
Annie Jaconsen
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG BỐN
Giải phóng
Trên khắp nước Đức, cuộc giải phóng đã bắt đầu. Từ địa điểm này đến địa điểm khác, tù nhân trong các trại tập trung và nhà máy lao động nô lệ đã được giải thoát bởi binh lính Đồng minh; họ đã xông vào nước Đức bằng xe tăng, xe jeep và đi bộ. Hành động bắt đầu từ miền tây nước Đức và tiếp tục diễn ra đều đặn khi quân Đồng minh tiến về phía đông, hướng tới Munich và Berlin. Cùng với cuộc giải phóng này, người lính cũng phát hiện ra các phòng thí nghiệm và cơ sở nghiên cứu của Đế chế, từng cái một. Sau mỗi lần phát hiện, một nhóm các nhà khoa học của CIOS được triệu tập để điều tra. Trong tuần thứ hai của tháng 4 năm 1945, bốn cơ sở chính đã bị chiếm giữ tại Nordhausen, Geraberg, Völkenrode và Raubkammer – mỗi nơi đều dẫn đến việc bắt giữ các khoa học gia chủ chốt, những người sau đó sẽ trở thành thành viên của Chiến dịch Kẹp giấy.
Vào sáng ngày 11 tháng 4 năm 1945, một đơn vị lính Mỹ thuộc Sư đoàn Bộ binh 104, còn được gọi là Timberwolves, đã tiến vào các đường hầm trại nô lệ tại Nordhausen. Trong số binh sĩ giải phóng có một lính bắn tỉa bộ binh, một binh nhì tên là John Risen Jones Jr. Trong túi anh có một chiếc máy ảnh, một món quà mà gia đình tặng cho anh trước khi anh lên đường ra chiến trận. Đắt tiền và trông bóng bẩy, chiếc Leica III của Jones là một trong những chiếc máy ảnh 35 mm cầm tay đầu tiên từng được sản xuất.
Đã bảy tháng trôi qua kể từ khi John Risen Jones đổ bộ vào Pháp, vào tháng 9 năm 1944. Cho đến nay, anh đã trải qua 195 ngày đêm trên lục địa, nhiều ngày trong số đó đã tham gia vào các trận giao chiến dữ dội, trong khi vẫn phải lặn lội qua tuyết giá, mưa đá và bùn lầy. Jones đã đi bộ qua Pháp, Bỉ và Hà Lan, và giờ đây anh đang ở đây, giữa những ngọn núi sâu của miền trung nước Đức, Harz. Anh đã mất nhiều đồng đội trong trận chiến và chụp nhiều bức ảnh về cuộc chiến. Khi đơn vị của anh đến thị trấn miền núi nhỏ bé này, anh ngỡ rằng ngày hôm đó sẽ trôi qua giống như ngày hôm trước. Chỉ còn một bước nữa là đến hồi kết cục của cuộc chiến tàn khốc này.
Không có cảnh chiến đấu nào chờ đón John Risen Jones qua ống kính máy ảnh Leica của mình khi đơn vị của anh tiến vào Nordhausen. Những bức ảnh anh chụp chỉ ghi chép lại thảm kịch đã xảy ra với hàng ngàn công nhân tên lửa V-2 bị kết án làm nô dịch trong các đường hầm ở đây. Hàng trăm xác chết nằm rải rác trên sàn đường hầm. Cũng đáng lo ngại không kém là tình trạng của hàng trăm người khác vẫn còn sống sót: những con người gầy gò đầy vết bầm tím và vết loét, quá yếu đến nỗi không thể đứng dậy. “Đó là một kết cấu của những tiếng rên rỉ và thút thít mê sảng và cơn điên loạn hoàn toàn”, đồng đội Trung sĩ Donald Schulz nhớ lại. John Risen Jones đã không nói về điều đó trong 51 năm.

Những người giải phóng Mỹ đứng ở lối vào khu phức hợp đường hầm ngầm Nordhausen nơi những người lao động nô lệ lắp ráp tên lửa V-2. (Không quân Hoa Kỳ)
Đi theo sau binh lính là một đội gồm bảy điều tra viên tội phạm chiến tranh. Trong số đó có một sĩ quan trẻ người Hà Lan làm việc cho Quân đội Hoa Kỳ, William J. Aalmans. Giống như John Risen Jones, Aalmans bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những gì anh nhìn thấy và ngửi thấy. “Mùi hôi thối, bệnh lao và đám tù nhân đói khát”, anh nói với nhà báo Tom Bower sau chiến tranh. “Bốn người chết mỗi giờ. Thật không thể tin được”. Aalmans và nhóm của anh bắt đầu lấy lời khai của các tù nhân, vừa nói vừa nhấp từng ngụm sữa pha loãng để lấy sức. Công việc mà các điều tra viên tội phạm chiến tranh phải đối mặt rất nặng nề và lịch trình của họ rất dày đặc. Sau năm ngày ở Nordhausen, họ được lệnh phải tiếp tục. Hầu hết các giấy tờ chính thức liên quan đến sản xuất tên lửa đã bị cất giấu hoặc bị phá hủy, nhưng Aalmans và nhóm của anh đã tìm thấy một tờ giấy vô tình bị bỏ lại, được ghim trên tường. Đó là danh sách điện thoại Mittelwerk ghi tên những người phụ trách. Ở đầu danh sách có hai cái tên: Georg Rickhey, giám đốc sản xuất và Arthur Rudolph, phó giám đốc sản xuất. Aalmans thấy tài liệu này đủ thú vị để ghim nó vào báo cáo. Mặc dù phải mất nhiều năm mới được công bố, nhưng tờ giấy này cuối cùng sẽ dẫn đến sự rơi đài của Rudolph và Rickhey và đe dọa tiết lộ những bí mật đen tối của Chiến dịch Kẹp giấy.
Bảy mươi lăm dặm về phía nam Nordhausen, trong Rừng Thuringian ở rìa Harz, quân Đồng minh đã giải phóng thị trấn Geraberg. Tại đây, họ bắt gặp một cơ sở nghiên cứu trông rất kỳ lạ ẩn mình trong một lùm cây rậm rạp. Rõ ràng là nơi này mới bị bỏ hoang. Nó bao gồm một phòng thí nghiệm, một khu cách ly, chuồng thú và nơi ở cho 14 người đàn ông. Một phần của cơ sở vẫn đang được xây dựng. Quân đội liền nhắn tin đến trụ sở SHAEF ở Versailles yêu cầu một nhóm các nhà vi khuẩn học đến Geraberg ngay. Các nhà khoa học của Alsos đã được cử đến để điều tra. Một trong những chuyên gia chiến tranh sinh học đầu tiên đến là Bill Cromartie; ông là người đã săn lùng bằng chứng về chương trình vũ khí sinh học của Hitler kể từ khi nhiệm vụ bắt đầu ở Strasbourg, Pháp. Quay trở lại tháng 11, Cromartie là một trong những người đang rà soát hồ sơ cùng với Samuel Goudsmit, bên trong căn hộ của Tiến sĩ Eugen Haagen, khi các điệp viên của Alsos lần đầu tiên biết rằng Reich đang thử nghiệm vắc-xin gây chết người trên các tù nhân trong các trại tập trung. Khi đến Geraberg, Cromartie xác định rằng phòng thí nghiệm ở đây là một đầu mối quan trọng.
“Tòa nhà và các địa điểm nằm ở hai bên của một thung lũng nhỏ và được xây dựng dưới những tán cây cao”, báo cáo phân loại của Cromartie viết. “Ở một bên có một tòa nhà từng là phòng thử nghiệm”, ông suy đoán, cho rằng cơ sở này được thiết kế để sản xuất vắc-xin thử nghiệm nhằm bảo vệ binh lính Đức chống lại cuộc tấn công bằng vũ khí sinh học.
Một dân địa phương đã cung cấp cho Cromartie và đồng nghiệp, J. M. Barnes, hai thông tin quan trọng trong câu đố về vũ khí sinh học. Y giải thích rằng một tẻn SS tên là Tiến sĩ Karl Gross đã giám sát công việc tại cơ sở này. Gross đã cất giữ hàng chục chiếc rương và hộp được khóa chặt ở các tầng trên của một ngôi trường địa phương, và mặc dù ông ta mới biến mất gần đây, ông ta vẫn để lại những chiếc rương đó. Người này đã đưa các nhà khoa học Mỹ đến ngôi trường để điều tra.
Một cuộc kiểm kê đã được tiến hành đối với tài sản của Tiến sĩ Gross, chủ yếu là thiết bị phòng thí nghiệm. “Có những thùng đựng ống nghiệm và bình nhỏ và một số lượng lớn giá để ống nghiệm. Có hai máy ấp và một lò hấp. Có hai hộp lọc mặt nạ phòng độc và một số mũ trùm cao su và áo choàng”, báo cáo viết. Mọi thứ đều là đồ bảo hộ cấp quân sự, được đánh dấu là lấy từ Viện Vệ sinh của Waffen SS.” Ngoài ra còn có một bộ sưu tập lớn sách, “một số hộp tạp chí đều đề cập đến các bệnh truyền nhiễm.” Những cuốn sách thực sự thu hút sự chú ý của các nhà khoa học là “Những đóng góp của Nga về bệnh dịch hạch.”
Tiếp theo, dân làng dẫn các điệp viên Alsos đến nhà trọ gần đó nơi Tiến sĩ Gross đã thuê một căn phòng. Nơi này đã được dọn sạch và không còn đồ đạc cá nhân. “Bà chủ nhà của ông ấy nói rằng bà tin rằng ông ta đã đốt rất nhiều giấy tờ vào đêm trước khi ông ấy rời đi”, các nhà khoa học Alsos đã ghi chú trong báo cáo của họ. Nhưng Tiến sĩ Gross chỉ là người trung gian, bà chủ nhà cho biết. Có một người đàn ông khác đã đến cơ sở này và dường như là người phụ trách. Ông ấy lớn tuổi, khoảng 50, cao năm bộ chín, có ria mép và tóc đen. Trên môi trên của ông ta có một vết sẹo rõ rệt là do đấu kiếm gây ra. Ông ấy hẳn phải có cấp bậc cao, vì mọi người trong đội ngũ nhân viên đều phục tùng ông ấy. Khi được Alsos tham chiếu chéo với Danh sách Osenberg, tình hình trở nên rõ ràng hơn: Tiến sĩ Karl Gross làm việc dưới quyền Tiến sĩ Kurt Blome, cá nhân phụ trách nghiên cứu vũ khí sinh học và là phó Tổng Y sĩ của Đệ tam Đế chế.
Mọi chỉ số đều chỉ ra ý tưởng rằng Geraberg là một cơ sở của Đế chế nghiên cứu vũ khí sinh học. Các điệp viên của Alsos đã chụp ảnh địa điểm: nhà động vật, trạm vắc-xin, phòng thực nghiệm và bệnh viện cách ly. Họ đã đánh máy một báo cáo và lưu trữ để sử dụng trong tương lai. Bây giờ, gần đầu danh sách đen vũ khí sinh học là cái tên Tiến sĩ Kurt Blome.
Sáu mươi dặm về phía bắc Nordhausen, một tiểu đoàn lính Mỹ thuộc Trung đoàn Bộ binh 1 Hoa Kỳ di chuyển thận trọng qua khu rừng ở rìa phía tây của một thành phố nhỏ tên là Braunschweig. Vào ngày 13 tháng 4 năm 1945, họ tình cờ phát hiện ra một khu phức hợp gồm khoảng 70 tòa nhà. Những người lính lưu ý rằng nơi này đã được ngụy trang rất cẩn thận. Hàng nghìn cây đã được trồng gần nhau để khu vực này trông giống như một khu rừng rậm rạp khi nhìn từ trên không. Các tòa nhà trong khu phức hợp được thiết kế trông giống như những ngôi nhà nông trại đơn giản. Những khu vườn truyền thống cũng được trồng và chăm sóc. Tổ cò phủ kín các mái nhà.
Bên trong các tòa nhà, những người lính đã phát hiện ra các phòng thí nghiệm máy bay hiện đại, bao gồm toàn bộ các nhà kho chứa đầy các bộ phận máy bay và nhiên liệu tên lửa. Có những đường hầm quạt gió và vũ khí tiên tiến hơn nhiều so với bất kỳ thứ gì mà Không quân Mỹ có tại Wright Field. Sư đoàn lâu đời nhất của Quân đội Hoa Kỳ đã bất ngờ phát hiện ra phòng thí nghiệm hàng không tiên tiến nhất về mặt khoa học trên thế giới. Nó được gọi là Trung tâm Nghiên cứu Hàng không Hermann Göring tại Völkenrode. Quân Đồng minh chưa từng nghe đến nó trước đây. Nó không xuất hiện trong bất kỳ Danh sách đen CIOS nào. Đó là một phát hiện đáng kinh ngạc.
Lúc đầu, có vẻ như nơi này đã bị bỏ hoang. Nhưng sau một giờ tìm kiếm xung quanh, binh lính đã gặp giám đốc khoa học của viện, một người đàn ông tên là Adolf Busemann. Busemann nói với những người lính rằng cơ sở này được gọi tắt là Völkenrode, và nó đã hoạt động được mười năm. Một nhóm chuyên gia tình báo kỹ thuật của Không quân, đang tiến hành Chiến dịch Lusty và đóng quân tại Saint-Germain, Pháp, đã được cử đến để điều tra. Lúc này, Lực lượng Không quân Chiến lược Hoa Kỳ ở Châu Âu đã tiêu diệt Luftwaffe, và chiến dịch ném bom về cơ bản đã dừng lại. Chỉ huy của nó,
Tướng Carl A. “Tooey” Spaatz, vừa nhận được ngôi sao thứ tư vì thành tựu trong chỉ huy một phi đội máy bay chiến đấu lớn nhất từng được tập hợp cho chiến tranh. Bây giờ Spaatz có một nhiệm vụ mới cho các chỉ huy chiến trường của mình. “Chiến dịch Lusty”, Spaatz viết trong một bản ghi nhớ, “có hiệu lực”, và mọi người “không tham gia vào các nhiệm vụ hoạt động quan trọng” sẽ tìm kiếm thông tin tình báo khoa học và kỹ thuật nhằm hỗ trợ vật chất trong việc tiến hành chiến tranh chống lại Nhật Bản.” Người mà Spaatz chọn để chỉ huy cuộc săn lùng các nhà khoa học và kỹ sư của Luftwaffe là Đại tá Donald L. Putt.
Khi Putt đến Völkenrode vào ngày 22 tháng 4 năm 1945, ông đã vô cùng phấn khích trước những gì mình chứng kiến. Ông chỉ có thể nghĩ đến việc làm sao có thể nhanh chóng đưa tất cả những thiết bị này về Hoa Kỳ. Putt là một phi công thử nghiệm huyền thoại đã làm việc tại Wright Field từ năm 1933, được phân công vào nhiều nhánh khác nhau, bao gồm cả Nhánh Phi hành. Ông đã thoát khỏi một vụ tai nạn máy bay chết người khiến các đồng đội của mình thiệt mạng và để lại cho ông những vết sẹo bỏng cấp độ hai trên mặt và cổ. Putt là một con người mạnh mẽ, tính cách Loại A, một con hổ giữa đám nam nhi. “Ông ấy đã thể hiện khả năng chịu đựng cú sốc cảm xúc lớn, hấp thụ nó và vượt qua”, một đồng nghiệp từ Wright Field giải thích. Putt cũng có năng khiếu về trí tuệ, với bằng kỹ sư điện từ Học viện Công nghệ Carnegie và bằng thạc sĩ kỹ thuật hàng không từ Học viện Công nghệ California. Khi đã lớn tuổi, Donald Putt nhớ lại kiểu tư duy trước chiến tranh về những phi công kiêm kỹ sư. “Sau đó, triết lý là, ‘Đừng đưa một phi công có trình độ kỹ thuật vào buồng lái, vì anh ta có khuynh hướng tìm ra lý do tại sao mọi thứ xảy ra.’ Nhưng khi các cuộc chiến trên không ở Châu Âu và Nhật Bản leo thang, Không quân thấy mình cần có kiểu tư duy nhanh, sáng tạo từ các kỹ sư-phi công người Mỹ như Putt. Không quân đã gạt triết lý cũ sang một bên và sử dụng chuyên môn của Putt. Năm 1944, cột mốc sự nghiệp của Putt đã đến khi ông được giao phụ trách sửa đổi một máy bay ném bom B-29 để nó có thể mang một tải trọng cực kỳ nặng, và Tối mật để ném xuống Nhật Bản. Tải trọng này cuối cùng được tiết lộ là những quả bom nguyên tử thả xuống Hiroshima và Nagasaki. Sau khi Putt hoàn thành công việc cải tiến máy bay ném bom B-29 của mình, vào tháng 1 năm 1945, ông được cử ra nước ngoài làm giám đốc dịch vụ kỹ thuật cho Bộ tư lệnh Không quân. Bây giờ ông đã ở đây vào tuần cuối cùng của tháng 4 năm 1945 tại Völkenrode.

Donald L. Putt, phi công thử nghiệm và kỹ sư tài năng, là một trong những sĩ quan thời chiến đầu tiên đến trung tâm nghiên cứu hàng không bí mật của Hermann Göring tại Völkenrode. Kinh ngạc trước những gì ông nhìn thấy. Putt đã tuyển dụng hàng chục nhà khoa học và kỹ sư Đức Quốc xã cho Chiến dịch Kẹp giấy và giám sát công việc của họ tại Wright Field. (Không quân Hoa Kỳ)
Với chuyên môn của một kỹ sư, Putt có thể đánh giá rõ ràng bản chất mang tính cách mạng của công nghệ mà ông đang xem xét. Điều đáng kinh ngạc nhất đối với Putt là bảy đường hầm quạt gió của Völkenrode cho phép Không quân Đức nghiên cứu xem cánh quét ngược sẽ hoạt động như thế nào ở tốc độ vượt bức tường âm thanh. Điểm chuyển tiếp này, giữa Mach 0,8 và Mach 1,2, vẫn chưa được các phi công Mỹ biết đến vào năm 1945. Khi Putt biết được từ giám đốc của Völkenrode, Adolf Busemann, rằng bức tường âm thanh đã bị các nhà khoa học Đức phá vỡ trong các đường hầm gió này, ông đã rất kinh ngạc. Putt biết ngay rằng cơ sở này có “các thiết bị và công cụ thử nghiệm tuyệt vời nhất” trên thế giới.
Putt đang nhận lệnh từ Quân đội Hoa Kỳ, Chiến dịch Châu Âu, Cục Tình báo, Sư đoàn Khai thác, điều đó có nghĩa là ông có thể tiếp cận những chiếc B-17 và B-24 đã tháo rời các bộ phận không cần thiết nếu cần, một phương tiện để vận chuyển phần lớn thiết bị này đến Hoa Kỳ, điều mà Putt rất muốn làm. Ông đã viết thư cho cấp trên của mình, Thiếu tướng Hugh Knerr, phó chỉ huy Lực lượng Không quân Chiến lược Hoa Kỳ tại Châu Âu, phác thảo đề xuất của mình và gợi ý một ý tưởng thứ hai: Tại sao không đưa các nhà khoa học như Adolf Busemann ra khỏi Đức, cùng với thiết bị Luftwaffe bị tịch thu? “Nếu chúng ta không quá tự ái khi sử dụng thông tin do Đức cung cấp này, chúng ta có thể thu được nhiều lợi ích từ nó và chúng ta có thể tiến xa hơn nơi Đức đã dừng lại”, Putt viết. Các nhà khoa học Đức “sẽ có giá trị to lớn trong chương trình phát triển động cơ phản lực và máy bay của chúng ta”. Putt và Knerr đều biết rằng Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh có rất nhiều cá nhân cảnh giác với người Đức nói chung và hoàn toàn phản đối việc thực hiện bất kỳ thỏa thuận nào với chính các nhà khoa học đã giúp Đức Quốc xã kéo dài chiến tranh. Nhưng nếu có ai có thể khiến Bộ Chiến tranh phải khuất phục thì Knerr và Putt tin rằng họ có thể.
Thiếu tướng Knerr đã gửi một bản ghi nhớ đến Bộ Chiến tranh ở Washington, D.C., giải thích rằng việc sử dụng công nghệ của Không quân Đức để chiến đấu trong cuộc chiến ở Nhật Bản là điều bắt buộc. Ông nói thêm rằng tư cách thành viên Đảng Quốc xã của các nhà khoa học cần phải được bỏ qua. “Lòng kiêu hãnh và việc giữ thể diện không có chỗ trong công cuộc bảo vệ quốc gia”, Knerr viết.
Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh không dễ dàng bị thuyết phục ít nhất là không phải bây giờ. Đại tá Putt được thông báo rằng thiết bị có thể được chuyển ra khỏi Völkenrode ngay lập tức nhưng việc đưa các nhà khoa học Đức đến Wright Field sẽ mất nhiều thời gian hơn. Putt giám sát việc vận chuyển hàng không khổng lồ các bộ phận máy bay và tên lửa của Đức từ Völkenrode đến Hoa Kỳ; 5.000 tài liệu khoa học cũng đã được vận chuyển. Trong khi đó, ông và đội ngũ nhân viên của mình đã tập hợp được nhiều nhân viên Luftwaffe nhất có thể, theo dõi các đầu mối và thỏa thuận với các nhà khoa học và kỹ sư tại nhà của họ. Putt thông báo với người Đức rằng ông không thể cung cấp cho họ các hợp đồng của Quân đội Hoa Kỳ ngay lúc này nhưng rất có thể ông sẽ sớm làm được. Trong khi đó, ông đã sắp xếp cho hàng chục nhà khoa học và kỹ sư của Luftwaffe cư trú tại Khách sạn Wittelsbacher Hof, ở thị trấn spa Bad Kissingen, và đảm bảo rằng họ có đủ thức ăn, đồ uống và thuốc lá. Hãy đợi ở đây, các nhà khoa học được thông báo. Các hợp đồng của Quân đội Hoa Kỳ đang trên đường đến.
Sau đó, Đại tá Putt và Thiếu tướng Knerr sẽ cùng nhau bàn bạc và tìm ra cách thuyết phục Bộ Chiến tranh rằng quan điểm của họ là tốt nhất cho Hoa Kỳ.
Vào thời điểm này, kho vũ khí hóa học lớn nhất được phát hiện cho đến nay đã được tìm thấy cách Hannover 75 dặm về phía tây. Vào ngày 16 tháng 4 năm 1945, những người lính Anh từ Tập đoàn quân số 21 của Montgomery đã tiến đến lối vào của một bãi thử nghiệm quân đội Đức bị bỏ hoang có tên là Hang ổ Bọn Trộm, hay Raubkammer. Nơi này có vẻ như đã bị bỏ hoang, nhưng những tay súng bắn tỉa của Waffen-SS vẫn còn đang ẩn náu trong rừng. Binh lính thận trọng khi lái xe bọc thép qua một cặp trụ cổng được trang trí bằng biểu tượng đại bàng và chữ vạn của Đế chế.
Thoạt nhìn, cơ sở này trông giống như một bãi thử nghiệm quân sự tiêu chuẩn – nơi bom được kích nổ và ghi lại sức nổ. Raubkammer nằm trong một vùng rừng nông thôn có tên là Münster-Nord, và trải dài hơn 76 dặm vuông. Những hố bom lớn trên cánh đồng trống cho thấy máy bay Luftwaffe đã tập thả bom ở đây. Có nhà ở sang trọng cho hàng trăm sĩ quan. Có những tòa nhà hành chính lớn và một nhà ăn của sĩ quan. Sau đó, những binh sĩ tiến đến sở thú.
Đó là một sở thú lớn, có khả năng nuôi nhốt nhiều loại động vật với mọi kích cỡ. Có những chiếc lồng cho chuột, mèo và chó, cũng như những chuồng nhỏ và lớn nhốt các loài gia súc như ngựa, bò và lợn. Cũng có những chiếc lồng cho khỉ. Nhưng chính việc phát hiện ra một ống trụ gỗ khổng lồ – rất có thể là một buồng khí dung – đã kích hoạt báo động. Cấu trúc này cao 65 bộ và rộng 100 bộ, và được bao quanh bởi một mạng lưới giàn giáo, đường ống và quạt thông gió. Giữa sở thú và buồng lớn, những người lính giờ đây khá chắc chắn rằng
Raubkammer không phải là bãi thử nghiệm quân sự thông thường. Hang ổ Bọn Trộm mang dấu hiệu của một cơ sở thử nghiệm thực địa có khả năng liên quan đến khí độc. Một bản ghi nhớ khẩn cấp đã được gửi đến SHAEF yêu cầu điều một nhóm chuyên gia chiến tranh hóa học đến Raubkammer. Hai nhóm đã xuống, một nhóm từ Cơ sở Thử nghiệm Phòng thủ Hóa học Anh tại Porton Down và một nhóm khác từ CIOS, bao gồm Thiếu tá Tilley và Đại tá Tarr.
Cùng lúc đó, một đơn vị quân đội Anh thứ hai đang làm việc chỉ cách Hang ổ Bọn Trộm vài dặm về phía tây nam đã phát hiện ra hai cụm boongke với tổng cộng gần 200 công trình. Khu vực này đã được che giấu khéo léo khỏi tầm nhìn từ trên cao bởi lớp phủ rừng rậm. Cụm đầu tiên bao gồm vài chục tòa nhà gỗ nhỏ cách nhau không liên tục giữa các lô cốt bê tông có kích thước tương tự. Những người lính đã kiểm kê đồ đạc một cách thận trọng. Bên trong một cụm boongke, họ tìm thấy hàng nghìn quả bom, xếp thành từng đống gọn gàng. Mỗi quả bom được đánh dấu bằng một vòng màu vàng được sơn xung quanh nó. Đây là dấu hiệu tiêu chuẩn để chỉ khí mù tạt, vũ khí hóa học được cả hai bên sử dụng trong Thế chiến I. Binh lính Anh đã kiểm kê và đếm được 100.000 quả đạn khí mù tạt.
Kho đạn dược thứ hai được đánh dấu là thuộc về Không quân Đức. Tại đây, 175 boongke chứa đầy bom mà quân Đồng minh không thể nhận dạng được. Mỗi quả bom được đánh dấu bằng ba vòng tròn màu xanh lá cây được sơn xung quanh. Binh sĩ của Montgomery đã gửi một bản ghi nhớ khẩn cấp đến SHAEF yêu cầu một nhóm chuyên gia về vũ khí hóa học đến điều tra các loại đạn dược trong rừng.
Các nhà khoa học từ CIOS và Porton Down lo lắng không biết có gì bên trong những quả bom được đánh dấu một cách lạ lùng và bí ẩn. Họ quyết định tốt nhất là truy tìm các nhà khoa học Đức có thể còn nán lại, trong khu vực, may ra có thể quen thuộc với chủng loại của quả bom trước khi tự mở vỏ bom. Vì vậy họ bắt đầu gõ cửa những ngôi nhà khang trang ở gần Hang ổ Bọn Cướp. Đúng như họ nghi ngờ, các sĩ quan CIOS đã xác định được một số tên chịu thú nhận là các nhà khoa học quân đội Đức và đã làm việc tại Raubkammer. Trong khi tất cả đều tuyên bố mình không biết loại vũ khí nào được thử nghiệm tại cơ sở quân sự, các sĩ quan CIOS có thể thuyết phục một số nhà khoa học Đức hỗ trợ họ chiết xuất chất lỏng bên trong các quả bom.
Vào thời điểm này, các nhà hóa học thuộc Đại đội Phòng Thí nghiệm Hóa học số 45 của Quân đội Hoa Kỳ đã đến, mang theo một đơn vị phòng thí nghiệm di động và những chiếc lồng chứa đầy thỏ. Ý nghĩ ban đầu là chất được đánh dấu bằng ba vòng tròn màu xanh lá cây là một loại chất gây phồng rộp mới của Đức Quốc xã tương tự, nhưng có lẽ mạnh hơn, khí mù tạt. Các nhà hóa học đã sai. Các chiết xuất đã được thực hiện, và khi thử nghiệm trên những con thỏ trong phòng thí nghiệm di động, bất kể chất lỏng này là gì, nó đã giết chết một con thỏ máu nóng nhanh hơn 5 lần so với bất kỳ thứ gì mà các nhà khoa học Anh hoặc Mỹ từng biết, hoặc thậm chí nghe nói đến, trước đây. Thậm chí còn đáng báo động hơn, chất lỏng này không cần phải hít vào để giết chết nạn nhân Chỉ cần một giọt trên da thỏ cũng có thể giết chết con vật chỉ trong vài phút. Hàng triệu mặt nạ phòng độc mà Anh đã phân phát cho cư dân thành phố trong chiến tranh sẽ không có tác dụng bảo vệ chống lại một vũ khí hóa học mạnh như chất giết người này.
Các điệp viên thực địa của CIOS đã viết một báo cáo tuyệt mật cho cấp trên của họ tại SHAEF. Một loại vũ khí hóa học mới đáng sợ đã được phát hiện. Những quả bom trên không “được phát hiện có chứa một chất độc thần kinh organophosphorus cực mạnh và chưa từng được biết đến” đã được Đức Quốc xã phát triển trong chiến tranh và được cất giấu trong hai trăm boongke trong khu rừng gần đó. Không có loại hóa chất nào gây tử vong cho con người như vậy từng được phát triển trước đây. Các điệp viên của CIOS vẫn chưa biết chất này, nhưng chất độc thần kinh này là tabun. Ba vòng tròn màu xanh lá cây đã được sơn trên những quả bom của Luftwaffe tại cơ sở Dyhernfurth của Farben ở Ba Lan.
Các chuyên gia vũ khí hóa học của phe Đồng minh đột nhiên sở hữu một trong những vũ khí kỳ diệu nguy hiểm nhất và là một trong những bí mật được giữ kín nhất của Đệ tam Đế chế. Thật đáng kinh ngạc khi những vũ khí này chưa bao giờ được sử dụng.
Các nhà khoa học đã phát minh ra chất độc thần kinh này là ai và hiện họ đang ở đâu?
___
Dưới lòng đất ở trung tâm Berlin, trong một bệnh viện tạm thời được dựng lên trong một đường hầm tàu điện ngầm bên dưới Phủ Thủ tướng Đế chế, Thiếu tướng Tiến sĩ Walter Schreiber đã thực hiện các ca phẫu thuật khẩn cấp cho những người lính Wehrmacht bị thương. Ông đã truyền máu, thực hiện cắt cụt bất cứ bộ phận nào cần phải làm. Là Tổng Y sĩ của Đệ tam Đế chế, Schreiber không phải là bác sĩ bệnh viện quen với việc phân loại bệnh nhân bị thương nặng nhẹ. Nhưng, như ông sẽ làm chứng sau này tại Nuremberg, tất cả các đồng nghiệp bác sĩ của ông đã chạy trốn khỏi Berlin; điều này không nhất thiết là sự thật. Schreiber là một người thấp béo, cao năm bộ sáu, tóc vàng, mắt xanh và mũi nhọn. Là một người có ý chí và sức chịu đựng tuyệt vời, ông ấy tự hào vì đã quyết tâm thực hiện một nhiệm vụ và hoàn thành nó.
Hôm nay là sinh nhật lần thứ 56 của Quốc trưởng, ngày 20 tháng 4 năm 1945. Và vì là ngày sinh nhật của Hitler, buổi sáng ở Berlin này bắt đầu bằng buổi phát thanh Chúc mừng Sinh nhật của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, kêu gọi tất cả người dân Đức tin tưởng Hitler và trung thành theo ông ta cho đến tận cùng cay đắng. Trong khi Thiếu tướng Tiến sĩ Schreiber thực hiện các ca phẫu thuật trong bệnh viện tạm bợ dưới lòng đất, một nhóm đồng nghiệp thuộc Đảng Quốc xã của ông đã tụ tập để tổ chức một bữa tiệc gần như ngay phía trên nơi ông đang ở trong tòa nhà Thủ tướng Đế chế đã bị phá hủy một nửa. Khoảng giữa trưa, vòng tròn thân cận nhất của Hitler tiến vào một căn phòng hình hang với những bức tường đá cẩm thạch bóng loáng và cửa kính suốt từ trần đến sàn: Speer, Göring, Himmler, Ernst Kaltenbrunner, Ngoại trưởng Đảng Quốc xã Joachim von Ribbentrop, Đại đô đốc hải quân Karl Dönitz, Thống chế Wilhelm Keitel, chỉ huy quân sự Alfred Jodl, và Chuẩn tướng SS Hans Krebs. Những nhân vật tinh hoa này tụ tập quanh một chiếc bàn khổng lồ bày đầy rượu sâm panh và đĩa thức ăn. Hitler nói vài lời và hứa rằng quân Nga sẽ sớm phải chịu thất bại nặng nề nhất.
Sáng hôm đó, Hồng quân trên thực tế đã bắt đầu cuộc tấn công cuối cùng vào Berlin. Trước bình minh, lính Đức đã rút lui khỏi Cao nguyên Seelow, cách trung tâm Berlin 55 dặm, không để lại chiến tuyến. Chiến dịch của Liên Xô nhằm chiếm Berlin rất hùng hậu, có sự tham gia của 2.500.000 Hồng quân, 41.600 pháo và súng cối, 7.500 máy bay và hơn 6.000 xe tăng.
Tin đồn, hoảng hốt và hỗn loạn bao trùm thành phố với tốc độ không thể ngăn cản. Phần lớn người dân Berlin hiện đang sống dưới lòng đất, trong hầm và nơi trú ẩn không kích, chỉ trồi lên mặt đất để bới rác kiếm thức ăn. Mọi con đường ra khỏi Berlin dẫn về phía tây đều tràn ngập người tị nạn. Thương vong tăng vọt. Ở phía nam, một đội Đoàn Thanh niên Hitler chiến đấu gần Rừng Buckow bị mắc kẹt trong một trận cháy rừng; hầu hết đều bị thiêu sống. Bệnh viện tạm bợ của Thiếu tướng Tiến sĩ Walter Schreiber không còn sức tiếp nhận những người bị thương. Trong mười hai ngày tiếp theo, Hồng quân sẽ bắn 1,8 triệu quả pháo vào thành phố.
Sinh nhật của Hitler cũng là ngày Knemeyer và Baumbach chạy trốn khỏi Berlin vĩnh viễn. Vào buổi sáng, Baumbach nhận được một tin nhắn khó hiểu từ Göring, người đã hướng dẫn anh đến gặp Chuẩn tướng SS Walter Friedrich Schellenberg, giám đốc tình báo quân sự khét tiếng và là nhân vật số hai của Himmler. Cái kết đã gần kề và mọi người dường như đều biết điều đó, vậy Schellenberg muốn gì ở Baumbach bây giờ? Schellenberg nói với Baumbach rằng lệnh bắt giữ đã được ban hành trong bữa tiệc sinh nhật của Führer và anh ta đã được lên lịch để bị giam giữ. Schellenberg nói rằng Baumbach nên rời khỏi thành phố ngay lập tức. Bất kỳ ai gần gũi với Hitler bị bắt vào thời điểm muộn như vậy trong cuộc chiến thường bị nghi ngờ là phản quốc và đều phải đối mặt với một cuộc hành quyết nhanh chóng. Điều này đang xảy ra trên khắp Berlin. Hitler đã phát hiện ra kế hoạch trốn thoát đến Greenland chưa?
“Schellenberg, người mà tôi đã biết trong nhiều năm,” Baumbach sau đó giải thích, “là một người đàn ông thông minh.” Baumbach hiểu rằng lời mách bảo này chỉ có một ý nghĩa: Schellenberg cần Baumbach còn sống để giúp tạo điều kiện cho một cuộc trốn thoát. “Một nhóm sĩ quan SS cốt cán biết rằng Himmler đã cố gắng sử dụng tù nhân trại tập trung làm con bài mặc cả để được khoan hồng, thông qua một bên trung gian là Hội Chữ thập đỏ Thụy Điển,” Baumbach giải thích. Tất nhiên Himmler sẽ không bao giờ được khoan hồng; Baumbach cho rằng Schellenberg và Himmler muốn anh còn sống để anh có thể giúp họ trốn thoát đến một nơi nào đó ở nước ngoài.
Baumbach định vị được Knemeyer và hai phi công đồng ý chạy trốn khỏi Berlin ngay lập tức. Họ lên chiếc xe BMW của Baumbach và hướng về phía bắc đến sân bay Travemünde, cách Berlin hai trăm dặm về phía bắc, trên Biển Baltic. Máy bay tầm xa mà họ định dùng để trốn thoát cùng Speer đã được tiếp tế và tiếp nhiên liệu trên đường băng. “Chúng tôi được cung cấp mọi thứ cần thiết trong sáu tháng”, Baumbach giải thích sau chiến tranh. Knemeyer và Baumbach thấy nhiều sĩ quan Luftwaffe đang đóng gói đồ đạc, loại bỏ giấy tờ tùy thân của quân nhân và chuẩn bị trà trộn và biến mất giữa đám dân thường. Một phụ tá đã chuyển một thông điệp khẩn cấp cho Baumbach, Lần này là từ chính Himmler. Reichsführer-SS muốn gặp Baumbach ngay lập tức. Baumbach phải đến Mecklenburg, nửa đường về Berlin, nơi Himmler đang ở. Baumbach yêu cầu Knemeyer đi cùng mình
Con đường dẫn đến Mecklenburg ngập tràn người tị nạn. Khu vực này của nước Đức là một trong những khu vực duy nhất vẫn nằm trong sự kiểm soát của Đức. Lính SS lùa tù nhân trại tập trung dọc theo các con đường như gia súc trong nỗ lực cuối cùng để giữ họ tránh xa khỏi tay quân giải phóng. Các con đường gần như không thể đi qua được, và Baumbach và Knemeyer phải mất năm giờ để lái xe được một trăm dặm. Khi cuối cùng họ đến một ngôi nhà lớn ở nông thôn được gọi là điền trang Dobbin, đội cận vệ SS của Himmler đã hộ tống họ vào bên trong.
“Reichsführer sẽ tiếp anh ngay bây giờ”, một người lính canh nói. Knemeyer được lệnh đợi bên ngoài văn phòng của Himmler, trong khi Baumbach được dẫn xuống một hành lang dài và hẹp, lên một cầu thang xoắn ốc và vào phòng làm việc của Himmler. Phía sau bàn làm việc, Himmler ngồi một mình. Ông ta mặc một bộ quân phục màu xám có phù hiệu SS, đầu lâu (Totenkopf). Tay áo trên quân phục của Himmler quá dài, và Baumbach nhận thấy một chiếc nhẫn rẻ tiền trên ngón út của bàn tay trái. Himmler đánh giá viên tướng đánh bom từ phía sau chiếc kính kẹp mũi đặc trưng của mình và đi thẳng vào vấn đề.
“Tôi đã cho mời anh để giải quyết một số vấn đề của Không quân Đức”, Himmler nói, như Baumbach nhớ lại sau chiến tranh. “Cuộc chiến đã bước vào giai đoạn cuối và có một số quyết định rất quan trọng mà tôi phải đưa ra”. Baumbach lắng nghe. “Trong tương lai rất gần, tôi mong đợi sẽ đàm phán với kẻ thù của chúng ta có thể thông qua một quốc gia trung lập nào đó”, Himmler nói. “Tôi nghe nói rằng tất cả các máy bay phù hợp cho mục đích này đều nằm dưới sự chỉ huy của anh”. Baumbach nhìn ra ngoài cửa sổ và qua những khu vườn được cắt tỉa cẩn thận bên ngoài, cân nhắc phản ứng của mình. Đúng vậy, Baumbach nói với Himmler, anh có máy bay theo ý mình, sẵn sàng bất cứ lúc nào. Himmler sử dụng giọng điệu thậm chí còn thân thiện hơn, Baumbach nhớ lại, và hỏi liệu ông ta có thể liên lạc với Baumbach ở đâu trong những ngày tới. Tại sân bay Travemünde, Baumbach nói. Một phụ tá ngắt lời để thông báo về sự xuất hiện của Thống chế Keitel. Baumbach bị mời ra
Baumbach quay trở lại phòng khách, nơi Knemeyer đang đợi. Lúc này Knemeyer đã biết Himmler đang sống trong dinh thự xa hoa của ai. Ngôi nhà này từng thuộc về Sir Henry Deterding, lãnh chúa người Anh được mệnh danh là Napoleon của dầu mỏ. Bên cạnh Knemeyer trên một chiếc bàn cạnh giường là hai bức chân dung trong khung bạc. Một bức cho thấy Göring mặc trang phục săn bắn thời trung cổ và cầm một con dao lớn. Bức ảnh có dòng chữ, “Gửi bạn Deterding thân mến của tôi để cảm ơn vì món quà cao quý Nhà Nghỉ Săn bắn Rominten Reichs,” một chi tiết mà Knemeyer đã chia sẻ với con trai mình nhiều thập kỷ sau chiến tranh. Bức ảnh thứ hai là chân dung Hitler. “Ngài Henry Deterding,” bức ảnh có dòng chữ, “cảm ơn nhân danh người dân Đức vì khoản quyên góp cao quý một triệu reichsmark. Adolf Hitler.”
Knemeyer và Baumbach đi ra ngoài. Sĩ quan SS được bố trí canh gác hành lang đã chào họ một cách nghiêm trang. Y nói với họ rằng Reichsführer-SS đã chuẩn bị một khay cà phê và bánh sandwich để họ thưởng thức trước khi quay trở lại Travemünde.
___
Lý do khiến kế hoạch trốn thoát đến Greenland vẫn bị trì hoãn là vì Speer quyết định đến thăm Hitler lần cuối tại Führerbunker, do “mong muốn mãnh liệt được gặp lại ông ta một lần nữa”. Một mình lái xe riêng từ Hamburg trở về Berlin, Speer đã đi được 55 dặm ra khỏi thành phố khi con đường trở nên không thể đi qua được, tắc nghẽn đến độ mà Speer sau này nhớ lại là “một vụ tắc đường hàng chục nghìn xe”. Không ai lái xe vào Berlin nữa; mọi người đều chạy ra ngoài. Tất cả các làn đường ở cả hai hướng đều được sử dụng để đi về phía tây. “Xe ô tô cũ nát và xe limousine sang trọng, xe tải và xe giao hàng, xe máy và thậm chí cả xe cứu hỏa Berlin” đã chặn nghẽn đường. Không thể tiến lên, Speer rẽ khỏi đường chính và lái xe đến sở chỉ huy tham mưu sư đoàn ở Kyritz, tại đó ông được cho biết lực lượng Liên Xô đã bao vây Berlin.
Ông cũng biết rằng chỉ có một đường băng duy nhất bên trong Berlin vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Đức, sân bay Gatow, trên bờ sông Havel. Speer quyết định bây giờ mình sẽ đánh liều bay vào Berlin. Nhưng những chiếc máy bay gần nhất có nhiên liệu đang đỗ trên đường băng tại bãi thử Rechlin của Luftwaffe, gần Mecklenburg. Nhiên liệu phản lực lúc này trở nên hiếm như răng gà, và máy bay chắc chắn cần thiết cho những mục đích khác. Speer khăng khăng yêu cầu chỉ huy tại Rechlin tìm một phi công có khả năng đưa ông vào Berlin. Chỉ huy tại Rechlin giải thích rằng từ Gatow, Speer sẽ không bao giờ có thể đến được Führerbunker nếu ông đi bằng ô tô hoặc đi bộ; người Nga đã kiểm soát đường đi đến đó. Để đến được Führerbunker dưới Phủ Thủ tướng Đế chế Mới, Speer sẽ cần một chiếc máy bay thứ hai nhỏ hơn để đưa ông từ Gatow đến Cổng Brandenburg. Ông sẽ cần một máy bay cất cánh nhanh và hạ cánh đường băng ngắn, như Fieseler Fi 156 Stork.
“Được hộ tống bởi một phi đội máy bay chiến đấu, chúng tôi bay về phía nam ở độ cao hơn 3.000 bộ, bay hơn một vài dặm qua vùng chiến sự”, Speer nhớ lại. “Tầm nhìn hoàn hảo…. Tất cả những gì có thể nhìn thấy chỉ là những tia chớp ngắn ngủi, không rõ ràng từ pháo binh hoặc đạn pháo nổ.” Sân bay tại Gatow vắng tanh khi họ hạ cánh, ngoại trừ một trong những vị tướng của Hitler đang chạy trốn khỏi Berlin. Speer và phi công của ông leo lên một chiếc Stork đang chờ và bay một đoạn ngắn qua Berlin, hạ cánh giữa những đống đổ nát ngay trước Cổng Brandenburg. Speer đã trưng dụng một chiếc quân xa và tự mình lái xe đến Phủ Thủ tướng, hay đúng ra là phần tàn tích của nó.
Máy bay ném bom của Mỹ đã biến tòa nhà thành đống đổ nát. Speer trèo qua đống đổ nát từng là trần nhà và bước vào nơi từng là phòng khách. Ở đó, phụ tá của Hitler, Julius Schaub, đang đứng uống rượu mạnh với bạn bè. Speer gọi. Schaub có vẻ sửng sốt khi nhìn thấy Speer. Nhóm bạn giải tán. Schaub vội vã đi báo cho Hitler rằng Speer đã đến gặp ông. Speer đợi bên cạnh một đống đổ nát. Cuối cùng, ông nghe thấy những lời mà ông đến để nghe: “Führer sẵn sàng gặp ông ngay bây giờ.”
Speer bước xuống boongke, tại đó ông gặp Martin Bormann, “Mephistopheles [Quỷ vương trong văn hoá dân gian Đức] của Hitler”, đang điều hành triều đình. Bormann muốn biết liệu Speer có đến để đưa Hitler bay cùng ông ta ra khỏi Berlin hay không. Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels và vợ, Magda, cũng ở trong boongke, đang lên kế hoạch giết sáu đứa con rồi tự sát. Nhân tình của Hitler, Eva Braun, đã mời Speer vào phòng của cô để ăn bánh và uống Moët & Chandon cho đến khi Hitler sẵn sàng gặp ông ta. Vào lúc 3:00 sáng, Speer được thông báo rằng ông ta có thể vào. “Tôi vừa xúc động vừa bối rối”, Speer sau này nhớ lại. “Về phần mình, ông ta [Hitler] không biểu lộ cảm xúc gì khi chúng tôi đối đầu với nhau. Lời nói của ông ta lạnh lùng như bàn tay của ông ta vậy”.
“Vậy là anh sẽ đi à?” Hitler hỏi Speer. Sau đó, ông ta nói, “Tốt. Auf Wiedersehen.” Tạm biệt.
Speer cảm thấy mình bị khinh thường. “Không biểu lộ sự quan tâm nào đến gia đình tôi, không có lời chúc, không có lời cảm ơn, không có lời tạm biệt.” Trong một khoảnh khắc, Speer mất bình tĩnh và lẩm bẩm điều gì đó về việc quay trở lại. Nhưng Hitler đã cho lui bộ trưởng chiến tranh và quán khí của mình, và Speer rời đi.
Sáu ngày sau cuộc gặp cuối cùng của Speer với Hitler, Quân đội Hoa Kỳ đã giải phóng Dachau, một trại tập trung nằm cách Munich mười hai dặm. Vào lúc 7:30 sáng ngày 29 tháng 4, năm mươi xe tăng từ Quân đoàn số 7, Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn Bộ binh 157, tiến đến nơi thoạt đầu có vẻ như là một đồn quân bình thường, nằm cạnh một trại huấn luyện SS. Thời tiết lạnh và có một lớp tuyết mỏng. Đồn được bao quanh bởi những bức tường gạch cao, hàng rào thép gai có điện và một con hào sâu. Bảy tháp canh kiên cố hiện ra phía trên. Những cánh cổng sắt lớn ở phía trước đã được đóng và khóa chặt. Một vài lính Mỹ trèo qua hàng rào, cắt khóa và mở cổng. Binh sĩ lao vào bên trong. Một cuộc đấu súng ngắn diễn ra sau đó. Phóng viên tờ báo Thổ Nhĩ Kỳ Nerin E. Gun, bị giam giữ tại Dachau vì các báo cáo của mình về Khu ổ chuột Warsaw, đã chứng kiến khi một số lính canh SS trong tháp canh bắt đầu bắn vào tù nhân. Nhưng binh lính Mỹ, Gun nói, đã nhanh chóng kết liễu chúng. “Binh lính SS nhanh chóng xuống thang, giơ cao tay đầu hàng.” Những lời kể khác mô tả những hành động trả thù tàn bạo mà tù nhân gây ra cho bọn lính SS trước đây của họ. Nhiều tiếng súng nổ ra khi một đơn vị thứ hai, Sư đoàn Thunderbird thứ 45, tiến đến Dachau từ phía tây nam. Họ phát hiện ra 50 toa tàu chở hàng không mui bị bỏ lại ngay bên ngoài trại. Mỗi toa tàu đều chất đầy những xác chết da bọc xương. Tổng cộng có tới hàng nghìn xác chết.
Dachau, trại tập trung đầu tiên của Đức Quốc xã, được Himmler thành lập vào ngày 20 tháng 3 năm 1933. Ban đầu, đây là nơi những đảng viên Cộng sản và kẻ thù chính trị khác của Chủ nghĩa Quốc xã, hệ tư tưởng của Đảng Quốc xã, bị đưa đến. Tên gọi này xuất phát từ thực tế là tù nhân có thể bị “tập trung” thành một nhóm và bị giam giữ dưới sự bảo vệ theo luật của Đức Quốc xã. Điều này nhanh chóng thay đổi. Himmler biến các trại tập trung thành “các đơn vị hành chính độc lập hợp pháp bên ngoài bộ luật hình sự và luật thông thường”. Dachau từng là trung tâm đào tạo cho lính canh trại tập trung SS và trở thành hình mẫu cho cách thành lập và điều hành hàng trăm trại tập trung khác. Đây cũng là hình mẫu cho các chương trình nghiên cứu y khoa của Đức Quốc xã liên quan đến các bác sĩ, những người sau này sẽ trở thành mục tiêu của Chiến dịch Kẹp giấy.
Một trung úy và bác sĩ trẻ của Quân đội Hoa Kỳ, Bác sĩ Marcus J. Smith, đã đến Dachau vào sáng sớm ngày 30 tháng 4 năm 1945, và trong nhật ký của mình, Smith đã ghi lại thành phố ngàn năm tuổi này lạnh lẽo và u ám như thế nào. Trước buổi trưa, trời bắt đầu mưa đá. Bác sĩ Smith là sĩ quan y tế duy nhất trong một đội mười người được gửi đến trại tập trung vào ngày hôm sau khi trại được giải phóng. Anh và những đồng đội được chỉ thị phải làm những gì có thể để giúp đỡ 32.000 người sống sót trong trại đang chết đói, mắc bệnh và hấp hối trong khi chờ đợi các nhân viên Chữ Thập Đỏ đến. Những tù nhân vừa mới được giải phóng đã mắc bệnh kiết lỵ, lao, sốt phát ban, viêm phổi, ghẻ lỡ và các bệnh truyền nhiễm khác ở giai đoạn đầu, giai đoạn nặng và giai đoạn cuối, Smith viết. “Ngay cả vẻ ngoài chai sạn, lạnh lùng trước cái chết của một bác sĩ thời chiến như tôi cũng bắt đầu nứt nẻ…. Một người lính của tôi đã khóc.”
Trong giờ nghỉ, Bác sĩ Smith đi quanh phòng hơi ngạt Dachau để cố gắng hiểu những gì đã xảy ra ở đó. “Tôi không thể tin rằng điều này có thể xảy ra trong thời đại khai sáng này”, anh viết. “Phía sau lò hỏa táng treo một biển báo, vẽ một người đang cưỡi một con lợn quái đản. ‘Rửa tay’, chú thích ghi. ‘Nhiệm vụ của bạn là phải ở lại lau dọn.”
Trong thời gian rảnh rỗi, Bác sĩ Smith đi lang thang khắp trại. “Trong một lần đi bộ này, tôi bước vào một tòa nhà một tầng chứa các quầy phòng thí nghiệm và kệ lưu trữ”, Smith viết, “hầu như mọi thứ trong đó đều bị đập vỡ: Tôi bước qua những chiếc ghế dài và ngăn kéo bị hỏng, các dụng cụ bị xoắn và đồ thủy tinh vỡ nát. Trong đống đổ nát, tôi ngạc nhiên khi tìm thấy một vài lọ và chai đựng mẫu vật còn nguyên vẹn, chứa đầy mô người và côn trùng được bảo quản”. Smith đặt câu hỏi khắp trại tập trung để cố gắng tìm hiểu thêm. Các tù nhân nói với anh rằng phòng thí nghiệm đã phục vụ các bác sĩ Đức Quốc xã như một khoa y tế thử nghiệm, và mọi người đều sợ nó vì đây là nơi “nơi các tù nhân bị chọn sử dụng làm đối tượng thử nghiệm mà không có sự đồng ý của họ”.
Mặc dù tình báo Mỹ và Anh lúc đó chưa biết, nhưng những gì Bác sĩ Marcus Smith đã phát hiện ra tại Dachau chính là một địa điểm mà nhóm bác sĩ Luftwaffe đã tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu y khoa trên con người. Công việc này diễn ra trong một doanh trại độc lập, tách biệt với những doanh trại khác và được gọi là Khu Tế bào Thử nghiệm 5. Nhiều bác sĩ y khoa ưu tú của Đế chế đã từng làm việc tại phòng thí nghiệm này. Công việc được thực hiện tại Khu Tế bào Thử nghiệm 5 là thứ nghiên cứu khoa học bất lương: thứ khoa học tồi tệ vì mục đích xấu ác. Việc ít nhất có sáu bác sĩ y khoa Đức Quốc xã tham gia vào nghiên cứu này tại Dachau sẽ trở thành những nhà khoa học đầu tiên được Quân đội Hoa Kỳ ký hợp đồng là một trong những bí mật đen tối nhất của Chiến dịch Kẹp giấy.

Heinrich Himmler, Reichs führer-SS, và đoàn tùy tùng của ông trong chuyến tham quan trại tập trung Mauthausen. SS của Himmler giám sát một mạng lưới nô lệ do nhà nước bảo trợ rộng lớn trên khắp châu Âu do Đức Quốc xã chiếm đóng thông qua một bộ phận nghe có vẻ vô hại có tên là Văn phòng chính Quản trị Kinh doanh SS. Nô lệ của Reich sản xuất vũ khí, bao gồm cả tên lửa V-2.
CHƯƠNG NĂM
Những người bị bắt và những người thẩm vấn họ
Việc bắt giữ các nhà khoa học Đức Quốc xã giờ đây sẽ trở thành một bước ngoặt. Từng người một, trên khắp Đế chế, các nhà khoa học của Hitler đã bị bắt giữ và thẩm vấn. Một ngày sau khi Dachau được giải phóng, cách đó 375 dặm về phía bắc, các chỉ huy Liên Xô đã lên kế hoạch cho cuộc tấn công cuối cùng vào tòa nhà Reichstag mang tính biểu tượng, ở Berlin. Vào khoảng 3:30 chiều, bên trong boongke Führerbunker, Hitler đã bắn một viên đạn vào đầu mình. Quân Nga chỉ cách cửa thoát hiểm khẩn cấp của boongke Führerbunker 500m. Quanh góc, bên dưới Phủ Thủ tướng Đế chế, những binh lính Hồng quân đã chiếm giữ các đường hầm tàu điện ngầm, bao gồm cả đường hầm mà Thiếu tướng Bác sĩ Walter Schreiber đã sử dụng làm bệnh viện. Các cảnh quay phim của Liên Xô – được Schreiber cáo buộc là đã được quay vài ngày sau đó như một cảnh tái hiện – cho thấy Schreiber bước ra khỏi tầng hầm với hai tay đưa lên đầu.
Ở phía bắc, Siegfried Knemeyer bị quân Anh bắt giữ. Baumbach, Knemeyer và Speer cuối cùng không hề trốn thoát được đến Greenland. Ngay sau khi Hitler tự sát, Baumbach được Đô đốc Dönitz ra lệnh đến thị trấn nhỏ Eutin, cách thành phố Hamburg 40 dặm về phía bắc. Hitler đã chỉ định Dönitz làm người kế nhiệm, Dönitz thành lập chính phủ mới của mình tại doanh trại hải quân ở Eutin vì đây là một trong số ít nơi chưa bị lực lượng Đồng minh kiểm soát.
Siegfried Knemeyer không được mời tham gia vòng tròn tinh hoa mới. Baumbach để ông ta giữ chiếc BMW và Knemeyer lái xe chạy trốn về phía tây. Trên một con đường nông thôn bên ngoài Hamburg, Knemeyer phát hiện ra một chiếc xe chở đầy lính Anh đang tiến đến. Ông ta biết rằng chiếc BMW mình đang lái sẽ được nhận dạng là của một sĩ quan quân đội cấp cao, vì vậy ông ta tấp vào đường cao tốc, bỏ xe và chạy bộ trốn thoát. Nhưng lính Anh phát hiện ra ông đang trốn dưới một cây cầu và bắt giữ ông. Knemeyer bị đưa đến một trại tập trung mới được giải phóng bên ngoài Hamburg, nơi giam giữ hàng trăm sĩ quan Đức và quan chức Đảng Quốc xã khác. Là một tù nhân ông do đó bị tước hết đồ đạc có giá trị và phù hiệu quân đội.
Knemeyer chia sẻ với con trai rằng mình đã giấu được vật sở hữu có ý nghĩa duy nhất còn lại trong giày: tờ 1.000 franc Thụy Sĩ mà Albert Speer tặng ông.
Von Braun và Dornberger không bị bắt. Họ quá tự tin vào việc Quân đội Hoa Kỳ sẽ sử dụng họ trong tương lai đến mức họ đã tự nộp mình. Kể từ khi rời khỏi Nordhausen vài tuần trước, von Braun, Dornberger và hàng trăm thành viên khác từ chương trình tên lửa đã ẩn náu tại một ngôi làng trượt tuyết xa xôi ở dãy núi Bavarian Alps. Khu nghỉ dưỡng của họ, Haus Ingeburg, nằm ở độ cao 3.850 bộ dọc theo một con đường núi quanh co khi đó được gọi là Đèo Adolf Hitler (trước và sau chiến tranh được gọi là Đèo Oberjoch). Nhờ nguồn lực của SS, các nhà khoa học có rất nhiều đồ ăn và thức uống ngon. Có cả một sân hiên tắm nắng và, như von Braun đã phản ảnh sau chiến tranh, không ai trong số họ làm gì ngoài việc ăn, uống, tắm nắng và chiêm ngưỡng dãy núi Allgäu Alps phủ đầy tuyết. “Tôi đã sống như một ông hoàng trong một khách sạn trượt tuyết trên một cao nguyên”, von Braun sau này nhớ lại, “người Pháp ở phía dưới chúng tôi về phía tây và người Mỹ ở phía nam. Nhưng tất nhiên, không ai nghi ngờ chúng tôi ở đó”.
Đêm ngày 1 tháng 5 năm 1945, các nhà khoa học đang nghe đài phát thanh quốc gia phát Bản giao hưởng số 7 của Bruckner thì vào lúc 10:26, một hồi trống trận vang lên cắt ngang dòng nhạc. “Führer của chúng ta, Adolf Hitler, đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng chống lại chủ nghĩa Bolshevik, đã ngã xuống vì nước Đức vào chiều nay tại trụ sở chỉ huy của Người ở Phủ Thủ tướng Đế chế”, phát thanh viên tuyên bố. Cuộc chiến đấu là bịa đặt. Nhưng cái chết của Hitler đã thúc đẩy Wernher von Braun hành động. Von Braun tiếp cận Tướng Dornberger, đề nghị họ hành động nhanh chóng để đạt được một thỏa thuận với người Mỹ. “Tôi đồng ý với anh, Wernher”, Dornberger nói vào đêm hôm đó. “Chúng ta có nghĩa vụ phải đưa đứa con tinh thần của mình vào đúng tay người”.
Tại Haus Ingeburg, các nhà khoa học tên lửa đã sử dụng mạng lưới nguồn tin tình báo Đức và Áo để theo dõi diễn biến của Quân đội Hoa Kỳ trong khu vực. Von Braun và Dornberger biết rằng một đơn vị lính Mỹ đã lập một căn cứ ở chân núi bên phía Áo. Hai người đồng ý rằng tốt nhất là nên cử em trai của von Braun, Magnus, xuống núi để cố gắng liên lạc và thỏa thuận với người Mỹ. Magnus rất đáng tin cậy. Anh ấy hiểu những gì có thể nói về V-2 và những gì không bao giờ nên nói. Magnus von Braun đã phụ trách giám sát việc sản xuất lao động kiểu nô dịch đối với con quay hồi chuyển, một bộ phận mà mỗi tên lửa đều cần đến, và anh ấy hiểu tại sao chủ đề lao động nô dịch phải được tránh né bằng mọi giá. Anh ấy cũng là người nói tiếng Anh giỏi nhất trong nhóm.
Sáng ngày 2 tháng 5, Magnus von Braun trèo lên xe đạp và bắt đầu đạp xuống con đèo dốc giữa ánh nắng rực rỡ của dãy núi cao. Ngay trước giờ ăn trưa, anh gặp một người lính Mỹ đang canh gác một đồn dọc đường. Đó là Binh nhất Fred Schneikert, con trai của một nông dân bang Wisconsin, lúc đó là chiến sĩ của Sư đoàn Bộ binh số 44 của Quân đội Hoa Kỳ. Khi Binh nhất Schneikert phát hiện ra một người Đức đi xe đạp một mình, anh ra lệnh cho y thả xe đạp xuống và giơ cả hai tay lên. Magnus von Braun tuân thủ. Bằng vốn tiếng Anh bồi, anh cố gắng giải thích với người lính Mỹ rằng anh trai mình muốn thỏa thuận về tên lửa V-2. “Nghe có vẻ như anh ta muốn ‘bán’ anh trai mình cho người Mỹ”, Binh nhất Schneikert nhớ lại.
Binh nhất Schneikert đã hộ tống Magnus von Braun xuống xa hơn dưới chân núi để anh ta có thể nói chuyện với cấp trên tại trụ sở Quân đoàn phản gián Hoa Kỳ (CIC) của Sư đoàn 44, đặt tại Reutte, ngay bên kia biên giới Áo. Tại đó, CIC đã liên lạc với trụ sở SHAEF tại Versailles, và SHAEF liền liên lạc với một nhóm CIOS. Danh sách đen của CIOS về nghiên cứu tên lửa bao gồm 1.000 tên các nhà khoa học và kỹ sư được lên lịch thẩm vấn. Wernher von Braun đứng đầu danh sách đó.
Lúc đó là ngày 2 tháng 5 năm 1945, và mặc dù Hitler đã chết, Đế chế Đức vẫn chưa đầu hàng. Đồng minh lo sợ các thành viên của một nhóm kháng chiến cuồng tín, Người sói, đang ẩn núp ở Bavaria, lên kế hoạch cho một cuộc tấn công cuối cùng. Nghĩ rằng anh em nhà von Braun có thể giăng bẫy, Quân đoàn phản gián đã bảo Magnus đi gọi anh trai mình là Wernher xuống trình diện và tự đầu hàng. Magnus mang tin tức trở lại núi.
Tại khu nghỉ dưỡng trượt tuyết Haus Ingeburg, Wernher von Braun và Tướng Dornberger đã lập một nhóm nhỏ để tham gia vào nhóm đàm phán của mình. Họ là Magnus von Braun; tham mưu trưởng của Tướng Dornberger, Herbert Axster; chuyên gia động cơ Hans Lindenberg và hai kỹ sư đã giấu tài liệu V-2 bên trong mỏ Dörnten, Dieter Huzel và Bernhard Tessmann. Họ nhét đồ đạc cá nhân của mình vào ba chiếc xe chở hàng màu xám và đi xuống đèo Adolf Hitler. Tuyết rơi dày nhường chỗ cho cơn mưa như trút nước.
Khi nhóm bảy người đến Reutte vào đêm hôm đó, họ thấy Trung úy Charles Stewart đang làm thủ tục giấy tờ dưới ánh nến. Theo nhiều lời kể, họ được chào đón nồng nhiệt. “Tôi không nghĩ mình có thể bị đối xử tàn tệ”, von Braun nói với một phóng viên người Mỹ nhiều năm sau. “V-2 là thứ chúng tôi có còn bạn thì không. Tất nhiên, bạn muốn biết tất cả về nó.” Các nhà khoa học tên lửa được phục vụ trứng tươi, cà phê và bánh mì với bơ thật. Sang trọng, nhưng không ngon bằng những gì được cung cấp tại Haus Ingeburg. Các nhà khoa học được cấp phòng riêng để ngủ, có gối và khăn trải giường sạch. Vào buổi sáng, báo chí đã đến. Việc “bắt giữ” các nhà khoa học và kỹ sư chế tạo vũ khí V-2 chết chóc là một câu chuyện giật gân đối với làng báo quốc tế. Nhóm đã tạo dáng chụp ảnh, và trong ảnh, tất cả họ đều tươi cười. Von Braun khoe khoang về việc mình đã phát minh ra V-2. Ông là “người sáng lập và chỉ đạo”, von Braun khẳng định. Mọi người khác đều là thứ yếu so với ông.
Một số thành viên của Quân đoàn phản gián Sư đoàn 44 thấy sự ngạo mạn của von Braun thật kinh khủng. “Ông ta tạo dáng chụp ảnh vô tận với từng người lính Mỹ, trong đó ông ta tươi cười rạng rỡ, bắt tay, chỉ tay vào các huy chương của họ và hỏi gặn và cư xử như một người nổi tiếng chứ không phải một tù nhân”, một thành viên lưu ý, “đối xử với những người lính của chúng tôi bằng thái độ hạ mình nhã nhặn của một nghị sĩ đến thăm”. Thiếu úy Walter Jessel là sĩ quan tình báo Hoa Kỳ đầu tiên phụ trách thẩm vấn von Braun. Ấn tượng đầu tiên và lâu dài nhất mà anh có là thái độ thiếu hối tiếc của ông ta. “Có sự thừa nhận về thất bại của Đức, nhưng không hề có tội lỗi và trách nhiệm nào của Đức”. Von Braun và Dornberger quá tự tin về giá trị của họ đối với Quân đội Hoa Kỳ, họ yêu cầu được gặp Tướng Eisenhower, người mà họ đường đột gọi là “Ike”.
Một quan sát viên khác lưu ý, “Nếu chúng ta không bắt được nhà khoa học lớn nhất của Đệ tam Đế chế, thì chắc chắn chúng ta đã bắt được kẻ dối trá lớn nhất.”
___
Các nhà hóa học của Hitler được săn đón vì đến giờ chưa tìm thấy họ ở đâu cả. Vào đầu tháng 5, Quân đoàn số 7 đã kiểm soát thành phố cổ xinh đẹp Heidelberg, nằm trên Sông Neckar. 25 điệp viên được điều động đến Phân ban các Các-ten của chính quyền quân sự Hoa Kỳ, bao gồm các nhân viên của OSS và Phân ban Kinh tế Đối ngoại, đã đổ bộ vào thị trấn để tìm kiếm các thành viên hội đồng quản trị của IG Farben. Ngoài việc bị truy nã vì tội ác chiến tranh, hội đồng quản trị của IG Farben còn bị điều tra vì các âm mưu rửa tiền quốc tế. Một số giám đốc điều hành cấp cao của Farben được biết là có nhà ở Heidelberg, nhưng cho đến nay vẫn chưa ai có thể tìm thấy Hermann Schmitz, giám đốc điều hành đầy quyền lực và bí ẩn của công ty. Schmitz cũng là giám đốc của Deutsche Reichsbank, ngân hàng trung ương Đức và giám đốc Ngân hàng Thanh toán Quốc tế tại Geneva. Ông được cho là chủ ngân hàng giàu nhất nước Đức. Lý do không ai có thể xác định được vị trí của Hermann Schmitz không phải vì ông ta đang ẩn náu hay đã chạy trốn mà vì các sĩ quan đang đi khắp Heidelberg để tìm “Lâu đài Schmitz”. Mặc dù tích lũy được khối tài sản khổng lồ trong chiến tranh, Hermann Schmitz thực chất là một kẻ keo kiệt. Ông sống trong một ngôi nhà nhỏ khiêm tốn, nếu không muốn nói là xấu xí. “Không ai có thể liên kết truyền thuyết về Schmitz với ngôi nhà mà ông ta sống”, công tố viên Nuremberg Josiah DuBois nhớ lại sau chiến tranh.
Làm việc theo tin báo và kết hợp với cuộc rà soát từng nhà để tìm tội phạm chiến tranh bị tình nghi, một nhóm lính nhập ngũ đã gõ cửa một “ngôi nhà trát vữa” nhìn ra thành phố, và một người đàn ông thấp bé với khuôn mặt đỏ và cổ dày mở cửa. Phía sau ông ta, trên một tấm biển đóng đinh trên tường, có ghi dòng chử “Chúa là người đứng đầu ngôi nhà này”. Schmitz có đôi mắt đen và một bộ râu dê và bước ra cùng vợ, được những người lính mô tả là “một phụ nữ béo lùn trong chiếc váy kẻ sọc gọn gàng”. Bà Schmitz mời những người lính uống cà phê, nhưng Schmitz đã xen vào và nói không. Schmitz nói rằng mình không quan tâm đến việc trả lời các câu hỏi của những người lính nhập ngũ mà ông ta coi là thấp kém hơn mình. Nếu một sĩ quan đến nói chuyện với ông ta, Schmitz nói rằng mình có thể có điều gì đó để nói.
Những người lính đã tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ ngôi nhà. Văn phòng của Schmitz được trang trí đơn giản và không có gì đắt tiền hoặc có giá trị rõ ràng. Tuy nhiên, khi lục soát bàn làm việc của ông, những người lính biết được rằng Schmitz có bạn bè ở những cấp cao nhất. Họ tìm thấy một bộ sưu tập điện tín mừng sinh nhật được gửi từ Hitler và Göring, cả hai đều gọi Schmitz là “Justizrat”, Tiến sĩ Luật.
“Tiến sĩ Luật Schmitz,” những người lính hỏi, chế giễu ông. “Ông có bao nhiêu tiền trong ngôi nhà này, và tiền đâu rồi?”
Schmitz từ chối nói, và những người lính chỉ có thể tìm thấy một kho tiền nhỏ khoảng 15.000 reichsmark, tức khoảng một nửa mức lương hàng năm của một thống chế. Vì vậy, họ rời đi, báo cho Schmitz biết rằng họ sẽ quay lại vào ngày hôm sau. Vào ngày thứ hai, Schmitz mời họ vào nhà. Lần này, những người lính tìm thấy một hầm trú ẩn tránh không kích phía sau ngôi nhà, nơi Schmitz đã giấu một chiếc rương chứa đầy các tài liệu của IG Farben. Vẫn chưa có đủ bằng chứng để biện minh cho việc bắt giữ Schmitz. Phải mất thêm vài ngày nữa thì một khám phá đáng kinh ngạc mới được thực hiện.
Khi trưởng nhóm CIOS là Thiếu tá Tilley hay tin đã
xác định được vị trí của Hermann Schmitz, ông ta vội vã đến Heidelberg. Tilley và Tarr chỉ huy nhiệm vụ vũ khí hóa học của CIOS trên khắp nước Đức. Kể từ khi họ phát hiện ra kho chất độc thần kinh Tabun được giấu trong khu rừng bên ngoài Hang ổ Bọn Trộm, họ đã tìm kiếm các giám đốc điều hành của Farben. Bây giờ họ đã tóm được tên đứng đầu.
Nếu có ai biết cách thẩm vấn Hermann Schmitz một cách khéo léo thì đó chính là Thiếu tá Tilley. Ông ta không chỉ nói tiếng Đức lưu loát mà còn rất am hiểu về chủ đề chiến tranh hóa học. Ở Heidelberg, Tilley đã trực tiếp đến nhà Schmitz. Ông đề nghị hai người thảo luận một vài điều trong phòng làm việc riêng của Herr Schmitz. Schmitz đáp rằng điều đó ổn.
Tilley hỏi CEO của Farben một loạt câu hỏi tầm thường, trong khi vẫn gõ vào tường phòng làm việc của Schmitz. Tilley từ từ đi quanh phòng theo cách này, lắng nghe bất kỳ sự bất nhất nào trong cách xây dựng các bức tường. Schmitz ngày càng cảm thấy không thoải mái. Cuối cùng, ông ta bắt đầu khóc. Tilley đã tìm thấy thứ mình đang tìm kiếm: một két sắt bí mật được chôn trong tường phòng làm việc của Schmitz.
Hermann Schmitz là một trong những chủ ngân hàng giàu có nhất nước Đức và là một trong những nhân vật quan trọng nhất trong nền kinh tế của Đệ tam Đế chế. Bí mật nào được cất giữ trong két sắt của ông? Thiếu tá Tilley hướng dẫn Schmitz mở két. Bên trong, nằm ngang, là một album ảnh. “Những bức ảnh được đựng trong một bìa gỗ khảm dành tặng Hermann Schmitz vào lễ kỷ niệm 25 năm của ông, có thể với tư cách là giám đốc Farben”, Tilley giải thích trong một báo cáo tình báo của CIOS. Tilley nhấc album ảnh ra khỏi nơi cất giấu, lật mở bìa và bắt đầu xem lại các bức ảnh. Trên trang này của cuốn sổ lưu niệm, chữ “Auschwitz” được viết. Đôi mắt của Tilley lướt qua một bức ảnh chụp một con phố ở một ngôi làng Ba Lan. Bên cạnh bức ảnh là một bức vẽ biếm họa “mô tả những cá nhân từng là một phần của cộng đồng người Do Thái sống ở đó, được miêu tả theo cách không mấy dễ chịu đối với họ”, Tilley giải thích. Chú thích bên dưới bức tranh biếm họa có nội dung: “Auschwitz cũ. Như nó đã từng. Auschwitz năm 1940”.
Vào thời điểm này, Tilley đã viết trong báo cáo CIOS của mình rằng ông đã rất ngạc nhiên khi thấy “Schmitz trở nên vô cùng xúc động”. Điều mà Tilley vẫn chưa biết là mình đang xem album ảnh bí mật của Schmitz, ghi chép lại lịch sử xây dựng trại tập trung lao động của Farben, IG Auschwitz, ngay từ buổi đầu. Vào tháng 5 năm 1945, hầu như không ai, kể cả Thiếu tá Tilley, biết được điều gì thực sự đã xảy ra tại Auschwitz – rằng ít nhất 1,1 triệu người đã bị tiêu diệt ở đó. Sự thật về trại tập trung vẫn chưa được đưa ra ánh sáng. Vào ngày 27 tháng 1 năm 1945, quân đội Liên Xô đã giải phóng trại Auschwitz, và các nhiếp ảnh gia Hồng quân đã quay phim và chụp ảnh về những hành động tàn bạo mà họ phát hiện ra ở đó. Nhưng thông tin đó vẫn chưa được chia sẻ công khai với phần còn lại của thế giới. Một báo cáo ngắn về trại hủy diệt đã xuất hiện trên Stalinskoe Znamya, tờ báo của Hồng quân, vào ngày 28 tháng 1 năm 1945. Stalin đang chờ cho đến khi Đức đầu hàng mới công bố phần lớn thông tin. Điều rõ ràng với Thiếu tá Tilley là album ảnh này rất quan trọng đối với Schmitz, và ông muốn nó được giữ kín. Tại sao, chính xác Thiếu tá Tilley không biết.
Với tư cách là trưởng nhóm CIOS, Thiếu tá Tilley đang truy tìm các nhà hóa học Farben đã phát triển khí độc thần kinh. Hermann Schmitz, mặc dù quan trọng đối với Farben trong bức tranh lớn hơn, không phải là một nhà hóa học. Ông ta tuyên bố không biết các nhà hóa học Farben đã đi đâu. Cuốn sổ lưu niệm bị tịch thu để làm bằng chứng, và Tilley tiếp tục cuộc tìm kiếm của mình. Trong khi đó, ở miền nam nước Đức, tại một thị trấn biên giới của Áo tên là Gendorf, người mà Thiếu tá Tilley thực sự đang tìm kiếm, Tiến sĩ Otto Ambros, vừa được Quân đội Hoa Kỳ xác định vị trí. Những binh lính không biết Ambros thực sự là ai.
Khi họ tiến vào thị trấn Gendorf, cách Munich khoảng 60 dặm về phía đông nam, họ chú ý đến một người đàn ông đặc biệt vì ông ta nổi bật một cách hết sức lộ liễu. Cuộc chạm trán đầu tiên với Ambros, sau này được kể lại tại phiên tòa Nuremberg, đã in sâu vào tâm trí những người lính vì Ambros đã mặc một bộ đồ sang trọng để chào đón những người chiến thắng. Người đàn ông này trông không giống người vừa trải qua chiến tranh. Các người lính hỏi ông ta về cấp bậc và số quân.
“Tên tôi là Otto Ambros”, ông nói, mỉm cười. Ông nói thêm rằng ông không phải là một quân nhân mà là “một nhà hóa học bình thường”.
Binh lính hỏi ông ta có phải là người Đức không?
“Vâng, tôi là người Đức”, Ambros trả lời, và nói đùa. Ông nói rằng ông có rất nhiều bạn người Pháp đến nỗi ông gần như có thể được coi là một người Pháp. Trên thực tế, quê hương thực sự của ông là ở Ludwigshafen, trên biên giới với Pháp. Ông nói với những người lính rằng lý do ông ở đây, miền nam Bavaria là vì ông là giám đốc của một công ty kinh doanh lớn có tên là IG Farben. Công ty có một nhà máy sản xuất chất tẩy rửa ở đây tại Gendorf, Ambros giải thích. Với tư cách là thành viên hội đồng quản trị của Farben, ông đã được yêu cầu cho giám sát việc sản xuất. Xã hội Đức có thể đang trải qua một sự sụp đổ, ông nói với binh lính, nhưng mọi người đều phải giữ vệ sinh.
Những người lính yêu cầu được đưa đến nhà máy sản xuất chất tẩy rửa. Bên trong, họ kiểm tra những thùng xà phòng và các sản phẩm tẩy rửa khác. Công việc tại nhà máy dường như không bị gián đoạn bởi chiến tranh. Ambros đưa binh lính đến văn phòng của mình, nơi một dải cầu vồng gồm các thẻ quang phổ màu được dán lên tường. Ambros giải thích rằng ngoài các sản phẩm tẩy rửa, cơ sở này còn sản xuất sơn mài. Những người lính nhìn xung quanh, cảm ơn Ambros vì đã cho họ tham quan và yêu cầu ông không được rời khỏi thị trấn.
Tôi “không có lý do gì để chạy trốn”, Ambros nói. Binh lính nhận thấy ông ấy đã cười nhiều như thế nào.
Trong vài ngày tiếp theo, nhiều binh lính hơn đã đến Gendorf. Những người lính Mỹ bẩn thỉu, đầy bụi bẩn này đã rất vui mừng khi được nhà hóa học tự nhận là bình thường tặng họ những cục xà phòng miễn phí. Một số binh sĩ đã không tắm rửa trong hơn một tháng. Sự hào phóng của nhà hóa học không dừng lại ở đó. Otto Ambros đã cung cấp cho những người lính dung môi tẩy rửa mạnh để họ có thể rửa những chiếc xe tăng bọc thép phủ đầy bùn của mình.
Binh lính phỏng vấn Otto Ambros lần thứ hai. Lần này, Ambros tự nguyện đưa ra các nhân chứng. Làm việc tại nhà máy Farben ở Gendorf là những người đàn ông gầy gò với đầu cạo trọc. Ambros nói rằng họ là những người tị nạn chiến tranh và họ có thể bảo lãnh cho lòng tốt của ông với tư cách là một ông chủ. Họ đến từ Ba Lan, ngay bên kia biên giới về phía đông. Ambros nói với những người lính rằng ông đã đích thân đưa những công nhân khốn khó này đến Gendorf. Ông đã đích thân tuyển chọn và đào tạo họ cách làm việc chăm chỉ. Theo cách này, khi những người tị nạn trở về nhà, họ sẽ có những kỹ năng có thể giúp mình kiếm sống, Ambros giải thích. Những người tị nạn gầy gò im lặng và không nói gì để phản đối những tuyên bố của người bào chế thuốc bình thường. Một số thậm chí còn giúp binh lính Mỹ rửa xe tăng.
Otto Ambros là một người đàn ông hay nói. Ông đã chiêu đãi người Mỹ bằng những câu chuyện về niềm vui của hóa học. Ví dụ, binh lính có nhận ra rằng thật thần kỳ khi con người có thể tạo ra một trăm điều kỳ diệu từ một hợp chất hóa học duy nhất như ethylene oxide không? Hay cao su tuyệt vời như thế nào? Ambros nói với binh lính rằng ông đã đến Ceylon, nơi có trồng nhiều cây cao su. Ambros nói rằng cao su có rất nhiều điểm chung với con người. Ông là một chuyên gia về cao su, vì vậy ông biết điều này là sự thật. Cao su là văn minh. Gọn gàng và hoàn hảo nếu được giữ sạch sẽ. Ambros nói với những người lính rằng một nhà máy cao su và một quý ông phải luôn rất sạch sẽ. Một mảnh bụi hoặc đất trong một thùng cao su lỏng có thể có nghĩa là một vụ nổ trên đường cao tốc một ngày nào đó. IG Farben có nhà máy cao su tổng hợp và, giống như cao su tự nhiên, các phòng thí nghiệm và nhà máy phải luôn được giữ sạch sẽ hoàn hảo. Ambros nói rất nhiều, nhưng ông không đề cập gì đến nhà máy cao su mà ông đã xây dựng và quản lý tại Auschwitz. Binh sĩ cảm ơn ông vì sự hào phóng của ông với xà phòng và chất tẩy rửa. Trước khi họ rời đi, họ nhắc lại Ambros rằng điều quan trọng là ông không được rời khỏi thị trấn. Về mặt kỹ thuật, ông đang bị quản thúc tại gia.
Khi các viên chức cấp cao của Mỹ cuối cùng cũng đến Gendorf vài ngày sau đó, họ đã có những câu hỏi cụ thể hơn cho Ambros. Tại sao một phần của nhà máy bột giặt Farben lại được xây dựng dưới lòng đất? Phải mất nhiều tháng để các điều tra viên của CIOS biết được rằng nhà máy ở Gendorf này đã sản xuất vũ khí hóa học trong chiến tranh – và rằng, sau khi Ambros trốn khỏi Auschwitz vào cuối tháng 1 năm 1945, ông ta và phó của mình, Jürgen von Klenck, đã đến Gendorf để tiêu hủy bằng chứng, giấu tài liệu và ngụy trang nhà máy để nó có vẻ như chỉ sản xuất bột giặt và xà phòng.
Tại Munich, vào ngày 17 tháng 5 năm 1945, binh lính Hoa Kỳ tại một trạm kiểm soát đang tiến hành yêu cầu nhận dạng theo thông lệ thì một người đàn ông ăn mặc bảnh bao – nặng 134 cân, cao năm bộ chín inxơ, tóc đen sẫm, mắt nâu hạt dẻ và một vết sẹo rõ rệt ở bên trái khuôn mặt giữa mũi và môi trên – xuất trình hộ chiếu Đức mang tên Giáo sư Tiến sĩ Friedrich Ludwig Kurt Blome.
Tên của Tiến sĩ Blome đã kích hoạt một cảnh báo: “Bắt giữ ngay lập tức. Ưu tiên hàng đầu.” Samuel Goudsmit và toàn bộ nhóm chuyên gia chiến tranh sinh học với Chiến dịch Alsos đã truy lùng Tiến sĩ Blome. Đặc vụ Arnold Vyth, thuộc Quân đoàn Phản gián của quân đội, đã thực hiện vụ bắt giữ. Đặc vụ Vyth đã hoàn thành các thủ tục giấy tờ cần thiết trong khi tù nhân được xử lý. Tiến sĩ Blome được đưa đến Trung tâm thẩm vấn của Quân đoàn số 12. Vài ngày sau, một tài liệu được gửi đến qua máy điện báo từ Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (OSS), cơ quan gián điệp thời chiến của Hoa Kỳ và là tiền thân của CIA. Họ cũng đang tìm kiếm Tiến sĩ Blome.
Văn phòng Tội phạm Chiến tranh có nhiều thông tin đáng kể về Tiến sĩ Kurt Blome. Ông là Phó Tổng Y sĩ của Đệ tam Đế chế và là phó chủ tịch của Liên đoàn Bác sĩ của Đế chế, Reichsärztekammer. Người ta tin rằng ông là người báo cáo trực tiếp với Göring và thậm chí có thể là với Himmler, hoặc cả hai. Blome đã được bổ nhiệm làm người đứng đầu ngành nghiên cứu ung thư của Đế chế vào năm 1942. Alsos và OSS cho rằng đây là một vỏ bọc cho công trình vũ khí sinh học. Blome là một người Đức Quốc xã tận tụy và tự hào. Cuốn sách Arzt im Kampf (Bác sĩ trong Trận chiến) của ông đã so sánh cuộc đấu tranh của một bác sĩ với cuộc đấu tranh của Đệ tam Đế chế. Binh lính, sĩ quan và bác sĩ không khác nhau là mấy, mỗi người đều liên tục chiến đấu chống lại các lực lượng xâm lược và bệnh tật.
Các nhà điều tra đang cố gắng ghép lại hệ thống phân cấp y tế phức tạp của Đệ tam Đế chế để hiểu ai là người phụ trách tổ chức nào. Điều đặc biệt thú vị đối với những người thẩm vấn là sự thật rằng Tiến sĩ Kurt Blome từng là một thành viên của nhóm bác sĩ Đức Quốc xã hàng đầu tập trung vào “vệ sinh”. Từ này ám chỉ việc kiểm soát bệnh tật nhưng cũng được cho là đã được Đế chế sử dụng như một mỹ từ dành cho việc thanh trừng sắc tộc và diệt chủng người Do Thái. Alsos đã tịch thu được những thư từ giữa Blome và Himmler thảo luận về việc “điều trị đặc biệt” (Sonderbehandlung) dành cho một số nhóm cá nhân bị bệnh, trong trường hợp này là người Ba Lan mắc bệnh lao. Điều trị đặc biệt thực sự có nghĩa là gì? Vào thời điểm Blome bị bắt và thẩm vấn, các cơ quan tình báo Đồng minh tin rằng chỉ có một bác sĩ cao hơn Blome trong hệ thống phân cấp của Ủy ban Vệ sinh Đế chế, và đó là Lãnh đạo Y tế Đế chế khét tiếng (Reichsgesundheitsführer), Leonardo Conti.
Tiến sĩ Blome nói tiếng Anh lưu loát với sĩ quan thẩm vấn đầu tiên của mình. Ông tự mô tả mình là một “người Đức Quốc xã tốt”, ngoan ngoãn và hứa sẵn sàng hợp tác với quân Đồng minh. Lúc đầu, những người thẩm vấn ông rất vui mừng trước viễn cảnh được học thêm về y học Đế chế từ một ông lớn như Tiến sĩ Blome.
Blome được hỏi tại sao ông ta lại hợp tác.
“Tôi không thể chấp nhận cách những tiến bộ mới trong y học được sử dụng cho những hành động tàn bạo”, Tiến sĩ Blome tuyên bố.
Những hành động tàn bạo nào? Điều tra viên của Blome muốn biết.
Blome tuyên bố rằng với tư cách là Phó Tổng Y sĩ của Đế chế, ông đã “quan sát các nghiên cứu và thí nghiệm khoa học mới dẫn đến những hành động tàn bạo sau này, ví dụ như triệt sản hàng loạt, đầu độc người Do Thái bằng khí độc”. Đó là một lời thú nhận đáng kinh ngạc. Cho đến khi Tiến sĩ Blome tiết lộ thông tin này một cách thoải mái như vậy, không có bác sĩ nào trong vòng tròn thân cận thừa nhận rằng mình đã biết về những hành động tàn bạo trên diện rộng như giết người hàng loạt và các chương trình triệt sản. Việc Blome sẵn sàng nói là một tin cực kỳ hứa hẹn. Blome “hợp tác và thông minh”, người thẩm vấn ông lưu ý. Quan trọng nhất, ông “sẵn sàng cung cấp thông tin”.
Nhưng sự phấn khích của các điều tra viên Hoa Kỳ không kéo dài lâu. Đến lần thẩm vấn tiếp theo, Tiến sĩ Kurt Blome đã hoàn toàn im lặng. Ông nói với sĩ quan thẩm vấn của mình, Thiếu tá E. W. B. Gill, rằng ông chỉ là một quản trị viên của Reich; rằng ông không làm gì “trực tiếp”. Thiếu tá Gill thúc ép Blome cung cấp thông tin về cấp trên trực tiếp của mình, Tiến sĩ Leonardo Conti. Blome nói rằng ông không biết gì về công việc của Conti.
“Khi tôi nhấn mạnh rằng người phó hẳn phải biết đôi chút về công việc của cấp trên của mình,” Thiếu tá Gill viết trong báo cáo, ‘ông ta nói rằng tổ chức này cực kỳ phức tạp và ông ta bày tỏ mong muốn vẽ cho tôi một sơ đồ về nó.” Gill mất bình tĩnh. “Tôi nói với Blome rằng tôi không muốn những sơ đồ chết tiệt của ông ta, mà muốn câu trả lời cho một câu hỏi đơn giản. Nếu ông ta không biết gì về công việc thì làm sao ông ta có thể thay thế Conti nếu Conti vắng mặt hoặc bị ốm?”
Blome lặp lại lập trường của mình. Rằng mọi chuyện quá phức tạp để giải thích cho một người như Thiếu tá Gill. Giận dữ vì hành động né tránh, Gill vẫn tiếp tục tra vấn. Nhưng đến cuối cuộc thẩm vấn của Alsos, Thiếu tá Gill không thể moi được một mẩu thông tin mới nào từ Blome. Ông ta khẳng định mình chưa bao giờ nghe nói đến phần lớn tên của các bác sĩ đồng nghiệp mà Thiếu tá Gill hỏi ông ta. Thay vào đó, Blome khăng khăng rằng mình không biết gì về chuỗi chỉ huy y tế bên trong Đệ tam Đế chế hay SS, mặc dù thực tế là ông ta đã đích thân gặp Himmler năm lần kể từ năm 1943. Gill hỏi làm thế nào Blome, một “chuyên gia về ung thư”, lại được giao phụ trách chương trình vũ khí sinh học của Đế chế, một chủ đề mà ông ta khẳng định biết rất ít. Blome nói rằng ông ta không có câu trả lời cho điều đó.
“Tôi đưa ra ý kiến rằng một nhánh nghiên cứu chiến tranh quan trọng nhất sẽ không thể giao cho một kẻ hoàn toàn ngu dốt, sau những lời giải thích vô tận về sự phức tạp của thế giới Đức, cuối cùng Blome nói rằng đó hẳn là vì, khi còn là sinh viên đại học, ông ta đã chọn BW [vũ khí sinh học] làm đề tài luận án tiến sĩ của mình.” Thiếu tá Gill chắc chắn rằng Tiến sĩ Blome đang nói dối. Nhưng ông không thể làm gì khác ngoài việc trình bày cho Blome thông tin và bằng chứng mà Alsos đã thu thập được về ông ta kể từ khi họ tịch thu căn hộ của Tiến sĩ Eugen Haagen sáu tháng trước.
Gill nói với Blome rằng trong một loạt các cuộc thẩm vấn với 16 bác sĩ Reich cũng tham gia vào nghiên cứu liên quan đến vũ khí sinh học, các sĩ quan Alsos đã biết về nhiều tội ác y khoa khủng khiếp. Gill giải thích rằng Alsos có các tài liệu liên kết Blome với các tội ác. Ví dụ, Alsos đã tìm thấy những lá thư bên trong căn hộ của Tiến sĩ Eugen Haagen liên kết Tiến sĩ Blome với Tiến sĩ Haagen và một đồng nghiệp SS là Tiến sĩ August Hirt. Những lá thư này cho thấy rõ ràng có người cung cấp cho các bác sĩ Reich những con chuột bạch là người. Gill hỏi Blome rằng chính xác thì ai là người phụ trách chương trình này? Gill cần một cái tên.
Blome phủ nhận việc có bất kỳ ý tưởng nào về những gì Gill đang ám chỉ. Thiếu tá Gill nói với Blome rằng ông có một lá thư ám chỉ Blome. Trong một lá thư khác, Gill nói, Tiến sĩ Blome đã chỉ thị cho Tiến sĩ Hirt tiến hành nghiên cứu về “tác động của khí mù tạt lên các sinh vật sống”. Cụm từ “các sinh vật sống” là mật danh của con người, phải không? Gill hỏi Blome. Tiến sĩ Blome vẫn tiếp tục lảng tránh. “Về toàn bộ chủ đề nghiên cứu của SS, thái độ của ông ấy luôn cho là nó quá bí mật đến nỗi ngay cả trưởng cố vấn y tế của Đế chế cũng không biết gì về nó”, Thiếu tá Gill viết trong báo cáo của mình.
Gill tin rằng Tiến sĩ Kurt Blome đang nói dối. Ông cảm thấy chắc chắn rằng các Bác sĩ Haagen, Hirt, Blome và SS có liên quan đến nghiên cứu y khoa trên tù nhân tại các trại tập trung.
“Cuộc thẩm vấn này cực kỳ không hiệu quả”, Thiếu tá Gill thất vọng tóm tắt trong báo cáo của mình. “Mặc dù tôi không muốn khẳng định chắc chắn nhưng ấn tượng đầu tiên của tôi là Blome là một kẻ nói dối và là một tên thầy thuốc lang băm”.
___
Ở phía nam dãy núi Alps Bavaria, trong khi các nhà khoa học tên lửa V-2 tìm cách đạt được thỏa thuận với Quân đội Hoa Kỳ, Georg Rickhey, cựu tổng quản đốc của Mittelwerk, đã cố gắng hòa mình vào đám đông. Rickhey đã nhận một công việc cách Nordhausen 90 dặm, điều hành hoạt động trong một mỏ muối. Trong nhiều tuần, không ai tìm kiếm y. Sau đó, Đại tá Peter Beasley, thuộc bộ phận Khảo sát Ném bom Chiến lược Hoa Kỳ (USSBS), đã đến khu vực này theo nhiệm vụ của Bộ Chiến tranh. Nhiệm vụ của Beasley là xác định vị trí các kỹ sư đã xây dựng các cơ sở vũ khí ngầm kiên cố ở Harz. Những boongke chống bom này là những kỳ tích kỹ thuật phi thường và USSBS đã rất ấn tượng trước cách mà rất nhiều trong số chúng đã chống chọi được với các chiến dịch ném bom ác liệt không ngừng nghỉ của quân Đồng minh. Cơ sở tên lửa tại Nordhausen có tầm quan trọng đặc biệt đối với các sĩ quan USSBS, và Đại tá Beasley đã dựng trại trong một doanh trại bỏ hoang ngay phía bắc nhà máy Mittelwerk trước đây, tại một thị trấn tên là Ilfeld, để điều tra. Tình cờ, doanh trại mà ông chọn để chiếm làm trụ sở là tòa nhà nơi đặt văn phòng cũ của Georg Rickhey. Từ các tài liệu và thiết bị để lại, Đại tá Beasley biết được rằng Rickhey sở hữu thông tin cực kỳ có giá trị về cách xây dựng nhà máy đường hầm. Beasley dò hỏi xung quanh, nhưng không một người dân địa phương nào biết Rickhey đã đi đâu.
“Tôi đã đến thăm các nhà tù ở những thị trấn nhỏ hàng ngày để xem liệu tôi có thể tìm thấy bất kỳ ai có thể khiến tôi quan tâm không”, Beasley viết trong một báo cáo. Cuối cùng, ông đã tìm thấy một người đàn ông đã cho ông một lời mách nước. Georg Rickhey đang điều hành hoạt động tại một mỏ muối ở Rừng Đen, người đàn ông nói. Đại tá Beasley đã cử hai sĩ quan vào thực địa để truy tìm Rickhey.
Trong khi đó, Beasley và nhóm của ông đã theo một đầu mối khác. “Ở Blankenburg,” Beasley viết, “chúng tôi tìm thấy một tòa nhà trường học với một số giấy tờ hỗn tạp mang phù hiệu của Bộ Speer.” Từ những tài liệu này, Beasley biết được rằng Georg Rickhey là người liên lạc giữa Mittelwerk và Bộ Quân khí. Khi hai sĩ quan của Beasley trở về cùng với Georg Rickhey, Beasley đã bắt giữ Rickhey và bắt đầu thẩm vấn y. Y là “một người đàn ông nhỏ bé, hay bồn chồn, hút thuốc liên tục và luôn đưa cuộc trò chuyện trở lại các vấn đề khoa học hoặc kỹ thuật,” Beasley nhớ lại sau chiến tranh, nhưng cuối cùng y “là một đối tượng rất có lợi.”
“Tôi có một công việc cho anh,” Beasley nói với Rickhey. “Tôi muốn anh bắt đầu ngay bây giờ viết ra một bản mô tả đầy đủ về bản thân và tất cả các hoạt động của nhà máy V-2, và những gì mà nhân viên của anh đang làm.” Rickhey tuân thủ. Khi nhiệm vụ hoàn thành, Beasley nói với cựu tổng quản đốc của Mittelwerk, “Chúng tôi chấp nhận anh là một viên chức của Chính phủ Đức; chúng tôi có kiên nhẫn và thời gian và rất nhiều người – anh đã thua cuộc chiến và theo như tôi biết, anh là người hiểu biết nhiều về tên lửa. Là một sĩ quan Mỹ, tôi muốn đất nước tôi nắm giữ toàn bộ kiến thức của anh. Đối với cấp trên của tôi, tôi sẽ đề nghị đưa anh đến Hoa Kỳ.”
Rickhey đón nhận tin tức này bằng vòng tay rộng mở. Y nói với Beasley rằng mình là một nhà khoa học và chỉ muốn làm việc trong môi trường dễ chịu, như Hoa Kỳ. Y đồng ý cho Beasley biết nơi cất giấu một số hồ sơ quan trọng. Rickhey đưa Đại tá Beasley đến một hang động cách đó vài dặm. Ở đó, 42 hộp đựng các bảng tính, bảng kỹ thuật và bản thiết kế liên quan đến Nordhausen và V-2 đã được cất giấu. Đây chắc chắn không phải là kho tài liệu của Wernher von Braun, nhưng đối với USSBS, nó còn nhiều hơn những gì họ sở hữu cho đến thời điểm này. Bây giờ, khi đã sở hữu một kho tài liệu khổng lồ, Đại tá Beasley nhận ra rằng ông cần nhờ một người có chuyên môn kỹ thuật dịch chúng. Ông đã hứa sẽ giới thiệu với Rickhey một công việc ở Hoa Kỳ, nhưng trước tiên ông cần Rickhey đi cùng ông đến London để dịch và phân tích những tài liệu này giúp ông.
___
Albert Speer, một trong những tên tội phạm chiến tranh Đức Quốc xã bị truy nã gắt gao nhất thế giới, cuối cùng đã bị bắt vào sáng ngày 23 tháng 5 năm 1945. Ông ta đang đứng trong phòng tắm của lâu đài một người bạn, Schloss Glücksburg, gần Flensburg, miền bắc nước Đức. Người kế nhiệm Hitler, Đại đô đốc Dönitz, lúc này đã chuyển chính phủ mới của mình từ Eutin đến Flensburg, chỉ cách biên giới Đan Mạch vài dặm. Speer, một thành viên nội các Dönitz, đã lái xe sáu dặm hàng ngày từ Schloss Glücksburg đến trụ sở chính phủ mới. Theo cách Speer kể lại câu chuyện bị bắt, ông ta đang cạo râu thì nghe thấy tiếng bước chân nặng nề và lệnh bắt được đọc to bằng tiếng Anh. Cảm thấy tự do của mình đã đến hồi kết, Speer mở hé cửa phòng tắm, nửa mặt dính đầy kem cạo râu, và nhìn thấy những người lính Anh đang đứng trước mặt.
“Ông có phải là Albert Speer không, thưa ông?” một trung sĩ người Anh hỏi.
“Vâng, tôi là Speer”, ông ta trả lời bằng tiếng Anh.
“Thưa ngài, ngài là tù nhân của tôi,” trung sĩ nói.
Speer mặc quần áo và đóng gói một chiếc túi. Bên ngoài bãi cỏ của lâu đài, một đơn vị lính Anh với súng chống tăng đã bao vây Schloss Glücksburg. Speer đã bị bắt và đưa đi.
Vào thời điểm người Anh bắt Speer, các viên chức Mỹ đã biết được gần hai tuần nơi ông ẩn náu. Mười một ngày trước đó của Speer trong lâu đài đã dành cho các cuộc thảo luận với các viên chức Mỹ tại bộ phận Khảo sát Ném bom Chiến lược Hoa Kỳ (USSBS). Người đứng đầu bộ phận đó, Paul Nitze, đã trở thành người đầu tiên trong một cuộc truy lùng quốc tế đối với Albert Speer. Nitze coi Speer là mục tiêu tình báo mong muốn nhất của mình, và vào ngày 12 tháng 5 năm 1945, ông lên chiếc DC-3 của mình từ nơi ông đóng quân ở London và tức khắc đến Lâu đài Glücksburg, Nitze nhớ lại sau chiến tranh. Vì Flensburg nằm trong vùng kiểm soát của Anh, nên chính người Anh cần phải bắt giữ Albert Speer. Cho đến lúc đó, Nitze, một người Mỹ, cảm thấy thoải mái khi lấy được nhiều thông tin nhất có thể từ Speer. “Chúng tôi đang tìm kiếm thông tin và kiến thức vô cùng quan trọng và ông ấy thực sự là người duy nhất ở Đức có khả năng cung cấp nó”, Nitze nhớ lại nhiều năm sau đó.
Cụ thể, bộ phận của Nitze muốn biết trong chiến tranh chiến dịch ném bom nào của Đồng minh mà người Đức cho là tàn khốc nhất. Hoa Kỳ vẫn đang trong tình trạng chiến tranh với Nhật Bản, và USSBS tin rằng thông tin Speer cung cấp cho họ có thể giúp Hoa Kỳ đánh bại Nhật. Nitze đã đến lâu đài cùng với hai đồng nghiệp của mình, George Ball và John Kenneth Galbraith. Trong 11 ngày tiếp theo, ba người đàn ông đã thẩm vấn Speer. Từ bên trong một phòng khách trang nhã tường được phủ vải gấm đỏ và vàng, những người đàn ông đã thảo luận về chiến dịch ném bom nào của Đồng minh đã gây ra nhiều thiệt hại nhất cho Đức Quốc xã và chiến dịch nào có tác động ít nhất. Điều đặc biệt khiến Nitze, Ball và Galbraith quan tâm là ngành công nghiệp vũ khí của Đế chế đã có thể trụ vững trong thời gian dài như vậy. Speer giải thích rằng theo sáng kiến của ông, phần lớn các cơ sở vũ khí của Đế chế đã được chuyển xuống lòng đất. Những tổ hợp vũ khí này đã chứng tỏ là không bị ảnh hưởng ngay cả trước những chiến dịch ném bom dữ dội nhất. Speer cho biết chúng là những thành tựu về kỹ thuật, việc xây dựng chúng chủ yếu do Franz Dorsch và phó của Speer là Walter Schieber chỉ đạo. Thư ký của Speer, Annemarie Kempf, đã ghi chép. Sự gián đoạn duy nhất là khi đầu bếp của lâu đài triệu tập mọi người ăn trưa.
Speer không đề cập đến việc phó tướng của ông, Chuẩn tướng SS Schieber, một nhà hóa học, cũng làm việc với Speer trong sản xuất vũ khí hóa học; điều đó sẽ mở ra một loạt những điều bất ổn liên quan đến tội ác chiến tranh. Người Mỹ không muốn gây sức ép với Speer về sự liên quan của ông trong tội ác chiến tranh, và Speer chắc chắn không đưa ra bất kỳ bằng chứng buộc tội nào chống lại chính mình. Hầu hết ông ta khoe khoang về những chiến công của bộ mình. George Ball nhớ lại rằng chỉ một lần, có thể là hai lần, trong quá trình thẩm vấn của USSBS, Speer được hỏi về các trại tập trung. “Tôi hỏi ông ta biết gì về cuộc diệt chủng người Do Thái. Ông ta nói rằng ông ta không thể bình luận vì ông ta không biết về điều đó, nhưng ông ta nói thêm rằng thật là lỗi lầm khi không tìm ra”, Ball nói với người viết tiểu sử của Speer, Gitta Sereny, sau chiến tranh.
John Kenneth Galbraith là người duy nhất trong ba người đàn ông của bộ phận Khảo sát Ném bom Chiến lược Hoa Kỳ đã tham quan trại tập trung được giải phóng trước khi phỏng vấn Speer. Galbraith đã chứng kiến những hành động tàn bạo ở Dachau và Buchenwald. Ông giải thích, “Người ta mới chỉ bắt đầu nghe tin đồn về Auschwitz.” Galbraith có tin rằng Speer không biết về cuộc diệt chủng người Do Thái không? “Không, tôi không tin là ông ấy không biết,” Galbraith nói với Sereny. “Chắc chắn là ông ấy biết về tất cả những người lao động nô lệ. Tôi nhớ ông ấy đã nói với chúng tôi, ‘Các người nên treo cổ Saukel’ – phó của Speer phụ trách lao động nô lệ- “và vài tuần sau đó, Saukel nói với chúng tôi, ‘Các người nên treo cổ Speer’. Chúng tốt quá, phải không?”
Sau mười một ngày thảo luận với người Mỹ, người Anh đã định vị và bắt giữ Speer. Họ chở ông ta đi sáu dặm đến Flensburg, nơi những thành viên còn lại của chính phủ Hitler cũng bị bắt. Dưới sự hộ tống của hơn 30 xe bọc thép, các tù nhân được đưa đến máy bay đang chờ. Ở đó, trên một cánh đồng cỏ, những tên trong vòng tròn thân cận của Hitler được đưa lên hai máy bay và bay đến một trung tâm thẩm vấn Tối mật có mật danh là Ashcan (Thùng rác).
Cùng buổi chiều hôm đó, cách Flensburg một trăm dặm về phía nam, tại Trại Thẩm vấn Dân sự 31 gần Lüneburg, một cựu trung sĩ Quân đội Đức đang gây ra rất nhiều tiếng ồn. Sĩ quan phụ trách Trại 31, Đại úy Thomas Selvester, thấy hành vi của người đàn ông này kỳ lạ. Những tù binh Đức hiếm khi làm bất cứ điều gì để thu hút sự chú ý của lính canh Đồng minh. Đại úy Selvester cho gọi gã đàn ông kích động đó đến, người mà ông mô tả là thấp bé, “có vẻ ngoài xấu xí” mặc quần áo thường dân với miếng che mắt màu đen trên mắt trái. Đối mặt với Đại úy Selvester, người đàn ông nhỏ bé, xấu xí đó đã long trọng kéo miếng che mắt xuống, để lộ khuôn mặt nhợt nhạt, không cạo râu. Sau đó, người đàn ông này lấy một cặp kính gọng sừng từ trong túi ra và đeo lên mặt.
“Heinrich Himmler,” người tù thông báo bằng giọng nhỏ nhẹ.
Với chiếc kính trên mắt, Đại úy Selvester nhận ra Heinrich Himmler ngay lập tức. Đứng trước mặt ông là người đàn ông mà nhiều người coi là nhân vật quyền lực nhất trong Đệ tam Đế chế sau Hitler. Himmler là Reichsführer-SS và là trưởng mật vụ Đức, chỉ huy Quân đội Dự bị của Wehrmacht và là Bộ trưởng Nội vụ của Đế chế. Chính khuôn mặt đó. Cằm chẻ và đôi mắt cười nham hiểm. Kể từ khi một bức họa chân dung của Himmler xuất hiện trên trang bìa tạp chí Time, vào ngày 11 tháng 10 năm 1943 – miêu tả “Cảnh sát trưởng của châu Âu Quốc xã” trước một núi xác chết, y đã trở thành đồng nghĩa với cái ác. Bây giờ khi đã đeo chiếc kính tròn nhỏ, Selvester chắc chắn rằng người này thực sự là Heinrich Himmler. Tuy nhiên, Đại úy Selvester vẫn tuân theo nghi thức và yêu cầu xác minh chữ ký. Khi Himmler bị bắt vài ngày trước, ông đã trình ra các giấy tờ quân sự giả mạo xác định ông là một trung sĩ Wehrmacht tên là Heinrich Hitzinger.
Chữ ký trùng khớp, và Đại úy Selvester đã cử thẩm vấn viên cấp cao nhất ở Trại 31, một Đại úy tên là Smith. Khi Smith đến, Selvester ra lệnh cho khám xét lại Himmler. Lần này, lính Anh tìm thấy hai lọ thuốc độc giấu trong quần áo của Himmler. Himmler nói rằng đó là thuốc chữa đau bụng. Đại úy Smith đã ra lệnh khám sức khỏe lần thứ hai cho tù nhân, và bác sĩ của trại, Đại úy Clement Wells, đã phát hiện ra một vật có đầu màu xanh giấu trong miệng Himmler. Khi Bác sĩ Wells cố gắng lấy vật đó ra, Himmler giật đầu ra sau và cắn mạnh. Lọ thuốc chứa chất độc. Chỉ trong vài giây, tù nhân đã ngã gục. Bây giờ Heinrich Himmler đã chết. Một trợ lý của Bác sĩ Wells đã ghi trong nhật ký của mình, “Con vật độc ác đó đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 23:14.”
___
Cuộc chiến ở châu Âu đã kết thúc. Người Đức gọi đó là die Stunde Null, giờ số không. Các thành phố nằm trong đống đổ nát. Cuộc ném bom của quân Đồng minh đã phá hủy hơn 1,8 triệu ngôi nhà ở Đức. Trong số 18,2 triệu người đã phục vụ trong quân đội, hải quân, Luftwaffe và Waffen-SS của Đức, tổng cộng 5,3 triệu người đã thiệt mạng. 61 quốc gia đã bị lôi kéo vào cuộc chiến do Đức phát động. Khoảng 50 triệu người đã chết. Đệ Tam Đế chế không còn nữa.
Heinrich Himmler và Adolf Hitler đã chết. Albert Speer bị giam giữ. Siegfried Knemeyer và Tiến sĩ Kurt Blome cũng vậy. Otto Ambros bị quản thúc tại gia ở Gendorf, chưa có ai trong CIOS hay Alsos tìm ra ông ta thực sự là ai. Wernher von Braun, Walter Dornberger và Arthur Rudolph bị giam giữ, ra sức tranh thủ các hợp đồng với Quân đội Hoa Kỳ. Georg Rickhey có một công việc ở London, biên dịch tài liệu cho bộ phận Khảo sát Ném bom Chiến lược của Hoa Kỳ.
Tương lai của chiến tranh và vũ khí bị treo lơ lửng. Điều gì sẽ xảy ra với các nhà khoa học Đức Quốc xã? Ai sẽ được thuê và ai sẽ bị treo cổ? Vào tháng 5 năm 1945, không có chính sách chính thức nào về việc phải làm gì với bất kỳ ai trong số họ. “Câu hỏi ai là Đức Quốc xã thường là một câu đố đen tối”, một sĩ quan của Quân đoàn số 3, G-5, đã viết trong một báo cáo gửi đến trụ sở SHAEF vào tháng 5. “Câu hỏi thế nào là Đức Quốc xã cũng không dễ trả lời”.
Trong vài tháng tiếp theo, các quyết định quan trọng về việc phải làm gì với các nhà khoa học và kỹ sư cũ của Hitler sẽ được đưa ra, hầu như luôn dựa trên nhu cầu của từng tổ chức quân sự và được biện minh bằng các mối đe dọa được nhận thức. Chính sách chính thức sẽ theo sau, một phiên bản dành cho công chúng và một phiên bản khác dành cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân (JCS). Một quái vật không đầu mang tên Chiến dịch Kẹp giấy sẽ xuất hiện.