Chiến dịch Kẹp Giấy: Kế hoạch Tình báo Đưa các Khoa học gia Quốc xã đến Mỹ (Bài 1)

Annie Jaconsen

Trần Quang Nghĩa dịch

MỞ ĐẦU

Đây là một cuốn sách về các nhà khoa học Đức Quốc xã và hoạt động bí mật của chính quyền Hoa Kỳ. Sách nói về cách các quan chức Hoa Kỳ có thể che giấu sự thật đen tối khỏi công chúng nhân danh an ninh quốc gia, và về những hoàn cảnh không thể lường trước, thường là may mắn, mà qua đó sự thật được tiết lộ.

Chiến dịch Paperclip [Kẹp giấy]  là một kế hoạch tình báo của Hoa Kỳ sau Thế chiến II nhằm đưa các nhà khoa học Đức đến Hoa Kỳ theo các hợp đồng quân sự bí mật. Chương trình này có một vẻ ngoài tốt lành và một bộ phận bị xếp loại về tính bí mật và dối trá. “Tôi mê mệt vì công nghệ”, Adolf Hitler nói với nhóm thân cận của mình tại một bữa tiệc tối năm 1942, và sau khi Đức đầu hàng, hơn 1.600 nhà công nghệ của Hitler sẽ trở thành tài sản riêng của Hoa Kỳ. Những gì sau đây sẽ tập trung vào 21  nhân vật trong số này.

Theo Chiến dịch Paperclip, bắt đầu vào tháng 5 năm 1945, các nhà khoa học đã giúp Đệ tam Đế chế tiến hành chiến tranh tiếp tục công việc nghiên cứu vũ khí cho chính quyền  Hoa Kỳ, phát triển tên lửa, vũ khí hóa học và sinh học, y học hàng không và vũ trụ (để nâng cao hiệu suất của phi công quân sự và phi hành gia), và nhiều loại vũ khí khác với tốc độ điên cuồng và hoang tưởng đã định hình nên Chiến tranh Lạnh. Thời đại của vũ khí hủy diệt hàng loạt đã bắt đầu, và cùng với nó là khái niệm nguy hiểm về chiến thuật bên bờ vực – nghệ thuật theo đuổi chính sách đẩy nguy hiểm đến giới hạn an toàn trước khi dừng lại. Việc thuê những tên Đức Quốc xã tận tụy là chưa từng có tiền lệ, hoàn toàn vô nguyên tắc và vốn nguy hiểm không chỉ vì, như Thứ trưởng Chiến tranh Robert Patterson đã tuyên bố khi tranh luận về việc có nên chấp thuận Paperclip hay không, “Những gã này là kẻ thù”, mà còn vì nó trái ngược với lý tưởng dân chủ. Những nhân vật được mô tả trong cuốn sách này không phải là thành viên Đức Quốc xã trên danh nghĩa. 8 trong số 21 người – Otto Ambros, Theodor Benzinger, Kurt Blome, Walter Dornberger, Siegfried Knemeyer, Walter Schreiber, Walter Schieber và Wernher von Braun, mỗi người đều từng làm việc cùng với Adolf Hitler, Heinrich Himmler hoặc Hermann Göring trong chiến tranh. 15 trong số 21 người là thành viên tận tụy của Đảng Quốc xã; 10 người trong số họ cũng tham gia các đội bán quân sự cực kỳ bạo lực và cực kỳ dân tộc chủ nghĩa của Đảng Quốc xã, bọn SA (Sturmabteilung, hay Lực lượng Xung kích) và SS (Schutzstaffel, hay Đội Cận vệ); hai người đeo Huy hiệu Đảng Vàng, cho thấy sự ưu ái được Führer ban tặng; một người được trao giải thưởng một triệu reichsmark cho thành tích khoa học.

6 trong số 21 người bị xét xử tại tòa án Nuremberg, người thứ bảy được thả mà không cần xét xử trong những tình huống bí ẩn, và người thứ tám bị xét xử tại Dachau vì tội ác chiến tranh khu vực. Một người bị kết tội giết người hàng loạt và bắt tù nhân phục dịch như nô lệ, bị giam một thời gian, được ân xá, và sau đó được Bộ Năng lượng Hoa Kỳ thuê. Họ đến Hoa Kỳ theo lệnh của Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. Một số viên chức tin rằng bằng cách ủng hộ chương trình Kẹp giấy, họ chấp nhận điều ít tệ hại hơn trong hai điều tệ hại – nếu Hoa Kỳ không tuyển dụng những nhà khoa học này, thì Cộng sản Liên Xô chắc chắn sẽ săn lùng. Các tướng lĩnh và đại tá khác tôn trọng và ngưỡng mộ những viên chức này và  đã nói như vậy.

Để hiểu được tác động của Chiến dịch Paperclip đối với an ninh quốc gia Hoa Kỳ trong những ngày đầu của Chiến tranh Lạnh và di sản công nghệ chiến tranh mà nó để lại, trước tiên điều quan trọng là phải hiểu rằng chương trình này được điều hành từ một văn phòng trong vòng “E” [viết tắt của Elite, tức đầu não] của Lầu Năm Góc. Cơ quan Mục tiêu Tình báo Liên quân (JIOA) được thành lập chỉ để tuyển dụng và thuê các nhà khoa học Đức Quốc xã và đưa họ vào các dự án vũ khí và các chương trình tình báo khoa học trong quân đội, hải quân, không quân, CIA (bắt đầu từ năm 1947) và các tổ chức khác. Trong một số trường hợp, khi các cá nhân khoa học gia  quá thân cận với Hitler, JIOA đã thuê họ làm việc tại các cơ sở quân sự của Hoa Kỳ ở Đức đang bị chiếm đóng. JIOA là một tiểu ban của Ủy ban Tình báo Liên quân (JIC), nơi cung cấp thông tin an ninh quốc gia cho Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân. JIC vẫn là cơ quan tình báo Hoa Kỳ ít được biết đến và ít được nghiên cứu nhất trong thế kỷ XX. Để hiểu được tâm thế của Ủy ban Tình báo Liên quân, hãy xem xét điều này: Trong vòng một năm sau vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki, JIC đã cảnh báo Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân rằng Hoa Kỳ cần chuẩn bị cho “một cuộc chiến tranh toàn diện” với Liên Xô bao gồm chiến tranh nguyên tử, hóa học và sinh học – và họ thậm chí còn ước tính ngày bắt đầu  là năm 1952. Cuốn sách này tập trung vào giai đoạn khó khăn đó, từ năm 1945 đến năm 1952, khi JIOA liên tục tuyển dụng các nhà khoa học Đức Quốc xã, lên đến đỉnh điểm là Kế hoạch Kẹp giấy Tăng tốc, cho phép đưa những cá nhân trước đây bị coi là không mong muốn đến Hoa Kỳ, bao gồm cả Thiếu tướng Walter Schreiber, Tổng Y sĩ của Đệ Tam Đế chế.

Chiến dịch Paperclip để lại di sản là tên lửa đạn đạo, bom chùm khí sarin, boongke ngầm, tàu vũ trụ và vũ khí dịch hạch. Nó cũng để lại một loạt các tài liệu từng được coi là bí mật mà tôi đã truy cập để báo cáo trong cuốn sách này, bao gồm các báo cáo thẩm vấn sau chiến tranh, hồ sơ an ninh tình báo quân đội, hồ sơ của Đảng Quốc xã, báo cáo vũ khí tình báo Đồng minh, bản ghi nhớ JIOA đã giải mật, lời khai tại phiên tòa Nuremberg, lịch sử truyền khẩu, nhật ký công tác của một vị tướng và nhật ký của một điều tra viên về tội ác chiến tranh Nuremberg. Cùng với các cuộc phỏng vấn và trao đổi thư từ độc quyền với con cháu của các nhà khoa học Đức Quốc xã này, năm người trong số họ đã chia sẻ với tôi các tài liệu cá nhân và các bài viết chưa xuất bản của các thành viên gia đình họ, điều tiếp sau là câu chuyện đáng lo ngại về Chiến dịch Paperclip.

Tất cả những nhân vật được mô tả trong cuốn sách này hiện đã qua đời. Là các con người thành đạt dám nghĩ dám làm, cũng giống như đa số họ đã giành được các giải thưởng quân sự và khoa học hàng đầu khi họ phục vụ cho Đệ tam Đế chế, thì nay nhiều người trong số họ đã giành được các giải thưởng quân sự và dân sự hàng đầu của Hoa Kỳ khi phục vụ cho đất nước này. Một người có tên được đặt cho một tòa nhà chính phủ Hoa Kỳ, và tính đến năm 2013, vẫn còn hai người tiếp tục có tên trong các giải thưởng khoa học quốc gia danh giá được trao hàng năm. Một người đã phát minh ra nhiệt kế đo tai. Những người khác đã giúp con người lên mặt trăng.

Chuyện này xảy ra như thế nào và giờ đây nó có ý nghĩa gì? Liệu thành tựu có xóa bỏ được tội ác trong quá khứ không? Đây là một trong những câu hỏi trung tâm trong câu chuyện đen tối và phức tạp này. Đây là một câu chuyện về những kẻ thông đồng theo chủ nghĩa Machiavelli và những người cống hiến cả cuộc đời để thiết kế vũ khí cho cuộc chiến sắp tới. Đây cũng là một câu chuyện về chiến thắng và những gì chiến thắng thường có thể mang lại. Nơi đây đầy rẫy những tên Đức Quốc xã, nhiều người trong số chúng phạm tội đồng lõa giết người nhưng không bao giờ bị buộc tội và sống hết cuộc đời trong sự phú quý ở Hoa Kỳ. Trong những trường hợp công lý được thực thi, nó nghe có vẻ nửa vời.

Hoặc có lẽ có một vị anh hùng trong hồ sơ sự kiện, vẫn đang tiếp tục được bổ sung.

PHẦN I

Chỉ có ai chết mới chứng kiến ​​được sự kết thúc của chiến tranh.”

Vô danh

CHƯƠNG MỘT

 

Chiến tranh và vũ khí

Vào ngày 26 tháng 11 năm 1944, Strasbourg, Pháp, vẫn đang bị tấn công. Những con phố lát đá cuội của thành phố thời trung cổ này đang hỗn loạn. Ba ngày trước, Sư đoàn Thiết giáp số 2 của Pháp đã đuổi quân Đức ra khỏi thị trấn và chính thức giải phóng thành phố khỏi Đức Quốc xã, nhưng giờ đây quân Đồng minh đang gặp khó khăn trong việc ngăn chặn kẻ thù. Đạn cối của Đức đã nã xuống đường phố. Các trận không chiến diễn ra ác liệt trên cao, và ở trung tâm thị trấn, bên trong một căn hộ sang trọng trên Bến tàu Klébar, binh lính Hoa Kỳ có vũ trang canh gác nhà vật lý hạt nhân người Mỹ gốc Hà Lan Samuel Goudsmit khi ông ngồi trên ghế bành để nghiên cứu hồ sơ. Căn hộ thuộc về một chuyên gia virus người Đức tên là Tiến sĩ Eugen Haagen, người được cho là một nhà phát triển chính trong chương trình vũ khí sinh học bí mật của Đức Quốc xã. Haagen dường như đã vội vã trốn khỏi căn hộ của mình chỉ vài ngày trước đó, để lại một bức ảnh đóng khung của Hitler trên lò sưởi và một bộ tài liệu quan trọng trong tủ.

Goudsmit và hai đồng nghiệp, chuyên gia chiến tranh vi khuẩn Bill Cromartie và Fred Wardenberg, đã đọc tài liệu của Tiến sĩ Haagen trong nhiều giờ. Dựa trên những gì trước mắt, họ dự định sẽ ở đây suốt đêm. Hầu hết Strasbourg không có điện, vì vậy Goudsmit và các đồng nghiệp của ông đã đọc dưới ánh nến.

Samuel Goudsmit chỉ huy một đơn vị tham gia vào một loại trận chiến khác với trận chiến mà bộ binh và phi công đang chiến đấu ngoài kia. Goudsmit và nhóm của ông đang săn lùng vũ khí khoa học Đức Quốc xã tiên tiến hơn những gì quân Đồng minh sở hữu. Goudsmit là giám đốc khoa học của nhiệm vụ tuyệt mật này, có mật danh là Chiến dịch Alsos, một nỗ lực bí ẩn và nguy hiểm, là một nhánh của Dự án Manhattan [Dự án chế tạo bom nguyên tử]. Goudsmit và các đồng nghiệp của mình đã quen làm việc  bên trong phòng thí nghiệm hơn là trên chiến trường, nhưng họ lại ở đây, ngay giữa cuộc chiến. Những người đàn ông của khoa học này phải xác định xem Đệ tam Đế chế đã tiến gần đến mức nào trong việc tiến hành chiến tranh nguyên tử, sinh học hoặc hóa học chống lại quân Đồng minh.

Alsos gọi đây là chiến tranh A-B-C. Vô số sinh mạng phụ thuộc vào sự thành công của chiến dịch.

Samuel Goudsmit có những phẩm chất khiến ông trở thành giám đốc khoa học lý tưởng của nhiệm vụ. Sinh ra ở Hà Lan, ông nói tiếng Hà Lan và tiếng Đức trôi chảy. Ở tuổi 23, ông đã trở nên nổi tiếng trong số các nhà vật lý đồng nghiệp vì đã xác định được khái niệm spin electron (lượng momen động của electron). Hai năm sau, ông lấy bằng Tiến sĩ tại Đại học Leiden và chuyển đến Mỹ để giảng dạy. Trong chiến tranh, Goudsmit đã làm việc về phát triển vũ khí thông qua một phòng thí nghiệm do chính phủ tài trợ tại MIT. Điều này đã mang lại cho ông cái nhìn sâu sắc độc đáo về thế giới bí mật của chiến tranh nguyên tử, sinh học và hóa học và đã đưa ông vào chiếc ghế ông đang ngồi, và đọc nhanh trong ánh nến nhấp nháy. Chỉ vài ngày trước, nhóm của Goudsmit đã bắt được bốn nhà khoa học hạt nhân hàng đầu của Hitler và biết được từ họ rằng dự án bom nguyên tử của Đức Quốc xã đã thất bại. Đây là một tin tình báo bất ngờ đối với Alsos và khiến ai nấy đều vô cùng nhẹ nhõm. Trọng tâm bây giờ chuyển sang chương trình vũ khí sinh học của Đế chế, được đồn đại là đã tiến triển tốt.

Goudsmit và nhóm điệp viên Alsos của ông biết rằng Đại học Strasbourg đã kiêm nhiệm luôn vai trò là cơ sở nghiên cứu chiến tranh sinh học cho Đệ tam Đế chế. Từng là thành trì của sức mạnh học thuật của Pháp, trường đại học 400 tuổi này đã bị Hội đồng Nghiên cứu Đế chế, tổ chức khoa học của Hermann Göring, tiếp quản vào năm 1941. Kể từ đó, trường đại học đã được chuyển đổi thành một tiền đồn kiểu mẫu của khoa học Đức Quốc xã. Hầu hết các giáo sư của trường đại học đã bị thay thế bằng những  thành viên của Đảng Quốc xã và SS của Heinrich Himmler.

Vào đêm tháng 11 này, Goudsmit đã quyết định cho nhóm của mình dựng trại trong căn hộ của Giáo sư Haagen và đọc tất cả các tài liệu một cách trực tiếp. Các thành viên trong nhóm an ninh của Alsos đã đặt súng sang một bên, tổ chức một bữa ăn với khẩu phần K [khẩu phần ăn của binh sĩ trên chiến trường] trên bàn ăn và bắt đầu một đêm dài chơi bài. Còn Goudsmit và các chuyên gia về vũ khí sinh học Cromartie và Wardenberg ngồi lại trên những chiếc ghế bành của Giáo sư Haagen và xem xét tất cả hồ sơ. Đêm xuống và tuyết bắt đầu rơi, làm cho cảnh bên ngoài trở nên hỗn loạn. Nhiều giờ trôi qua.

Rồi đến một lúc, Goudsmit và Wardenberg “cùng hét lên một tiếng”, Goudsmit nhớ lại, “vì cả hai chúng tôi đều tìm thấy những giấy tờ đột nhiên giúp vén lên bức màn bí mật cho chúng tôi”. Trong căn hộ của Giáo sư Haagen, “giữa đống thư từ giao tiếp tưởng chừng như vô hại, lại ẩn chứa một kho thông tin bí mật mà bất kỳ ai hiểu được đều có thể sử dụng”. Goudsmit không phải đang giải mã. Các tài liệu không đóng dấu Tối mật. “Chúng chỉ là những lời bàn tán thường ngày giữa các đồng nghiệp… những bản ghi nhớ thông thường”, Goudsmit nhớ lại. Nhưng chúng là những bản ghi nhớ không hề có ý định cho các nhà khoa học Mỹ tìm thấy. Bản ghi nhớ về kế hoạch khiến Đệ tam Đế chế sẽ cai trị thế giới trong một nghìn năm.

“Trong số 100 tù nhân mà anh gửi cho tôi”, Haagen viết thư cho một đồng nghiệp tại trường đại học, một nhà giải phẫu học tên là Tiến sĩ August Hirt, “18 người đã chết trong quá trình vận chuyển. Chỉ có 12 người có sức khỏe trong tình trạng phù hợp với các thí nghiệm của tôi. Do đó, tôi yêu cầu anh gửi cho tôi thêm 100 tù nhân nữa, độ tuổi từ 20 đến 40, khỏe mạnh và có thể trạng tương đương với những người lính. Heil Hitler, Giáo sư Tiến sĩ E. Haagen.” Thư này đề ngày 15 tháng 11 năm 1943.

Đối với Samuel Goudsmit, khoảnh khắc đó là một tiết lộ gây sốc. Ở đây, khi vô tình cất giấu trong một nhóm giấy tờ cá nhân của Haagen, ông đã phát hiện ra một trong những bí mật ma quỷ nhất của Đệ tam Đế chế. Các bác sĩ Đức Quốc xã đang tiến hành các thí nghiệm y khoa trên những con người khỏe mạnh. Đây là thông tin mới đối với cộng đồng khoa học. Nhưng cũng có thông tin đáng lo ngại không kém trong nội dung ẩn của bức thư liên quan đến vũ khí sinh học. Haagen là một chuyên gia về vi-rút chuyên tạo ra vắc-xin. Việc ông tham gia vào các thí nghiệm y khoa trên người có một ý nghĩa kỳ lạ đối với Goudsmit theo cách mà ít người khác có thể hiểu được. Để có thể tung ra vũ khí sinh học thành công chống lại lực lượng của kẻ thù, quân đội tấn công phải tạo ra vắc-xin cho riêng mình chống lại mầm bệnh chết người mà họ định phát tán. Vắc-xin này sẽ đóng vai trò là lá chắn cho binh lính và thường dân của chính họ; vũ khí sinh học sẽ đóng vai trò là thanh kiếm. Tài liệu mà Goudsmit đang xem đã cũ hơn một năm một chút. Đức Quốc xã đã đạt được bao nhiêu tiến bộ trong lĩnh vực vắc-xin kể từ đó?

Khi Goudsmit nhìn chằm chằm vào các tài liệu trước mặt, ông phải đối mặt với một thực tế đáng lo ngại. Eugen Haagen từng là một người ôn hòa, một bác sĩ tận tụy giúp đỡ mọi người. Năm 1932, Tiến sĩ Haagen đã được Quỹ Rockefeller trao tặng một học bổng danh giá tại Thành phố New York, nơi ông đã giúp phát triển vắc-xin sốt vàng da đầu tiên trên thế giới. Năm 1937, ông là một ứng cử viên cho Giải Nobel. Haagen từng là một trong những nhân vật hàng đầu của Đức về y học. Bây giờ, ông đang thử nghiệm vắc-xin gây tử vong trên những tù nhân từng khỏe mạnh từ các trại tập trung do SS của Himmler cung cấp cho ông. Nếu một bác sĩ hàng đầu như Haagen có thể tiến hành những thí nghiệm nghiên cứu như thế này mà không bị trừng phạt, thì còn điều gì khác có thể xảy ra nữa?

Goudsmit và các đồng nghiệp đã lục tung các giấy tờ của Tiến sĩ Haagen, đặc biệt chú ý đến tên của các bác sĩ mà Haagen đã trao đổi thư từ về các chuyến hàng tù nhân, các cuộc thử nghiệm vắc-xin và các kế hoạch phòng thí nghiệm trong tương lai của ông. Goudsmit bắt đầu lập danh sách các nhà khoa học Đức Quốc xã, những người hiện là ưu tiên hàng đầu của Alsos để xác định vị trí, bắt giữ và phỏng vấn. Tiến sĩ Eugen Haagen sẽ không bao giờ trở thành một nhà khoa học của chiến dịch Kẹp giấy. Sau chiến tranh, ông đã trốn thoát đến khu vực do Liên Xô chiếm đóng ở Đức và hợp tác với người Nga. Nhưng trong số những cái tên được phát hiện trong căn hộ của ông có hai bác sĩ quan trọng đối với Chiến dịch Kẹp giấy. Đó là Tiến sĩ Kurt Blome phó  Tổng Y sĩ và Walter Schreiber, Tổng Y sĩ của Đệ tam Đế chế. Tiến sĩ Blome phụ trách các chương trình vũ khí sinh học của Đế chế; Tiến sĩ Schreiber phụ trách các loại vắc-xin của nó. Thanh kiếm và lá chắn.

Trước khi Hitler lên nắm quyền, Blome và Schreiber đã là những bác sĩ nổi tiếng thế giới. Khoa học của Đức Quốc xã có biến những gã đàn ông này thành quái vật không?

Gần hai tuần sau khi Alsos phát hiện ra sứ mệnh tại Strasbourg, cách đó ba trăm dặm về phía bắc, tại Đức, một bữa tiệc đang diễn ra. Ở đó, sâu trong những cánh rừng thông tối tăm của Coesfeld, một lâu đài đá tráng lệ có hào bao quanh, có niên đại 800 năm tuổi được gọi là. Varlar đang được chuẩn bị cho một lễ kỷ niệm. Lâu đài là một công trình tiêu biểu thời trung cổ của vùng Münster, lộng lẫy với các tháp pháo, lan can và tháp canh. Vào đêm này, ngày 9 tháng 12 năm 1944, phòng tiệc đã được trang trí đầy đủ theo nghi lễ của Đảng Quốc xã. Những giàn cây thường xuân tô điểm cho bục phát biểu. Những lá cờ có biểu tượng đại bàng và chữ vạn quốc gia của Đức treo trên tường, một họa tiết được lặp lại ở mỗi bộ đồ ăn bằng sứ nơi các vị khách của Đệ tam Đế chế ăn mừng và dùng bữa.

Bên ngoài, trên khuôn viên của Lâu đài Varlar, những cánh đồng phủ đầy tuyết cũng đang được chuẩn bị. Trong nhiều thế kỷ, lâu đài đã là một tu viện, bãi cỏ rộng lớn của nó được sử dụng làm không gian linh thiêng cho các tu sĩ Benedictine đi dạo và chiêm nghiệm về Chúa. Bây giờ, trong cái lạnh giá của tháng 12, các kỹ thuật viên quân đội đã thực hiện những điều chỉnh phút chót cho các bệ kim loại của bệ phóng tên lửa di động. Trên mỗi bệ có một tên lửa được gọi là V-2.

Tên lửa V-2 khổng lồ là vũ khí bay tiên tiến nhất từng được tạo ra. Nó dài 46 bộ [khoảng 15m], mang theo đầu đạn chứa tới 2.000 cân thuốc nổ trong đầu tên lửa, và có thể bay xa 190 dặm với tốc độ gấp 5 lần tốc độ âm thanh. Phiên bản trước đó của nó, bom bay V-1, đã gieo rắc nỗi kinh hoàng xuống các thành phố trên khắp Bắc Âu kể từ lần đầu tiên tấn công London vào ngày 13 tháng 6 năm 1944. Tên lửa V-2 nhanh hơn và đáng sợ hơn. Không có máy bay chiến đấu nào của Đồng minh có thể bắn hạ V-2 từ trên trời, cả vì độ cao mà nó bay và tốc độ lao xuống của nó. Bóng ma của nó đâm xuống các trung tâm dân cư, tiêu diệt bất kỳ ai hoặc bất kỳ thứ gì tình cờ ở đó, thật đáng sợ. “Tiếng vang từ mỗi vụ nổ tên lửa [V-2] lan rộng tới 20 dặm”, tờ Christian Science Monitor đưa tin. Vũ khí V đã gây ra nỗi kinh hoàng. Kể từ khi chiến tranh bắt đầu, Hitler đã khoe khoang về “những vũ khí độc đáo, đáng sợ chưa từng được biết đến” có thể khiến kẻ thù của ông ta không có khả năng phòng thủ. Theo thời gian, và với sự hỗ trợ của Bộ trưởng Tuyên truyền Joseph Goebbels, những tài liệu tham khảo về những vũ khí bí ẩn này đã được hợp nhất thành một câu cửa miệng duy nhất, đáng sợ: vũ khí kỳ diệu của Đức Quốc xã, hay Wunderwaffe. Bây giờ, trong suốt mùa hè và mùa thu năm 1944, vũ khí V đã biến mối đe dọa thành hiện thực.  Việc Đức Quốc xã tung ra một vũ khí kỳ diệu có sức mạnh và tiềm năng như vậy vào giai đoạn cuối của cuộc chiến khiến nhiều người trên khắp châu Âu kinh hãi về những gì Hitler có thể sở hữu. Các kế hoạch sơ tán một triệu thường dân khỏi trung tâm thành phố London đã được đưa ra khi các sĩ quan tình báo Anh dự đoán rằng một thế hệ vũ khí V tiếp theo có thể mang theo chất độc hóa học hoặc sinh học chết người ở đầu tên lửa. Anh đã cấp 4,3 triệu mặt nạ phòng độc cho cư dân thành phố và khuyên mọi người hãy cầu nguyện.

Thiếu tướng Walter Dornberger là người phụ trách các chương trình tên lửa cho bộ phận vũ khí của quân đội Đức. Dornberger nhỏ con, đầu trọc, và khi xuất hiện trong các bức ảnh cùng Himmler, ông thường mặc một chiếc áo khoác da dài đến ống chân để phù hợp với Reichsführer-SS. Ông là một người lính chuyên nghiệp — đây là cuộc chiến tranh thế giới thứ hai của ông. Ông cũng là một kỹ sư tài năng. Dornberger nắm giữ bốn bằng sáng chế về phát triển tên lửa và bằng kỹ sư từ Viện Công nghệ ở Berlin. Ông là một trong bốn vị khách danh dự tại bữa tiệc Lâu đài Varlar. Sau đó, ông đã tái hiện lại cảnh đó.  “Xung quanh lâu đài trong khu rừng tối tăm là các vị trí phóng tên lửa V-2 trong chiến dịch [của chúng tôi] chống lại Antwerp.” Ý tưởng thiết lập các bệ phóng di động là của Dornberger, trái ngược với việc bắn tên lửa V-2 từ các căn cứ kiên cố ở phần nước Pháp do Đức kiểm soát —một ý tưởng khôn ngoan, xét đến việc lực lượng Đồng minh đã tiến qua lục địa về phía Đức kể từ cuộc đổ bộ Normandy vào tháng 6.

Antwerp là thành phố cảng đông đúc, cực bắc của Bỉ, chỉ cách bệ phóng V-2 tại Lâu đài Varlar 137 dặm. Trong một nghìn năm, nơi đây đã là thành phố chiến lược ở Tây Âu, đã bị chinh phục và giải phóng lại hơn một chục lần. Trong cuộc chiến này, Bỉ đã phải chịu tổn thất khủng khiếp trong bốn năm dài dưới sự cai trị tàn bạo của Đức Quốc xã. Ba tháng trước, vào ngày 4 tháng 9 năm 1944, quân Đồng minh đã giải phóng Antwerp. Có niềm vui trên đường phố khi Sư đoàn Thiết giáp số 11 của Anh tiến vào thị trấn. Kể từ đó, lực lượng Mỹ và Anh đã dựa rất nhiều vào Cảng Antwerp để đưa người và vật tư vào hỗ trợ chiến đấu trên mặt trận phía tây và cũng để chuẩn bị cho cuộc tấn công vào Đức. Bây giờ, vào tuần thứ hai của tháng 12 năm 1944, Hitler có ý định giành lại Antwerp. Führer và nhóm thân cận của ông đang chuẩn bị phát động cuộc phản công cuối cùng, vẫn còn bí mật ở Rừng Ardennes, và vì điều này, quân đội Đức cần phải đóng cửa Antwerp. Nhiệm vụ này thuộc về V-2.  Bữa tiệc tại Lâu đài Varlar sẽ là một đêm chiến tranh và ăn mừng, với một tên lửa nhiên liệu lỏng nặng 42.000 cân được bắn vào kẻ thù sau tên lửa tiếp theo, trong khi các vị khách vinh danh bốn nhân vật đã đóng vai trò quan trọng trong việc chế tạo vũ khí kỳ diệu cho Đế chế.

Nhân vật trung tâm khoa học của chương trình tên lửa V-2 là một quý tộc 32 tuổi và là nhà vật lý học thần đồng tên là Wernher von Braun. Von Braun đã có mặt tại Lâu đài Varlar để nhận, cùng với Dornberger, một trong những huân chương phi chiến đấu cao quý nhất và được thèm muốn nhất của Hitler, Huân chương Thập tự Hiệp sĩ Phục vụ Chiến tranh. Cũng nhận được vinh dự này là Walther Riedel, nhà khoa học hàng đầu trong cục thiết kế tên lửa và Heinz Kunze, một đại diện từ Bộ vũ khí của Đế chế. Bốn huy chương này sẽ được trao tặng bởi Albert Speer, Bộ trưởng Bộ Quân khí và Chiến tranh của Hitler.  Vũ khí là tổng hợp sức mạnh quân sự của một quốc gia, và với tư cách là bộ trưởng Quân khí, Speer phụ trách các chương trình vũ khí khoa học cho Đệ tam Đế chế. Ông gia nhập Đảng Quốc xã vào năm 1931, ở tuổi 26, và lên nắm quyền trong đảng với tư cách là kiến ​​trúc sư của Hitler. Trong vai trò đó, ông đã tạo ra các tòa nhà tượng trưng cho Đế chế và đại diện cho các ý tưởng của nó và nhanh chóng trở thành người được yêu thích, gia nhập vòng tròn thân cận của Hitler. Vào tháng 2 năm 1942, Hitler đã bổ nhiệm Speer làm bộ trưởng quân khí và chiến tranh sau khi cựu bộ trưởng, Fritz Todt, chết trong một vụ tai nạn máy bay. Vào tháng tiếp theo, Speer đã thuyết phục Hitler đưa tất cả các yếu tố khác của nền kinh tế Đức lên hàng thứ hai sau sản xuất vũ khí, và Hitler đã thực hiện điều đó bằng sắc lệnh. “Tổng năng suất quân khí tăng 59,6 phần trăm”, Speer tuyên bố sau chiến tranh. Ở tuổi 37, Albert Speer hiện chịu trách nhiệm về tất cả các chương trình khoa học và công nghệ cần thiết để tiến hành chiến tranh. Trong số hàng trăm dự án vũ khí mà ông tham gia, V-2 là dự án mà ông ưa chuộng nhất.

Giống như von Braun, Speer xuất thân từ một gia đình Đức giàu có, được trọng vọng, không hẳn là một nam tước nhưng là một người nào đó như ông mong muốn. Speer thích trao đổi ý tưởng với các nhà khoa học tên lửa trẻ tuổi, đầy tham vọng như Wernher von Braun. Ông ngưỡng mộ “những chàng trai trẻ có thể làm việc mà không gặp những trở ngại quan liêu và theo đuổi những ý tưởng đôi khi nghe có vẻ hoàn toàn không tưởng”.

Đối với Tướng Dornberger, lễ ăn mừng tại Lâu đài Varlar là khoảnh khắc đỉnh cao trong sự nghiệp của mình. Sau này ông nhớ lại rằng sự xa hoa và quyền lực đã làm ông phấn khích. “Thật là một cảnh tượng”, Dornberger nói sau chiến tranh về không khi  phấn khích của buổi tối hôm đó. “trong bóng tối của màn đêm….” Vào một thời điểm giữa bữa ăn, khi món ăn tiếp theo tạm ngừng tiếp, đèn bên trong lâu đài bỗng  tắt và phòng tiệc lớn chìm vào bóng tối. Sau một lúc im lặng chờ đợi, một tấm rèm cao ở cuối hội trường dài mở ra, cho phép khách nhìn ra bãi cỏ tối tăm, giá lạnh. “Căn phòng đột nhiên sáng lên với ánh sáng nhấp nháy của ống xả tên lửa và rung chuyển bởi tiếng vang của động cơ”, Dornberger nhớ lại. Bên ngoài, trên bệ phóng tên lửa di động, cảnh tượng bắt đầu. Một ngọn lửa dữ dội của nhiên liệu tên lửa bùng cháy từ đáy tên lửa V-2, cung cấp năng lượng cho tên lửa khổng lồ bay lên, hướng đến Bỉ. Đối với Dornberger, các vụ phóng tên lửa đã truyền cảm giác tự hào “không thể tin được”. Có lần, trong một lần phóng trước đó, vị tướng đã khóc vì sung sướng.

Vào đêm này, sự phấn khích chuyển từ vụ phóng tên lửa sang lễ trao giải thưởng, rồi lại quay lại vụ phóng tên lửa. Sau mỗi lần phóng, Speer trao giải thưởng cho một trong những nhân vật được nhận huy chương. Đám đông vỗ tay, reo hò và nhấp từng ngụm rượu sâm panh cho đến khi phòng tiệc lại chìm trong bóng tối và tên lửa tiếp theo được bắn ra từ bãi cỏ lâu đài.

Bữa tiệc đặc biệt này sẽ kết thúc, nhưng lễ ăn mừng vẫn tiếp tục ở nơi khác. Đội đã trở về Peenemünde, cơ sở đảo biệt lập trên Bờ biển Baltic, nơi vũ khí V đã được hình thành và sản xuất lần đầu, và vào đêm ngày 16 tháng 12 năm 1944, một bữa tiệc tại câu lạc bộ sĩ quan của Peenemünde một lần nữa vinh danh những nhân vật, Von Braun và Dornberger, mặc những bộ tuxedo chỉnh tề, mỗi người đều đeo một Huân chương Hiệp sĩ của Hitler quanh cổ, đọc điện tín chúc mừng đến  các quan chức Đức Quốc xã khi nhóm này nâng ly chúc mừng thành công của họ bằng những ly sâm panh. Trong mắt Đế chế, những người chế tên lửa của Hitler có lý do chính đáng để ăn mừng. Tại Antwerp lúc 3:20 chiều, một tên lửa V-2 đã đâm xuống rạp chiếu phim Rex, nơi gần 1.200 người đang xem phim của Gary Cooper [một tài tử gạo cội của Hollywood vào thời điểm đó]. Đây là số tổn thất cao nhất trong một cuộc tấn công bằng một tên lửa duy nhất trong chiến tranh – 567 thương vong.

Đồng minh bị ám ảnh bởi vũ khí V của Đức Quốc xã. Nếu chúng được xuất trận sớm hơn, thì diễn biến của cuộc chiến đã khác, Tướng Dwight D. Eisenhower, Tổng tư lệnh quân Đồng minh tại châu Âu giải thích. “Có vẻ như nếu người Đức thành công trong việc hoàn thiện và sử dụng những vũ khí mới này sớm hơn sáu tháng so với thời điểm bây giờ, thì cuộc xâm lược châu Âu của chúng ta sẽ vô cùng khó khăn, thậm chí là không thể”, Eisenhower nói. Thay vào đó, hoàn cảnh đã có lợi cho Đồng minh, và đến mùa thu năm 1944, lực lượng Đồng minh đã có chỗ đứng vững chắc trên lục địa châu Âu. Nhưng quay trở lại Washington, D.C., bên trong Lầu Năm Góc, một nhiệm vụ tình báo khoa học bí mật liên quan đến tên lửa chỉ dành riêng cho Hoa Kỳ đang được tiến hành. Đại tá Gervais William Trichel là người chỉ huy đầu tiên của Chi nhánh Tên lửa mới thành lập bên trong Quân đội Hoa Kỳ. Bây giờ Trichel đang tập hợp một nhóm các nhà khoa học quân đội để gửi đến châu Âu như một phần của Nhiệm vụ Đặc biệt V-2. Hoa Kỳ chậm hơn Đức 20 năm trong việc phát triển tên lửa, nhưng Trichel đã nhìn thấy cơ hội để thu hẹp khoảng cách đó và tiết kiệm cho Quân đội Hoa Kỳ hàng triệu đô la chi phí nghiên cứu và phát triển. Nhóm của Trichel sẽ thu giữ những tên lửa này và mọi thứ liên quan đến chúng để vận chuyển trở lại Hoa Kỳ. Nhiệm vụ sẽ bắt đầu ngay khi Quân đội Hoa Kỳ đến thị trấn Nordhausen, Đức.

Người Anh đã dẫn đầu về tình báo liên quan đến vũ khí V. Các phân tích viên không ảnh của họ đã xác định chính xác nơi lắp ráp tên lửa, tại một nhà máy ở miền trung nước Đức trong dãy núi Harz được bảo vệ tự nhiên. Cố gắng ném bom nhà máy này từ trên không là vô ích, vì cơ sở này đã được xây dựng dưới lòng đất trong một mỏ thạch cao cũ. Trong khi người Mỹ lập kế hoạch bên trong Lầu Năm Góc, và trong khi von Braun và các đồng nghiệp của ông uống rượu sâm panh tại Peenemünde, những người thực sự lắp ráp tên lửa V-2 của Đế chế đã phải chịu đựng một cuộc sống hoàn toàn khác. Khoa học của Đức Quốc xã đã đưa chế độ nô lệ trở lại trên khắp Đế chế, và các tù nhân trại tập trung đã bị làm việc đến chết để phục vụ chiến tranh. Những công nhân chế tạo tên lửa bao gồm hàng nghìn tù nhân bị suy dinh dưỡng khủng khiếp, những người đã làm việc quần quật bên trong một khu phức hợp đường hầm ngầm rộng lớn được biết đến dưới mỹ từ  Mittelwerk, Công trình Trung gian. Nơi này cũng được gọi là Nordhausen, theo tên thị trấn, và Dora, mật danh của trại tập trung.

Đối với người Đức trung bình, Harz là vùng đất của những câu chuyện cổ tích, với những khu rừng tối tăm và những ngọn núi giông bão. Đối với độc giả của Goethe, đây là nơi các phù thủy và ác quỷ va chạm ở Núi Brocken. Ngay cả ở Mỹ, trong bộ phim nổi tiếng Fantasia của Disney, những ngọn núi này cũng có ý nghĩa. Chúng là nơi các thế lực tà ác tụ tập để làm công việc của chúng. Nhưng vào cuối Thế Chiến II, thuộc địa lưu đày bí mật, dưới lòng đất của Đế chế tại Nordhausen là sự thật, không phải hư cấu. Mittelwerk là nơi những công dân bình thường—của Pháp, Hà Lan, Bỉ, Ý, Tiệp Khắc, Hungary, Nam Tư, Nga, Ba Lan và Đức—đã bị biến thành nô lệ của Đệ tam Đế chế. 

Nhà máy ngầm tại Nordhausen đã đi vào hoạt động từ cuối tháng 8 năm 1943, sau khi Không quân Hoàng gia Anh tấn công cơ sở Peenemünde ở phía bắc buộc phải chuyển hoạt động sản xuất vũ khí đến nơi khác. Một ngày sau cuộc tấn công đó, Heinrich Himmler, Reichsführer-SS, đã đến thăm Hitler và đề xuất chuyển hoạt động sản xuất tên lửa xuống dưới lòng đất. Hitler đồng ý và SS được giao nhiệm vụ cung cấp nô lệ và giám sát việc xây dựng cơ sở. Cá nhân phụ trách việc mở rộng Nordhausen từ một mỏ thành một khu phức hợp đường hầm là Chuẩn tướng Hans Kammler, một kỹ sư xây dựng và kiến ​​trúc sư, người đã xây dựng các phòng hơi ngạt tại Auschwitz-Birkenau trước đó trong sự nghiệp của mình.

Nhóm 107 nô lệ lao động đầu tiên đến Mittelwerk vào cuối tháng 8 năm 1943. Họ đến từ trại tập trung Buchenwald, nằm cách đó 50 dặm về phía đông nam. Biển báo bằng sắt rèn trên cổng Buchenwald có dòng chữ Jedem das Seine “Mọi người đều nhận được những gì mình xứng đáng”.  Đào đường hầm là công việc nặng nhọc, nhưng SS sợ tù nhân có thể nổi loạn nếu họ có công cụ khai thác, vì vậy những tù nhân chỉ được đào đất bằng tay không. Mỏ cũ đã được quân đội Đức sử dụng làm cơ sở lưu trữ nhiên liệu. Có hai đường hầm dài chạy song song vào núi hiện cần được mở rộng để có thể chạy xe lửa. Ngoài ra còn có các đường hầm chéo nhỏ hơn cách nhau vài mét cần được kéo dài để tạo thêm không gian làm việc. Vào tháng 9 năm 1943, máy móc và nhân sự đã đến từ Peenemünde. Đáng chú ý trong số các nhân viên và quan trọng đối với Chiến dịch Kẹp giấy là người phụ trách sản xuất, một người vừa mới tốt nghiệp trung học tên là Arthur Rudolph.

Chuyên môn của Rudolph là lắp ráp động cơ tên lửa. Y đã làm việc dưới quyền von Braun giữ chức vụ này từ năm 1934. Rudolph là một người theo ý thức hệ Đức Quốc xã; y gia nhập đảng trước khi có chính sách ép buộc vào đảng, vào năm 1931. Những gì y thiếu về học vấn, y đã bù đắp bằng cách trở thành người quản lý nô lệ. Với tư cách là giám đốc điều hành Mittelwerk, Rudolph đã làm việc với đội ngũ xây dựng SS để xây dựng nhà máy ngầm. Sau đó, y giám sát sản xuất trên các dây chuyền lắp ráp cho giám đốc khoa học vũ khí V Wernher von Braun.

Các tù nhân làm việc theo ca mười hai giờ, bảy ngày một tuần, lắp ráp vũ khí V. Đến cuối hai tháng đầu tiên, có 8.000 người sống và làm việc trong không gian ngầm chật hẹp này. Không có không khí trong lành trong các đường hầm, không có hệ thống thông gió, không có nước và rất ít ánh sáng. “Các vụ nổ diễn ra cả ngày lẫn đêm và bụi sau mỗi vụ nổ dày đến mức không thể nhìn thấy năm bước chân phía trước”, một báo cáo viết. Những người lao động ngủ bên trong các đường hầm trên giường tầng bằng gỗ. Không có cơ sở giặt giũ và vệ sinh. Nhà vệ sinh là những thùng gỗ bị cắt đôi. Người lao động phải chịu đựng và chết vì đói, kiết lỵ, viêm màng phổi, viêm phổi, lao và viêm phổi do bị đánh đập. Họ như những bộ xương biết đi, da căng ra trên xương. Một số người chết vì bỏng amoniac đến phổi. Những người khác chết vì bị đè bẹp bởi sức nặng của các bộ phận tên lửa mà họ buộc phải mang theo. Người chết có thể thay thế được. Con người và các bộ phận máy móc được đưa vào các đường hầm. Tên lửa và xác chết được đưa ra. Những công nhân chậm chạp trên dây chuyền sản xuất sẽ bị đánh đập đến chết. Những kẻ bất tuân bị siết cổ hoặc treo cổ. Sau chiến tranh, các nhà điều tra tội phạm chiến tranh xác định rằng khoảng một nửa trong số 60.000 tù nhân bị đưa đến Nordhausen cuối cùng đã làm việc đến chết.

Mittelwerk không phải là trại lao động nô lệ đầu tiên do Đệ tam Đế xây dựng và điều hành. SS đã nhận ra giá trị của lao động nô lệ vào giữa những năm 1930. Lực lượng lao động có thể được lựa chọn từ số lượng tù nhân ngày càng tăng tại các trại tập trung và được đưa vào làm việc tại các mỏ đá và nhà máy. Đến năm 1939, SS đã chỉ đạo một mạng lưới nô lệ rộng lớn do nhà nước bảo trợ trên khắp châu Âu do Đức Quốc xã chiếm đóng thông qua một bộ phận nghe có vẻ vô hại tên là Tổng Văn phòng Quản trị Kinh doanh SS. Văn phòng này do Heinrich Himmler giám sát nhưng yêu cầu phải có quan hệ đối tác. Nhóm đối tác này bao gồm nhiều công ty từ khu vực tư nhân, như IG Farben, Volkswagen, Heinkel và Steyr-Daimler-Puch. Đối tác quan trọng nhất là Bộ quân khí và chiến tranh của Albert Speer. Khi Speer tiếp quản vị trí bộ trưởng vũ khí vào tháng 2 năm 1942, ông cho biết thách thức đầu tiên của mình là tìm ra cách tiến hành chiến tranh và làm cho nó hiệu quả hơn. Giải pháp của Speer là loại bỏ bộ máy quan liêu và sử dụng nhiều nô lệ lao động hơn. Bản thân ông đã có liên hệ với các chương trình lao động nô lệ với SS trong nhiều năm, kể cả khi ông còn là một kiến ​​trúc sư. Các tòa nhà của Speer cần một lượng lớn đá, được khai thác bởi những tù nhân tại trại tập trung từ Mauthausen và Flossenbürg. Tổng  Văn phòng Quản lý Kinh doanh SS chuyên về kỹ thuật các dự án xây dựng nguy hiểm và nhanh chóng, như trường hợp của cơ sở V-2 tại Nordhausen. “Đừng quan tâm đến các nạn nhân là con người”, Chuẩn tướng Hans Kammler nói với nhân viên giám sát việc xây dựng trong các đường hầm. “Công việc phải được tiến hành và hoàn thành trong thời gian ngắn nhất có thể”. Trong sáu tháng đầu tiên xây dựng đường hầm, 2.882 công nhân đã thiệt mạng. Albert Speer đã ca ngợi Kammler vì những gì ông coi là một thành tựu to lớn trong kỹ thuật, thiết lập mọi thứ một cách hiệu quả và nhanh chóng như vậy. Speer viết: “[Công trình của ông ta] vượt xa bất kỳ công trình nào từng được thực hiện ở châu Âu và thậm chí ngay cả theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ”. 

Có những lý do khác khiến việc sử dụng lao động nô lệ trở nên quan trọng về sản xuất vũ khí, cụ thể là tính bí mật của công việc phải được đảm bảo. V-2 là một dự án vũ khí được phân loại; càng ít tình báo Đồng minh biết về nó thì càng tốt cho Đế chế. Khi Albert Speer và Heinrich Himmler gặp Hitler vào tháng 8 năm 1943 để tóm tắt cho ông ta về những lợi ích của việc sử dụng lao động nô lệ, Himmler đã nhắc nhở Führer rằng nếu toàn bộ lực lượng lao động của Đế chế là tù nhân trại tập trung, “mọi liên lạc với thế giới bên ngoài sẽ bị loại bỏ. Tù nhân thậm chí không nhận được thư.”

Vào mùa xuân năm 1944, sản xuất V-2 đã tăng tốc đến mức SS cung cấp cho các nhà quản lý Mittelwerk trại tập trung của riêng họ, Dora, sau đó phát triển thành 30 trại phụ.  Người phụ trách “nhân sự” tại Mittelwerk, tổng quản đốc của nó, là một kỹ sư 46 tuổi tên là Georg Rickhey, một đảng viên Quốc xã nhiệt thành và là đảng viên từ năm 1931. Trong bản lý lịch của Rickhey, sau này được người Mỹ sử dụng để tuyển dụng ông, Rickhey tự mô tả mình là “Tổng quản đốc Mittelwerk, sản xuất mọi vũ khí ‘V’ và tên lửa, xây dựng các cơ sở sản xuất hàng loạt dưới lòng đất, quản đốc toàn bộ mối quan tâm.” Là tổng quản đốc của doanh nghiệp ngầm rộng lớn, Rickhey chịu trách nhiệm “thuê” nô lệ từ SS. Là một cựu giám đốc điều hành của Demag Armor Works, ông đã giám sát việc tạo ra hơn 1,5 triệu bộ vuông đường hầm quanh Berlin, tất cả đều do nô lệ đào. Với kinh nghiệm này, Rickhey đã trở thành một nhà đàm phán kỳ cựu giữa ngành công nghiệp tư nhân và Tổng Văn phòng Quản trị Kinh doanh SS trong việc mua nô lệ. “Trên thực tế, SS đã bắt đầu một dịch vụ cho thuê nô lệ cho các công ty và doanh nghiệp chính phủ với mức giá thông thường là bốn mark một ngày cho công nhân không có tay nghề và sáu mark cho công nhân có tay nghề”, nhà sử học về vũ khí V Michael J. Neufeld viết. Những nô lệ này là đồ bỏ đi. Khi họ chết, họ được thay thế. Tại Nordhausen, SS đã giảm giá cho Rickhey, tính phí Mittelwerk từ hai đến ba reichsmark cho mỗi người, mỗi ngày.

Vào ngày 6 tháng 5 năm 1944, vài ngày sau khi trở thành tổng quản đốc của Mittelwerk, Rickhey đã triệu tập một cuộc họp để thảo luận về cách tốt nhất để có thêm tù nhân làm lao động nô lệ. Wernher von Braun, Walter Dornberger và Arthur Rudolph đều có mặt. Người ta đã quyết định rằng SS sẽ bắt thêm 1.800 công nhân lành nghề người Pháp làm nô lệ để thay thế những người đã bị làm việc đến chết. Hồ sơ cho thấy von Braun, Dornberger và Rudolph không phản đối kế hoạch của Rickhey.

Vào tháng 8, vấn đề tương tự lại xảy ra. Lần này Wernher von Braun tự mình khởi xướng hành động. Vào ngày 15 tháng 8 năm 1944, von Braun đã viết một lá thư cho một kỹ sư Mittelwerk, Albin Sawatzki, mô tả một phòng thí nghiệm mới mà ông muốn thiết lập bên trong các đường hầm. Von Braun nói với Sawatzki rằng để đẩy nhanh quá trình này, ông đã tự mình đảm nhận việc tìm kiếm những người lao động nô lệ từ trại tập trung Buchenwald.

“Trong chuyến thăm Mittelwerk gần đây nhất của tôi, ngài đã đề xuất với tôi rằng chúng ta nên sử dụng chương trình giáo dục kỹ thuật tốt dành cho những người bị giam giữ mà ngài có thể tiếp cận [từ] trại Buchenwald”, von Braun viết. “Tôi đã ngay lập tức xem xét đề xuất của ngài bằng cách tự mình đến Buchenwald, cùng với Tiến sĩ Simon, để tìm kiếm những người bị giam giữ có trình độ hơn. Tôi đã sắp xếp việc chuyển họ đến Mittelwerk với Standartenführer [Đại tá] Pister”, chỉ huy trại Buchenwald.

Vào tháng 12 năm 1944, với hàng ngàn nô lệ lao động chết trong các đường hầm Mittelwerk và tên lửa V-2 đâm vào các trung tâm dân cư, gây ra tình trạng hỗn loạn và khủng bố trên khắp châu Âu, thật khó để tưởng tượng rằng một số người chịu trách nhiệm trực tiếp sẽ được coi là những cá nhân có giá trị lớn đối với Hoa Kỳ. Tuy nhiên, trong vòng chưa đầy một năm, Arthur Rudolph, Georg Rickhey, Wernher von Braun, Thiếu tướng Walter Dornberger và các kỹ sư tên lửa khác sẽ

được bí mật đưa đến Mỹ để làm việc. Vào những ngày cuối cùng của Thế chiến II, ít ai có thể tin vào điều như vậy.

Nhưng những ngày cuối cùng của chiến tranh đã đến. Chỉ ba tuần sau lễ ăn mừng tại Lâu đài Varlar, Albert Speer thấy mình chẳng còn gì để ăn mừng nữa. Khi đến thăm thị trấn biên giới Houffalize của Bỉ, cùng với một chỉ huy lực lượng thiết giáp SS tên là Josef “Sepp” Dietrich, Speer đã coi những gì mà ông mô tả trong hồi ký năm 1969  là một sự nhận thức. Nhìn vào xác của hàng trăm binh lính Đức đã chết trong một cuộc tấn công bằng máy bay ném bom gần đây của Đồng minh, Speer tin rằng chiến tranh đã kết thúc đối với Đế chế. Cỗ máy chiến tranh của Đức không còn có thể cạnh tranh với sức mạnh và ý chí của cuộc tấn công Đồng minh. “Những quả bom hú và nổ, những đám mây sáng lên màu đỏ và vàng, những động cơ ù ù, và không có sự phòng thủ nào ở bất cứ đâu, tôi đã choáng váng trước cảnh tượng bất lực của quân đội mà những tính toán sai lầm về mặt quân sự của Hitler đã tạo ra một bối cảnh kỳ quái như vậy”, Speer viết. Đứng đó tại Houffalize, Speer – bộ trưởng quân khí và chiến tranh của Hitler – đã quyết định chạy trốn khỏi vùng nguy hiểm.

Vào lúc 4 giờ sáng ngày 31 tháng 12, dưới màn đêm, Speer và một phụ tá trèo lên một chiếc xe riêng và vội vã đi về phía đông, hướng đến một lâu đài tiện nghi trên đỉnh núi rộng lớn bên ngoài Frankfurt có tên là Schloss Kransberg, hay Lâu đài Kransberg. Được xây dựng trên một vách đá dựng đứng ở Dãy núi Taunus, lâu đài là một trong những trụ sở Luftwaffe (lực lượng không quân Đức) của Hermann Göring. Cũng giống như nhiều nhà khoa học của Hitler sẽ sớm trở thành khoa học gia người Mỹ, thì nhiều trụ sở và sở chỉ huy của Đế chế cũng sẽ trở thành những cơ sở quan trọng được sử dụng cho Chiến dịch Kẹp giấy. Lâu đài Kransberg cũng có một quá khứ đầy thăng trầm trong lịch sử chiến tranh. Công trình này có niên đại từ thế kỷ thứm11, nhưng nền móng ban đầu của nó được xây dựng trên tàn tích của một công sự tường thành hình vòng tròn được xây dựng vào thời Đế chế La Mã. Các trận chiến đã diễn ra ở khu vực này, liên tục, trong hơn 2.000 năm.

Lâu đài Kransberg rất lớn và tráng lệ, được xây dựng từng phần qua nhiều thế kỷ bao gồm các tháp canh, hội trường họp bằng gỗ và tường đá. Lâu đài có khoảng 150 phòng, bao gồm một dãy phòng đã được Albert Speer thiết kế lại và cải tạo vào năm 1939, khi Speer vẫn là kiến ​​trúc sư của Hitler. Theo lệnh của Hitler, Speer đã bổ sung một số tính năng phòng thủ hiện đại vào Lâu đài Kransberg, bao gồm một khu phức hợp boongke ngầm rộng 1.200  bộ vuông (khoảng 120.mét vuông) hoàn chỉnh với các khóa khí độc được thiết kế để bảo vệ cư dân khỏi một cuộc tấn công chiến tranh hóa học. Hiện giờ chỉ còn Speer, đã trốn khỏi tiền tuyến để ẩn náu trong thành trì này. Lần tiếp theo ông ta đến sống ở đây sẽ với tư cách là tù nhân của người Mỹ.

Lâu đài Kransberg, bên ngoài Frankfurt, là trụ sở Luftwaffe của Göring. Đồng minh đã chiếm được nó, đặt tên mã là “Dustbin ( Thùng rác)” và thẩm vấn giới tinh hoa khoa học và công nghiệp của Đức Quốc xã tại đây.

Hitler có trụ sở riêng của mình chỉ cách đó vài dặm. Adlerhorst, hay Tổ Đại Bàng, cũng được Speer thiết kế. Đó là một loạt các boongke bê tông nhỏ ở rìa một thung lũng dài gần thị trấn Bad Nauheim. Ít ai biết nó ở đó. Từ Adlerhorst, Hitler đã chỉ đạo chiến dịch Ardennes, Trận Bulge.

Đến Lâu đài Kransberg vào đêm muộn sau khi chạy trốn khỏi Houffalize, Speer và phụ tá của mình được đưa đến khu nhà của họ, nơi họ tắm rửa trước khi lái xe đến Adlerhorst để ăn mừng năm mới sắp tới – 1945 – với Hitler. Khi Speer đến Tổ Đại bàng lúc 2:30 sáng ngày 1 tháng 1, Hitler, người không bao giờ uống rượu, có vẻ say. “Ông ấy đang trong cơn hưng phấn vĩnh viễn”, Speer nhớ lại. Hitler đã nâng ly và hứa rằng điểm thấp hiện tại trong cuộc chiến sẽ sớm được khắc phục. “Những kỹ năng thu hút  của ông ấy vẫn còn hiệu quả”, Speer sau đó nhớ lại. Cuối cùng, Đức sẽ chiến thắng, Hitler nói. Điều này đủ để Speer thay đổi suy nghĩ về cục diện tiêu cực của cuộc chiến.

Hai tuần sau, vào ngày 15 tháng 1, khi cuộc chiến vẫn được cho là có thể thắng, Adolf Hitler lên xe bọc thép và bắt đầu chuyến đi kéo dài 19 giờ đến Berlin, nơi ông sẽ dành phần đời còn lại sống dưới lòng đất trong Führerbunker ở Berlin. Boongke là một pháo đài của sức mạnh kỹ thuật, được xây dựng bên dưới Phủ Thủ tướng Đế chế Mới. Mái của nó, bị chôn vùi dưới hàng tấn đất, dày mười sáu bộ. Các bức tường của nó rộng sáu bộ. Sống bên trong Führerbunker, với trần nhà thấp và hành lang giống như hầm mộ, “giống như bị mắc kẹt trong một chiếc tàu ngầm bê tông”, một trong những vệ binh danh dự SS của Hitler, Đại úy Beermann cho biết. Beermann mô tả “thói quen giống như dơi của những tù nhân bán thời gian bị giam giữ trong một hang động. Những con chuột khốn khổ trong một ngôi mộ xi măng ẩm mốc ở Berlin”. Không phải ai cũng chia sẻ cảm xúc đó. Nhiều tháng sau, khi tổng quản  đốc Mittelwerk là Georg Rickhey muốn có được một công việc từ người Mỹ, ông ta đã khoe khoang với các sĩ quan quân đội rằng ông ta đã giám sát xây dựng boongke Führerbunker lớn ở Berlin.

Bây giờ, vào giữa tháng 1 năm 1945, khi Hitler quay trở lại Berlin, người ta quyết định Speer nên đi về phía đông, đến Silesia, Ba Lan. Ở đó, ông sẽ khảo sát những gì đang diễn ra. Các nhà máy sản xuất vũ khí hóa học quan trọng đã được xây dựng ở Ba Lan, các dự án vũ khí được thực hiện chung với IG Farben, một tập đoàn công nghiệp hóa chất. Vị trí của những cơ sở này rất có ý nghĩa; Ba Lan, phần lớn, nằm ngoài tầm với của các chiến dịch ném bom của Đồng minh. Nhưng một mối đe dọa mới đang ập đến. Liên Xô vừa mới phát động cuộc tấn công lớn của họ ở Ba Lan, một chiến dịch quân sự cuối cùng sẽ đưa Hồng quân đến tận Berlin. Đức đang bị xâm lược từ cả hai phía đông và tây, bị siết chặt như trong một cái ê tô.

Cùng ngày Hitler rời khỏi Tổ Đại bàng. Speer được đưa đến Ba Lan. Tại đó, ông đã tận mắt chứng kiến ​​những gì còn sót lại của cỗ máy chiến tranh Đế chế. Ngày 21 tháng 1, ông đến làng Oppeln để kiểm tra với Thống chế Ferdinand Schörner, người mới được bổ nhiệm làm chỉ huy của nhóm quân đội, và biết rằng rất ít lực lượng chiến đấu của Wehrmacht còn nguyên vẹn. Hầu như mọi người lính và mọi cỗ máy chiến tranh đều đã bị bắt hoặc bị phá hủy. Những thân xe tăng bị cháy rụi  nằm rải rác trên những con đường phủ đầy tuyết. Hàng ngàn binh lính Đức đã chết nằm trong các con mương dọc theo lề đường, nhưng nhiều người lính đã chết khác đu đưa một cách kỳ lạ trên cành cây. Những ai dám đào ngũ khỏi quân đội Đức đã bị Thống chế Schörner, một người trung thành với Đảng Quốc xã hung dữ và cuồng tín, người đã kiếm được biệt danh, Schörner Khát máu. Những xác binh lính Đức quàng quanh cổ những tấm biển, viết “Tôi là một tên đào ngũ”,  “Tôi đã từ chối bảo vệ phụ nữ và trẻ em Đức và do đó tôi đã bị treo cổ”.

Trong cuộc gặp của Speer với Schörner, ông được cho biết rằng không ai biết chính xác Hồng quân sẽ còn cách bao xa nữa để chiếm được chính nơi họ đang đứng, chỉ biết rằng cuộc tấn công là không thể tránh khỏi. Speer đã nhận phòng tại một khách sạn vắng vẻ và cố gắng ngủ.

Trong nhiều thập kỷ, đêm này vẫn sống động trong tâm trí Albert Speer. “Trong phòng tôi treo một bức tranh khắc của Käthe Kollwitz: La Carmagnole“, Speer nhớ lại khi đã già. “Nó cho thấy một đám đông đang la hét nhảy múa với khuôn mặt méo mó vì hận thù xung quanh một máy chém. Ở một bên, một phụ nữ đang gào khóc co rúm trên mặt đất…. Những hình thù kỳ lạ của bức tranh khắc ám ảnh giấc ngủ chập chờn của tôi”, Speer viết. Ở đó, trong phòng khách sạn Oppeln của mình, Albert Speer bị choáng ngợp bởi một suy nghĩ hẳn đã ám ảnh tâm trí của nhiều tên Đức Quốc xã. Sau nước Đức, điều gì sẽ xảy ra với tôi? Máy chém? Liệu tôi có bị xé xác bởi một đám đông đang la hét không?

Jedem das Seine. Có thể là sự thật không? Mọi người có phải sẽ nhận được những gì họ xứng đáng không?

Tuần sau, ngày 30 tháng 1 năm 1945, Speer đã viết một bản ghi nhớ cho Hitler nêu rõ những tổn thất to lớn ở Silesia. “Cuộc chiến đã thua”, đó là cách báo cáo của Speer bắt đầu.

Việc tiêu hủy bằng chứng trên diện rộng sẽ bắt đầu.

Thiếu tướng Tiến sĩ Walter Schreiber


Tiến sĩ Kurte Blome

Von Braun

Thiếu tướng Walter Dornberger

Kỹ sư Walther Riedel

Albert Speer (trái), và Adolf Hitler cùng với một nhiếp ảnh gia ở Paris

Bình luận về bài viết này