Chư Phiên Chí- Bài 2

Đỗ Ngọc Giao

19-May-2025

2.   Nội dung

2.1.  Phần 1

Phần 1 mô tả 46 nước có giao thương đường biển với Tàu hồi thế kỷ 12–13.[1]

2.2.  Phần 2

Phần 2 mô tả 43 sản phẩm nước ngoài đem tới bán ở Tàu thời đó. Bổn dịch Chư phiên chí tiếng Anh của Hirth và Rockhill có phần này,[2] bổn dịch của Yang thì không.[3] Bài này dựa theo bổn dịch của H&R.

Trước hết là bảng kê tên 43 sản phẩm, kèm theo tên tiếng Anh2 và tên khác trong tiếng Việt nếu có, thí dụ: não tử 腦子; camphor; long não.

  1. Não-tử 腦子; camphor; long não
  2. Nhũ-hương 乳香; frankincense
  3. Một-dược 沒藥; myrrh
  4. Huyết-kiệt 血碣; dragon’s-blood
  5. Kim-nhan-hương 金颜香; sweet benzoin
  6. Đốc-nậu-hương 篤耨香; dammar
  7. Tô-hợp-hương-dầu 蘇合香油; liquid storax
  8. An-tức-hương 安息香; benzoin
  9. Chi-tử-hoa 梔子花; Gardenia flower
  10. Tường-vy-hoa 薔薇水; rose water
  11. Trầm-hương 沉香; gharu-wood
  12. Tiên-hương 箋香; tsien-hiang gharu-wood
  13. Tốc-tạm-hương 速暫香; su and chan gharu-wood
  14. Huỳnh-thục-hương 黃熟香; huang-shou-hiang gharu-wood
  15. Sanh-hương 生香; shong-hiang gharu-wood
  16. Đàn-hương 檀香; sandal-wood
  17. Đinh-hương 丁香; cloves
  18. Nhục-đậu-khấu 肉荳蔻; nutmeg
  19. Giáng-chơn-hương 降真香; laka-wood
  20. Xạ-hương-mộc 麝香木; musk-wood
  21. Ba-la-mật 波羅蜜; jack-fruit; mít
  22. Tân-lang 檳榔; areca-nut; cau
  23. Da-tử 椰子; cocoanut; dừa
  24. Một-thạch-tử 沒石子; oak-gall
  25. Ô-mãn-tử 烏蟎子; ebony
  26. Tô-mộc 蘇木; sapan-wood
  27. Cổ-bối 吉貝; cotton
  28. Da-tâm-điệm 椰心簟; mat; chiếu
  29. Mộc-hương 木香; putchuck
  30. Bạch-đậu-khấu 白荳蔻; cardamom
  31. Hồ-tiêu 胡椒; pepper
  32. Tất-trừng-cà 蓽澄茄; cubeb
  33. A-nguy 阿魏; asafoetida
  34. Lô-hội 蘆薈; aloe; nha đam
  35. San-hô-thọ 珊瑚樹; coral-tree
  36. Lưu-ly 琉璃; opaque glass
  37. Miêu-nhi-tinh 貓兒睛; cat’s-eye
  38. Chơn-châu 真珠; pearl; hột trai
  39. Xa-cừ 硨磲; ch’o-k’u
  40. Tượng-nha 象牙; ivory; ngà voi
  41. Tê-giác 犀角; rhinoceros horn; sừng tê
  42. Ốt-nột-tề 腽肭臍; castoreum civet
  43. Thúy-mao 翠毛; kingfishers’ feathers; lông chim bói cá
  44. Anh-vũ 鸚鵡; parrot; kéc/vẹt
  45. Long-diên 龍涎; ambergris
  46. Vỹ-mạo 瑋瑁; tortoise-shell; mai rùa cạn
  47. Huỳnh-lạp 黃蠟; bees-wax; sáp ong

Những sản phẩm ghi rõ xuất xứ ở Giao-chỉ (miền bắc nước ta ngày nay) và Chiêm-thành (miền nam nước ta ngày nay) là trầm-hương, xạ-hương-mộc, tân-lang (cau), xa-cừ, tượng-nha (ngà voi), anh-vũ (kéc/vẹt).

Tiếp theo là văn bổn mô tả các sản phẩm đó, kèm theo phụ chú của H&R.

  1. Trầm hương 沉香

Nhiều nơi có [gỗ] ‘trầm’ (khối gỗ chứa nhựa thơm bên trong các loài cây Aquilaria thí dụ ‘dó bầu’ ở nước ta). Trầm ở Chơn-lạp tốt nhứt, rồi tới Chiêm-thành, Tam-phật-tê (Palembang), Xà-bà (Java). Người ta hay phân biệt những nước ‘miệt trên’ với những nước ‘miệt dưới’: Chơn-lạp, Chiêm-thành là miệt trên, Đại-thực (the Arabs), Tam-phật-tê, Xà-bà là miệt dưới.

Theo lệ thường, trầm ở cây sống thì tốt hơn cây chết. Trầm cứng mà đen thì tốt hơn trầm vàng hoặc nâu. Hình dạng miếng trầm thì vô chừng, theo đó người ta phân biệt mấy thứ: dạng sừng tê gọi là 犀角沉 tê-giác-trầm, dạng mỏ chim én gọi là 燕口沉 yến-khẩu-trầm, dạng rễ cây phụ-tử (Aconitum) gọi là 附子沉 phụ-tử-trầm, dạng con thoi dệt vải gọi là 梭況 thoa-trầm. Nếu có vân chi chít thì gọi là 横隔況 hoành-cách-trầm. Dù sao, nói chung, trầm có phẩm chất tốt xấu là do mùi hương chớ chẳng phải hình dạng. Trầm cũng chẳng phải là sản phẩm của nước Bột-nê (Borneo) như người ta tưởng.

Có vài vị cho rằng sanh-kết-trầm 生結況 là thứ còn tươi đang kết trong cây sống mà muốn lấy phải dùng dao nạy ra, còn thục-trầm 熟況 là thứ đã chín tự nó rớt trên cây xuống. Trầm của miệt dưới gọi là 番沉 phiên-trầm, hương nặc nồng, vị đắng gắt, còn gọi là 藥沉 dược-trầm để trị cảm lạnh.

Hải-nam có một thứ trầm mà hương tinh khiết lâu phai, gọi là 蓬來香 bồng-lai-trầm.

Phụ chú

Giao-chỉ cũng có bồng-lai-trầm, dùng làm thuốc, mà Lãnh ngoại đại đáp gọi là trầm-thủy-hương, chìm trong nước, nếu nổi thì đã hết hương, mất giá. Còn một loại bồng-lai-trầm có rằn như lông con gà gô, gọi là 鷓鴣斑香 ‘chá-cô-ban hương’, hương nhẹ mà dễ chịu.

Nam-phương-thảo-mộc-trạng 南方草木狀 của Kê Hàm 嵇含 (263–306) in lần đầu năm 1273 thời Tống, là tài liệu sớm nhứt của Tàu mô tả trầm như vầy:

‘Cây mật-hương 蜜香 ở Giao-chỉ có thân giống cây cự-liễu 柜柳, nhiều bông trắng, lá giống cây quất 橘. Muốn có trầm, người ta [lấy dao/rựa] phạt 伐 vô cây, qua năm sau, rễ, thân, nhánh, mắt (cháng ba) trên cây sẽ có màu khác nhau. Phần nào trong ruột cây hoặc mắt cây (tiết 節) mà cứng, đen, chìm trong nước, đó là trầm-hương; nếu nổi là kê-cốt-hương 雞骨香 (kê cốt = xương gà); rễ là huỳnh-thục-hương 黃熟香; thân là chăn-hương 棧香; nhánh cứng chưa gãy là thanh-quế-hương 靑桂香; mụt rễ bự nhẹ là mã-đề-hương 馬蹄香 (mã đề = móng ngựa). Bông cây mật-hương chẳng thơm, nhưng trái chín thì thơm và gọi là kê-thiệt-hương 鷄舌香 (kê thiệt = lưỡi gà). Thực là một giống cây quý!’

Antonio Pigafetta (c 1491 – c 1531), nhà thám hiểm người Ý, từng theo Ferdinand Magellan (c 1480 – 1521) đi chuyến đầu tiên vòng quanh trái đất năm 1519, mô tả cách lấy trầm ở Chiêm-thành (Bình-thuận) mà ông gọi là ‘rhubarb’ như vầy: ‘Họ đi từng nhóm 20 hoặc 25 người vô rừng, đêm trèo lên cây tránh cọp, voi, thú dữ, và hửi gió coi có nghe mùi trầm hương hay chăng. Nếu có, sáng sau, họ đi tới nơi mà họ nghi là mùi hương phát ra ở đó, rồi tìm cho được trầm mới thôi. Trầm là một cây lớn đã chết—nếu chưa chết nó chẳng phát ra mùi thơm. Trầm ở rễ là tốt nhứt, nhưng ở thân cũng tốt, gọi là calama.’

11a. Tiên-hương 箋香

Tiên-hương là thứ trầm có hương và vị như trầm-hương, nhưng xốp, không chắc lắm, bởi vậy kém hơn trầm-hương, dù vẫn tốt hơn loại trầm ‘thục-tốc’ 熟速 nói bên dưới.

Phụ chú

Lãnh-ngoại-đại-đáp nói Hải-nam có tiên-hương, thứ nhựa này nhểu từ trên cây xuống đặc lại như hình cây kim; còn bồng-lai-tiên-hương thì đặc lại như hình cái dĩa dẹp, phần ngoài rìa gọi là giải-xác-hương 蟹殼香 (giải xác = vỏ cua). Ở miệt Hải-bắc 海北 (Quảng-châu) và Giao-chỉ có quang-hương 光香 chính là tiên-hương.

11b. Tốc-tạm-hương 速暫香

Sanh-tốc 生速 là thứ trầm bên trong ruột cây [còn sống] mà người ta chặt xuống đặng lấy, thục-tốc 熟速 là thứ trầm bên trong ruột cây chết tự nó rớt ra. Hương và vị của sanh-tốc thì bền, thục-tốc hay có mùi khét; bởi vậy ‘sanh’ tốt hơn ‘thục’.

Sanh-tốc có ở Chơn-lạp và Chiêm-thành; thục-tốc ở Chơn-lạp tốt nhứt rồi tới Chiêm-thành và Xà-bà (Java).

Còn một thứ trầm kém hơn nữa gọi là ‘tạm’ 暫, cũng ở trong cây chết như ‘thục’ nhưng chưa rớt ra, coi như ‘nửa sanh nửa thục’. Thương nhơn lấy dao cạy ra, miếng nào tốt thì trộn vô ‘thục’ đem bán; người mua khó mà phân biệt ‘thục’ nguyên chất với ‘thục’ có pha.

11c. Huỳnh-thục-hương 黃熟香

Huỳnh-thục-hương ở Chơn-lạp là thứ tốt nhứt.

Gọi ‘huỳnh-thục-hương’ bởi trầm này màu vàng (huỳnh) và chín (thục). Nếu bề mặt cứng, bên trong đã mục, dạng như cái thùng, thì gọi là huỳnh-thục-dõng 黃熟桶 (dõng = thùng). Nếu miếng trầm có tiên-hương, đen từ trong ra ngoài, cho mùi thơm đặc biệt, thì gọi là giáp-tiên-huỳnh-thục 夾箋黃熟 thứ tốt nhứt của loại này.

Phụ chú

Nam-việt-bút-ký 南越筆記 của Lý Điều Ngươn 李調元 (1734–1803) cho biết Hải-nam có hai thứ huỳnh-thục-hương: giác-trầm 角沉 và huỳnh-trầm 黃沉, ngoài ra còn một thứ huỳnh-trầm mềm kêu bằng lạp-trầm 蠟沉 (lạp = sáp).

11d. Sanh-hương 生香

Sanh-hương có ở Chơn-lạp, Chiêm-thành, Hải-nam. Giá rẻ hơn ô-giác-trầm 烏角沉 (ô = đen).

Trầm này lấy trong nhánh cây bị chặt. Nếu còn tươi 生 trong ruột cây, gọi là sanh-hương. Nếu lớp vỏ (bì) ngoài miếng trầm dày ba phần mười ‘inch’, đó là tạm-hương 暫香; nếu bì dày năm phần mười ‘inch’, đó là tiên-hương 箋香; nếu bì dày một ‘inch’, đó là trầm-hương (1 inch = 2.54 cm).

Phụ chú

Nói cách khác: bì 皮 càng dày thì miếng trầm có phẩm chất càng tốt: thứ tốt nhứt là trầm-hương nằm sâu trong ruột cây/cành.

  1. Xạ-hương-mộc 麝香木

Xạ-hương-mộc có ở Chiêm-thành và Chơn-lạp. Gỗ cây này có mùi thơm gần giống xạ-hương (musk) nên gọi là xạ-hương-mộc. Cây già đổ xuống đất, mới là thứ thượng hạng. Cây chặt tươi thì kém hơn, mùi nồng khó chịu. Người ở Toàn-châu xài gỗ này nhiều, đóng bàn tủ dòm giống gỗ 花梨木 hoa-lê-mộc.

Phụ chú

Tài liệu Tàu xưa ít nhắc tới sản phẩm này. Đông-tây-dương-khảo 東西洋考 của Trương Tiếp 張燮 (1574–1640) nói sản phẩm này gốc ở Kamboja, và Nhứt-thống-chí 一統志 nói nó có mùi xạ.

(Nhứt-thống-chí là bộ sách ghi chép địa lý từ thời trào Nguyên tới trào Thanh bên Tàu, bộ đầu tiên Đại-Nguyên-nhứt-thống-chí gồm 755 quyển soạn xong năm 1291.)

  1. Tân-lang 檳榔 (cau)

Hải-nam, Giao-chỉ và mấy nước khác đều có cau. Cây cau nhìn giống cây cọ 綜櫚 tông-lư.

“Trái cau mọc trên ngọn thành chùm. Trái hái mùa xuân là 軟檳榔 nhuyễn-tân-lang (nhuyễn = mềm) mà người ta hay gọi là 檳榔鮮 tân-lang-tiên (tiên = tươi), lúc đó cau nhai ngon. Trái hái mùa hè, mùa thu, phơi khô, gọi là 米檳榔 mễ-tân-lang (mễ = gạo). Cau muối gọi là 鹽檳榔 diêm-tân-lang (diêm = muối). Hột cau nhọn, nhỏ, gọi là 雞心檳榔 kê-tâm-tân-lang (kê tâm = tim gà); hột cau lớn, dẹp, gọi là 大腹子 đại-phước-tử (bụng bự).”

Hột cau nhai để ngừa mắc ói (eructation). Ở xứ Tam-phật-tê (Palembang) người ta lấy nước cau làm rượu.

“Sở thuế Quảng-đông và Toàn-châu mỗi năm thâu mấy vạn quan tiền thuế tàu nước ngoài tới bán cau (1 quan = 1 lạng bạc). Dù vậy, sản phẩm này, cau tươi và cau muối, đều ở Hải-nam, còn hai thứ ‘tim gà’ và ‘bụng bự’ thì phần nhiều ở Ma-dật (Philippine Islands).”

Phụ chú

‘Tân-lang’ là ghi âm pinang, tiếng Malay nghĩa là ‘cây cau’. Nam-phương-thảo-mộc-trạng nói cây cau ở xứ Lâm-ấp 林邑 còn gọi là 賓門藥餞 tân-môn-dược-tiễn (mứt cau dùng làm thuốc).

Hai đoạn trong ngoặc “…” ở văn  bổn là chép theo Lãnh-ngoại-đại-đáp.

  1. Xa-cừ 硨磲

Xa-cừ ở Giao-chỉ. Thứ này giống như vỏ một con trai (bạng 蚌) lớn. Dân miền biển mài vỏ nó làm thành những cái chén kêu bằng ‘chén lá sen’ (hà-diệp-bôi 荷葉杯), bề mặt láng sạch như kha-ngọc 珂玉 (vỏ sò dùng làm tiền). Những cái vỏ trai lớn nhứt, người ta lấy phần dưới làm thành những cái chén dày tới 3 ‘inch’, phần còn lại thì làm nhẫn và đồ trang sức lặt vặt.

Kinh sách Phật giáo nói xa-cừ là một thứ báu vật; còn thời nay xa-cừ là một món đồ hiếm dưới biển (hải-thác 海錯) vậy thôi. Nó có đúng là xa-cừ thời xưa hay chăng, thì ta chưa chắc.

Phụ chú

Cổ-kim-chú 古今注 bộ ‘bách-khoa-toàn-thơ’ thời Tấn do Thôi Báo 崔豹 soạn lối năm 300, cho biết: ‘Ngụy Võ-đế làm cương ngựa bằng mã-não (cornelian) và chén rượu bằng xa-cừ.’ Thời đó ‘xa-cừ’ là tên gọi một thứ đá quý giống như mã não, mà người Tàu dùng để dịch musāragalva trong tiếng Sanskrit; nhưng cũng có tài liệu [kinh Phật] nói musāragalva là san-hô (coral) hoặc một thứ đá quý kêu bằng ‘mắt mèo’ (cat’s eye).

‘Xa-cừ’ có lẽ là ghi âm tiếng nước ngoài, thí dụ tscheku trong tiếng Uiguric nghĩa là ‘vỏ ốc xoắn lớn, có giá trị như ngọc.’ Huyền Trang dịch musāragalva là 車渠. Ngụy thơ thế kỷ 6 cho biết xa-cừ, hổ-phách (amber), mã-não là các sản phẩm của nước Persia. Lương thơ thế kỷ 7 ghi nước Bà-lợi 婆利 ở bán đảo Malay có cống cho Lương-đế một cái chén ốc 螺抔 (loa bôi), đây dường như là ‘chén lá sen’ nói ở văn bổn.

Lãnh-ngoại-đại-đáp nói biển Nam Dương có một thứ ‘trai’ kêu bằng ‘xa-cừ’, giống như sò huyết (ham 蚶) nhưng lớn lắm, bề ngang 1–3 bộ (1 bộ = 30.48 cm), càng lớn thì càng có giá, vỏ nó dùng làm chén hay bình đều được; chén hình lá sen, rộng, nông, kêu bằng ‘liễm-diễm-bôi’ 瀲灩杯 (liễm diễm = sóng sánh).

Có lẽ xa-cừ là vỏ các loại sò lớn ở vùng biển Philippines và Ấn-độ-dương, thứ thì lóng lánh, thứ thì trắng đục.

  1. Tượng-nha 象牙 (ngà voi)

Chơn-lạp, Chiêm-thành và mấy nước bên Đại-thực [Ả-rập] đều có ngà voi. Ngà bên Đại-thực tốt hơn Chơn-lạp và Chiêm-thành. Ma-la-mạt 麻囉抹 (Merbat) là nước có ngà voi nhiều nhứt bên Đại-thực.

Voi ở tuốt trong ngàn, lâu lâu kéo ra đồng gặp gì đạp nấy, chẳng ai dám lại gần.

Thợ săn voi phải xài thứ cung thiệt mạnh và tên tẩm độc. Trúng tên, bầy voi bỏ chạy, chưa được một hai lý (1 lý = 0.5 km) thì ngấm độc té chết. Thợ săn lần theo bầy voi, chặt ngà, chôn xác. Gom được chục cái ngà thì đem qua Đại-thực, ở đây lên tàu chở qua Tam-phật-tê (Palembang) và Nhựt-la-đình 日囉亭 (Jelatang, ‘thuộc quốc’ của Palembang) đổi chác.

Ngà lớn nặng từ năm chục tới một trăm cân (1 cân = 0.6 kg). Ngà bên Đại-thực thì thẳng, màu trắng pha sọc mỏng; Chơn-lạp và Chiêm-thành có ngà nhỏ, màu ửng đỏ, nặng từ một chục, hai chục tới ba chục cân, và chóp ngà, để làm chén đựng hương, mà thôi.

Có người nói dùng mồi dụ thì bắt được voi, tôi đoán mồi đây là voi nhà đã thuần.

Phụ chú

Ở phần 1, tác giả cho biết nước Bột-nê 渤尼 (Borneo) cũng có ngà voi, họ lấy ngà làm kiềng [đeo bắp tay] cho đờn bà.

  1. Anh-vũ 鸚鵡 (kéc/vẹt)

Chim kéc ở Chiêm-thành, có đủ màu. Đây là giống chim mà nước Hoàn-vương biếu qua thiên trào hồi Đường Thái Tông (627–650). Sách ghi rằng giống chim này biết than lạnh, bởi vậy Đường đế ra lịnh trả chim về xứ. Hoàn-vương đây tức là Chiêm-thành.

Khâm-châu có hai thứ anh-vũ trắng và đỏ, bằng cỡ con ngỗng nhỏ. Chim có lông lốm đốm như cánh bướm gọi là ‘anh-vũ trắng’, chim có màu đỏ tía, đuôi giống cái diều đen, gọi là ‘anh-vũ đỏ’.

Phụ chú

Văn bổn chép theo Lãnh-ngoại-đại-đáp. Chim này còn gọi là anh-ca 鸚哥. Quảng-đông-tân-ngữ 廣東新語 thời trào Thanh (1678) nhắc tới một loài chim khôn (biết bắt chước tiếng người) kêu bằng 八哥 có lẽ là ghi âm babaga trong tiếng Arabic nghĩa là ‘parrot’.

3.   Thảo luận

Dưới đây nêu thêm một ít dữ liệu liên quan.

Gỗ trầm

Nói đại khái, khi một cây dó bầu bị sâu đục chẳng hạn, ‘vi khuẩn’ (microbes) sẽ theo vô bên trong làm cho cây bị ‘ung thư’ (tylosis); để chống lại, cây tạo ra một thứ ‘nhựa dầu’ (oleoresin) khắc chế ‘vi khuẩn’, nhựa này làm cho màu gỗ cây đổi từ lợt qua đậm, rồi sau nhiều năm trở thành một thứ mà người ta hay gọi là [gỗ] ‘trầm’. Trong thiên nhiên, trầm hiếm lắm, muốn biết chắc cây nào đã kết trầm loại nào thì chỉ có cách hạ cây xuống thôi.[4]

Văn bổn nói trầm có 5 loại chánh với phẩm chất tốt xấu lần lượt như sau.[5]

  1. trầm-hương 沉香 chìm trong nước,

11a. tiên-hương 箋香 (có lẽ cũng là chăn-hương 棧香) nửa chìm,

11b. tốc-tạm-hương 速暫香 gồm 3 loại:

  • sanh-tốc 生速 thu hoạch khi cây còn sống (đang héo),
  • thục-tốc 熟速 thu hoạch khi cây đã đổ chết và rễ đã mục trong đất,
  • tạm-tốc 暫速 cũng như thục-tốc nhưng cây còn trên mặt đất,

11c. huỳnh-thục-hương 黃熟香,

11d. sanh-hương 生香.

Ở nước ta, thế kỷ 18, có nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha, João de Loureiro (1717–1791), tới Đàng Trong làm ‘cố vấn’ cho Võ-vương Nguyễn Phước Khoát những năm 1742–1737. Là một nhà thực-vật-học, ông đã đặt tên cây dó bầu là Aloexylum verum (nay là Aquilaria malaccensis), và cho biết như sau.[6]

Đàng Trong có ba thứ trầm.

Hạng nhứt là ‘kỳ-nam’, một loại trầm hiếm, mọc trên núi về phía tây phủ Bình Khang ngang vỹ tuyến 13 xưa thuộc Chiêm-thành (nay là vùng Phú Yên – Khánh Hòa). Dân tìm được bao nhiêu kỳ-nam phải dâng hết cho chúa, nếu không sẽ bị tội chết.

Hạng nhì là ‘trầm-hương’, có mùi hương như kỳ-nam nhưng nhiều cặn bã hơn, bỏ vô nước thì chìm. Một loại ở trong cây chết mục, đã mất nhiều hương, gọi là ‘hương tử’. Một loại khác trong cây còn sống hay mới chết, chưa mất nhiều hương, gọi là ‘hương sanh’, tốt hơn ‘hương tử’.

Hạng ba là ‘hương’, thứ trầm mới kết trong cây, nhẹ, hương yếu.

Vỏ cây dó bầu thì dân Đàng Trong và Đàng Ngoài đập dẹp ép khuôn làm thành những tờ giấy chẳng trắng như giấy của người Âu nhưng mỏng và dai hơn.

Xạ-hương-mộc

Chẳng có tài liệu nào nói cây gỗ nào ở nước ta có mùi ‘xạ’. Văn bổn nói xạ-hương-mộc đóng bàn tủ dòm giống gỗ hoa-lê-mộc Dalbergia odorifera (Chinese rosewood), điều này gợi ý rằng  xạ-hương-mộc có thể là cây trắc Dalbergia cochinchinensis. Dù vậy, xạ-hương-mộc cũng có thể là một loài cây khác, quen thuộc ở miền nam nước ta và khắp bán đảo Indochina: cây dầu Dipterocarpus alatus.

Cau

Tác giả nói cau nhai riêng như một vị thuốc, chớ chẳng nhắc tới cau nhai với trầu như thói quen ở nhiều nơi.

Thổ dân Philippines đã trồng cây cau và nhai hột cau cách nay chừng 4400 năm.[7]

Xa-cừ

Hiểu theo văn bổn và phụ chú của H&R, thì xa-cừ có lẽ là loài trai Tridacna gigas kêu bằng ‘sò tai tượng’.

Còn ‘ốc xà-cừ’ là tên gọi các loài khác, thí dụ Turbo marmoratus.

Anh-vũ

Nước ta có mấy loài kéc (Psittaculidae) biết bắt chước tiếng người, thí dụ Psittacula roseata.

Chim 八哥 nêu ở phụ chú của H&R có lẽ là một loài sáo (Sturnidae) lông đen kêu bằng sáo đá (nhồng, yểng) Gracula religiosa.

Chim kéc Chiêm-thành thì chắc chắn chẳng biết than trời lạnh, như văn bổn đã kể, nhưng tôi hồi nhỏ từng nghe một con nhồng rao Ai ăn chè đậu đen hôn? giọng lảnh lót y hệt chị bán chè.


[1] https://nghiencuulichsu.com/2025/05/04/chu-phien-chi-bai-1/

[2] Chau Ju-kua. On the Chinese and Arab trade in the twelfth and thirteenth centuries, trans and annot F. Hirth and W. W. Rockhill (1911).

[3] Shao-yun Yang (2025) A Chinese gazetteer of foreign lands: a new translation of Part 1 of the Zhufan Zhi 諸蕃志 (1225). https://storymaps.arcgis.com/stories/39bce63e4e0642d3abce6c24db470760

[4] Shivanand P, Arbie NF, Krishnamoorthy S, Ahmad N. Agarwood—The fragrant molecules of a wounded tree. Molecules. 2022 May 24;27(11):3386.

[5] Dinah Jung (2016) The cultural biography of agarwood – perfumery in Eastern Asia and the Asian neighbourhood.

[6] João de Loureiro. On the nature and mode of production of Agallochum or aloes-wood. In Tracts relative to botany, translated from different languages, trans Karl Dietrich Eberhard König (1774–1851) from Memorias da Academia Real das Sciencias de Lisboa tomo I (1780–1788).

[7] Wikipedia contributors. (2025, May 6). Betel nut chewing. In Wikipedia, The Free Encyclopedia.

Bình luận về bài viết này