
Annie Jaconsen
Trần Quang Nghĩa dịch
CHƯƠNG HAI
Tiêu Hủy Chứng Cứ
Cách phòng khách sạn Oppeln của Speer 90 dặm về phía đông nam, sự hỗn loạn đang diễn ra tại trại tử thần Auschwitz-Birkenau. Chủ tịch Ủy ban C siêu bí mật về vũ khí hóa học của Speer, một nhà hóa học là Tiến sĩ Otto Ambros, có tài liệu cần tiêu hủy. Đó là ngày 17 tháng 1 năm 1945, và mọi người Đức nắm giữ quyền lực tại Auschwitz, từ các sĩ quan quân đội đến các quan chức IG Farben, đều đang cố gắng đánh bài chuồn. Nhưng Ambros thì không. Y sẽ không rời khỏi trại lao động diệt chủng trong sáu ngày nữa.
Otto Ambros là một người đàn ông cầu kỳ. Những tính toán của y rất chính xác, những từ ngữ của y được lựa chọn cẩn thận, móng tay của y luôn được cắt tỉa cẩn thận. Y chải tóc gọn gàng và rẽ ngôi. Ngoài việc là nhà hóa học được Hitler yêu thích, Ambros còn là người quản lý nhà máy cao su tổng hợp và nhiên liệu của IG Farben tại Auschwitz. Khi Hồng quân đang tiến đến gần, các thành viên hội đồng quản trị Farben đã ra lệnh tiêu hủy và di dời tất cả các giấy tờ được phân loại; Ambros và đồng nghiệp Walther Dürrfeld đã đến Auschwitz để thực hiện công việc. Ngoài việc là người quản lý nhà máy của nơi địa ngục này, Ambros còn là thành viên trẻ nhất trong hội đồng quản trị của Farben.
Khắp trại, lính canh SS đang tiêu hủy bằng chứng. Lò hỏa táng II và III đang bị tháo dỡ, và một kế hoạch dùng thuốc nổ phá hủy lò hỏa táng V đang được triển khai. Một số sĩ quan SS đã đào tẩu trên lưng ngựa, trong khi bọn khác đang chuẩn bị sơ tán tù nhân cho cuộc diễu hành tử thần. Roi quất. Chó sủa. Xe tăng sơn trắng ngụy trang bên ngoài trại lăn bánh qua những con phố lầy lội. Tin đồn lan truyền: Hồng quân chỉ cách đó vài dặm. Một nhà hóa học nữ trong Bộ phận Polyme hóa Buna-Werke của Farben đã nhờ tù nhân và nhà văn nổi tiếng thế giới tương lai Primo Levi, một nhà hóa học được đào tạo, sửa lốp xe đạp cho cô. Sau chiến tranh, Levi nhớ lại cảm giác kỳ lạ khi nghe một nhân viên Farben sử dụng từ “làm ơn” với một tù nhân Do Thái như anh.
Auschwitz là trung tâm diệt chủng lớn nhất của Đế chế. Là một trại tập trung, nó bao gồm ba trại riêng biệt nhưng cộng sinh: Auschwitz I, trại chính; Auschwitz II, phòng hơi ngạt và lò hỏa táng Birkenau; và Auschwitz III, trại tập trung lao động do gã khổng lồ hóa chất IG Farben điều hành. Từ ngày 7 tháng 4 năm 1942, IG Farben đã xây dựng nhà máy hóa chất lớn nhất của Đế chế tại Auschwitz, sử dụng lực lượng lao động nô lệ được tuyển chọn từ các sân ga xe lửa Auschwitz. Farben gọi cơ sở của họ là “IG Auschwitz”.
IG Auschwitz là trại tập trung doanh nghiệp đầu tiên ở Đệ tam Đế chế. Khu trại mà những người lao động nô lệ sống và chết được gọi chính thức là Monowitz. “Những ai trong chúng tôi sống ở đó gọi đó là Buna”, Gerhard Maschkowski, một người sống sót sau trại, nhớ lại. Maschkowski là một cậu bé Do Thái 19 tuổi được tha khỏi phòng hơi ngạt vì anh ta có ích cho IG Auschwitz với tư cách là một thợ điện. Việc anh ta vẫn còn sống vào tuần thứ hai của tháng 1 năm 1945 quả là một điều kỳ diệu. Anh ta đã đến Auschwitz vào ngày 20 tháng 4 năm 1943, điều đó có nghĩa là anh ta đã ở đó một năm chín tháng. Ở Buna, tuổi thọ trung bình của một người lao động nô lệ là ba tháng. Nhiều người bạn của Gerhard Maschkowski đã chết từ lâu vì kiệt sức hoặc đã bị giết vì những vi phạm nhỏ, chẳng hạn như giấu một mẩu thực phẩm.
Gerhard Maschkowski nhớ rõ ngày 18 tháng 1 năm 1945, vì đó là ngày cuối cùng của anh ở Auschwitz. Trời vẫn còn tối khi lính SS xông vào doanh trại. “Chúng hét lên, ‘Dậy đi! Tập hợp!’ Chúng có súng lớn, áo khoác dày và chó,” Maschkowski nhớ lại. Anh đi giày và vội vã ra ngoài. Ở đó, 9.000 tù nhân gầy gò, đói khát từ Buna đang xếp hàng ngay ngắn. Maschkowski nghe thấy tiếng đại bác ở đằng xa và tiếng súng nổ gần đó. Xung quanh hỗn loạn. Lính SS đang đốt tài liệu bằng chứng. Đống lửa giấy bốc tro lên trời tối. Tuyết rơi nhanh, rồi nhanh hơn. Có một trận bão tuyết trên đường đi. Lính canh, mặc áo khoác và ủng ấm, vung súng tiểu liên. “Những con chó bị xích da sủa và gầm gừ,” Gerhard Maschkowski nhớ lại. Mặc bộ đồ ngủ mỏng, các tù nhân ở Buna-Monowitz bắt đầu cuộc diễu hành tử thần hướng về phía nội địa Đức. Trong vòng 48 giờ, 60 phần trăm trong số họ sẽ chết.
Primo Levi không thuộc thành viên của cuộc diễu hành tử thần. Một tuần trước đó, anh đã mắc bệnh sốt ban đỏ và đã được đưa đến khoa bệnh truyền nhiễm. “Anh ấy bị sốt cao và mắc bệnh lưỡi dâu tây”, Aldo Moscati, bác sĩ-tù nhân người Ý đã chăm sóc anh, nhớ lại. “Với cơn sốt cao, tôi cực kỳ yếu và thậm chí không thể đi lại được”, Primo Levi giải thích sau chiến tranh. Nằm ngửa trong khoa bệnh truyền nhiễm, anh lắng nghe những âm thanh của trại lính đang nhỏ dần rồi tan biến.
Vào ngày 21 tháng 1, một bản ghi nhớ từ Berlin đã ra lệnh cho tất cả nhân viên Farben phải rời đi. Chuyến tàu cuối cùng chở người Đức rời khỏi Auschwitz, chủ yếu chở nhân viên nữ của IG Farben từ trại, đã khởi hành vào chiều hôm đó. Tuy nhiên, Otto Ambros vẫn ở lại. Chức danh chính thức của Ambros là giám đốc nhà máy Buna-Werk IV và giám đốc điều hành cơ sở sản xuất nhiên liệu tại IG Auschwitz. Y đã tham gia vào cơ sở này kể từ tháng 1 năm 1941, khi các kế hoạch ban đầu của Farben đang được vạch ra. Ambros đã chọn địa điểm và phác thảo bản thiết kế ban đầu cho nhà máy. Y cũng là người đã phát minh ra cao su tổng hợp cho Reich. Xe tăng, xe tải và máy bay đều cần cao su cho lốp và gai lốp, và trong thời chiến, chiến công này được coi là rất quan trọng đối với khả năng tiến hành chiến tranh của Reich đến nỗi Ambros đã được Führer trao tặng 1 triệu reichsmark.
Cuối cùng, vào ngày 23 tháng 1 năm 1945, Ambros rời trại tập trung. Chỉ còn lại những tù nhân ngẫu nhiên. Những tù nhân như Primo Levi, những kẻ quá yếu để lội bộ và chưa bị SS giết, nằm trong khoa bệnh truyền nhiễm. Khi cơn sốt của Levi cuối cùng cũng qua đi và anh mạo hiểm ra ngoài, anh thấy nhiều nhóm tù nhân đang lang thang khắp trại để tìm kiếm thức ăn. Levi tìm thấy một silo chứa đầy khoai tây đông lạnh. Anh ta nhóm lửa và nấu bữa ăn đầu tiên sau nhiều ngày. Vào ngày 27 tháng 1, anh đang kéo xác một người bạn đã chết đến một hố chôn lớn đào trên một cánh đồng xa thì anh phát hiện bốn người đàn ông cưỡi ngựa đang từ xa tiến về phía trại. Họ mặc quần áo ngụy trang màu trắng, nhưng khi đến gần hơn, anh có thể thấy ở giữa mũ những người lính có một ngôi sao đỏ tươi. Hồng quân đã đến. Auschwitz đã được giải phóng.

Otto Ambros đã trên đường đến Falkenhagen, Đức, để tiêu hủy bằng chứng tại một nhà máy Farben khác ở đó. Speer quay trở lại Berlin. Không ai trong số họ dám đi về phía bắc bên trong Ba Lan, nơi một nhà máy vũ khí thứ hai mà hai người đàn ông cùng tham gia cũng đang có nguy cơ bị Liên Xô bắt giữ. Tại cơ sở này, được gọi là Dyhernfurth theo tên ngôi làng ven sông nhỏ nơi nó tọa lạc, IG Farben đã sản xuất vũ khí hóa học, chất độc thần kinh chết người ở quy mô công nghiệp. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1945, một ngày sau khi Ambros trốn khỏi Auschwitz, Farben đã ra lệnh sơ tán Dyhernfurth và tiêu hủy bất kỳ bằng chứng nào còn lại ở đó. Tất cả đạn dược được chất lên toa xe lửa và xe tải và được gửi đến các kho ở phía tây.

Trong bức ảnh hiếm hoi này, các nhân viên của IG Farben đang đấu kiếm thể thao tại cơ sở Auschwitz của tập đoàn và có thể nhìn thấy từ ba ống khói lớn của lò hỏa táng trại tử thần. Băng rôn phía sau những người đấu kiếm có ghi “Câu lạc bộ thể thao công ty, IG Auschwitz.” Nhà máy của Farben cũng được gọi là Auschwitz III hoặc Buna-Monowitz. (Viện Fritz Bauer)
Việc tiêu hủy bằng chứng hiện đang trở thành quy trình hoạt động tiêu chuẩn tại phòng thí nghiệm, cơ sở nghiên cứu và nhà máy vũ khí trên khắp Đế chế. Và trong khi Đức Quốc xã phải đối mặt với sự sụp đổ sắp xảy ra, các nhà khoa học, kỹ sư và doanh nhân của họ phải nghĩ đến tương lai của mình.
Trên khắp Ba Lan do Đức Quốc xã chiếm đóng, quân đội Đức đang rút lui hàng loạt khi Hồng quân tiếp tục xé nát mặt trận phía đông. Vào ngày 5 tháng 2 năm 1945, cách trại Auschwitz 170 dặm về phía tây bắc, Liên Xô đã chiếm được ngôi làng Dyhernfurth. Binh lính Liên Xô đã chiếm lấy lâu đài của thị trấn, được xây dựng vào thế kỷ XVII và XVIII, và uống hết hầm rượu của thị trấn. Lâu đài, với những đỉnh nhọn hình nón giống như trong truyện cổ tích, nhanh chóng biến thành một cảnh trụy lạc hoang dã, với bọn lính Nga say xỉn hát vang những bài ca chiến thắng. Tình hình trở nên mất kiểm soát đến mức các chỉ huy Nga đã đình hoãn chiến đấu cho đến khi trật tự có thể được lập lại. Đây là cơ hội hoàn hảo để một nhóm biệt kích Đức Quốc xã ẩn náu trong rừng tiến hành một cuộc đột kích táo bạo chưa từng có.
Cách đó chưa đầy nửa dặm, một trong những cơ sở vũ khí kỳ diệu được đánh giá cao nhất của Đế chế nằm ẩn dưới lòng đất. Ngụy trang trong một khu rừng thông, bên trong một khu phức hợp lớn gồm các boongke chống bom ngầm, một lực lượng lao động gồm 560 người Đức cổ cồn trắng và 3.000 công nhân nô lệ đã sản xuất hàng loạt, kể từ năm 1942, chất độc thần kinh tabuna dạng lỏng gây tử vong mà thế giới bên ngoài không hề biết đến sự tồn tại của nó.
Tabun là một trong những bí mật được Hitler bảo vệ một cách nghiêm ngặt nhất, một vũ khí kỳ diệu thực sự thuộc loại ma quỷ nhất. Tương tự như thuốc trừ sâu, tabun organophosphate là một trong những chất gây chết người nhất trên thế giới. Một giọt nhỏ vào da có thể giết chết một cá nhân trong vài phút hoặc đôi khi là vài giây. Tiếp xúc có nghĩa là các tuyến và cơ sẽ kích thích quá mức và hệ hô hấp sẽ suy yếu. Tê liệt sẽ xảy ra và hơi thở sẽ ngừng lại. Tại Dyhernfurth, nơi đã xảy ra những tai nạn, cái chết của một con người do khí tabun giống như những khoảnh khắc cuối cùng điên cuồng của một con kiến bị phun thuốc trừ sâu.
Giống như nhà máy cao su tổng hợp và nhiên liệu tại Auschwitz, cơ sở sản xuất chất độc thần kinh tại Dyhernfurth do IG Farben sở hữu và điều hành, và tại đây, Bộ Speer đã làm việc với Farben để nạp tabun vào bom trên không, sau đó có thể triển khai từ máy bay Luftwaffe. Không ai trong vòng tròn bên trong biết chắc chắn khi nào, hoặc liệu Hitler có cuối cùng sẽ nhượng bộ ý muốn các bộ trưởng của mình hay không và cho phép một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học chống lại quân Đồng minh. Nhưng như bằng chứng tại Dyhernfurth, cơ hội là có thật. Đủ khí độc đã được sản xuất ở đây để tiêu diệt dân số London hoặc Paris vào bất kỳ lúc nào.
Bất chấp cuộc tấn công dữ dội của quân đội Hồng quân vào khu vực này vào tháng 2 năm 1945, Hitler vẫn quyết tâm giữ bí mật về tabun khỏi tay kẻ thù. Vào sáng ngày 5 tháng 2 năm 1945, Thiếu tướng Max Sachsenheimer của Tiểu đoàn thay thế dã chiến số 17 của Đế chế và quân đội của ông đang ẩn náu trong khu rừng dọc theo bờ sông Oder. Lực lượng biệt kích của Sachsenheimer bao gồm hàng trăm binh lính, nhưng y cũng có một nhóm người thứ cấp độc đáo, cụ thể là 82 nhà khoa học và kỹ thuật viên. Một số là nhà khoa học quân đội nhưng hầu hết là nhân viên IG Farben và chuyên gia về vũ khí hóa học. Nhiệm vụ của Sachsenheimer là bảo vệ các nhà khoa học trong khi họ xóa sạch mọi dấu vết của tabun khỏi cơ sở của Farben.
Khu phức hợp Dyhernfurth là một nhà máy sản xuất hiện đại, rộng lớn. Bộ Quân khí và Chiến tranh của Speer đã trả cho Farben gần 200 triệu reichsmark để xây dựng và vận hành nhà máy. Cơ sở này đã được Otto Ambros thiết kế và quản lý một cách bí mật và khéo léo. Cũng như những gì ông đã làm với IG Auschwitz, Ambros đã giám sát mọi yếu tố của nhà máy vũ khí hóa học này từ mùa đông năm 1941, khi khu rừng rậm ở đây lần đầu tiên được 120 nô lệ trại tập trung dọn sạch cây thông.
Khi Đức Quốc xã kết hợp công nghiệp, gây chiến và diệt chủng, ít tập đoàn nào có vai trò trung tâm như IG Farben. Công ty hóa chất này là tập đoàn lớn nhất châu Âu và là tập đoàn lớn thứ tư thế giới. IG Farben sở hữu bằng sáng chế về Zyklon B. Và có lẽ không một cá nhân nào tại Farben lại là nhân vật trung tâm ngang bằng với Otto Ambros. Với công lao là chủ tịch Ủy ban-C, ủy ban vũ khí hóa học bên trong Bộ Speer, Ambros đã được trao tặng danh hiệu danh giá là nhà lãnh đạo kinh tế quân sự (Wehrwirtschaftsführer). Ông đã được trao tặng Huân chương Chiến công hạng Nhất và hạng Nhì, và Huân chương Hiệp sĩ Thập tự Chiến công hạng Nhất, tương tự như giải thưởng được trao cho Dornberger và von Braun.
Có một nhà khoa học thứ hai đóng vai trò quan trọng trong vũ khí hóa học – một nhân vật, giống như Otto Ambros – sẽ là mục tiêu của Chiến dịch Paperclip. Đó là SS-Brigadeführer Tiến sĩ Walter Schieber, một nhà hóa học được đào tạo, phó của Speer
và giám đốc Văn phòng Cung cấp Vũ khí. Schieber là một nhà tư tưởng Đức Quốc xã cứng rắn và là thành viên của đội ngũ nhân viên cá nhân của Reichsführer-SS Himmler. Quá béo so với một sĩ quan SS, chiếc xe và máy bay chính thức của ông cần được cải tiến để phù hợp với vóc dáng 275 cân của mình. Cùng với bác sĩ của Hitler, Karl Brandt, Schieber phụ trách sản xuất mặt nạ phòng độc, một điều kiện tiên quyết để bảo vệ quân đội nếu chiến tranh hóa học được tiến hành. Giống như vũ khí sinh học, thanh kiếm cần có lá chắn, và đến tháng 1 năm 1945, Schieber đã giám sát việc sản xuất 46,1 triệu mặt nạ phòng độc. Độ tin cậy của chúng đã được thử nghiệm tại Dyhernfurth trên các tù nhân trại tập trung. Những câu chuyện xuất hiện trong các phiên tòa Nuremberg về những cuộc thử nghiệm như vậy thật kinh hoàng, bao gồm cả việc nhốt tù nhân trong phòng kính và phun chất độc thần kinh vào họ. Các nhà điều tra tội phạm chiến tranh sau đó sẽ tranh luận xem những hành động này có phải là chương trình thí điểm cho các phòng hơi ngạt hay không. Câu chuyện đầy đủ về cách thức và mức độ làm việc của Tiến sĩ Walter Schieber cho quân đội Hoa Kỳ sau chiến tranh và cho CIA – chưa bao giờ được giải thích đầy đủ cho đến khi cuốn sách này được xuất bản.
Chỉ vài tuần trước khi Hồng quân chiếm Dyhernfurth, tràn vào lâu đài và uống hết rượu ở đó, hàng ngàn nô lệ lao động trong trại tập trung đã phải làm việc quần quật tại nhà máy vũ khí hóa học bí mật của Farben để thực hiện những công việc chết chóc nhất.
Mặc bộ đồ cao su hai lớp và mũ bảo hiểm hình bong bóng, tù nhân đổ đầy chất độc thần kinh vào vỏ đạn pháo và vỏ bom, đánh dấu mỗi quả đạn bằng một mật mã bí mật chỉ ra chất độc thần kinh tabun: ba vòng sơn màu xanh lá cây. Bộ đồ của tù nhân hoạt động tương tự như bộ đồ lặn biển sâu. Được gắn vào mặt sau của mỗi mũ bảo hiểm là một ống cung cấp không khí thở được. Nhưng ống khí ngắn và không cho công nhân nhiều không gian để di chuyển. Nếu một người vô tình tách khỏi nguồn không khí, anh ta sẽ tiếp xúc với hơi độc qua ống thở và chết.
Nhưng vào sáng ngày 5 tháng 2 năm 1945, cơ sở này đã trống rỗng. Không còn một nhà hóa học hay một nô lệ lao động nào ở lại. Các loại đạn dược đã được di chuyển, tài liệu bằng chứng đã bị phá hủy, và tất cả các nhân viên của IG Farben đã bỏ trốn. Các tù nhân đã được lính canh SS của họ di tản ba tuần trước đó. Mặc bộ đồ ngủ của tù nhân và đôi giày làm việc bằng gỗ không vừa chân, những tù nhân lao động Dyhernfurth đã bị lùa đi về phía tây hướng đến vùng nội địa của Đức. Các nhân chứng ở các ngôi làng gần đó đã mô tả một đoàn gồm 3.000 xác chết biết đi. Nhiệt độ trong khu vực xuống tới -18 độ F. Vào thời điểm các tù nhân đến trại tập trung Gross-Rosen, cách đó 50 dặm về phía tây nam, hai phần ba trong số họ đã chết vì bị nhiễm lạnh.
Giờ đây, làm việc theo lệnh của Hitler, một đội kỹ thuật đang chuẩn bị quay trở lại cơ sở bí mật của Farben để loại bỏ cặn tabun lần cuối. Trong không khí lạnh giá trước bình minh, 2 nhà hóa học, 80 kỹ thuật viên và một nhóm biệt kích Đức mặc bộ đồ cao su hai lớp, kéo mặt nạ phòng độc qua đầu và lẻn xuống bờ sông Oder. Họ lặng lẽ di chuyển qua cây cầu đường sắt bị ném bom một phần, đi chậm rãi dọc theo đường ray và hướng tới nhà máy vũ khí hóa học. Bộ đồ bảo hộ rất cồng kềnh và đội kỹ thuật phải mất 65 phút để di chuyển chưa đầy nửa dặm. Đến nhà máy, cả nhóm tiến vào cơ sở sản xuất, nơi đặt những chiếc ấm lớn có lót bạc, trong đó chất độc thần kinh được sản xuất. Mỗi ấm đun nước nằm bên trong một buồng vận hành được bao bọc bởi những bức tường kính đôi bao quanh một hệ thống thông gió phức tạp gồm các đường ống có vách đôi. Trong khi một nhóm tiến hành khử trùng các căn phòng bằng amoniac và hơi nước, một nhóm khác lại lùng sục các bề mặt của nhà máy sản xuất đạn dược, nơi có rất nhiều lao động nô lệ đã chết. Lính biệt kích canh gác.
Trong khi các kỹ thuật viên đang dọn dẹp, trung đội còn lại của Thiếu tướng Sachsenheimer ở cách đó hai dặm rưỡi xuôi dòng đã bắt đầu hành động. Họ bắn đạn pháo vào lực lượng Nga đang ngủ như một đòn nghi binh. Hồng quân lập tức tập hợp và đánh trả, và đến giờ ăn trưa, 18 xe tăng Liên Xô đã giao tranh ác liệt với quân của Sachsenheimer. Trận chiến, được ghi chú trong biên niên sử chiến tranh, chỉ kéo dài đủ lâu để đội kỹ thuật của IG Farben vào, ra và biến mất.
Phải mất vài ngày Hồng quân mới tình cờ tìm thấy cơ sở vũ khí hóa học của Farben ở Dyhernfurth. Lúc đó nó không có người và tabun nhưng mặt khác hoàn toàn nguyên vẹn. Khi người Nga kiểm tra cơ sở này, đã được cọ rửa sạch sẽ, các chỉ huy thấy rõ rằng bất cứ thứ gì cơ sở này sản xuất ra đều phải được coi là có giá trị lớn đối với Đế chế. Cách bố trí phòng thí nghiệm có dấu hiệu sản xuất vũ khí hóa học, và quân đội Liên Xô đã triệu tập các chuyên gia về vũ khí hóa học của họ từ Lữ đoàn hóa học thứ 16 và 18. Nhà máy được tháo dỡ, đóng thùng và vận chuyển trở lại Liên Xô để sử dụng trong tương lai. Những gì đã được sản xuất ở đây trong rừng vẫn là một bí ẩn đối với những người chủ mới của nó là người Nga trong hơn một năm. Đến năm 1946, toàn bộ nhà máy sản xuất vũ khí hóa học ở Dyhernfurth sẽ được lắp ráp lại ở một thị trấn nhỏ bên ngoài Stalingrad có tên là Beketovka, và nhà máy có mật danh tiếng Nga là Công trình Hóa học số 91. Sau đó, chính Liên Xô bắt đầu sản xuất chất độc thần kinh tabun ở quy mô công nghiệp. Đến năm 1948, Sách giáo khoa hóa học quân sự Liên Xô sẽ liệt kê tabun là một phần trong kho dự trữ của Hồng quân. Nhưng năm 1948 còn rất xa. Rất nhiều điều sẽ xảy ra với nước Mỹ và các nhà hóa học của Hitler trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến năm 1948, phần lớn họ đều khẳng định mối đe dọa đang nổi lên của Liên Xô.
Trở lại Berlin, Hitler đọc trang đầu tiên của báo cáo Speer và ra lệnh cất đi. Sau đó, Hitler trở nên giận dữ. Cơn thịnh nộ của ông có thể đã trở nên trầm trọng hơn bởi một hội nghị diễn ra trên Bán đảo Crimea, tại Yalta, bắt đầu từ ngày 4 tháng 2 năm 1945. Hội nghị kéo dài trong tám ngày. Tại đó, Roosevelt, Churchill và Stalin đã xác nhận cam kết của họ về việc yêu cầu Đức đầu hàng vô điều kiện. Sẽ không có sự mặc cả, ba nguyên thủ quốc gia tuyên bố. Không có thỏa thuận nào được thực hiện với Đức Quốc xã. Sự kết thúc của chiến tranh sẽ có nghĩa là sự kết thúc của Đệ tam Đế chế. Tội phạm chiến tranh sẽ bị xét xử, công lý sẽ được thực thi.
Quan điểm về định nghĩa công lý thay đổi đáng kể tùy theo từng cường quốc. Thủ tướng Anh Winston Churchill muốn các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã bị đối xử như “những kẻ ngoài vòng pháp luật”. Ông lập luận rằng họ nên bị xếp hàng và bắn thay vì bị đưa ra xét xử. Thủ tướng Liên Xô, Joseph Stalin, đã bất ngờ lập luận rằng “không có vụ hành quyết nào mà không có phiên tòa”. Tổng thống Franklin D. Roosevelt muốn xét xử tội ác chiến tranh. Điều mà tất cả các bên đều đồng ý là sau khi đầu hàng, Đức sẽ bị chia thành ba vùng chiếm đóng. (Chẳng mấy chốc, sự tham gia của Pháp sẽ khiến nước này bị chia thành bốn vùng.) Khi Hitler biết được kế hoạch của Đồng minh nhằm chia nhau chiến lợi phẩm của Đức, ông ta trở nên giận dữ. Sau đó, ông ta gọi Albert Speer.
“Nếu chiến tranh thất bại”, Hitler đã nói với Speer một câu nổi tiếng, “quốc gia cũng sẽ diệt vong. Số phận này là không thể tránh khỏi”. Nếu Đức thua cuộc chiến, Hitler nói, người dân xứng đáng bị cái chết trừng phạt vì hèn yếu. “Những gì còn lại sau cuộc đấu tranh này trong mọi trường hợp chỉ là bọn người yếu kém, vì những người tốt đã ngã xuống”, Hitler nói. Theo logic này, Hitler đã ra sắc lệnh rằng bộ của Speer không cần cung cấp cho công dân Đức ngay cả những nhu cầu cơ bản nhất, bao gồm cả nơi trú ẩn và thực phẩm. Ông ta nói với Speer rằng nếu Speer đưa cho ông ta thêm một bản ghi nhớ khác nói rằng cuộc chiến là không thể thắng được, và rằng các cuộc đàm phán với kẻ thù nên được xem xét, Hitler sẽ coi đây là một hành động phản quốc có thể bị trừng phạt bằng cái chết.
Hitler sau đó ban hành chính sách “đốt sạch” trên toàn quốc. Speer đã giúp tổ chức phá hủy toàn bộ cơ sở hạ tầng của Đức, quân sự và dân sự – từ hệ thống giao thông và thông tin liên lạc đến cầu và đập. Tên chính thức là Phá hủy Lãnh thổ Đế chế, lệnh này được gọi là Sắc lệnh Nero, hay Nerobefehl, để tưởng nhớ hoàng đế La Mã Nero, người được cho là đã gây ra Đại hỏa hoạn năm 64 sau Công nguyên và sau đó chứng kiến Rome bị thiêu rụi.
Ở miền trung nước Đức, tại dãy núi Harz được bảo vệ tự nhiên, việc sản xuất vũ khí V vẫn tiếp tục với tốc độ điên cuồng mặc dù có mọi dấu hiệu cho thấy Đức sẽ sớm thua cuộc chiến. Vào cuối tháng 2 năm 1945, điều kiện bên trong đường hầm Nordhausen đã xuống đến mức thảm họa. Trời lạnh thấu xương, hàng nghìn người chết đói và hầu như không có thức ăn; tất cả những gì tù nhân phải sống là nước dùng loãng. Trại tập trung Nordhausen-Dora đang bị tràn ngập bởi những tù nhân mới đến trong chuyến đi tử thần từ Auschwitz và Gross-Rosen ở phía đông. Một số đi bộ và những người khác đến bằng xe chở gia súc. Nhiều người đã chết. Lò hỏa táng của Dora đã quá tải. Trong bối cảnh này, Wernher von Braun và Tướng Dornberger tiếp tục thực hiện kế hoạch chế tạo nhiều tên lửa hơn mỗi ngày.
Kể từ khi chuyển văn phòng của mình từ cơ sở Peenemünde đến dãy núi Harz, von Braun đã được thăng chức. Bây giờ ông là người đứng đầu cái gọi là Văn phòng Kế hoạch Mittelbau-Dora, một bộ phận trong SS của Himmler. Von Braun sống chỉ cách khu phức hợp Nordhausen vài dặm, trong một biệt thự đã bị tịch thu từ một chủ nhà máy Do Thái nhiều năm trước. Mỗi ngày, ông lái xe đến văn phòng của mình ở Bleicherode, cách khu phức hợp đường hầm 11 dặm, nơi ông phác thảo các thiết kế cho các giá thử nghiệm mới và tốt hơn cùng các đường dốc phóng cho V-2. Mặc dù thực tế là chiến tranh đã thua, khu vực này vẫn nhộn nhịp với các nhà máy vũ khí mới đang được xây dựng, “được đào bởi một số công nhân trong số 40 trại phụ hiện đang gắn kết với Mittelbau-Dora”, Michael J. Neufeld giải thích. Tầm nhìn của Von Braun là tăng sản lượng tên lửa từ 2 hoặc 3 tên lửa một ngày lên 200 tên lửa một ngày. Để chuẩn bị cho sự mở rộng đầy tham vọng này, ông đã chỉ huy các nhà máy, trường học và mỏ trên khắp khu vực. Nhưng việc lắp ráp tên lửa phụ thuộc vào công nhân, và những người lao động nô lệ ở Nordhausen hiện đang chết với tốc độ ngày càng tăng. Von Braun hẳn đã biết điều này; ông đã đến thăm các đường hầm ngầm với tư cách chính thức 10 lần trong mùa đông năm 1945.
Đối với những người lao động nô lệ gầy gò đã cố gắng để sống sót, cố gắng
lắp ráp tên lửa trong những đường hầm bẩn thỉu, chưa hoàn thiện, không có thức ăn, nước uống hoặc vệ sinh trong cái lạnh khắc nghiệt của mùa đông ngày càng trở nên khó khăn hơn, và điều đó thể hiện trong công việc của họ. Trên bầu trời khắp châu Âu, những tên lửa được chế tạo vội vã này bắt đầu vỡ tan trong khi bay. Và trong những cánh rừng thông ở miền bắc nước Đức, bao gồm cả những cánh rừng xung quanh Lâu đài Varlar, những tên lửa được lắp ráp nhanh chóng đã phát nổ trên bệ phóng di động của chúng. Những người quản lý tại Mittelwerk nghi ngờ có kẻ phá hoại. Để gửi đi một thông điệp, họ đã tổ chức treo cổ công khai.
“Tù nhân bị treo cổ tới 57 người trong một ngày”, một báo cáo về tội ác chiến tranh viết. “Họ bị treo cổ trong đường hầm với sự trợ giúp của một cần cẩu điều khiển bằng điện, mỗi lần một chục người, tay bị trói ra sau lưng, một miếng gỗ được nhét vào miệng họ… để ngăn họ la hét”. Việc treo cổ được thực hiện ngay phía trên các dây chuyền sản xuất V-2. Các tù nhân lao động bị buộc phải chứng kiến những người bạn tù của mình phải chịu đựng cái chết đau đớn chậm rãi. Để đoàn kết, một nhóm tù nhân Nga và Ukraine đã dàn dựng một cuộc nổi loạn. Các nghi phạm đã bị bắt giữ. Các nhà quản lý Mittelwerk và lính canh SS quyết định lấy họ làm gương. Sau khi các nạn nhân này bị treo cổ, thi thể của họ bị treo lơ lửng trong một ngày. Chỉ sau khi Arthur Rudolph, giám đốc điều hành Mittelwerk, nhận được một bản ghi nhớ từ một kỹ sư người Đức của mình hỏi khi nào sẽ lấy lại cần cẩu thì những thi thể này mới được đưa xuống.
Ngoài việc von Braun mới được thăng chức làm người đứng đầu Văn phòng Kế hoạch Mittelbau-Dora, ông cũng được thăng chức lên SS-Sturmbannführer, hay thiếu tá SS. Một trong những lợi ích đi kèm với vị trí này là một chiếc xe có tài xế lái để đưa von Braun đi lại giữa Nordhausen và Berlin. Chính ở ghế sau của chiếc xe này vào đêm ngày 12 tháng 3 năm 1945, von Braun đã suýt chết. Khi chiếc xe của ông đang tăng tốc trên đường cao tốc hướng đến Berlin, tài xế của ông đã gật đầu vào vô lăng. Chiếc xe lao ra khỏi đường và lao xuống một bờ kè cao bốn mươi bộ cho đến khi nó đâm vào một bên gần đường ray xe lửa. Tài xế đã bất tỉnh. Von Braun bị gãy tay. Cả hai người đàn ông nằm chảy máu trong đêm tối lạnh lẽo khi hai đồng nghiệp của von Braun từ Nordhausen, nhà thiết kế cơ sở Bernhard Tessmann và kiến trúc sư Hannes Lührsen, tình cờ lái xe ngang qua và phát hiện ra chiếc xe bị đập vỡ. Họ gọi xe cứu thương quân sự đến hiện trường và đưa von Braun cùng tài xế của ông đến bệnh viện.
Trong thời gian hồi phục, von Braun được trợ lý riêng của ông, Dieter Huzel, và Bernhard Tessmann, một trong hai người đã cứu mạng von Braun, đến thăm.
Tessmann và Huzel nói với von Braun rằng Quân đội Hoa Kỳ sắp xuất hiện. Họ nói rằng các hoạt động V-2 sẽ chấm dứt bất kì ngày nào. Tin đồn lan truyền rằng những ai không được coi là nhà khoa học có giá trị sẽ được phân công vào một đơn vị bộ binh, được trao vũ khí và được lệnh chiến đấu với người Mỹ ở tuyến đầu.
Von Braun giờ đã sẵn sàng thừa nhận rằng Đức đã thua cuộc chiến. Điều ông không muốn làm là từ bỏ sự nghiệp của mình. Ông cần một con bài mặc cả để sử dụng với người Mỹ sau khi ông bị bắt. Von Braun nói với Tessmann và Huzel nơi ông cất giữ những tài liệu V-2 được phân loại có giá trị nhất. Vì von Braun nằm liệt giường, ông cần hai cấp dưới của mình đóng thùng những tài liệu này và giấu chúng ở một nơi xa xôi, an toàn mà quân Đồng minh sẽ không bao giờ tự mình tìm thấy chúng. Von Braun nói với Tessmann và Huzel rằng nếu họ có thể làm được điều này, họ sẽ được đưa vào các cuộc đàm phán trong tương lai của von Braun với quân Đồng minh. Tướng Dornberger cũng sẽ là một phần của nhóm. Von Braun nói với Tessmann và Huzel rằng ông sẽ đích thân thông báo cho vị tướng này biết.
Công nhân Mittelwerk tiếp tục sản xuất tên lửa cho đến cuối tháng 3. Những quả V-2 cuối cùng được bắn vào ngày 27 tháng 3 và những quả V-1 cuối cùng được bắn vào ngày hôm sau. Vào ngày 1 tháng 4, Dornberger nhận được lệnh từ SS-General Kammler yêu cầu Dornberger phải sơ tán nhân viên của mình khỏi Mittelwerk ngay lập tức. Kammler đã chọn 500 nhà khoa học và kỹ sư chủ chốt lên toa tàu riêng của ông, đỗ ở Bleicherode và đặt biệt danh là Vengeance Express [Tàu Tốc hành Báo thù], sau đó đi 400 dặm về phía nam vào dãy núi Alps ở Bavaria để ẩn náu. Huzel và Tessmann nằm trong danh sách của Kammler, nhưng sau khi thông đồng với Tướng Dornberger, họ đã có thể ở lại để hoàn thành việc cất giữ tài liệu. Von Braun, vẫn cần được chăm sóc y tế và được bó bột nặng, đã được đưa đến dãy Alps bằng một chiếc ô tô riêng. Dornberger và nhân viên của ông tự lái xe, chạy trốn khỏi Harz trong một đoàn xe nhỏ.
Khi màn đêm buông xuống Dörnten, một cộng đồng khai thác mỏ nhỏ ở rìa phía bắc của Harz, ngôi làng đã tắt đèn. Các gauleiter địa phương (các lãnh đạo quận của Đảng Quốc xã) đã ra lệnh cho dân làng đóng cửa sổ, tắt đèn và ở nhà. Lúc đó là ngày 4 tháng 4 năm 1945 và quân đội Hoa Kỳ được cho là đã cắm trại cách đó chỉ 30 dặm về phía tây. Những con phố lát đá cuội của ngôi làng vắng tanh, ngoại trừ một chiếc xe tải đơn độc tắt đèn lái chậm, định hướng bằng ánh trăng. Ngồi ở ghế trước là Tessmann và Huzel. Ở phía sau xe tải là bảy người lính Đức bị bịt mắt. Ngoài ra, trong xe tải còn có hàng chục thùng chứa đầy tài liệu tên lửa V-2 được phân loại
Chiếc xe tải đi qua thị trấn và hướng lên một con đường nông thôn quanh co dẫn vào cửa một mỏ bỏ hoang. Huzel và Tessmann đỗ xe tải và bắt tay người trông coi, Herr Nebelung, một thành viên Đức Quốc xã trung thành, đã dành cho hai kỹ sư một không gian trong một phòng chờ lớn ở phía sau mỏ Dörnten. Bảy người lính được ra lệnh tháo khăn bịt mắt và bắt đầu làm việc.
Họ dỡ các thùng hàng, đặt chúng lên toa tàu phẳng và giám sát chúng khi chúng được lái xuống một đường hầm dài bằng đầu máy xe lửa chạy bằng pin điện. Ở cuối đường hầm, đằng sau một cánh cửa sắt, là một căn phòng nhỏ, khô ráo. Các thùng tài liệu V-2 được sắp xếp bên trong, cánh cửa đóng và khóa. Bên ngoài, một người lính đốt một thanh thuốc nổ trước cửa ra vào để tạo ra một đống đổ nát khổng lồ, che giấu các tài liệu quan trọng của Đức Quốc xã khỏi thế giới bên ngoài.
Huzel và Tessmann đã thề không nói với bất kỳ ai về những gì họ đã làm, nhưng ngay khi họ chuẩn bị rời đi Bavaria để gặp Dornberger và von Braun, hai người quyết định tạo ra một ngoại lệ. Karl Otto Fleischer đã từng là giám đốc kinh doanh của quân đội cho doanh nghiệp lao động nô lệ Mittelwerk. Tên của Fleischer không có trong danh sách của Tướng Kammler, và ông đã về nhà mình ở Nordhausen để trà trộn vào đám đông. Karl Fleischer là một người Đức Quốc xã trung thành, người báo cáo trực tiếp với Tướng Dornberger trong quá trình sản xuất V-2, và Huzel và Tessmann tin rằng Fleischer sẽ giữ bí mật của họ an toàn. Fleischer là người địa phương. Ông có thể để mắt đến mọi thứ và giám sát nếu có ai bắt đầu lục lọi xung quanh mỏ Dörnten. Huzel và Tessmann đã nói với Karl Fleischer về địa điểm bí mật của kho tài liệu V-2, và giờ đây Quân đội Hoa Kỳ chỉ cách Nordhausen vài ngày, Huzel và Tessmann đã vội vã rời đi.

Những người giải phóng Mỹ đứng ở lối vào khu phức hợp đường hầm ngầm Nordhausen nơi những người lao động nô lệ lắp ráp tên lửa V-2. (Không quân Hoa Kỳ)
CHƯƠNG BA
Những Người Đi Săn và Kẻ Bị Săn Đuổi
Tại Pháp, Samuel Goudsmit và nhóm các nhà khoa học của Chiến dịch Alsos đã kiên nhẫn chờ đợi từ tháng 11 để triển khai nhiệm vụ tình báo khoa học tiếp theo của họ. Đã bốn tháng trôi qua kể từ khi nhóm này tìm được tình báo vàng, bên trong căn hộ Strasbourg của Tiến sĩ Eugen Haagen, nhà virus học của Reich. Bây giờ, vào tuần cuối cùng của tháng 3 năm 1945, Goudsmit và chỉ huy quân sự của ông, Đại tá Boris Pash, cuối cùng đã sẵn sàng để chiếm giữ các mục tiêu tiếp theo của họ: các nhà máy IG Farben bên kia biên giới ở Đức, được cho là nơi diễn ra chương trình vũ khí hóa học của Đức Quốc xã.
Kể từ tháng 11, căn hộ của Haagen ở Strasbourg đã trở thành trụ sở của Alsos. Đã có những sự chậm trễ kéo dài. Vào tháng 12, cuộc phản công của Hitler ở Rừng Ardennes bắt đầu, khiến các nhà khoa học của Alsos không thể tiến hành các nhiệm vụ tiền tuyến theo kế hoạch. Nhưng thật tình cờ, toàn bộ tầng một bên dưới căn hộ của Haagen ở Strasbourg thuộc về IG Farben, nhà cung cấp vũ khí hóa học chính của Đệ tam Đế chế, và Alsos đã tịch thu được một kho tài liệu đáng kể mà Farben lưu giữ ở đó. Alsos biết Farben có liên quan đến nghiên cứu vắc-xin vũ khí và nghi ngờ họ có liên quan đến các thí nghiệm y tế trên tù nhân. Hai nhà máy Farben mà họ nhắm đến chỉ cách đó khoảng 80 dặm, tại các thành phố Ludwigshafen và Mannheim của Đức. Để thực hiện nhiệm vụ này, Chiến dịch Alsos đã tập hợp lực lượng đặc nhiệm lớn nhất cho đến nay: 10 nhà khoa học dân sự, 6 nhà khoa học quân sự và 18 nhân viên an ninh. Nhưng việc tự mình mạo hiểm vào lãnh thổ do Đức chiếm giữ được coi là quá nguy hiểm đối với các nhà khoa học Mỹ. Họ phải chờ quân Đồng minh vượt sông Rhine vào Đức, khi đó họ mới được phép vào. Bây giờ, vào tuần thứ ba của tháng 3 năm 1945, cuộc vượt sông được mong đợi từ lâu này dường như đang đến gần.
Vào ngày 23 tháng 3 năm 1945, Thống chế Anh Bernard Montgomery đã phát động một cuộc tấn công quân sự khổng lồ qua sông Rhine, có mật danh là Chiến dịch Plunder [Cướp bóc]. Ngoài ẩn ý về hành động tịch thu và cướp bóc chính là những lời nói nổi tiếng của Montgomery:
“Nào, chúng ta vượt qua sông Rhine thôi. Và chúc mọi người săn bắn thuận lợi ở bờ bên kia.” Việc cướp bóc một quốc gia bị đánh bại vào cuối một cuộc chiến đã cũ như chính cuộc chiến, nhưng Công ước Hague năm 1899 và 1907 quy định cấm cướp bóc ngoài các vật phẩm tượng trưng được coi là “chiến lợi phẩm của chiến tranh”. Vậy chính xác là Montgomery có ý gì? Về mặt chiến thuật, việc vượt sông Rhine có nghĩa là quân Đồng minh sẽ đập tan hơn 500 dặm dọc theo mặt trận phía tây. Về mặt thu thập thông tin tình báo, điều đó thực sự có nghĩa là cướp bóc.
Khi binh lính tiến về phía Đức, đi cùng họ là hơn 3.000 chuyên gia khoa học và kỹ thuật thuộc Tiểu ban Mục tiêu Tình báo Phối hợp, hay CIOS, chương trình chung của Anh-Mỹ đã được thành lập tại London vào mùa hè trước đó. Các nhóm CIOS báo cáo với Bộ Tư lệnh Tối cao Lực lượng Viễn chinh Đồng minh, hay SHAEF, đặt tại Versailles và có các chuyên gia: các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ và kỹ thuật viên cùng với các nhà ngôn ngữ học và học giả để dịch và phiên dịch các tài liệu đã thu giữ được. Đại diện cho Hoa Kỳ từ CIOS là những người từ Bộ Tổng tham mưu Bộ Chiến tranh, Hải quân, Không quân, Lục quân, Bộ Ngoại giao, Cục Kinh tế Đối ngoại, Văn phòng Dịch vụ Chiến lược (OSS) và Văn phòng Nghiên cứu và Phát triển Khoa học. Người Anh đã cử các chuyên gia từ Bộ Ngoại giao, Bộ Hải quân, Bộ Không quân và các Bộ Cung ứng, Sản xuất Máy bay, Chiến tranh Kinh tế, Nhiên liệu và Điện. Tất cả các nhân viên CIOS đều làm việc theo danh sách các mục tiêu, tương tự như danh sách mà Alsos sử dụng, sau này được gọi là Danh sách Đen. Các yêu cầu tiền tuyến cho các nhóm CIOS cụ thể đã được chuyển tiếp đến SHAEF từ khu vực chiến đấu. Một nhóm CIOS phù hợp sẽ được cử đến hiện trường.
Hỗ trợ các đội CIOS là lực lượng an ninh được gọi là Lực lượng T, có thể nhận dạng bằng chữ T màu đỏ tươi được sơn ở phía trước mũ sắt. Những toán quân nhỏ gồm những chiến sĩ tinh nhuệ này hoạt động ở cấp độ nhóm quân đội nhưng hoạt động độc lập với các đơn vị chiến đấu truyền thống. Nhiệm vụ của họ là nhận dạng các mục tiêu khoa học có giá trị tiềm năng và sau đó bảo vệ chúng cho đến khi nhân viên từ CIOS đến.
Mục tiêu của Tiểu ban Mục tiêu Tình báo Phối hợp là điều tra mọi thứ liên quan đến khoa học Đức. Các loại mục tiêu bao gồm: radar, tên lửa, máy bay, thuốc men, bom và ngòi nổ, phòng thí nghiệm vũ khí hóa học và sinh học. Và trong khi CIOS là một liên doanh chính thức, vẫn có những nhóm khác tham gia, với những lợi ích cạnh tranh trong tầm tay.
Song song với các hoạt động của CIOS là hàng chục hoạt động thu thập thông tin tình báo bí mật, chủ yếu là của Mỹ. Nhiệm vụ đặc biệt V-2 của Lầu Năm Góc chỉ là một ví dụ. Vào cuối tháng 3 năm 1945, Đại tá Trichel, chỉ huy Quân khí Hoa Kỳ, Chi nhánh Tên lửa, đã phái nhóm của mình đến châu Âu. Tương tự như vậy, Tình báo kỹ thuật hải quân Hoa Kỳ đã cử các sĩ quan ở Paris chuẩn bị cho cuộc săn lùng thông tin tình báo được phân loại cao của riêng mình về Henschel Hs 293, một tên lửa dẫn đường do Đức Quốc xã phát triển và được thiết kế để đánh chìm hoặc phá hủy tàu địch. Không lực Hoa Kỳ (AAF) vẫn tham gia rất nhiều vào các chiến dịch ném bom chiến lược, nhưng một nhóm nhỏ từ Wright Field, gần Dayton, Ohio, đã lập kế hoạch xác định vị trí và bắt giữ thiết bị và kỹ sư của Luftwaffe. Dẫn đầu các nhiệm vụ tuyệt mật cho tình báo Anh là một nhóm biệt kích có tên là Đơn vị tấn công 30, do Ian Fleming, trợ lý cá nhân của giám đốc tình báo hải quân Anh và là tác giả tương lai của tiểu thuyết James Bond, chỉ huy. Đôi khi, các thành viên của các nhiệm vụ song song này làm việc cùng với các sĩ quan CIOS trên thực địa. Chắc chắn, họ đã tận dụng tối đa mọi thông tin mà CIOS cung cấp, bao gồm cả Danh sách đen của họ. Nhưng mỗi nhiệm vụ hầu như luôn đặt mục tiêu và mục đích riêng của mình lên hàng đầu. Kết quả, một số sĩ quan gọi đùa CIOS là CHAOS [Hốn loạn.]
Những gì bắt đầu như một sự hợp tác lịch thiệp giữa các Đồng minh đã nhanh chóng chuyển thành một trong những cuộc cạnh tranh lớn nhất về thông tin liên quan đến nghiên cứu vũ khí trong lịch sử chiến tranh. Sau khi sông Rhine đã bị vượt qua, cuộc săn lùng tài nguyên khoa học Đức Quốc xã sớm trở thành một cuộc cạnh tranh tự do,
Trong quá trình tìm kiếm vũ khí hóa học, các nhà khoa học của Alsos đã vượt sông Rhine theo gót Quân đoàn số 3. Họ đi trên một đoàn xe jeep nhỏ của quân đội. “Khu vực này không được tốt”, Đại tá Pash nhớ lại sau chiến tranh. “Các tòa nhà trong thị trấn rung chuyển vì sóng xung kích do các vụ pháo tạo ra”, và “các phương tiện bị chết máy hoặc hỏng hóc do xe bọc thép và xe tải của Đức Quốc xã đang rút lui gây ra càng làm tăng thêm sự hỗn loạn”. Khi tiến vào Ludwigshafen, một chiếc xe jeep của Alsos bỗng tách khỏi đoàn xe và lao thẳng vào làn đạn của một khẩu súng chống tăng Đức. Không ngờ một chiếc xe jeep đơn lẻ xuất hiện trên đường mà không có xe tăng đi kèm, nên quân Đức dường như đã bị bất ngờ. “Một loạt đạn và một vài phát súng máy thi nhau nổ ran”, Pash nhớ lại sau chiến tranh.
Các nhà khoa học Alsos đã nghe nói rằng các đơn vị thuộc lực lượng T đang bám sát phía sau họ và đang sắp xếp một nhóm lớn các chuyên gia kỹ thuật đến dưới ngọn cờ CIOS. Các nhà khoa học Alsos liền quyết tâm đến nhà máy IG Farben trước. Nhưng những gì họ tìm thấy ở Ludwigshafen đã khiến họ thất vọng. Nhà máy không chỉ bị hư hại nặng nề do các cuộc ném bom của Đồng minh mà các tủ hồ sơ cũng trống rỗng. Giấy tờ đã bị phá hủy hoặc bị lấy đi. Không tìm thấy vũ khí hóa học nào.
Sáng hôm sau, ngày 24 tháng 3 năm 1945, trong khi ăn sáng, nhóm Alsos đã gặp lực lượng T và nhóm CIOS. Cả hai đều đến để kiểm tra nhà máy Farben. “Thật thú vị khi chứng kiến tác động của những “quả bom” do các nhà khoa học của chúng tôi giả vờ tình cờ thả xuống”, Pash nhớ lại, “nghe giống như… “Ồ chắc chắn rồi, Bạn có thể đến nhà máy Farben vào ngày mai, sau khi T-Forces chiếm được nó. Bạn sẽ thấy thú vị. Chúng tôi biết, vì chúng tôi đã ở đó ngày hôm qua.” Sự ganh đua giữa các nhóm là điều hiển nhiên.
Hai người chỉ huy nhóm vũ khí hóa học CIOS là một sĩ quan người Mỹ, Trung tá Philip R. Tarr, và một sĩ quan người Anh, Thiếu tá Edmund Tilley. Những con người này sẽ sớm trở thành những nhân vật quan trọng trong câu chuyện Chiến dịch Kẹp Giấy. Mỗi người đều được coi là chuyên gia về chiến tranh hóa học, nhưng Thiếu tá Tilley có lợi thế hơn người đồng cấp Mỹ của mình ít nhất là trên thực địa ở chỗ ông nói tiếng Đức trôi chảy. Ngoài vai trò là người lãnh đạo CIOS, Trung tá Tarr còn là sĩ quan chỉ huy của Sư đoàn Tình báo Quân đội Hoa Kỳ thuộc Cục Chiến tranh Hóa học Hoa Kỳ tại Châu Âu. Thiếu tá Tilley vào lúc đó không biết rằng mục tiêu Quân đội Hoa Kỳ của Trung tá Tarr sẽ sớm thay thế lòng trung thành của ông đối với công việc chung của họ với tư cách là một nhóm CIOS.
Với lực lượng Mỹ hiện đang ở trên đất Đức, nỗi sợ rằng Hitler có thể tung ra một cuộc tấn công bằng vũ khí hóa học tàn khốc trong nỗ lực cuối cùng để thực hiện lời hứa về vũ khí kỳ diệu của mình là có thật, nhưng Tarr và Tilley có rất ít manh mối về nơi cất giấu vũ khí hóa học. Các điệp viên phản gián Đức đã làm rất tốt công việc che giấu các chương trình tác nhân thần kinh của Đế chế khỏi các cơ quan tình báo nước ngoài trong chiến tranh. Tabun đã được đặt nhiều tên mã khác nhau, bao gồm Trilon 83, Substance 83 và Gelan 1. Ngay cả nguyên liệu thô của nó cũng được mã hóa. Ethanol là “A4” và natri là “A-17”, khiến việc nhận dạng gần như không thể. Năm 1942, một báo cáo tình báo Hoa Kỳ có tiêu đề “Khí độc Đức mới” đã kết luận rằng khả năng Đức sở hữu vũ khí hóa học mới “không còn được xem xét nghiêm túc nữa”. Chỉ đến tháng 5 năm 1943, sau khi bắt giữ một nhà hóa học người Đức ở Bắc Phi, các điệp viên Anh mới biết về một chất độc thần kinh không màu có “tính chất đáng kinh ngạc” đang được các nhà hóa học IG Farben ở Berlin phát triển. Các sĩ quan thẩm vấn Anh thấy thông tin của nhà hóa học người Đức là đáng tin cậy và đã viết một báo cáo bí mật dài mười trang cho Cơ sở Thử nghiệm Phòng thủ Hóa học, hoạt động ở Porton Down. Nhưng nhà khoa học bị bắt chỉ biết tên mã của chất này là Trilon 83. Không có thêm thông tin, người Anh không có hành động nào. Bây giờ, vào tháng 3 năm 1945, Tarr và Tilley đang truy lùng Trilon 83 bí ẩn này và bất kỳ thứ gì khác giống như nó.
Dẫn đầu nhóm CIOS vào Đức, Tarr và Tilley đã kiểm tra các nhà máy của IG Farben tại Ludwigshafen, Mannheim và Elberfeld. Tại mỗi địa điểm, các sĩ quan nghi ngờ lời khai của các nhà khoa học Farben của mỗi thị trấn, khi họ đều tuyên bố biết rất ít. Về mặt thu thập thông tin tình báo, kịch bản tại mỗi nhà máy Farben bị tịch thu luôn giống nhau một cách đáng kinh ngạc: Nơi đáng lẽ phải có kho hồ sơ công ty khổng lồ, thì thay vào đó lại chỉ có những chiếc tủ trống rỗng. Các nhà khoa học Farben bị bắt giữ và thẩm vấn luôn nói cùng một điều: IG Farben sản xuất các sản phẩm hóa học để sử dụng trong gia đình như chất tẩy rửa, sơn, vecni và xà phòng. Và không một nhà khoa học nào được các sĩ quan CIOS phỏng vấn tuyên bố biết được các ông chủ của mình đã đi đâu.
Trong một bản ghi nhớ của CIOS, Tilley và Tarr bày tỏ sự thất vọng ngày càng tăng, Hết nhà khoa học này đến nhà khoa học tiếp theo đều “nói dối một cách trắng trợn về các hoạt động của mình”, những người thẩm vấn đã viết trong báo cáo tình báo của họ, có tựa đề “Thẩm vấn Nhân viên Khoa học Đức”. Thông tin tình báo tốt, có thể sử dụng được vẫn nằm ngoài tầm với. Rồi, một cơ hội ngẫu nhiên đến, các điệp viên của Alsos đã có một bước đột phá lớn hơn về phía bắc tại thành phố Bonn.
Alsos đã bám theo Sư đoàn Thiết giáp số 3 kể từ khi nó lần đầu tiên tiến vào Ludwigshafen vào ngày 23 tháng 3. Vài ngày sau, binh lính giải phóng thành phố Cologne và sau đó nhắm đến Bonn, cách đó khoảng 15 dặm về phía bắc. Những người lính trinh sát báo cáo đã nhìn thấy những người có thể là giáo sư đang vội vã đốt các tập tài liệu trong sân trường Đại học Bonn. Điều mà họ không thể nhìn thấy là bên trong phòng vệ sinh của trường đại học, các giáo sư cũng đang tuyệt vọng hối hả xả tài liệu xuống bồn cầu, hy vọng sẽ tiêu hủy bằng chứng có thể buộc tội họ về tội ác chiến tranh. Khi cuối cùng, phe Đồng minh đã chiếm được trường đại học, một kỹ thuật viên phòng thí nghiệm người Ba Lan đã tiếp cận một người lính Anh, nói rằng mình đã cứu được một đống tài liệu lớn chưa được xả xuống bồn cầu như dự định.
Những giấy tờ này có vẻ quan trọng, kỹ thuật viên phòng thí nghiệm nói. Và thực sự là như vậy. Người này đã chuyển cho tình báo Anh một danh sách mật về các nhà khoa học hàng đầu của Đế chế. Viên sĩ quan đã chuyển danh sách cho Samuel Goudsmit của Chiến dịch Alsos. Nhóm tài liệu này sẽ dẫn đến cái mà sau này được gọi là Danh sách Osenberg.
Tiến sĩ Werner Osenberg, một kỹ sư cơ khí, là một đảng viên Quốc xã tận tụy và là thành viên của SS; ông cũng là một thành viên cấp cao của mật vu Gestapo. Vào tháng 6 năm 1943, Osenberg được Göring giao nhiệm vụ điều hành cái gọi là Văn phòng Kế hoạch của Hội đồng Nghiên cứu Đế chế, chuyên về chiến tranh. Theo sắc lệnh của Führer ngày 9 tháng 6 năm 1942, điều lệ của Hội đồng Nghiên cứu có nội dung: “Những nhà khoa học hàng đầu trên hết phải nghiên cứu những gì hữu ích cho chiến tranh bằng cách cùng nhau làm việc trong các lĩnh vực đặc biệt của họ.”
Từ Văn phòng Kế hoạch của hội đồng, công việc của Osenberg là điều phối danh sách các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ và kỹ thuật viên người Đức. Với sự chính xác của bộ máy hành chính, Osenberg bắt tay vào làm việc, truy tìm và lập danh mục mọi nhà khoa học ở Đức. Nhiệm vụ của Osenberg là đưa những người đàn ông này vào phục vụ cho Đế chế. Trong thời gian ngắn, ông đã biên soạn một danh sách gồm 15.000 người và 1.400 cơ sở nghiên cứu. Trên khắp nước Đức, các nhà khoa học, kỹ sư và kỹ thuật viên đã được triệu hồi từ tiền tuyến, một hành động mà Hitler gọi là Hành động Osenberg. Điều này dẫn đến việc giải ngũ 5.000 nhà khoa học khỏi Lực lượng vũ trang Đức. Sau khi được sàng lọc về trình độ kỹ năng, những người làm khoa học được bố trí vào các trường đại học và học viện được phân bổ trên khắp lãnh thổ Đế chế, nơi họ có thể làm việc trên các chương trình nghiên cứu liên quan đến vũ khí để phục vụ cho nỗ lực chiến tranh.
Bí ẩn về cách Danh sách Osenberg xuất hiện trong nhà vệ sinh của Đại học Bonn chưa bao giờ được giải quyết, nhưng đối với Alsos thì đó là một mỏ vàng tình báo. Danh sách này không chỉ là hồ sơ về những người đã làm việc cho dự án khoa học nào của Reich, mà còn chứa các địa chỉ, bao gồm một địa chỉ của chính Werner Osenberg. Goudsmit đã cử một đội đến một thị trấn nhỏ gần Hannover. Tại đó, các điệp viên của Alsos đã bắt giữ Osenberg và toàn thể bộ sậu của ông ta.
Những giấy tờ tìm thấy trong nhà vệ sinh rất có giá trị, nhưng chính danh mục các thẻ trong Văn phòng của Osenberg mới là vô giá. “Mục lục chính bao gồm một tủ bốn ngăn kéo chứa khoảng hai nghìn thẻ in lớn (10″ x 7″) được điều chỉnh để nhập nhiều lần ở cả hai mặt của thẻ”, Alsos báo cáo. Mục lục phụ bao gồm ba bộ bổ sung “khoảng một nghìn thẻ, 6″ x 4″… chứa cùng thông tin nhưng được phân loại theo quan điểm khác và tạo điều kiện tìm kiếm theo các dòng khác nhau”. Đây là một kho thông tin quá lớn, quá nhiều để bất kỳ tổ chức nào có thể xử lý. Alsos đã chia sẻ Danh sách Osenberg với CIOS; có hàng nghìn đầu mối cần theo dõi. Danh mục thẻ của Osenberg sẽ cho phép các nhóm khác nhau bắt đầu ghép lại với nhau về cách các chương trình khoa học hoạt động dưới thời Reich và ai là người chịu trách nhiệm.
Các sĩ quan Alsos đã đóng gói văn phòng của Osenberg và đưa ông đến Paris, nơi ông được giao nhiệm vụ tổ chức thông tin. Goudsmit kinh hoàng trước sự kiêu ngạo mà Osenberg thể hiện sau khi ông được đưa vào làm việc tại một văn phòng trong một cơ sở được bảo vệ ở Versailles. “Ở đây, Osenberg đã thiết lập lại công việc như thường lệ; y chỉ yêu cầu thư ký của mình thay đổi địa chỉ trên hồ sơ của mình thành… “Hiện tại ở Paris”, Goudsmit giải thích sau chiến tranh. Ông ta cũng trở nên bực bội khi Osenberg cố gắng nhiều lần thuyết phục Goudsmit về lòng trung thành đã tuyên thệ của mình với quân Đồng minh. “Tôi trở nên mất kiên nhẫn”, Goudsmit giải thích, và nói với Osenberg, “Người ta không thể tin tưởng anh…. Anh phụ trách bộ phận khoa học của Gestapo, vậy mà anh chưa bao giờ tiết lộ cho chúng tôi và anh đã đốt hết các giấy tờ liên quan.” Osenberg vô cùng tức giận trước lời buộc tội. “Không, tôi không đốt những giấy tờ đó”, y nói với Goudsmit. “Tôi đã chôn chúng và hơn nữa, tôi không phải là người đứng đầu bộ phận khoa học của Gestapo, tôi chỉ là người chỉ huy thứ hai.” Sau đó, Goudsmit dễ dàng moi ra từ Osenberg “nơi những giấy tờ đó được chôn và nơi lưu trữ các giấy tờ Berlin bị mất”.
Nhưng chưa có ai từ lực lượng Đồng minh tiến vào Berlin ngay lúc này. Vào những ngày cuối cùng của tháng 3 năm 1945, Berlin vẫn là trái tim của Đế chế, và được bảo vệ quyết liệt. Nó sẽ vẫn là lãnh thổ do Đức chiếm giữ trong một tháng nữa, cho đến ngày cuối cùng của tháng 4 năm 1945.
Đó là một thành phố đổ nát, và tinh thần của người dân Berlin đang xuống dốc theo từng ngày trôi qua. Với gần 85 phần trăm thành phố bị phá hủy, Berlin đã bị biến thành đống đổ nát. Phần lớn các tòa nhà vẫn còn đứng vững đều có cửa sổ bị vỡ. Mọi người đều lạnh cóng. Các hầm trú ẩn dưới lòng đất quá đông đúc. Nhiên liệu sưởi ấm khan hiếm. “Vào đầu tháng 4,” nhà sử học Anthony Beevor giải thích, “khi Berlin chờ đợi cuộc tấn công cuối cùng [của Hồng quân], bầu không khí trong thành phố pha trộn giữa tình trạng kiệt quệ, nỗi khiếp đảm và tuyệt vọng.”
Đài phát thanh Đức Quốc xã thúc giục người dân Berlin phải chiến đấu đến cùng. Theo Goebbels, “Chúng ta chỉ còn một khẩu hiệu duy nhất: ‘Chinh phục hay là chết'”. Hitler đổ tội mọi thứ lên đầu người Do Thái và người Slav. “Kẻ thù Do Thái-Bolshevik nguy hiểm với số đông của họ đang bắt đầu cuộc tấn công cuối cùng”, ông ta nói với quân đội ở mặt trận phía đông, trong lời kêu gọi cuối cùng vào ngày 15 tháng 4. Người Nga quyết tâm tiêu diệt toàn bộ người Đức, Hitler cảnh báo, những người già và trẻ em sẽ bị sát hại, phụ nữ và bé gái sẽ bị hạ nhục như gái điếm trong doanh trại”. Tất cả những người khác sẽ bị đày đến Siberia.
Tại trung tâm Berlin, ở quận Wilhelmstrasse, nơi đặt các bộ của Đế chế, Đại tá Siegfried Knemeyer đã cố gắng duy trì trật tự cho nhóm nhân sự đông đảo mà ông chịu trách nhiệm tại Bộ Không quân. Thật là một phép màu khi tòa nhà vẫn còn đứng vững. Được xây dựng bằng bê tông cốt thép, Bộ Không quân là biểu tượng được đánh giá cao về lối kiến trúc trông hù dọa của Đảng Quốc xã, cao 7 tầng, với 2.800 phòng, 4.000 cửa sổ và hành lang dài tổng cộng bốn dặm. Vào thời kỳ đỉnh cao của cuộc chiến trên không, nơi này nhộn nhịp với 4.000 viên chức Quốc xã và thư ký của họ. Nhưng giờ đây không còn như vậy nữa. Không quân Đức đã bị hủy diệt.
Từ năm 1943, Siegfried Knemeyer đã đảm nhiệm vai trò là người đứng đầu tất cả các hoạt động phát triển kỹ thuật không quân cho Luftwaffe. Chức danh của ông là cố vấn kỹ thuật cho Thống chế Göring, người rất ngưỡng mộ Knemeyer, gọi ông là “cậu bé của tôi”. Từ động cơ máy bay đến các thiết bị, nếu một thành phần mới nào đang được phát triển cho Luftwaffe, Göring muốn biết ý kiến của Knemeyer về nó trước khi ông chấp thuận dự án. Nhưng bây giờ, vào tuần thứ hai của tháng 4 năm 1945, hầu hết các đơn đặt hàng đến Bộ Không quân đều không thể được Knemeyer thực hiện. Trong nửa cuối năm 1944, Không quân Đức đã mất hơn 20.000 máy bay. Bộ Quân khí của Speer kể từ đó đã xoay xở để sản xuất khoảng 3.000 máy bay mới, nhưng giờ chúng không còn hữu dụng nữa. Trên khắp Reich, máy bay Đức nằm chết trên đường băng. Quân Đồng minh đã ném bom đường băng của Luftwaffe và hầu như không còn nhiên liệu hàng không nào còn lại. Kế hoạch sản xuất nhiên liệu tổng hợp tại nhà máy Buna của IG Farben đã kết thúc khi Hồng quân giải phóng trại Auschwitz vào ngày 27 tháng 1 năm 1945.
Nguồn nhiên liệu của Đức ở Hungary và Romania đã cạn kiệt. Máy bay phản lực của Đức vượt trội hơn máy bay chiến đấu thông thường của Đồng minh trên không, nhưng điều đó không còn ý nghĩa nhiều nữa, vì hầu hết máy bay của Luftwaffe đều nằm kẹt trên mặt đất.
Knemeyer sẽ sớm chạy trốn khỏi Berlin, nhưng không phải trước khi ông hoàn thành nhiệm vụ cuối cùng được Speer giao phó. Theo lời khai tại phiên tòa Nuremberg, Speer đã chỉ thị cho Knemeyer giấu thông tin kỹ thuật của Luftwaffe trong khu rừng bên ngoài Berlin. Việc cất giấu các tài liệu chính thức là một hành vi phản quốc, nhưng theo các tài liệu cá nhân của Knemeyer, Speer và Knemeyer đã đồng ý rằng tiến bộ khoa học quan trọng của Đức trong ngành hàng không không thể, trong bất kỳ trường hợp nào, để lọt vào tay người Nga.
Ngoài ra còn có một công việc không chính thức thứ hai mà Speer giao cho Knemeyer, một công việc không được thảo luận tại Nuremberg nhưng Speer đã thừa nhận điều đó nhiều thập kỷ sau đó. Speer đã yêu cầu Knemeyer giúp lập kế hoạch trốn thoát.
Kế hoạch trốn khỏi Đức đã được Speer lên kế hoạch từ lâu; đó là những chi tiết mà ông cần được giúp đỡ để giải quyết. Kể từ khi Speer xem bộ phim S.O.S. Iceberg, với sự tham gia của Leni Riefenstahl và Ernst Udet, ông biết mình phải trốn đến Greenland nếu Đức thua cuộc chiến. Ở Greenland, Speer có thể dựng trại và viết hồi ký của mình, ông giải thích sau này. Tất nhiên ông sẽ cần một phi công, đó là vai trò mà Knemeyer phù hợp.
Knemeyer là một kỹ sư hàng không, nhưng ông cũng là một trong những phi công được Luftwaffe kính trọng nhất, được xếp hạng trong số mười phi công hàng đầu ở Đức. Chuyên môn của ông, khi ông thực hiện các nhiệm vụ trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, là gián điệp. Từ năm 1938 đến năm 1942, Knemeyer đã thực hiện một số nhiệm vụ Abwehr (tình báo quân sự) nguy hiểm nhất từng được ghi nhận, bao gồm các nhiệm vụ bay trên bầu trời Anh và Na Uy. Và chính Knemeyer là người thực hiện chuyến bay đầu tiên ở độ cao 44.000 bộ trên Bắc Phi. Nhưng Knemeyer cũng là một người thực dụng. Ông biết, rõ ràng là biết rõ hơn Speer, rằng việc cố gắng bay ra khỏi Đức và đến Greenland chở theo một trong những tên tội phạm chiến tranh bị truy nã gắt gao nhất của Đệ tam Đế chế trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến sẽ là một kỳ tích gần như không thể. Thời tiết ở Greenland rất khắc nghiệt và địa hình hiểm trở. Nhiệm vụ này đòi hỏi một loại máy bay rất đặc biệt có thể xử lý được các điều kiện bấp bênh và hạ cánh khó khăn, cụ thể là Bv 222, do Blohm & Voss thiết kế. Chỉ có 13 chiếc từng được chế tạo. Chỉ có một người có thể tiếp cận loại máy bay đó, đó là Werner Baumbach, bạn của Knemeyer, một phi công lái máy bay ném bom bổ nhào 28 tuổi được Hitler đặt biệt danh là tướng ném bom.
Knemeyer biết rằng việc đưa Baumbach lên tàu là điều bắt buộc để có một cuộc trốn thoát thành công đến Greenland. Trong chiến tranh, Baumbach đã thực hiện các nhiệm vụ giữa Na Uy và một trạm thời tiết của Đức đặt tại Greenland. Speer đồng ý và Baumbach được đưa vào kế hoạch. Trong vòng bí mật, Baumbach và Knemeyer bắt đầu thu thập “thực phẩm, thuốc men, súng trường, ván trượt, lều, thiết bị đánh cá và lựu đạn” theo lệnh của Speer. Tại sân bay Travemünde, phía bắc Berlin, Baumbach đã dành riêng một chiếc Bv 222 để sử dụng. Điều duy nhất còn lại là lệnh trốn chạy của Speer. Thời gian đang cạn dần. Berlin đang đến gần số phận sụp đổ của mình.

Siegfried Knemeyer là giám đốc phát triển kỹ thuật của Không quân Đức dưới thời Hermann Göring. Được ca ngợi là một trong mười phi công hàng đầu của Đế chế, Albert Speer đã yêu cầu Knemeyer lái máy bay chởv mình trốn thoát đến Greenland. Hợp đồng kẹp giấy: Không quân Lục quân Hoa Kỳ, Ohio. (NARA)