Đức và gia đình của họ đứng trên sân ga, chờ đợi để được vào toa xe chở hàng và toa hành khách. Động cơ của tàu vẫn chưa được lắp vào và không có thông báo nào giải thích về sự chậm trễ. Căng thẳng leo thang, nhưng đám đông vẫn bình tĩnh cho đến khi một đám đông người di tản tràn vào nhà ga. Tin tức đã rò rỉ rằng các nhà khoa học Đức đang được sơ tán khỏi Nordhausen trước khi Hồng quân đến. Đột nhiên, nhiều người dân địa phương khác cũng muốn rời khỏi Harz. Hồng quân mang tiếng xấu. Dân chúng  loan truyền các câu chuyện về toàn bộ các đơn vị Nga đến thị trấn trong tình trạng say xỉn và tìm cách trả thù. Tại nhà ga xe lửa, lính Mỹ đã được triệu tập đến hiện trường. Sử dụng vũ khí đe dọa, họ ngăn cản bất kỳ người di tản nào không phải là nhà khoa học hoặc kỹ sư lên toa xe chở hàng và toa hành khách.

Vào giờ thứ mười một, Thiếu tá Staver và Tiến sĩ Porter biết được một thảm họa tiềm tàng cuối cùng cần phải giải quyết. Ngay trước khi lên tàu, Tướng Dornberger đã thú nhận rằng ông đã giấu một kho giấy tờ của riêng mình, một con át chủ bài đã khiến Dornberger bị von Braun phản bội và không tham gia vào thỏa thuận với Mỹ. Tướng Dornberger nói với Thiếu tá Staver rằng ông đã chôn năm chiếc hộp lớn trong một cánh đồng ở thị trấn Bad Sachsa. Những chiếc hộp này được làm bằng gỗ và lót kim loại, chứa thông tin quan trọng về tên lửa V-2 có thể gây tổn hại cho Quân đội Hoa Kỳ nếu nó rơi vào tay người Nga. Trong nỗ lực cuối cùng để tìm kho tài liệu bí mật của Donberger, Staver và Porter đã lên đường thực hiện nhiệm vụ cuối cùng.

Hai người đàn ông này lái xe 60 dặm đến trụ sở của Trung đoàn Công binh 332 tại Kassel, nơi họ mượn xẻng, cuốc chim, ba người lính và một máy dò mìn. Trở lại một cánh đồng lớn ở Bad Sachsa, họ tìm kiếm trên mặt đất như thể đang tìm một quả mìn bị chôn vùi. Cuối cùng, họ tìm thấy những chiếc hộp lót kim loại của Dornberger, chứa 250 cân bản vẽ và tài liệu. Kho báu được chất lên một chiếc xe tải và lái đến một cơ sở quân đội ở khu vực của Mỹ.

Trên đường ra khỏi Harz, Staver và Porter đi ngang qua Nordhausen để nhìn lần cuối. “Tôi muốn cho nổ tung toàn bộ nhà máy ở Nordhausen trước khi chúng tôi rút lui nhưng tôi không thể thực hiện được về mặt pháp lý. Lúc đó tôi sợ phải làm việc ‘không chính thức, và đã hối hận về điều đó kể từ đó”, Porter nhớ lại. Ông đang ám chỉ đến sắc lệnh của Ủy ban Cố vấn Châu Âu, được Tướng Eisenhower ký vào ngày 5 tháng 6 năm 1945, tại Berlin, trong đó cấm phá hủy các cơ sở nghiên cứu quân sự trong khu vực của một cường quốc khác.

Người Liên Xô giờ đây là người thừa kế Harz. Thiếu tá Staver đã thành công trong việc bí mật vận chuyển đủ các bộ phận để lắp ráp lại một trăm tên lửa V-2 ở Mỹ. Tuy nhiên, hàng ngàn tấn bộ phận tên lửa vẫn còn ở lại. Với tất cả những nỗ lực và sự thỏa hiệp về mặt đạo đức đã dành cho Dự án Đặc biệt V-2, Hồng quân giờ đây sẽ không thiếu các bộ phận vũ khí kỳ diệu để lựa chọn. Nhà máy lao động nô lệ ngầm tại Nordhausen vẫn gần như nguyên vẹn. Hàng ngàn máy công cụ nằm trên dây chuyền lắp ráp sẵn sàng sản xuất thêm các bộ phận.

Sau 11 ngày trì hoãn, cuối cùng người Nga cũng đến. Dẫn đầu đoàn là các chuyên gia kỹ thuật từ Ủy ban đặc biệt nghiên cứu tên lửa của giám đốc chương trình tên lửa Liên Xô Georgy Malenkov. Cứ mỗi nhà khoa học Đức chấp nhận lời đề nghị di tản của Quân đội Hoa Kỳ, thì có từ 2 đến 10 người ở lại. Mật vụ Liên Xô bắt đầu truy quét hàng trăm cựu khoa học gia và kỹ sư tên lửa và đưa họ trở lại làm việc. Một kỹ sư hướng dẫn của Liên Xô tên là Boris Chertok thậm chí còn chuyển đến biệt thự cũ của von Braun, nơi mà SS đã tịch thu từ một doanh nhân Do Thái vài năm trước. Chertok giám sát việc đổi tên khu phức hợp đường hầm Nordhausen từ Mittelwerk thành Institute Rabe, viết tắt của Raketenantrieb Bleicherode hay Cơ sở Tên lửa Bleicherode.

Von Braun, 80 nhà khoa học và gia đình họ đã được đưa đến thị trấn Witzenhausen, cách Nordhausen 40 dặm, trong khu vực của Mỹ. Ở đó, họ được bố trí trong một ngôi trường hai tầng và được trả tiền để làm việc trên các kế hoạch tên lửa trong tương lai trong khi Bộ phận Quân khí lên kế hoạch đưa họ đến Hoa Kỳ, đến Căn cứ Quân đội Fort Bliss, ở Texas. Người Mỹ đã bị ám ảnh bởi vũ khí V trong chiến tranh. Bây giờ họ có khoa học và các nhà khoa học.

Tại Washington, D.C., các viên chức của Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh vẫn chưa quyết định chính sách liên quan đến việc phải làm gì với các nhà khoa học Đức Quốc xã.

Những câu hỏi của Eisenhower về các kế hoạch dài hạn vẫn chưa được trả lời, và Thứ trưởng Bộ Chiến tranh Robert Patterson đã được yêu cầu cân nhắc. Bức điện của Thiếu tá Staver từ Paris liên quan đến 400 nhà khoa học tên lửa “bị giam giữ” đã thu hút sự chú ý đến vấn đề này. Ở Mỹ, 5 nhà khoa học Đức Quốc xã đã được bí mật đưa vào Hoa Kỳ để dạy cho người Mỹ về vũ khí được phân loại. Chỉ vài ngày sau khi Đức đầu hàng, giám đốc tình báo hải quân đã vận động thành công Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh lách luật của Bộ Ngoại giao để một chuyên gia tên lửa dẫn đường của Đức Quốc xã tên là Tiến sĩ Herbert Wagner và bốn trợ lý của ông có thể bắt đầu tiếp tục làm việc về công nghệ nhằm giúp chấm dứt chiến tranh với Nhật Bản. Bộ Chiến tranh đã chấp thuận, và vào giữa tháng 5, Tiến sĩ Wagner và nhóm của ông đã bay từ Đức đến một đường băng nhỏ bên ngoài Washington, D.C., bên trong một máy bay quân sự có cửa sổ được sơn đen để không ai có thể nhìn thấy gì bên trong.

Trong chiến tranh, Tiến sĩ Herbert Wagner là kỹ sư trưởng bộ phận thiết kế tên lửa tại Henschel Aircraft. Ông là người đứng sau tên lửa dẫn đường đầu tiên được sử dụng trong cuộc chiến của Đế chế, Hs 293. Quả bom điều khiển từ xa này là kẻ thù của Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoàng gia Anh và đã đánh chìm một số tàu Đồng minh trong chiến tranh. Hải quân Hoa Kỳ không chỉ coi công nghệ bom lượn là cực kỳ quan trọng trong cuộc chiến ở Thái Bình Dương, mà họ còn coi Tiến sĩ Wagner là người có “kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng không nơi nào trên thế giới sánh bằng”.

Tầm quan trọng được nhận thức của việc có được chuyên môn của Wagner trong cuộc chiến chống lại Nhật Bản đã được làm sáng tỏ bởi một sự kiện đầy kịch tính diễn ra ở Portsmouth, New Hampshire, ngay khi ông và nhóm của mình đến nơi. Vào ngày 15 tháng 5 năm 1945, một tàu ngầm của Đức Quốc xã, được xác định trong tiêu đề của tờ New York Times là “chiếc U-234 hướng đến Nhật Bản”, đã đầu hàng USS Sutton ở vùng biển cách Cape Race, Newfoundland 500 dặm. Bên trong tàu ngầm, đang trên đường đến Nhật Bản, là một kho vũ khí kỳ diệu của Đức Quốc xã, “được cho là chứa đựng một số ít bí mật hàng không còn sót lại”, cũng như “các kế hoạch vũ khí chiến tranh khác và các thiết bị”. Một trong những vũ khí kỳ diệu trên tàu là quả bom lượn Hs 293 của Tiến sĩ Wagner, được sử dụng để chống lại Hải quân Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Ngoài ra, còn có các bản vẽ và kế hoạch cho bom bay V-1 và tên lửa V-2, thiết bị thử nghiệm cho công nghệ tàng hình trên tàu ngầm, toàn bộ máy bay chiến đấu Me 262 và 10 hộp chì chứa 1.200 cân uranium oxide, một vật liệu cơ bản dùng để chế tạo bom nguyên tử. Các chi tiết cụ thể về kho vũ khí không được công khai, nhưng quan niệm rằng Đức Quốc xã đã bán bí mật của một số vũ khí kỳ diệu được đánh giá cao nhất của họ cho đối tác phe Trục Nhật Bản của họ là điều đáng báo động. Kịch bản thậm chí còn đáng sợ hơn bởi thực tế là cũng trên tàu U-234 là một nhà khoa học hàng đầu của Đế chế có nhiệm vụ dạy các nhà khoa học Nhật Bản cách sao chép và sản xuất những vũ khí kỳ diệu của Đức Quốc xã này cho chính họ.

Nhà khoa học trong tàu ngầm là Tiến sĩ Heinz Schlicke, giám đốc Naval Test Fields tại Kiel. Đối với công chúng, ông chỉ được xác định là một “kỹ thuật viên” người Đức. Trên thực tế, Tiến sĩ Schlicke là một trong những nhà khoa học Đức Quốc xã có trình độ cao nhất trong lĩnh vực chiến tranh điện tử. Các lĩnh vực chuyên môn của ông bao gồm các kỹ thuật định vị vô tuyến, ngụy trang, gây nhiễu và chống gây nhiễu, điều khiển từ xa và hồng ngoại. Hải quân đã bắt Tiến sĩ Schlicke làm tù binh chiến tranh và đưa ông đến Trung tâm Tình báo Quân đội tại Fort Meade, Maryland.

Đối với Tiến sĩ Wagner, hải quân cảm thấy cần phải giữ ông vui vẻ để công trình khoa học của ông tiếp tục đơm hoa kết trái. Để làm dịu đi thực tế rằng ông là tù nhân, việc giam giữ ông được gọi là “giam giữ tự nguyện”. Wagner và các trợ lý của ông cần một nơi làm việc được phân loại nhưng thoải mái, hải quân đã ghi chú trong một báo cáo tình báo, lý tưởng nhất là trong “một tòa tháp ngà hoặc một chiếc lồng mạ vàng, nơi cuộc sống sẽ dễ chịu, những người lính canh lịch sự, những chiếc khóa dày nhưng không quá lộ liễu”. Hải quân đã tìm thấy những gì họ đang tìm kiếm ở Hempstead House, một lâu đài đá lớn trên Sands Point, ở Bờ Bắc của Long Island, trước đây là nhà của Daniel và Florence Guggenheim. Khu điền trang rộng 160 mẫu Anh đã được Guggenheims tặng cho hải quân để sử dụng làm trung tâm đào tạo. Với ba tầng, bốn mươi phòng và tầm nhìn bao quát ra biển, hải quân quyết định đây là một địa điểm lý tưởng. Hempstead House được đặt mật danh là Trung tâm Thiết bị Đặc biệt, và Tiến sĩ Wagner cùng các trợ lý của ông bắt tay vào làm việc.

Có nhiều vấn đề nổi cộm ở Washington, lần này đến từ FBI.

Nếu các nhà khoa học Đức Quốc xã làm việc cho quân đội Hoa Kỳ, Bộ Tư pháp cho biết họ cần phải thực hiện kiểm tra lý lịch. FBI của J. Edgar Hoover đã điều tra quá khứ của Tiến sĩ Wagner, dựa trên thông tin do tình báo quân đội thu thập được ở Châu Âu, và biết rằng Tiến sĩ Wagner “đã từng thuộc về SS Đức”, cánh bán quân sự của Đảng Quốc xã do Himmler điều hành. Điều này có nghĩa là Wagner là một người Đức Quốc xã cuồng nhiệt. Nếu ông ta ở lại Đức, với tư cách là cựu thành viên SS và theo luật của lực lượng chiếm đóng, ông ta sẽ bị bắt và phải chịu một phiên tòa phi phát xít hóa. Nhưng FBI đã nhận thức được rằng hải quân cần Wagner đến mức nào, và họ dán nhãn ông ta là “một kẻ cơ hội chỉ quan tâm đến khoa học”. Mối quan tâm lớn hơn của FBI, theo một báo cáo tình báo, là mức độ uống rượu của Tiến sĩ Wagner gần đây. FBI không coi Wagner là “kẻ nghiện rượu” nhưng đổ lỗi cho việc say xỉn gần như hàng đêm của ông là do cái chết gần đây của vợ ông.

Nhà khoa học trên tàu ngầm, Tiến sĩ Heinz Schlicke, đã trở thành tù nhân tại Fort Meade, nơi Hải quân Hoa Kỳ không mất nhiều thời gian để biết ông “có trình độ xuất sắc” như thế nào. Ngay sau đó, Schlicke đã có những bài giảng được phân loại về công nghệ mà ông đã phát triển trong chiến tranh. Bài giảng đầu tiên có tên là “Đánh giá chung về các biện pháp do Bộ Hải quân Đức lập kế hoạch trong lĩnh vực điện tử nhằm khôi phục Chiến tranh tàu ngầm”. Hải quân muốn thuê Schlicke ngay lập tức, nhưng các quy định của Bộ Ngoại giao đã cản trở. Schlicke đã bị quân đội giam giữ tại Hoa Kỳ với tư cách là tù nhân chiến tranh. Theo Bộ Ngoại giao, ông sẽ phải hồi hương trở lại Đức trước khi có thể được ký hợp đồng làm việc tại Hoa Kỳ. Câu chuyện về U-234 và hành khách của nó đã làm rõ một điều: Bộ Chiến tranh sẽ bắt đầu thuê các nhà khoa học Đức một cách thường xuyên, họ cần thành lập một ủy ban để giải quyết những phức tạp của từng trường hợp cụ thể. Cuối cùng, vào ngày 28 tháng 5 năm 1945, Thứ trưởng Bộ Chiến tranh Robert Patterson đã cân nhắc đến vấn đề bảo mật về việc thuê các nhà khoa học Đức Quốc xã cho nghiên cứu quân sự của Hoa Kỳ.

Patterson đã viết thư cho tham mưu trưởng của tổng thống, Đô đốc William D. Leahy. “Tôi ủng hộ mạnh mẽ việc làm mọi thứ có thể để tận dụng tối đa trong quá trình tiến hành cuộc chiến chống lại Nhật Bản mọi thông tin có thể thu thập được từ Đức hoặc bất kỳ nguồn nào khác”, Patterson viết. Ông cũng bày tỏ mối quan ngại. “Những người đàn ông này là kẻ thù và phải thừa nhận rằng họ có khả năng phá hoại nỗ lực chiến tranh của chúng ta. Việc đưa họ đến đất nước này đặt ra những câu hỏi tế nhị, bao gồm cả sự phẫn nộ mạnh mẽ của công chúng Mỹ, những người có thể hiểu sai mục đích đưa họ đến đây và cách đối xử dành cho họ”, Patterson tin rằng cách để tránh những vấn đề có thể lường trước được với Bộ Ngoại giao, nơi xử lý việc phê duyệt thị thực, là đưa Bộ Ngoại giao vào quá trình ra quyết định ngay bây giờ. Cho đến khi một ủy ban mới được thành lập để giải quyết cụ thể với các nhà khoa học Đức Quốc xã, Patterson đã đề xuất rằng Ủy ban Điều phối Nhà nước-Chiến tranh-Hải quân (SWNCC) sẽ chịu trách nhiệm.

Bức thư của Patterson gửi cho chánh văn phòng của tổng thống, không được chia sẻ với Tổng thống Truman, đã thúc đẩy một cuộc họp tại Lầu Năm Góc của Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh. Nhóm đã nhất trí về một chính sách tạm thời. Hợp đồng sẽ được trao cho một số lượng hạn chế các nhà khoa học Đức “với điều kiện họ không được biết đến hoặc bị cáo buộc là “những tên tội phạm.” Các nhà khoa học sẽ được quân đội bảo vệ tại Hoa Kỳ và sẽ được đưa trở về Đức càng sớm càng tốt sau khi hoàn tất công việc nghiên cứu vũ khí bí mật.

Một bức điện tín đã được gửi đến Tướng Eisenhower, tại trụ sở SHAEF ở Versailles, đáp ứng yêu cầu được tư vấn về chính sách dài hạn mả ông đưa ra cách đây hai tuần. Nhưng những gì đã được quyết định tại Washington, D.C., có rất ít tác động đến thực tế về những gì đang diễn ra tại Chiến trường châu Âu với các nhà khoa học đã dành nhiều năm phục vụ Adolf Hitler.

 

 CHƯƠNG BẢY 

Bác sĩ của Hitler

Trong chiến tranh, các bác sĩ của Không quân Hoa Kỳ đã nghe tin đồn về nghiên cứu tiên tiến đang được các bác sĩ hàng không của Đế chế phát triển. Không quân Đức rất bí mật về nghiên cứu này và các bác sĩ hàng không của họ không thường xuyên công bố công trình của mình trên các tạp chí y khoa. Khi họ làm như vậy, thường là trên một tạp chí do Đảng Quốc xã tài trợ như Y học Hàng không (Luftfahrtmedizin), Không quân Hoa Kỳ sẽ lách luật bản quyền, dịch tác phẩm sang tiếng Anh và xuất bản để các bác sĩ phẫu thuật phi hành của riêng họ nghiên cứu. Các lĩnh vực đột phá của  Đức Quốc xã được biết đến là các chương trình cứu hộ trên không-trên biển, các nghiên cứu ở độ cao lớn và các nghiên cứu về bệnh giảm áp. Nói cách khác, các bác sĩ Đức Quốc xã được cho là đang dẫn đầu thế giới trong nghiên cứu về cách phi công hoạt động trong điều kiện cực lạnh, cực cao và ở tốc độ cực lớn.

Vào cuối chiến tranh, có hai sĩ quan quân đội Mỹ đặc biệt quan tâm đến việc nắm bắt các bí mật nghiên cứu hàng không do Đức Quốc xã tài trợ. Họ là Thiếu tướng Malcolm Grow, Quân Y trưởng của Lực lượng Không quân Chiến lược Hoa Kỳ tại Châu Âu, và Trung tá Harry Armstrong, bác sĩ trưởng của Không quân số 8. Cả hai người đều là bác sĩ, bác sĩ phi hành và là người tiên phong trong y học hàng không.

Trước chiến tranh, Grow và Armstrong đã đồng sáng lập phòng thí nghiệm y học hàng không tại Wright Field, nơi họ cùng nhau khởi xướng nhiều tiến bộ y khoa quan trọng giúp các phi công Hoa Kỳ sống sót trong cuộc chiến trên không. Tại Wright Field, Armstrong đã hoàn thiện mặt nạ dưỡng khí thân thiện với phi công và tiến hành các nghiên cứu mang tính đột phá về sinh lý học của phi công liên quan đến chuyến bay ở độ cao lớn. Grow đã phát triển áo chống đạn ban đầu của phi công, một chiếc áo khoác bọc thép nặng 22 cân có thể bảo vệ phi công khỏi hỏa lực phòng không. Bây giờ, khi chiến tranh đã kết thúc, Grow và Armstrong đã nhìn thấy cơ hội chưa từng có trong việc nắm bắt mọi thứ mà Đức Quốc xã đã nghiên cứu trong lĩnh vực nghiên cứu hàng không để đưa kiến ​​thức đó vào Không quân Hoa Kỳ.

Theo một cuộc phỏng vấn với Armstrong nhiều thập kỷ sau đó, một kế hoạch đã được vạch ra trong một cuộc họp giữa ông và Tướng Grow tại trụ sở Lực lượng Không quân Chiến lược Hoa Kỳ ở Châu Âu, tại Saint-Germain, Pháp. Hai người biết rằng nhiều viện nghiên cứu y khoa của Luftwaffe đã được đặt tại Berlin, và kế hoạch là Đại tá Armstrong sẽ đến đó và truy tìm càng nhiều bác sĩ Luftwaffe càng tốt với mục tiêu dụ dỗ họ đến làm việc cho Lực lượng Không quân Hoa Kỳ. Với tư cách là quân y trưởng, Grow có thể đảm  bảo  cho Armstrong được phép đến khu vực do Hoa Kỳ chiếm đóng ở Berlin, với tư cách là bác sĩ trưởng của  lực lượng Không quân tại đó. Điều này sẽ giúp Armstrong tiếp cận một thành phố được chia thành các khu vực của Hoa Kỳ và Nga. Tướng Grow sẽ trở lại trụ sở Lực lượng Không quân ở Washington, D.C., nơi ông sẽ vận động cấp trên cho phép và trả tiền cho một phòng thí nghiệm nghiên cứu mới khai thác những gì các bác sĩ Đức Quốc xã đã làm trong chiến tranh. Với kế hoạch được đưa ra, Armstrong lên đường đến Berlin.

Cuộc tìm kiếm ban đầu tỏ ra khó khăn. Có vẻ như mọi bác sĩ Luftwaffe đều đã trốn khỏi Berlin. Armstrong có một danh sách gồm 115 cá nhân mà ông hy vọng sẽ tìm thấy. Đứng đầu danh sách đó là một trong những bác sĩ hàng không quan trọng nhất của Đế chế, một nhà sinh lý học người Đức tên là Tiến sĩ Hubertus Strughold. Armstrong đã có mối quan hệ cá nhân trong quá khứ với Tiến sĩ Strughold.

“Câu chuyện đó bắt nguồn từ khoảng năm 1934”, Armstrong giải thích trong một cuộc phỏng vấn về lịch sử truyền miệng của Không quân Hoa Kỳ sau chiến tranh, khi cả hai người đều tham dự hội nghị thường niên của Hiệp hội Y khoa Hàng không, tại Washington, D.C. Hai người có nhiều điểm chung và “trở thành bạn khá tốt”. Cả hai đều là những người tiên phong trong lĩnh vực sinh lý học phi công và đã tiến hành các thí nghiệm đột phá ở  độ cao lớn trên chính bản thân họ. “Chúng tôi có một số mối liên kết chung theo nghĩa là anh ấy và tôi gần như cùng tuổi, anh ấy và tôi đều xuất bản một cuốn sách về y học hàng không vào năm đó và anh ấy đảm nhiệm cùng một nhiệm vụ ở Đức như tôi đã đảm nhiệm ở Hoa Kỳ”, Armstrong giải thích. Hai bác sĩ gặp nhau lần thứ hai vào năm 1937, tại một hội nghị y khoa quốc tế tại khách sạn Waldorf-Astoria ở Thành phố New York. Sự kiện này diễn ra trước khi chiến tranh bùng nổ, Đức Quốc xã vẫn chưa bị quốc tế ruồng bỏ và Tiến sĩ Strughold đại diện cho Đức tại hội nghị. Hai bác sĩ thậm chí còn có nhiều điểm chung hơn vào năm 1937. Armstrong là giám đốc Phòng thí nghiệm nghiên cứu y học hàng không tại Wright Field, và Strughold là giám đốc Viện nghiên cứu y học hàng không của Bộ không quân Đế chế tại Berlin. Công việc của họ gần như giống hệt nhau. Bây giờ, khi chiến tranh kết thúc, hai người đã không gặp nhau trong tám năm, nhưng Strughold vẫn giữ nguyên vị trí cấp cao trong suốt thời gian chiến tranh. Nếu có ai biết bí mật nghiên cứu y khoa của Không quân Đức, thì đó chính là Tiến sĩ Hubertus Strughold. Ở Berlin, Harry Armstrong quyết chí tìm ra ông.

Một trong những nơi đầu tiên Armstrong đến thăm là văn phòng cũ của Strughold tại Viện nghiên cứu Y khoa Hàng không, tọa lạc tại vùng ngoại ô Charlottenburg sang trọng của Berlin. Ông đang tìm kiếm manh mối. Nhưng học viện y khoa quân sự Đức từng rất lớn, với bãi cỏ được cắt tỉa cẩn thận và công viên được chăm sóc kỹ lưỡng, đã bị đánh bom và bị bỏ hoang. Văn phòng của Strughold trống rỗng. Armstrong tiếp tục hành trình của mình qua Berlin, ghé thăm các trường đại học mà Strughold được biết là có liên kết. Mọi bác sĩ hoặc giáo sư mà ông phỏng vấn đều đưa ra câu trả lời tương tự: Họ tuyên bố không biết Tiến sĩ Strughold và đội ngũ bác sĩ Luftwaffe đông đảo của ông đã đi đâu.

Tại Đại học Berlin, Armstrong cuối cùng cũng có được cơ hội khi ông tình cờ gặp một chuyên gia về hô hấp tên là Ulrich Luff, đang dạy một khóa sinh lý học cho một nhóm nhỏ sinh viên bên trong một lớp học bị phá hủy. Luft có vẻ ngoài khác thường, với mái tóc đỏ rực. Anh cao, lịch sự và nói tiếng Anh hoàn hảo, vốn là thứ anh học được từ người mẹ Scotland của mình. Ulrich Luft nói với Harry Armstrong rằng người Nga đã lấy mọi thứ trong phòng thí nghiệm của anh tại trường đại học, bao gồm cả vòi nước và bồn rửa, và anh, Lufi, đang kiếm tiền tại một phòng khám địa phương để điều trị cho những người tị nạn chiến tranh mắc bệnh sốt thương hàn. Armstrong nhìn thấy cơ hội trong hoàn cảnh khó khăn của Luft và tâm sự với anh, giải thích rằng mình đang cố gắng tìm các bác sĩ hàng không người Đức để thuê họ làm nghiên cứu do Quân đội Hoa Kỳ tài trợ. Armstrong cho biết, nói riêng, anh đang cố gắng tìm một người, Tiến sĩ Hubertus Strughold. Bất kỳ ai có thể giúp tìm được ông ấy đều sẽ được trả công. Tiến sĩ Luft nói với Armstrong rằng Strughold từng là sếp cũ của mình.

Theo Luft, Strughold đã sa thải toàn bộ nhân viên của mình tại Viện nghiên cứu y khoa hàng không vào tháng cuối cùng của cuộc chiến. Luft nói với Armstrong rằng Strughold và một số đồng nghiệp thân cận nhất của ông đã đến Đại học Göttingen. Họ vẫn ở đó, làm việc bên trong một phòng thí nghiệm nghiên cứu do Anh kiểm soát. Armstrong cảm ơn Luft và đến Göttingen để tìm Strughold.

Bất kể người Anh trả lương cho Strughold bao nhiêu, Armstrong tin rằng mình có thể dụ được Strughold đi vì mối quan hệ cá nhân chặt chẽ của họ. Cũng có một

một khoản tiền lớn sẽ được cung cấp trong khi chờ đợi sự cho phép của phòng thí nghiệm nghiên cứu mới. Kế hoạch của Armstrong và Grow có nghĩa là phải thuê hơn năm mươi bác sĩ Luftwaffe. Có rất nhiều việc phải làm, không chỉ đối với Strughold mà còn đối với nhiều đồng nghiệp của ông nữa.

Một vở kịch lớn đã diễn ra do có một sĩ quan quân đội thứ hai cũng đang tìm kiếm Tiến sĩ Hubertus Strughold, một nhà điều tra tội phạm chiến tranh y khoa và bác sĩ tên là Thiếu tá Leopold Alexander. Tên của Tiến sĩ Strughold đã được đưa vào danh sách tình báo quân đội về tội phạm chiến tranh bị tình nghi của Cơ quan đăng ký tội phạm chiến tranh và nghi phạm an ninh trung ương, hay CROWCASS. Thiếu tá Alexander đang thực hiện nhiệm vụ tìm kiếm ông ta.

Người ta không biết liệu Armstrong có biết về những cáo buộc chống lại Strughold và chọn cách lờ chúng đi hay ông không biết về việc Strughold đã bị đưa vào danh sách CROWCASS. Nhưng khi Armstrong tiến hành các kế hoạch thuê Tiến sĩ Strughold và biến ông thành đối tác trong phòng thí nghiệm của Không quân Hoa Kỳ, ông làm như vậy là vi phạm trực tiếp chính sách vừa được Bộ Chiến tranh đặt ra. Các nhà khoa học Đức có thể được thuê cho công việc hợp đồng của quân đội Hoa Kỳ “với điều kiện họ không phải là tội phạm chiến tranh đã biết hoặc bị cáo buộc”. Những cáo buộc của CROWCASS chống lại Tiến sĩ Strughold là nghiêm trọng. Chúng bao gồm cả tội ác chiến tranh.

Danh sách CROWCASS ra đời ngay sau khi Đức đầu hàng, khi áp lực của công chúng nhằm truy tố những tên Quốc xã bị cáo buộc phạm tội ác chiến tranh lên đến đỉnh điểm. Vào ngày 7 tháng 5 năm 1945, tạp chí Life đã đăng một câu chuyện về việc giải phóng trại Buchenwald, Bergen-Belsen và các trại tử thần khác, kèm theo những bức ảnh đồ họa. Đây là một số bằng chứng tài liệu đầu tiên được trình bày trước công chúng. Khi đối mặt với những hình ảnh ghê rợn này, mọi người trên khắp thế giới đã bày tỏ sự phẫn nộ trước quy mô tàn bạo mà Đức Quốc xã đã gây ra. Các trại tử thần, trại lao động nô lệ, việc tiêu diệt có hệ thống toàn bộ các nhóm người, điều này đã thách thức các quy tắc của chiến tranh. Ý tưởng xét xử tội ác chiến tranh đã thu hút công chúng nói chung như một phương tiện để buộc những tên Quốc xã phải chịu trách nhiệm về tội ác của chúng.

Nhóm chịu trách nhiệm điều tra tội ác chiến tranh là Ủy ban Tội ác chiến tranh của Liên hợp quốc (UNWCC), có trụ sở tại London và được quân Đồng minh thành lập vào năm 1942 (ban đầu được gọi là Ủy ban Điều tra Tội ác chiến tranh của Liên hiệp quốc). Ủy ban Tội ác chiến tranh không chịu trách nhiệm truy lùng tội phạm; công việc đó được giao cho SHAEF. Ủy ban Tội ác chiến tranh có ba ủy ban: Ủy ban I xử lý danh sách, Ủy ban II phối hợp các vấn đề thực thi với SHAEF và Ủy ban III đưa ra lời khuyên về các điểm pháp lý. Các ủy ban đã làm việc phối hợp với CROWCASS, cũng có trụ sở tại Paris, chịu trách nhiệm thu thập và lưu giữ thông tin về tội phạm chiến tranh bị tình nghi.

Sau khi cuộc chiến kết thúc, SHAEF đã cử các điều tra viên về tội ác chiến tranh vào chiến trường để tìm kiếm các bác sĩ Đức với mục đích thẩm vấn họ. Một trong những điều tra viên này là Thiếu tá Leopold Alexander, một bác sĩ tâm thần và thần kinh học tại Boston và là một bác sĩ của Quân đội Hoa Kỳ. Tiến sĩ Alexander đã chăm sóc các cựu chiến binh bị thương tại một bệnh viện quân y ở Anh khi ông biết về nhiệm vụ mới của mình, chỉ hai tuần sau khi chiến tranh kết thúc. Với nhiệm vụ này, toàn bộ cuộc đời ông sẽ thay đổi, cũng như sự hiểu biết của ông về ý nghĩa của việc trở thành một bác sĩ và ý nghĩa của việc trở thành một người Mỹ.

Tiến sĩ Alexander vô tình trở thành một trong những nhân vật quan trọng nhất trong phiên tòa Nuremberg xét xử các bác sĩ. Và ông vô tình trở thành một nhân vật trung tâm trong một trong những sự kiện kịch tính nhất trong lịch sử Chiến dịch Kẹp Giấy. Điều đó sẽ mất thêm bảy năm nữa. Hiện tại, khi chiến tranh kết thúc, Tiến sĩ Alexander đã chấp nhận lệnh từ SHAEF, lên một chiếc máy bay vận tải quân sự ở Anh và đến Đức để bắt đầu công việc điều tra tội ác chiến tranh. Điểm dừng chân đầu tiên của ông là trại tập trung Dachau. Tiến sĩ Alexander vẫn chưa biết rằng chính bên trong Dachau, trong doanh trại bí mật có tên là Khu Tế bào Thử nghiệm số 5, các bác sĩ của Luftwaffe đã tiến hành một số thí nghiệm y khoa man rợ và tội phạm nhất trong chiến tranh.

Vào ngày 23 tháng 5 năm 1945, Tiến sĩ Alexander, 39 tuổi, đang ngồi bên trong một máy bay vận tải quân sự của Mỹ bay vào Munich thì, cách sân bay khoảng 15 dặm về phía bắc, máy bay của ông bay vòng thấp và ông nhìn thấy trại tập trung Dachau được giải phóng lần đầu tiên. “Những tù nhân sống sót vẫy tay và reo hò với máy bay và bạn có thể thấy hai bệnh viện dã chiến của Mỹ được dựng lên trên khuôn viên trại”, Alexander viết trong nhật ký của mình vào đêm khuya. Máy bay Mỹ mang hàng tấn thịt bò muối tươi, salad khoai tây và cà phê thật đến cho những tù nhân mới được giải phóng, nhiều người trong số họ vẫn còn quá yếu để rời khỏi trại. Máy bay cũng chở theo các bác sĩ và các y tá của Hội Chữ thập đỏ Hoa Kỳ và Ủy ban Sốt phát ban của Quân đội Hoa Kỳ và đôi khi là một điều tra viên y khoa về tội ác chiến tranh như Tiến sĩ Alexander. Trại tập trung Dachau là điểm dừng chân đầu tiên trong danh sách dài các cơ sở và tổ chức y tế của Đế chế mà Tiến sĩ Alexander được lên lịch đến thăm, những địa điểm nghi ngờ diễn ra tội ác y khoa. Tiến sĩ Alexander mang theo chỉ thị của SHAEF cấp cho ông “toàn quyền điều tra mọi thứ đáng quan tâm” và cũng trao cho ông thẩm quyền “di dời tài liệu, thiết bị hoặc nhân sự khi cần thiết”.

Số phận và hoàn cảnh đã chuẩn bị cho ông công việc này. Giống như Samuel Goudsmit, giám đốc khoa học của Chiến dịch Alsos, Tiến sĩ Alexander có một lý lịch độc đáo đủ điều kiện để ông điều tra các bác sĩ Đức và cũng đã biến mọi thứ trở nên cá nhân. Là một người Do Thái, ông đã từng là một ngôi sao đang lên trong giới tinh hoa y khoa của Đức. Năm 1933, luật chủng tộc của Đức đã cấm bác sĩ 28 tuổi  này hành nghề y thêm nữa. Quá đau khổ, ông rời khỏi đất nước và đến Mỹ. Bây giờ, mười ba năm sau, ông đã trở lại đất Đức. Cuộc sống trước đây của ông ở đây dường như đã lùi xa lâu rồi.

Xa tít trong ký ức, Leopold Alexander còn nhớ mình hằng mong ước trở thành bác sĩ, giống như cha mình, Gustav. “Một trong những động lực vô thức mạnh mẽ nhất để trở thành bác sĩ là mối liên kết đồng nhất mạnh mẽ với cha tôi”, ông từng nói, giải thích về sức hút đối với y học. Gustav Alexander là bác sĩ tai mũi họng ở Vienna vào đầu thế kỷ, một học giả lỗi lạc đã xuất bản hơn 80 bài báo khoa học trước khi Leopold chào đời. Mẹ ông, Gisela, là người phụ nữ đầu tiên được trao bằng Tiến sĩ triết học từ Đại học Vienna, trường đại học lâu đời nhất ở thế giới nói tiếng Đức. Từ khi còn nhỏ, Leopold đã có một cuộc sống đầy quyến rũ. Gia đình Alexander là những chuyên gia giàu có, tinh tế, sống trong sự lộng lẫy của trí thức-phóng khoáng  trong một ngôi nhà lớn với những chú công nhởn nhơ trên bãi cỏ. Sigmund Freud là khách thường xuyên, cũng như nhà soạn nhạc Gustav Mahler. Khi Leopold mười lăm tuổi, ông được tháp tùng cha mình trong các chuyến đi khám bệnh vào cuối tuần. Mối quan hệ cha con ngày càng sâu sắc. Vào những ngày cuối tuần, họ thường đi bộ qua các công viên hoặc bảo tàng ở Vienna, luôn trò chuyện sôi nổi về lịch sử, nhân chủng học và y học, như Tiến sĩ Alexander sau này nhớ lại.

Năm 1929, Leopold Alexander tốt nghiệp Trường Y khoa Đại học Vienna và trở thành bác sĩ chuyên về sự tiến hóa và bệnh lý học về não bộ. Đối với hầu hết mọi bác sĩ đầy tham vọng ở châu Âu vào thời điểm đó, mục tiêu là học y khoa tại Đức, và vào năm 1932, Tiến sĩ Alexander được mời đăng ký vào Viện nghiên cứu Não Kaiser Wilhelm danh tiếng ở Berlin. Tại đó, ông lần đầu tiên tiếp xúc với các bác sĩ y khoa hàng đầu của Đức, bao gồm Karl Kleist, giáo sư lỗi lạc về bệnh lý não, người sau này trở thành giáo sư đỡ đầu của ông. Alexander tập trung nghiên cứu về các rối loạn não và bắt đầu nghiên cứu thực địa trên những bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt. Cuộc sống đầy hứa hẹn.

Bi kịch giáng xuống hai đòn tàn khốc. Năm 1932, Gustav Alexander bị một cựu bệnh nhân tâm thần giết chết một cách tàn nhẫn trên đường phố Vienna – hắn là  người mười năm trước đã bị buộc nhập viện   và tuyên bố là mất trí. Bi kịch thứ hai xảy ra vào tháng 1 năm 1933, khi Adolf Hitler trở thành thủ tướng Đức. Chủ nghĩa Quốc xã đang trỗi dậy. Đối với mọi người Do Thái ở Đức, cuộc sống sắp thay đổi một cách nghiệt ngã . Vận may đã ban phước cho Tiến sĩ Alexander. Vào ngày 20 tháng 1 năm 1933, chỉ vài ngày trước khi Hitler lên nắm quyền, vị bác sĩ đầy tham vọng đã chuẩn bị trốn đến vùng nông thôn Trung Quốc để nghiên cứu về bệnh tâm thần. “Tôi đã nhận lời mời đến Học viện Y khoa Liên hiệp Bắc Kinh (Trung Quốc) trong nửa năm với tư cách là giảng viên danh dự về thần kinh học và tâm thần học”, Tiến sĩ Alexander viết cho các giáo sư của mình tại Viện Kaiser Wilhelm, hứa sẽ trở về Đức vào ngày 1 tháng 10 năm 1933. Đó là một lời hứa mà ông không bao giờ thực hiện.

Trong vòng hai tháng sau khi Hitler lên nắm quyền, Đức Quốc xã đã khởi xướng một cuộc tẩy chay toàn quốc đối với các bác sĩ, luật sư và chuyên gia kinh doanh người Do Thái. Tiếp theo là Luật của Đế chế về việc khôi phục dịch vụ dân sự chuyên nghiệp vào tháng 4 năm 1933. Giờ đây, những người không phải thuộc chủng Aryan không được  làm công chức nhà nước, lệnh cấm này bao gồm mọi vị trí giảng dạy tại trường đại học trên khắp nước Đức. Tại Frankfurt, nơi Tiến sĩ Alexander từng sống, 69 giáo sư Do Thái đã bị sa thải. Tin tức về sự chuyển đổi triệt để của nước Đức đã đến tai Tiến sĩ Alexander ở Trung Quốc. Luật sư của gia đình Alexander, Maximilian Friedmann, đã viết cho ông một lá thư cảnh báo không được quay trở lại. Friedmann nói rằng “Triển vọng ở Đức rất bất lợi”. Một người chú, Robert Alexander, thậm chí còn thẳng thắn hơn về những gì đang xảy ra ở Đức Quốc xã khi ông viết thư cho Tiến sĩ Alexander nói rằng đất nước này đã “đầu hàng trước chữ vạn”. Một đồng nghiệp và bạn bè người Do Thái, một bác sĩ thần kinh tên là Arnold Merzbach, cũng đã viết một lá thư cho Tiến sĩ Alexander trong sự tuyệt vọng, nói với ông rằng tất cả các đồng nghiệp Do Thái của họ ở Frankfurt đã bị sa thải khỏi các vị trí tại trường đại học. “Chính sự tồn tại của chúng ta cũng đang tan vỡ”, Merzbach viết. “Tất cả chúng ta đều không còn hy vọng”.

Trong nhiều tháng, Tiến sĩ Alexander sống trong sự phủ nhận. Ông bám víu vào ảo tưởng rằng luật pháp của Đức Quốc xã sẽ không áp dụng cho mình, và ông thề sẽ quay trở lại sau khi học bổng của mình kết thúc. Ở Trung Quốc. Tiến sĩ Alexander phụ trách các khoa thần kinh của một số bệnh viện dã chiến, nơi ông chăm sóc những người lính bị thương ở đầu trên chiến trường. Bỏ qua lệnh của Đức Quốc xã hiện cấm người Do Thái làm bác sĩ hoặc giáo sư, ông đã viết một lá thư cho Giáo sư Kleist, người đỡ đầu của ông ở Đức, nói rằng ông mong chờ được trở về nhà đến nhường nào. Kleist đã viết thư trả lời rằng việc ông trở về Đức là “hoàn toàn không thể…. Là một người Do Thái vì ông không phục vụ trong Thế chiến thứ nhất như một người lính, nên ông không thể làm việc cho nhà nước”. Kết thúc thư, Kleist viết, “Đừng hy vọng hão huyền”. Lá thư có thể đã cứu mạng Tiến sĩ Alexander.

Không còn bị trói buộc ở Trung Quốc, Alexander giờ đây trở thành một kẻ du mục, một người đàn ông không có nhà để trở về. Với tham vọng và lòng kiên cường đáng kinh ngạc, ông đã tiếp tục. Giống như cha mình đã từng làm trước đây, ông đã viết và xuất bản các bài báo khoa học; các bài báo của ông về bệnh tâm thần, khiến ông trở thành ứng cử viên sáng giá cho một học bổng ở Mỹ. Vận may một lần nữa lại mỉm cười với ông khi vào mùa thu năm 1933, ông biết rằng mình đã được trao một vị trí tại một bệnh viện tâm thần tiểu bang ở Worcester, Massachusetts, cách Boston năm mươi dặm. Tiến sĩ Alexander lên một con tàu hơi nước của Mỹ có tên là President Jackson và đến Mỹ qua Nhật Bản. Ngoài khơi, một sự kiện kỳ ​​lạ đã xảy ra. Sự kiện xảy ra giữa chuyến hành trình dài, khi con tàu của ông cách đất liền hơn một nghìn dặm. Một loạt các cơn bão dữ dội ập đến, khiến hành khách phải ở trong nhà trong nhiều ngày cho đến khi cuối cùng thời tiết quang đãng. Vào ngày đầu tiên quang đãng, Tiến sĩ Alexander mạo hiểm ra ngoài chơi trò shuffleboard. Nhìn ra biển cả mênh mông, ông phát hiện ra một con sóng khổng lồ di chuyển với tốc độ và sức mạnh lớn, ập vào con tàu hơi nước nhỏ bé của ông. Không có cách nào thoát khỏi thứ mà ông nhanh chóng nhận ra là một cơn sóng thần.

Trước khi Bác sĩ Alexander kịp chạy trở lại bên trong tàu, President Jackson đã bị con sóng lớn này nâng lên. “Con tàu di chuyển lên cao rất chậm, càng lúc càng cao hơn, cho đến khi chúng tôi cuối cùng cũng lên đến đỉnh sóng”, ông viết cho anh trai mình, Theo. Và sau đó, khi con tàu cân bằng một cách bấp bênh ở đỉnh sóng, ông mô tả cảm giác kinh hoàng sau đó. “Đột nhiên không còn gì phía sau nó… không gì ngoài một con dốc nước cao.” Con tàu bắt đầu rơi tự do, “mũi tàu cắm sâu xuống nước…. Cú va chạm rất mạnh, nước bắn tung tóe khắp mọi phía, và mọi thứ rơi sang bên này và bên kia trong bếp và phòng sinh hoạt chung.” Con tàu lấy lại được thăng bằng, gần như không cần nỗ lực, và tiếp tục. “Toàn bộ sự việc diễn ra nhanh đến mức không thể tin được”, Alexander viết. “Khi mọi chuyện kết thúc, tôi tự nhủ rằng giờ tôi đã hiểu ý nghĩa của câu nói, ‘con sóng mở ra trước mắt bạn và nuốt trọn bạn'”.

Tiến sĩ Alexander không mất nhiều thời gian để phát hủy sự nghiệp ở Mỹ. Ông là một người làm việc cực kỳ chăm chỉ. Trung bình ông ngủ năm tiếng mỗi đêm. Làm bác sĩ tại một bệnh viện tâm thần ở New England là điều vô cùng hấp dẫn đối với ông. Ông đã từng nói với một phóng viên rằng điều ông quan tâm nhất là xác định điều gì khiến đàn ông phấn khích. Chỉ vài tháng sau khi đến New England, ông được thăng chức lên vị trí toàn thời gian tại khoa thần kinh tại Bệnh viện Tiểu bang Boston. Trong khi đi thăm bệnh vào năm 1934, ông đã gặp một nhân viên xã hội tên là Phyllis Harrington. Họ yêu nhau và kết hôn. Đến năm 1938, họ có hai đứa con, một trai và một gái. Là một cây viết sung sức, Tiến sĩ Alexander đã xuất bản 50 bài báo khoa học. Đến cuối thập kỷ, ông được mời giảng dạy tại Trường Y Harvard. Bây giờ ông đã là công dân Hoa Kỳ. Các tờ  báo đã đăng tải các bài viết về “một bác sĩ đến từ Vienna”, trích dẫn những thành tựu nổi bật của ông trong lĩnh vực bệnh tâm thần. Ông đã có một ngôi nhà mới; ông đã được chấp nhận là một trong những chuyên gia y tế ưu tú của Boston.

Vào tháng 12 năm 1941, nước Mỹ tham chiến. Tiến sĩ Alexander đã tham gia chiến đấu và được đưa đến Bệnh viện Đa khoa số 65 ở Fort Bragg, Bắc Carolina, và sau đó đến một bệnh viện quân đội ở Anh. Trong suốt thời gian diễn ra chiến tranh, Tiến sĩ Alexander đã giúp những người lính bị thương hồi phục sau cơn sốc do đạn pháo. Ông cũng thu thập dữ liệu về tình trạng mệt mỏi khi bay. Sau khi quân Đức đầu hàng, ông mong đợi được trở về nhà. Thay vào đó, ông nhận được lệnh chưa từng có từ SHAEF. Ông phải đến Đức và điều tra các cáo buộc về tội ác y khoa của Đức Quốc xã. Khi làm như vậy, ông sẽ đối mặt với các giáo sư, cố vấn và bạn học cũ. Công việc của ông là tìm ra ai có thể có tội và ai không.

Chuyến đi đầu tiên của Tiến sĩ Alexander đến Dachau không mang lại bất kỳ manh mối quan trọng nào mặc dù có tin đồn rằng các thí nghiệm y khoa man rợ đã diễn ra ở đó. Vào ngày 5 tháng 6 năm 1945, ông đã đi mười hai dặm đến Munich để thăm Viện Y học Hàng không của Luftwaffe. Cơ sở nghiên cứu này do một bác sĩ X quang tên là Georg August Weltz đứng đầu, vẫn làm việc mặc dù nước Đức đã sụp đổ. Trên giấy tờ, Weltz là một người có uy tín. Ông có vẻ ngoài hiền lành, 56 tuổi với mái tóc bạc trắng và khuôn mặt rám nắng nhăn nheo. Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên của họ, Weltz nói với Alexander rằng ông đã làm bác sĩ quân y cả đời, bắt đầu là bác sĩ của Quân đoàn Khinh khí cầu trong Thế chiến thứ nhất.

Tiến sĩ Alexander có một hồ sơ SHAEF về Weltz tiết lộ rằng Weltz đã gia nhập Đảng Quốc xã vào năm 1937, sau đó ông đã nhanh chóng thăng tiến lên thang chỉ huy y tế của Đế chế. Đến năm 1941, ông báo cáo trực tiếp với thống chế không quân của Luftwaffe, Erhard Milch, cấp dưới trực tiếp của Reichsmarschall Hermann Göring. Vào cuối chiến tranh, chỉ có một số ít người có thẩm quyền y tế trong không quân cao hơn Georg August Weltz, trong số đó có Tiến sĩ Hubertus Strughold.

Trong cuộc phỏng vấn đầu tiên, Weltz nói với Tiến sĩ Alexander rằng công việc của ông là tiến hành nhiều nghiên cứu về các phương pháp cứu sống phi công Luftwaffe. Weltz đã trích dẫn những gì đã xảy ra với phi công Luftwaffe vào năm 1940 trong Trận chiến nước Anh. Nhiều phi công đã bị Không quân Hoàng gia Anh bắn hạ trên eo biển Manche và đã nhảy dù khỏi máy bay đang rơi và ban đầu đã sống sót. Weltz giải thích rằng những trường hợp tử vong thường xảy ra nhiều giờ sau đó, thường là do hạ thân nhiệt. Thi thể của nhiều phi công Luftwaffe đã được cứu khỏi vùng nước băng giá của eo biển chỉ vài phút sau khi họ chết cóng. Luftwaffe muốn biết liệu thông qua nghiên cứu y khoa, các bác sĩ có thể học cách “giải đông một người” để đưa anh ta trở lại cuộc sống hay không. Tiến sĩ Weltz nói với Tiến sĩ Alexander rằng ông và nhóm nghiên cứu của mình đã thực hiện nghiên cứu mang tính đột phá trong lĩnh vực này. Weltz tuyên bố rằng họ thực sự đã có một “khám phá đáng kinh ngạc và hữu ích”. Weltz cho biết kết quả chỉ đơn giản là “đáng kinh ngạc”.

Tiến sĩ Alexander hỏi: “Kết quả như thế nào?”

Weltz ngần ngại cung cấp thông tin chi tiết nhưng hứa rằng kiến ​​thức mà ông sở hữu rất đáng để Quân đội Hoa Kỳ quan tâm. Weltz hỏi Tiến sĩ Alexander liệu có thể đạt được thỏa thuận không. Weltz nói rằng mình quan tâm đến việc đảm bảo một khoản tài trợ từ Quỹ Rockefeller. Tiến sĩ Alexander giải thích rằng ông không có thẩm quyền với bất kỳ quỹ tư nhân nào và rằng, trước hết, ông cần Weltz nói với mình về cái gọi là khám phá “đáng kinh ngạc” này.

Weltz cho biết ông và nhóm của mình đã giải được một câu đố lâu đời: Một người đã chết cóng có thể sống lại không? Câu trả lời, Weltz tâm sự, là có. Ông có bằng chứng. Ông và nhóm của ông đã giải được câu đố y khoa này thông qua một kỹ thuật làm ấm lại triệt để mà họ đã phát minh ra. Alexander yêu cầu Weltz nói cụ thể hơn. Weltz cho biết thành công phụ thuộc vào nhiệt độ cơ thể chính xác và thời gian làm ấm lại tỷ lệ thuận với cân nặng của một người. Ông không được phép cung cấp dữ liệu vẫn chưa có, nhưng phương pháp mà nhóm của ông phát triển đã hiệu quả đến mức dịch vụ cứu hộ trên không-trên biển của Luftwaffe đã sử dụng chính kỹ thuật này trong chiến tranh. Các thí nghiệm, Weltz nói, đã được tiến hành trên các loài động vật lớn. Bò, ngựa và “lợn trưởng thành”.

Tiến sĩ Alexander đã đến Đức để điều tra tội ác chiến tranh y khoa của Đức Quốc xã. Ông đi thẳng vào vấn đề và hỏi Weltz liệu con người có từng được sử dụng trong các thí nghiệm của Luftwaffe này không.

“Weltz đã tuyên bố rõ ràng rằng mình  không thực hiện bất cứ thí nghiệm nào trên con người nào và ông không biết có bất kỳ công việc nào như vậy đã được thực hiện”, Tiến sĩ Alexander đã viết trong báo cáo được phân loại của mình. Nhưng cách mà Weltz trả lời khiến Tiến sĩ Alexander nghi ngờ sâu sắc về ông ta.

Tiến sĩ Alexander đang trong tình thế khó xử. Ông có nên bắt giữ Weltz không? Hay tốt nhất là cố gắng tìm hiểu thêm? “Tôi vẫn cảm thấy vì mục đích của cuộc điều tra này biện pháp khôn ngoan hơn là tránh dùng đến các biện pháp cưỡng chế như bắt giữ”, Alexander giải thích. Ông yêu cầu Weltz đưa ông đến phòng thí nghiệm nơi những thí nghiệm trên động vật lớn này được thực hiện.

Weltz tuyên bố rằng do thiệt hại nặng nề trong các cuộc đánh bom bom ở Munich, nên cơ sở thử nghiệm của Luftwaffe về các kỹ thuật làm ấm lại đã được chuyển đến một trang trại bò sữa ở ngôi làng nông thôn Weihenstephan. Alexander và Weltz cùng lái xe đến đó trên một chiếc xe jeep của quân đội. Một cuộc kiểm tra trang trại đã phát hiện ra một buồng áp suất thấp hiện đại được giấu trong một nhà kho. Weltz giải thích rằng đây là nơi các phi công Luftwaffe học về giới hạn hiệu suất dưới sự giám sát y tế. Còn được gọi là buồng ở độ cao lớn, thiết bị này cho phép các bác sĩ hàng không mô phỏng tác động của độ cao lên cơ thể. Nhưng không thấy cơ sở làm ấm lại ở đâu cả. Chúng ở đâu? Tiến sĩ Alexander hỏi.

Weltz do dự rồi giải thích. Lần này Weltz nói chúng đã được chuyển đến một khu điền trang gần Freising, tại một trạm thí nghiệm nông nghiệp do chính phủ sở hữu. Tiến sĩ Alexander khăng khăng muốn xem cơ sở Freising, và hai người đàn ông quay lại xe jeep của quân đội và lái đi. Ở Freising, Alexander được giới thiệu một cơ sở nghiên cứu y khoa ấn tượng khác, cũng được giấu trong một nhà kho, có thư viện và cơ sở chụp X-quang, tất cả đều được bảo quản cẩn thận. Nhưng phòng thí nghiệm rõ ràng được thiết kế để xử lý các thí nghiệm trên động vật nhỏ, chuột và chuột lang, không phải động vật lớn hơn như bò, ngựa và lợn trưởng thành. Có hồ sơ, bản vẽ và biểu đồ của các thí nghiệm đông lạnh đều được bảo quản cẩn thận. Nhưng, một lần nữa, chúng chỉ ghi chép lại các thí nghiệm trên động vật nhỏ, chủ yếu là chuột. Các thí nghiệm trên động vật lớn diễn ra ở đâu? Weltz đưa Alexander đến phía sau một chuồng ngựa và vào một nhà kho riêng biệt nằm xa phía sau của khu đất. Ở đó, Weltz chỉ vào hai thùng gỗ bẩn, cả hai đều nứt vỡ.

Tiến sĩ Alexander sau này làm chứng rằng đó là một khoảnh khắc phi thường, kinh hoàng vì gợi ý rõ ràng của nó. Không có chiếc bồn nào có thể chứa vừa vặn một con bò, ngựa hoặc lợn bị trấn nước. Những gì các chiếc bồn này “có thể chứa được vừa vặn là một con người”, Tiến sĩ Alexander nói.

Thực tế nghiệt ngã của nghiên cứu Luftwaffe của Tiến sĩ Weltz trở nên rõ ràng đến đau đớn. “Tôi đã rời khỏi tất cả những cuộc phỏng vấn này với niềm tin rõ ràng rằng các nghiên cứu thử nghiệm trên con người, hoặc do chính các thành viên của nhóm này thực hiện, hoặc do những chuyên gia khác mà các thành viên của nhóm này biết rõ và có liên hệ, đã được thực hiện nhưng đang bị che giấu.” Tiến sĩ Alexander đã viết. Không thừa nhận tội lỗi, ông ta chỉ là nghi can. Để bắt giữ, Alexander cần có bằng chứng. Ông cảm ơn Tiến sĩ Weltz vì sự hỗ trợ của ông ta và nói với ông ta rằng mình sẽ quay lại vào một thời điểm nào đó trong tương lai để kiểm tra lại.

Tiến sĩ Alexander ở trên đất Đức trong hai tuần, và sự lệch lạc của khoa học Đức Quốc xã đã áp đảo ông. Trong một lá thư gửi cho vợ mình, Phyllis, ông đã mô tả những gì đã xảy ra với khoa học Đức dưới sự cai trị của Đức Quốc xã. “Khoa học Đức trình bày một cảnh tượng ảm đạm”, ông viết. “Ghê tởm vì nhiều lý do. Đầu tiên, nó trở nên vô cảm và sau đó bị cuốn vào vòng xoáy đồi trụy mà đất nước này bốc mùi của các trại tập trung, mùi của cái chết dữ dội, tra tấn và đau khổ.” Alexander nói rằng các bác sĩ Đức không phải đang hành nghề y khoa, mà là “phạm tội giả khoa học thực sự đồi trụy.” Ngoài việc điều tra các tội ác được thực hiện dưới danh nghĩa nghiên cứu y học hàng không, Tiến sĩ Alexander còn là điều tra viên chính xem xét các tội ác được thực hiện dưới danh nghĩa của khoa tâm thần học thần kinh và bệnh lý thần kinh. Với tư cách này, ông đã đối mặt trực tiếp với niềm tin tội lỗi và cốt lõi của Đức Quốc xã đã định hình nên hoạt động y tế dưới sự cai trị của Hitler. Không chỉ tất cả mọi người không được sinh ra bình đẳng trong mắt Đệ tam Đế chế, mà một số người thực sự không phải là con người. Theo hệ tư tưởng của Đức Quốc xã, những người dưới mức con người Untermenschen, như họ được gọi, một danh xưng dành cho người Do Thái, người Digan, người đồng tính, người Ba Lan, người Slav, tù nhân chiến tranh Nga, người tàn tật, người mắc bệnh tâm thần và những người khác được coi là không khác với chuột bạch hay thỏ thí nghiệm mà cơ thể của họ có thể được dùng để thí nghiệm nhằm thúc đẩy mục tiêu y tế của Đế chế. “Những sinh vật dưới mức con người là một sinh vật, được tạo ra bởi thiên nhiên”, theo Heinrich Himmler, “có tay, chân, mắt và miệng, thậm chí có cả não. Tuy nhiên, sinh vật ghê tởm này chỉ là một phần của con người…. Không phải tất cả những ai có vẻ ngoài giống con người đều thực sự là con người”. Người dân Đức được yêu cầu tin vào khoa học giả này; hàng triệu người đã không phản đối. Các nhà khoa học và bác sĩ Đức đã sử dụng chính sách chủng tộc này để biện minh cho các thí nghiệm y tế tra tấn dẫn đến tàn tật và tử vong. Trong trường hợp của người khuyết tật và người bị bệnh tâm thần, các bác sĩ và kỹ thuật viên Đức đã sử dụng lý thuyết Untermenschen để biện minh cho tội diệt chủng.

Là một điều tra viên về tội ác chiến tranh, Tiến sĩ Alexander là một trong những quân nhân Mỹ đầu tiên biết rằng Đế chế đã triệt sản và sau đó thực hành an tử gần như toàn bộ số người mắc bệnh tâm thần, bao gồm hàng chục nghìn trẻ em, theo Luật Phòng ngừa Trẻ em Mắc bệnh Di truyền. Trên khắp miền Nam nước Đức, hết bác sĩ Đức này đến  bác sĩ kia thừa nhận với Tiến sĩ Alexander rằng ông ta biết về chương trình an tử trẻ em. Trong số này có cả cựu giáo sư đỡ đầu của Tiến sĩ Alexander, bác sĩ thần kinh Karl Kleist. Trong một cuộc phỏng vấn tại Frankfurt, Kleist đã thú nhận với Tiến sĩ Alexander rằng ông đã biết về chính sách an tử, và ông đã giao nộp các báo cáo tâm thần của quân đội cho phép ông trốn tránh trách nhiệm cá nhân và tuyên bố rằng ông chỉ làm theo lệnh. Kleist không bị bắt, nhưng vài ngày sau, ông đã bị cách chức khỏi công việc giảng dạy của mình. Cựu giáo sư và sinh viên không bao giờ nói chuyện với nhau nữa, và vẫn còn là một bí ẩn liệu Tiến sĩ Alexander có yêu cầu sa thải Kleist hay không. Trong vòng vài năm, tên của Kleist sẽ xuất hiện trong danh sách tuyển dụng bí mật của Kẹp Giấy. Người ta không biết liệu ông có đến Hoa Kỳ hay không.

Mỗi ngày đều mang đến những thông tin mới kinh hoàng. “Đôi khi có vẻ như Đức Quốc xã đã đặc biệt chú trọng vào việc biến hầu như mọi cơn ác mộng thành sự thật”, Tiến sĩ Alexander sau đó đã nói với vợ mình, so sánh nền y học của Đế chế với một thứ gì đó trong truyện cổ tích đen tối của Đức. Trong khi các bác sĩ biết về chương trình an tử có xu hướng cung cấp thông tin thì chương trình này được “biện minh” bằng một luật của Đức được giữ bí mật với công chúng, Tiến sĩ Alexander đã bị ấn tượng bởi các thí nghiệm trên người mang tính tội phạm của các bác sĩ Luftwaffe, giống như các thí nghiệm đóng băng mà Weltz tham gia, dường như đã được che giấu khéo léo hơn. Nếu Tiến sĩ Alexander muốn tìm hiểu sự thật về những gì các bác sĩ Luftwaffe đã làm trong chiến tranh, ông biết

rằng ông phải hiểu bức tranh toàn cảnh. Và ông cũng phải xác định xem tội ác có thể xảy ra ở đâu nữa. Cách tốt nhất để làm điều này là phỏng vấn nhân vật gần cấp cao nhất, Tiến sĩ Hubertus Strughold. Strughold đã chỉ đạo Viện Nghiên cứu Y khoa Hàng không cho Luftwaffe trong 10 trong số 12 năm cai trị của Đảng Quốc xã. Khi Tiến sĩ Alexander biết rằng Tiến sĩ Strughold đang ở Göttingen, trong khu vực của Anh, ông đã đến đó.

Trên đường đến Göttingen, Tiến sĩ Alexander đã có một bước ngoặt may mắn. “Một sự trùng hợp kỳ lạ đã diễn ra trong tầm tay tôi”, ông viết. “Trên đường đến Göttingen… khi đang ăn tối tại phòng ăn của sĩ quan thuộc Tiểu đoàn A. A. 433 [Tiểu đoàn Lục quân] ở trại Rennerod, Westerwald, tôi tình cờ gặp một vị khách bình thường khác, một tuyên úy quân đội, Trung úy Bigelow. Trong cuộc trò chuyện, Trung úy Bigelow nói với tôi rằng ông rất muốn biết ý tưởng của tôi về những thí nghiệm khá tàn bạo trên con người, từng được thực hiện tại trại tập trung Dachau. Ông đã biết về chúng từ một chương trình phát sóng vài ngày trước đó khi những cựu tù nhân của Dachau nói về những thí nghiệm kinh hoàng này trên đài phát thanh Đồng minh ở Đức.” Đây chính xác là loại manh mối mà Tiến sĩ Alexander đang tìm kiếm, và ông đã yêu cầu Trung úy Bigelow chia sẻ với ông bất kỳ thông tin nào khác mà ông nhớ được từ bản báo cáo trên đài phát thanh.

Trung úy Bigelow kể với Alexander rằng với tư cách là một tuyên úy, ông đã phục vụ nhiều nạn nhân chiến tranh. Ông đã nghe những câu chuyện kinh hoàng về những gì đã xảy ra trong các khu y tế tại các trại tập trung. Nhưng không có gì sánh được với những gì ông đã nghe trong bản tin phát thanh đó. Các bác sĩ tại Dachau đã đông lạnh người đến chết, trong các bồn nước đá lạnh, để xem liệu họ có thể rã đông và sống lại hay không.

Bigelow cho biết những thí nghiệm này rõ ràng nhằm mô phỏng các điều kiện mà phi công Luftwaffe phải trải qua sau khi bị bắn hạ trên eo biển Manche.

Tiến sĩ Alexander giờ đã có một đầu mối mới vững chắc. Theo ông, các thí nghiệm mà Bigelow nhắc đến nghe có vẻ “rất giống với các thí nghiệm trên động vật do Tiến sĩ Weltz và nhóm của ông thực hiện” tại trang trại Freising. Không quân Đức có tham gia vào nghiên cứu y khoa tại các trại tập trung không? Tiến sĩ Alexander hỏi vị tuyên úy rằng ông có biết tên của bất kỳ bác sĩ nào tham gia vào các tội ác y khoa ở Dachau không. Bigelow nói rằng ông không nhớ nhưng ông chắc chắn đã nghe nói rằng Không quân Đức có tham gia. Quyết tâm điều tra hơn bao giờ hết, Tiến sĩ Alexander tiếp tục đến Göttingen để phỏng vấn Tiến sĩ Hubertus Strughold.

Tại Viện Sinh lý học ở Göttingen, Tiến sĩ Alexander tìm thấy Strughold và sắp xếp phỏng vấn ông, đi thẳng vào vấn đề. Tiến sĩ Alexander đã kể với Tiến sĩ Strughold về bản tin phát thanh khẳng định rằng các thí nghiệm đông lạnh đã được Không quân Đức tiến hành tại Dachau. Strughold, với tư cách là bác sĩ phụ trách nghiên cứu y khoa hàng không cho Không quân Đức, có biết về những thí nghiệm tội phạm này tại Dachau không? Tiến sĩ Strughold cho biết ông đã biết về các thí nghiệm này tại một hội thảo y khoa mà ông tham dự ở Nuremberg vào tháng 10 năm 1942. Hội nghị có tên “Các vấn đề y khoa về tình trạng nguy hiểm trên biển và mùa đông” diễn ra tại Khách sạn Deutscher Hof và có sự tham gia của 90 bác sĩ Không quân Đức. Trong hội nghị đó, Strughold cho biết, một người tên là Tiến sĩ Sigmund Rascher đã trình bày những phát hiện thu được từ các thí nghiệm được thực hiện trên các tù nhân tại trại tập trung Dachau. Đây chính là người đàn ông “đã được nhắc đến trên đài phát thanh của phe đồng minh hôm nọ”, Strughold cho biết. Ông ta gọi Rascher là một bác sĩ ngoài lề, người trợ lý duy nhất của y tại Dachau là vợ ông, Nini. Cả hai vợ chồng đều đã chết.

Strughold có chấp thuận những thí nghiệm này không? Strughold nói với Tiến sĩ Alexander rằng “mặc dù Tiến sĩ Rascher sử dụng tội phạm trong các thí nghiệm của mình, nhưng về nguyên tắc, ông [Strughold] vẫn không chấp thuận các thí nghiệm như vậy trên những người tình nguyện không đồng ý”. Tiến sĩ Strughold cam đoan với Tiến sĩ Alexander rằng trong viện của ông ở Berlin, ông “luôn cấm ngay cả ý nghĩ về những thí nghiệm như vậy… trước tiên là vì lý do đạo đức và thứ hai là vì lý do đạo đức y khoa”. Alexander hỏi Strughold liệu ông có biết bất kỳ bác sĩ Luftwaffe nào khác đã tham gia vào các thí nghiệm trên người tại Dachau không. Strughold nói, “Bất kỳ thí nghiệm nào trên người mà chúng tôi thực hiện đều chỉ được thực hiện trên chính đội ngũ nhân viên của chúng tôi và trên những sinh viên quan tâm đến chủ đề của chúng tôi trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện”. Ông không tiết lộ rằng một số bác sĩ trong đội ngũ nhân viên của ông đã đến Dachau thường xuyên và làm việc trên các thí nghiệm nghiên cứu tại đó.

Cũng tại Göttingen, Tiến sĩ Alexander đã phỏng vấn một số bác sĩ khác từng làm việc cho Strughold, hỏi từng người những câu hỏi cụ thể về các thí nghiệm trên người. Mỗi bác sĩ đều kể một câu chuyện giống nhau đến kinh ngạc. Tiến sĩ Sigmund Rascher phải chịu trách nhiệm cho mọi chuyện xảy ra tại Dachau và giờ Rascher đã chết. Nhưng một người, một nhà sinh lý học tên là Tiến sĩ Friedrich Hermann Rein, đã để vuột khỏi tay một manh mối quan trọng. Rein cho biết Tiến sĩ Rascher từng là một người của SS. Thông tin này đã cung cấp cho Tiến sĩ Alexander một mảnh ghép mới quan trọng của câu đố mà trước đây ông không có, cụ thể là SS cũng tham gia vào các thí nghiệm đông lạnh tại trại tập trung. Đây là một sự bại lộ.

Ngày hôm sau, Tiến sĩ Alexander nhận được thêm tin tức liên quan phi thường. “Tôi biết rằng toàn bộ nội dung của hang động bí mật của Himmler ở Hallein, Đức, chứa một lượng lớn các hồ sơ đặc biệt bí mật của S.S., gần đây đã được phát hiện và đưa” đến Trung tâm Tài liệu của Quân đoàn 7 ở Heidelberg. Kho tài liệu khổng lồ này đã được những người lính giấu trong một hang động khác phát hiện ra. Các giấy tờ đã được đóng dấu bằng logo không thể nhầm lẫn của SS, và chúng mang các chú thích cá nhân của Himmler, được vẽ ở lề bằng bút chì màu xanh lá cây mà ông thích sử dụng. Tiến sĩ Alexander lên đường đến Trung tâm Tài liệu để xem ông có thể thu thập được gì từ các tập tin. Những giấy tờ này hóa ra lại là một trong những khám phá có tính buộc tội nhất trong chiến tranh trong một tài liệu tìm thấy duy nhất.

Tại Heidelberg, các tài liệu của Himmler đang được kiểm kê và phân loại khi Tiến sĩ Alexander lần đầu tiên đến. Một trong những người được giao nhiệm vụ này là Hugh Iltis, con trai của một bác sĩ người Séc, người đã cùng gia đình chạy trốn khỏi châu Âu trước cuộc diệt chủng. Iltis là một người lính Mỹ 19 tuổi chiến đấu ở tuyến đầu tại Pháp trong những tháng cuối cùng của cuộc chiến khi, anh nhớ lại, “một chiếc xe xuất hiện và một sĩ quan nhảy ra chỉ vào tôi, sau đó hét lên ‘Anh, đi với tôi!'” Iltis trèo lên xe và phóng nhanh khỏi chiến trường cùng với sĩ quan. Có người biết rằng Hugh Iltis nói tiếng Đức lưu loát (và có lẽ cha anh là một nhà di truyền học hàng đầu và chống Đức Quốc xã). Iltis được yêu cầu đến Paris để dịch các tài liệu của Đức Quốc xã bị thu giữ, và công việc vẫn tiếp tục. Bây giờ, sáu tháng sau, anh đã ở Heidelberg để ghi lại những hành động tàn bạo cho Ủy ban Tội ác Chiến tranh.

Phát hiện của Iltis về các giấy tờ của Himmler chính là xác định được tầm quan trọng của chúng và cũng là bộ sưu tập tài liệu quan trọng nhất về thí nghiệm trên người của Đức Quốc xã được trình bày tại phiên tòa xét xử các bác sĩ.

Alexander nói với Iltis những gì ông đang tìm kiếm: các tài liệu do Tiến sĩ Sigmund Rascher viết liên quan đến các thí nghiệm trên con người. Cùng nhau, hai người đàn ông đã phá vỡ các dấu niêm phong trên hồ sơ có tên vô thưởng vô phạt Vụ án số 707 – Thí nghiệm Y khoa, các giấy tờ hóa ra bao gồm nhiều năm trao đổi thư từ giữa Rascher và Himmler.

“Ý tưởng bắt đầu các thí nghiệm với con người ở Dachau rõ ràng là của Tiến sĩ Rascher”, Alexander giải thích trong báo cáo tình báo khoa học được phân loại của mình. Nhưng như Alexander biết được từ các báo cáo, Rascher không phải là bác sĩ Luftwaffe duy nhất tham gia. Các thí nghiệm trên người cũng không chỉ giới hạn ở các thí nghiệm đông lạnh.

Thậm chí còn tệ hơn, Tiến sĩ Alexander biết rằng một trong những đồng nghiệp thân cận nhất của Tiến sĩ Strughold và là đồng tác giả của ông, một nhà sinh lý học tên là Tiến sĩ Siegfried Ruff, chịu trách nhiệm giám sát các thí nghiệm trên người của Rascher tại Dachau. Đây là tin gây sốc. “Tiến sĩ Ruff và trợ lý của ông là Tiến sĩ Romberg đã hợp tác [với Rascher) và đến Dachau với một buồng áp suất thấp mà họ cung cấp”, Alexander viết trong báo cáo của mình. Buồng áp suất thấp này được sử dụng cho một loạt thí nghiệm chết người thứ hai liên quan đến các nghiên cứu ở độ cao lớn. Ngồi bên trong Trung tâm Tài liệu của Quân đội số 7 đọc các giấy tờ của Himmler, Tiến sĩ Alexander nhận ra rằng Tiến sĩ Strughold đã nói dối ông khi ông nói rằng bác sĩ Luftwaffe duy nhất tham gia vào các thí nghiệm ở Dachau là “bác sĩ bên lề” Rascher. Trên thực tế, người bạn và đồng nghiệp của Strughold là Tiến sĩ Ruff đã liên lụy sâu sắc.

Điều đáng lo ngại nhất đối với Alexander là một nhóm ảnh cho thấy những gì đã xảy ra trong quá trình thí nghiệm khi những thanh niên khỏe mạnh được Đức Quốc xã phân loại là Untermenschen bị trói vào dây nịt bên trong buồng áp suất thấp và chịu sự giải nén bằng chất nổ. Những bức ảnh này, đáng kinh ngạc vì sự tàn ác của chúng, về cơ bản là những bức ảnh trước, trong và sau vụ giết người nhân danh y học. Những bức ảnh khác trong số các giấy tờ của Himmler ghi lại các thí nghiệm đóng băng khi chúng được tiến hành tại Dachau. Các thí nghiệm của Rascher không phải là hành động đơn lẻ của một nhà tri thức đồi trụy. Có những bức ảnh chụp một đồng nghiệp khác của Tiến sĩ Strughold tại Luftwaffe, Tiến sĩ Ernst Holzlöhner, giữ tù nhân trong các bồn nước đá trong khi nhiệt độ cơ thể của họ được ghi lại khi họ chết. Người ta tin rằng vợ của Rascher, Nini, đã chụp những bức ảnh này.

Trong một báo cáo mật của CIOS, Tiến sĩ Alexander đã bày tỏ sự nghi ngờ về tính xác thực của lời khai trước đó của Tiến sĩ Strughold từ cuộc phỏng vấn đầu tiên của họ tại Göttingen. Các thí nghiệm Dachau là nỗ lực chung của Luftwaffe và SS, và bất chấp sự phủ nhận của Strughold, một số bác sĩ hàng không trong đội ngũ của ông, bao gồm cả những cá nhân báo cáo trực tiếp với ông, đã được nêu tên trong các giấy tờ của Himmler. “Ít nhất Strughold cũng phải quen thuộc với những vai trò do người bạn và đồng nghiệp Ruff của ông đảm nhiệm”, Tiến sĩ Alexander viết. Trong báo cáo của mình, ông đã thông báo với SHAEF rằng, mặc dù ông vẫn chưa thể nói liệu Tiến sĩ Strughold có trực tiếp tham gia vào các thí nghiệm tử vong hay không, nhưng rõ ràng là các tội ác y tế của Đế chế “vẫn đang được” ông che đậy.

Vào ngày 20 tháng 6, Alexander quay trở lại Munich để đối đầu với Tiến sĩ Weltz. Thay vào đó, ông tìm thấy một đồng nghiệp của Weltz, một Tiến sĩ Lutz, người đã suy sụp và thú nhận rằng ông đã biết về các thí nghiệm trên người, nhưng chúng được thực hiện bởi các thành viên trong nhóm của ông, không phải ông. Lutz tuyên bố đã được Weltz đề nghị “công việc của con người”, nhưng từ chối chấp nhận, với lý do là ông quá mềm yếu.

Trước khi đối đầu với Strughold, Tiến sĩ Alexander đầu tiên quay trở lại Dachau để tìm kiếm nhân chứng. Ở đó, ông tìm thấy ba cựu tù nhân đã đưa ra lời khai. John Bauduin, Oscar Häusermann và Tiến sĩ Paul Hussarek đã xoay xở để sống sót tại trại tập trung bằng cách làm người phục vụ cho SS. Sau khi Dachau được giải phóng, ba người này đã chọn ở lại để giúp các nhà điều tra ghép nối các tội ác y tế. Họ thành lập một nhóm, gọi là Ủy ban điều tra tội ác y tế SS. Từ họ, Tiến sĩ Alexander biết rằng các thí nghiệm đã được tiến hành trên người Do Thái, người Digan, người đồng tính và các linh mục Công giáo trong doanh trại bí mật, độc lập có tên là Khu Giam giữ Thử nghiệm số 5. “Nhìn chung, cái chết của các tù nhân được chuyển đến Khu 5 dự kiến ​​sẽ xảy ra trong vòng 2-3 ngày”, John Bauduin làm chứng. Nhân chứng thứ hai, Tiến sĩ Hussarek, một học giả người Tiệp Khắc được gửi đến Dachau vì phạm “tội ác văn học”, nói với Tiến sĩ Alexander rằng “chỉ một số ít đối tượng thử nghiệm sống sót sau các thí nghiệm áp suất thấp. Hầu hết đều bị giết”. Cả ba người đàn ông đều đồng ý rằng chỉ có một cá nhân được biết là sống sót sau các thí nghiệm, đó là một linh mục người Ba Lan tên là Leo Michalowski.

Lời khai của Cha Michalowski đã cung cấp một mắt xích quan trọng còn thiếu trong các thí nghiệm giết người y khoa và cách chúng được che giấu khéo léo như thế nào. Các báo cáo của Luftwaffe đã sử dụng các từ “chuột lang”, “lợn lớn” và “lợn trưởng thành” làm mật mã cho đối tượng là con người. Trong một trong những bài báo của Weltz bị Tiến sĩ Alexander tịch thu, có tiêu đề “Rượu và sự ấm lên”, Weltz đã viết rằng “các thí nghiệm đắm tàu ​​đã được [mô phỏng] trên những con lợn lớn”. Những con lợn được đặt trong các thùng nước có khối đá và được cho uống rượu để xem hiệu ứng ấm lên có xảy ra không. Kết quả, Weltz viết, cho thấy rằng “rượu ở lợn không làm tăng hoặc đẩy nhanh quá trình mất nhiệt”. Trong lời khai tuyên thệ, Cha Michalowski đã mô tả những gì đã xảy ra với ông tại Dachau: “Tôi đã bị đưa đến phòng số 4 ở Khu 5…. Tôi bị thả xuống nước có khối đá nổi. Tôi tỉnh táo trong một giờ… sau đó được cho uống một ít rượu rum”. Trong bài báo của Weltz, từ “lợn lớn” thực sự có nghĩa là “linh mục Công giáo”.

Vào ngày 22 tháng 6, Tiến sĩ Alexander đã quay trở lại Trung tâm Tài liệu Heidelberg để tìm thêm thông tin với sự giúp đỡ của Hugh Iltis. Được trang bị các chi tiết mới và thông tin quan trọng từ lời khai của người sống sót, Tiến sĩ Alexander đã tìm thấy thứ mà Tiến sĩ Rascher gọi là “báo cáo thí nghiệm” của mình. Alexander lưu ý rằng những biểu đồ này là biên niên sử khoa học về vụ giết người nhân danh y học. Rascher cũng có những kế hoạch lớn hơn. Ông đang làm việc với SS để chuyển các thí nghiệm y khoa hàng không từ Dachau đến Auschwitz. “Auschwitz về mọi mặt phù hợp hơn cho một thí nghiệm hàng loạt lớn như vậy so với Dachau vì ở đó lạnh hơn và phạm vi đất trống lớn hơn trong trại sẽ khiến các thí nghiệm ít bị chú ý hơn”, Rascher viết. Tiến sĩ Alexander cũng biết về một “bộ phim ghi lại các thí nghiệm” quái đản đã được trình chiếu tại một buổi chiếu riêng tại Bộ Không quân, theo lệnh của Himmler. Bác sĩ Luftwaffe giám sát sự kiện này lại là một đồng nghiệp thân thiết khác của Tiến sĩ Strughold, một nhà sinh lý học và quan chức chính phủ tên là Tiến sĩ Theodor Benzinger. Tiến sĩ Alexander không thể tìm thấy Benzinger nhưng đã ghi lại tên ông trong báo cáo của mình. Sau đó, ông quay trở lại Göttingen để phỏng vấn Strughold lần thứ hai để xem liệu ông có thể xác nhận rằng Strughold đã nói dối ông hay không.

Ở Göttingen, mọi thứ đã thay đổi. Các nhà điều tra làm việc trong các dự án tình báo khoa học cho Không quân Hoa Kỳ (AAF) và Không quân Hoàng gia (RAF) đã phỏng vấn nhiều bác sĩ Luftwaffe, bao gồm cả Tiến sĩ Strughold. Kết luận của họ khác biệt đáng kể so với Tiến sĩ Alexander. Không có sĩ quan nào của RAF hoặc AAF đến Trung tâm Tài liệu ở Heidelberg để đọc các hồ sơ của Himmler. Thay vào đó, các báo cáo của họ nhằm phục vụ và hỗ trợ phòng nghiên cứu bí mật mới của Armstrong và Grow.

Chỉ huy phi đội RAF R. H. Winfield đã viết trong báo cáo của mình, “Strughold là động lực chính của Nghiên cứu Y khoa Hàng không Đức” và có một đội ngũ đông đảo các đồng nghiệp, bao gồm cả Tiến sĩ Siegfried Ruff, tất cả đều có vẻ “chịu đựng rất nhiều nỗi cô lập trong những năm chiến tranh”. Winfield, không hề biết rằng Tiến sĩ Ruff là người chịu trách nhiệm giám sát công việc của Rascher tại Dachau, tuyên bố rằng “cuộc thẩm vấn  Ruff của ông đã tiết lộ rất ít thông tin mà quân Đồng minh chưa biết”. Winfield coi Tiến sĩ Strughold là một nhân vật quý tộc, “rất lo lắng về phúc lợi của đội ngũ nhân viên của mình, những người không thể sơ tán khỏi Berlin và giờ đây bị quân Nga đe dọa”.

Đại diện cho Không quân Hoa Kỳ là Đại tá W. R. Lovelace, một chuyên gia về nghiên cứu thoát hiểm và nhảy dù ở độ cao lớn. Thập kỷ sau, Lovelace trở nên nổi tiếng với tư cách là bác sĩ cho Dự án Mercury thời Chiến tranh Lạnh của phi hành gia NASA. Đối với báo cáo CIOS bí mật của mình, có tựa đề “Nghiên cứu về Y học Hàng không cho Không quân Đức”, Lovelace đã phỏng vấn Tiến sĩ Strughold và nhiều đồng nghiệp của ông, bao gồm cả chuyên gia đông lạnh, Georg Weltz. Giống như Winfield, Lovelace không biết gì về các thí nghiệm giết người nhân danh y học đang diễn ra bên trong các trại tập trung. Ông coi nghiên cứu của Weltz là vô hại và dành năm trang báo cáo CIOS của mình để ca ngợi các nghiên cứu của ông ta về “việc làm ấm lại nhanh chóng cho động vật đã được làm mát”. Lovelace đặc biệt ấn tượng trước thực tế là Weltz đã đông lạnh một “con chuột lang” đến chết và vẫn có thể ghi lại nhịp tim sau khi chết. “Nhịp tim có thể tiếp tục trong một thời gian nếu con vật bị bỏ lại trong giá lạnh”, Lovelace viết trong bản tóm tắt về những phát hiện của Weltz.

Không giống như Tiến sĩ Alexander, Đại tá Lovelace đã có thể phỏng vấn Strughold và đồng nghiệp của Ruff là Tiến sĩ Theodor Benzinger, chuyên gia về độ cao điều hành Trạm thí nghiệm của Reich thuộc Trung tâm nghiên cứu Không quân, Rechlin, nằm ở phía bắc Berlin. Đây cũng chính là Tiến sĩ Benzinger đã giám sát cho Himmler buổi chiếu phim tại Bộ Không quân Reich, ở Berlin, về các tù nhân Dachau bị giết trong các thí nghiệm y khoa. Và trong khi Tiến sĩ Alexander có thông tin này, Đại tá Lovelace lại không biết gì. Lovelace đặc biệt quan tâm đến công trình của Benzinger liên quan đến “các vụ thoát hiểm bằng dù ở độ cao lớn”, mà Benzinger đã thu thập được nhiều dữ liệu và đưa ra “các nghiên cứu về các trường hợp tử vong có thể phục hồi và không thể phục hồi”. Benzinger nói với Lovelace rằng ông đã thực hiện các nghiên cứu của mình trên thỏ.

Cuối cùng, Lovelace đã phỏng vấn Tiến sĩ Konrad Schäfer, một nhà hóa học và sinh lý học, người đã nỗ lực trong thời chiến để biến nước mặn thành nước uống khiến ông trở nên nổi tiếng trong giới Luftwaffe. Với lời khen ngợi cao từ các sĩ quan RAF và AAF, các Bác sĩ Ruff, Benzinger và Schäfer hiện đang được cân nhắc cho các vị trí lãnh đạo tại phòng nghiên cứu mới.

Vào cuối tháng 6 năm 1945, thời gian được phân bổ cho Tiến sĩ Alexander trong lĩnh vực điều tra tội phạm chiến tranh đã kết thúc. Ông được lệnh trở về London, nơi ông sẽ đánh máy bảy báo cáo CIOS được phân loại với tổng số hơn một nghìn năm trăm trang. Hai tuần sau khi Alexander rời Đức, Trưởng phòng Y học Hàng không của Không quân, Detlev Bronk, và một chuyên gia của AAF về căng thẳng tâm lý và sinh lý khi bay tên là Howard Burchell, đã đến Đức để đánh giá tiến độ của phòng thí nghiệm nghiên cứu mới do Armstrong và Grow hình dung. Bronk và Burchell đã phỏng vấn nhiều bác sĩ tương tự và xác định rằng tất cả họ đều là ứng cử viên tốt cho trung tâm AAF.

Không giống như Chỉ huy Phi đội Winfield và Đại tá Lovelace, Bronk và Burchell đã biết về một số tranh cãi xung quanh Strughold và các đồng nghiệp Luftwaffe của ông ta. Trong một báo cáo chung, họ giải thích, “Không có nỗ lực nào được thực hiện để đánh giá quan điểm chính trị và đạo đức của [các bác sĩ], hoặc trách nhiệm của họ đối với tội ác chiến tranh.” Họ cũng kết luận, “Strughold không phải lúc nào cũng trung thực khi trình bày ý nghĩa thực sự của công việc mà ông ủng hộ.” Nhưng Bronk và Burchell tuyên bố rằng quan điểm của họ là tình báo quân đội đủ điều kiện hơn để xác định ai không được phép vào “vì lý do chính trị” và ai có thể được thuê. Hóa ra, tình báo quân đội phản đối việc thuê Tiến sĩ Benzinger và Tiến sĩ Ruff, với lý do cả hai người đều là những nhà tư tưởng Đức Quốc xã cứng rắn. Nhưng vào tháng sau, tình báo quân đội xác định rằng công việc của các bác sĩ tại Heidelberg sẽ là “ngắn hạn” và cả hai người đều được phép làm việc cho Quân đội Hoa Kỳ.

Một thỏa thuận đã được thực hiện giữa Không quân  Hoa Kỳ và Tiến sĩ Strughold. Ông ta sẽ phục vụ cùng Armstrong với tư cách là đồng chủ tịch của một trung tâm nghiên cứu Tuyệt mật mà Không quân đang âm thầm thành lập tại Viện Kaiser Wilhelm cũ ở Heidelberg, và được gọi là Trung tâm Y khoa Hàng không Không quân. Không ai ngoài một nhóm nhỏ có thể biết về dự án gây tranh cãi này vì, theo JCS 1076, không có thế lực nước ngoài nào được phép tiến hành bất kỳ loại nghiên cứu quân sự nào ở Đức, kể cả trong y học.

Tiến sĩ Strughold đã đích thân lựa chọn 58 bác sĩ Luftwaffe cho chương trình nghiên cứu, bao gồm Tiến sĩ Siegfried Ruff, Tiến sĩ Theodor Benzinger và Tiến sĩ Konrad Schäfer, những bác sĩ Đức Quốc xã đầu tiên được Không quân Hoa Kỳ thuê. Tại Munich, Tiến sĩ Georg Weltz đã bị bắt và bị đưa đến một cơ sở giam giữ để xử lý. Từ đó, ông sẽ được đưa đến khu phức hợp nhà tù ở Nuremberg để chờ xét xử.

Trong vòng chưa đầy hai năm, nhiều bác sĩ Đức Quốc xã được Tiến sĩ Strughold lựa chọn đã âm thầm bắt đầu hành trình bí mật đến Hoa Kỳ.

Bình luận về bài viết này