Đỗ Ngọc Giao
01-May-2025
Triệu Nhữ Quát 趙汝适 (1170–1231) là cháu tám đời của Tống Thái Tông Triệu Khuông Nghĩa (939–976–997), làm thanh tra thương mãi đường biển ở Toàn-châu 泉州 Phước-kiến; nhờ vậy, ông có dịp gặp gỡ, hỏi chuyện thương nhơn trong nước và ngoài nước mà soạn cuốn Chư phiên chí 諸蕃志 lối 1225. Tài liệu này dường như chưa dịch sang tiếng Việt, nhưng, theo tôi biết, đã có hai bổn dịch Anh ngữ của các vị học giả sau:
- Friedrich Hirth (1845–1927), nhà Hán học (sinologist) người Mỹ gốc Đức, và William Woodville Rockhill (1854–1914), nhà ngoại giao người Mỹ từng làm cố vấn cho Viên Thế Khải (1859–1916), tổng thống đầu tiên của Trung Hoa dân quốc,[1]
- Shao-yun Yang 杨劭允 ở Denison University, Ohio.[2]
Bài này dựa theo hai bổn trên, trích dịch một số đoạn trong phần 1 của Chư phiên chí. Xin lưu ý mấy điều sau:
- Tài liệu này là chí 志/誌 nghĩa là ‘ghi chép’ (record), và là ghi chép những chuyện mà tác giả nghe kể (second-hand account) chớ chẳng phải những chuyện mà tác giả mắt thấy tai nghe (first-hand account). Gia dĩ, người kể chuyện chẳng phải nhà khoa học mà đều là thương nhơn, bởi vậy Chư phiên chí là tài liệu để đọc cho biết thôi.
- Phiên là những nước ‘phi-Hán’ (non-Chinese) bên ngoài nước Tàu mà có giao thương với trào Tống; một số nước cũng có bang giao với Tàu theo kiểu ‘trào cống’ như nước ta, thí dụ Chơn-lạp.
- Tác giả nhìn sự vật theo con mắt (perspective) của người Tàu, nên ông gọi nước ta thời Lý là Giao Chỉ chớ chẳng phải Đại Việt, và gọi nước Tàu là ‘trung thổ’, thí dụ như vậy.
- Tên gọi các ‘phiên’ thường chẳng có nghĩa chi hết mà là ghi âm (transcription), thí dụ 麻嘉 ghi âm Mecca, đọc theo giọng Tàu thời trung cổ Đường-Tống (Middle Chinese) là mae-kae thì nghe na ná, còn đọc theo giọng ta (late Sino-Vietnamese) là ma-da thì nghe ‘trớt huớt’, dù vậy tôi vẫn ghi cách đọc theo giọng ta cho tiện.
- Cùng thời Tống có Lãnh ngoại đại đáp 嶺外代答 của Châu Khứ Phi 周去非 (1135–1189), và qua trào Nguyên có Chơn-lạp phong thổ ký 真臘風土記 của Châu Đạt Quan 周達觀 (1266–1346). Hai tài liệu này đã có bổn dịch tiếng Việt trên ‘internet’ mà độc giả cũng cần coi nếu muốn tìm hiểu thêm chủ đề này.

Hình 1. Triệu Nhữ Quát hỏi chuyện phiên thương (Shao-yun Yang).
1. Giới thiệu
[lược dịch theo Hirth và Rockhill]
Tống sử do Thoát Thoát 脫脫 (1314–1355) et al soạn, và Thông khảo 通考 do Mã Đoan Lâm 馬端臨 (1254–1324) soạn, là hai tài liệu hiếm hoi có dẫn Chư phiên chí mà chẳng nhắc tên Triệu Nhữ Quát.
Qua thế kỷ 15 Chư phiên chí mới ra mắt độc giả trọn vẹn lần đầu trong bộ Vĩnh lạc đại điển 永樂大典. Tới trào Thanh năm 1783 Lý Điều Ngươn 李調元 (1734–1803) tìm thấy Chư phiên chí trong bộ sách đó và đưa vô bộ Hàm hải 涵海 của mình. Từ đây Chư phiên chí in ra bổn đầu tiên, và năm 1805 có thêm một bổn nữa trong bộ Học tân thảo ngươn 學津討原 của Trương Hải Bằng 張海鵬. Hai bổn này giống hệt.
Chư phiên chí có hai phần:
- phần 1: mô tả các nước có giao thương với Tàu.
- phần 2: mô tả sản phẩm giao thương giữa các nước với Tàu.
Ở phần 1, ngoài dữ liệu của thương nhơn, Triệu Nhữ Quát cũng ‘copy’ các tài liệu có sẵn:
- Lãnh ngoại đại đáp,
- các bộ quốc sử không phân biệt trào nào,
- tài liệu vặt khác.
Phần 2 là dữ liệu của thương nhơn, có dùng thêm hai tài liệu: Lãnh ngoại đại đáp và Dậu dương tạp trở 酉陽雜俎 của Đoàn Thành Thức 段成式 (–863) nhà thơ trào Đường—trong tài liệu sau có cả chuyện dân gian Diệp Hạn 葉限, một ‘version’ của ‘type’ Cinderella, tương tợ Tấm Cám của người Việt và người Chàm.
2. Nội dung
2.1. Phần 1
Trước hết là bảng kê tên gọi 46 ‘phiên’ kèm theo tên gọi ở bổn dịch 1 và bổn dịch 2, lần lượt, thí dụ: Giao-chỉ 交趾; Tonkin; Đại Việt.
- Giao-chỉ 交趾; Tonkin; Đại Việt
- Chiêm-thành 占城; Annam; Champa
- Tân-đồng-long 賔瞳龍; Phanrang; Panduranga
- Chơn-lạp 眞臘; Kamboja; Khmer Empire
- Đăng-lưu-mi 豋流眉; Ligor ? (Malay Peninsula); Tambralinga
- Bồ-cam 蒲甘; Pagan (Burma); Pagan
- Tam-phật-tê 三佛齊; Palembang (Eastern Sumatra); Srivijaya
- Đơn-mã-lịnh 單馬令; Kwantan ? (Malay Peninsula); Tambralinga
- Lăng-nha-tư-gia 凌牙斯加; Lengkasuka (Malay Peninsula); Langkasuka
- Phật-la-an 佛囉安; Beranang (Malay Peninsula); Phatthalung ?
- Tân-đà 新拖; Sunda (Western Java); Sunda
- Giám-bề 監箆; Kampar (eastern coast of Sumatra); Kampar ?
- Lam-vô-lý 藍無里 , Tế-lan 細蘭; Lambri, Island of Ceylon; Lamuri, Sri Lanka
- Xà-bà 闍婆 / Bồ-gia-long 蒲家龍; Java; Java
- Tố-cát-đơn 蘇吉丹; Central Java; Sukadana
- Nam-bì 南毗; Malabar; Kodungallur
- Hồ-trà-lạt 胡茶辣; Guzerat; Gujarat
- Ma-la-hoa 麻囉華; Malwa; Malwa
- Chú-liễn 注輦; Chola dominion (Coromandel coast); Later Chola dynasty
- Đại-tần 大秦 / Lê-cận 犂靳; Bagdad; the Roman/Byzantine empire
- Thiên-trúc 大秦; Ấn Độ; Ấn Độ
- Đại-thực 大食; the Arabs; the Islamic world
- Ma-da 麻嘉; Mecca; Mecca
- Tằng-bạt 層𣐪; Zanguebar; Zanzibar
- Bật-bà-la 弼琶囉; Berbera coast; Somaliland, Djibouti ?
- Vật-bạt 勿拔; Sohar ?; Mirbat
- Trung-lý 中理; Somali coast; Puntland, Socotra
- Ung-man 甕蠻; Oman; Oman
- Ký-thí 記施; Island of Kish; Kish Island
- Bạch-đạt 白達; Baghdad; Baghdad
- Bật-tư-la 弼斯囉; Basra; Basra
- Cát-tư-ni 吉慈尼; Gasni ?; Ghazni
- Vật-tư-li 勿厮離; Mosul; Mosul
- Lư-mi 蘆眉; Rum (Asia Minor); Rome
- Mộc-lan-bì 木蘭皮; Murabit, southern coast of Spain; Almohad caliphate
- Vật-tư-lí 勿斯里; Misr (Egypt); Egypt
- Át-căn-đà 遏根陀; Alexandria; Alexandria
- Các nước ngoài khơi (countries in the sea):
- An-đà-man 晏陀蠻; Andaman Islands; Andaman Islands
- Côn-lôn-tằng-ki 崑崙層期; Islands of Pemba and Madagascar ?; Swahili coast
- Sa-hoa-công 沙華公; Malay ‘men of the sea’ (Orang-laut); Zamboanga
- Nữ-quốc 女國; Amazons; countries of women
- Ba-tư 波斯; Besi ? Sumatra; Mombasa ?
- Trà-bật-sa 茶弼沙; Djabulsa ‘the land of the setting sun’; Jabulsa
- Tư-da-lí-dã 斯加里野; Sicily; Sicily
- Mặc-cà-lạp 默伽獵; Mogreb-el-aksa; the Maghreb
- Bột-nê 渤尼 / Phật-nê 佛泥; Borneo; Borneo
- Ma-dật 麻逸; Philippine Islands; Mindoro / Bay
- Tam-dư 三嶼; Islands of Calamian, Busuanga, Palawan (Philippine Islands); Palawan, Calamian Islands
- Lưu-cầu 流求; Northern Formosa; Taiwan / Ryukyu Islands
- Bì-xá-da 毗舍耶; Southern Formosa; the Visayans
- Tân-la 新羅; Korea; Korea
- Oa 倭; Japan; Japan
- Hải-nam 海南; Island of Hainan; —
(— bổn 2 không có Hải-nam)
Tiếp theo là bổn dịch Việt ngữ cho bốn nước Giao-chỉ, Chiêm-thành, Tân-đồng-long, Chơn-lạp. Không thể dịch hết 46 nước ở đây, vì những lý do dễ hiểu, mong độc giả thông cảm.
Một số ‘note’ của các dịch giả, tôi để trong ngoặc [].
Các sản phẩm giao thương, thí dụ trầm hương, có nói rõ trong phần 2 của Chư phiên chí, mà tôi sẽ dịch ở bài tới.
- Giao-chỉ 交趾
Giao-chỉ trước là Giao-châu 交州, đông giáp biển, nam giáp Chiêm-thành, tây giáp xứ Bạch-y-man 白衣蠻, bắc giáp Khâm-châu 欽州. Các trào trước có đóng binh ở Giao-chỉ, dù lợi thì ít mà phí thì cao. Bổn trào (Tống) thương cho quân và lo cho dân, mới thôi đóng binh canh gác nơi miền gió độc này, mà giữ nước này để trào cống thôi.
Vua nước này mang họ Tàu. Quần áo đồ ăn nước này y hệt trung thổ, khác cái đờn ông đờn bà đều đi chưn đất. Mỗi năm ngày bốn tháng giêng họ mổ bò ăn lễ với bà con. Lễ lớn trong năm là rằm tháng bảy, họ thăm hỏi đãi đằng nhau, quan viên biếu con thịt cho cấp trên, cấp trên mở tiệc đãi lại ngày mười sáu. Ngày đầu năm họ cúng Phật, nhưng chẳng cúng dường tổ tiên như người trung thổ.
Dân nước này mắc bịnh, họ chẳng dùng thuốc. Đêm chẳng đốt đèn. Nhạc khí của họ, hay nhứt là trống bịt da trăn. Họ chẳng biết làm giấy và viết lông, phải mua các tỉnh bên trung thổ.
Sản vật nước này là trầm hương, vàng, bạc, sắt, quế, vỏ ốc (cowry), sừng tê, voi, lông chim bói cá (kingfisher), sò (shell), muối, sơn (lacquer), bông gòn 木綿 (mộc miên), bông gạo 吉貝 (cổ bối). Hàng năm có sứ sang trung thổ trào cống.
Giao-chỉ chẳng có ngoại thương với trung thổ, nhưng tôi (tác giả) vẫn ghi, để bắt đầu từ đây sang nước kế bên là Chiêm-thành.
Từ nước này đi tàu buồm theo đường biển chừng mười ngày tới Chiêm-thành.
[Giao-chỉ chẳng có ngoại thương với trung thổ, nghĩa là vua Tàu cấm thương nhơn bên họ theo đường biển sang Giao-chỉ buôn bán, nhưng có cho thương nhơn Giao-chỉ theo đường bộ qua Khâm-châu 钦州 và Liêm-châu 廉州 ở Quảng-tây buôn bán.]
- Chiêm-thành 占城
Chiêm-thành phía đông theo đường biển tới Quảng-châu, tây giáp Vân-nam, nam giáp Chơn- lạp, bắc giáp Giao-chỉ, qua đó tới Ung-châu 邕州 (Nam-ninh). Từ cảng Toàn-châu 泉州 (Phước-kiến) đi tàu buồm thuận gió chừng hai chục ngày tới nước này.
Nước này từ đông qua tây là 700 lý, từ bắc xuống nam là 3000 lý, đô là Tân-châu 新州, chia ra huyện 縣 và trấn 鎭. Bao quanh đô là thành gạch chen tháp đá.
Vua ra ngoài thì ngự trên voi hoặc cáng bằng bố do bốn người đờn ông khiêng trên vai. Vua đội mão bằng vàng, mình đeo chuỗi hột trai. Thiết trào, vua có ba chục nữ tỳ mang gươm, giáp, hột cau đứng hầu. Bá quan mọp xuống (bái 拜) chắp tay vái (tập 揖) một lần, xong buổi chầu, mọp vái lần nữa rồi lui. Đờn ông đờn bà đều bái tập như vậy.
Đờn ông đờn bà gian dâm bị xử tử cả hai. Ăn trộm, chặt ngón tay ngón chưn. Ra trận, năm lính đi chung một đội, một người bỏ chạy thì cả đội bị xử tử. Người bổn xứ để một người Tàu gần chết thì coi như mắc tội sát nhơn và bị xử tử.
Dân nước này ở sạch lắm: ngày tắm từ ba tới năm lần. Họ lấy bột ‘long não’ (camphor) trộn ‘xạ hương’ (musk) chà lên người; quần áo thì đốt trầm hương xông khói. Quanh năm khí hậu ôn hòa, chẳng lạnh quá, chẳng nóng quá.
Ngày đầu năm, họ xiềng một con voi, dắt nó diễu qua thành rồi mở xích thả nó chạy, coi như lễ ‘trục tà’ 逐邪. Tháng tư coi ghe đánh cá xếp hàng bơi. Rằm tháng mười một là ngày đông chí, dân chúng đem sản vật nuôi trồng và vải dệt dâng vua.
Dân nước này cày ruộng với một đôi trâu, trồng kê, gai, đậu, chẳng có lúa mì. Họ chẳng trồng trà, cũng chẳng biết nấu rượu, mà uống nước dừa. Cây trái có ngó sen, mía, chuối, dừa. Sản vật có ngà voi, ba thứ trầm hương, sáp ong, gỗ mun (ebony), dây mây trắng, bông gạo, vải, lụa, vải lụa 綾布 (lăng bố), vải tơ trắng 白氎 (bạch điệp), chiếu tre, lông công (peacock), sừng tê, vẹt (parrot).
Nước này, chặt trầm hương trong núi phải đóng thuế khoán (poll tax) cho nhà vua, gọi là ‘thuế trầm hương’ cũng như ‘thuế muối’ bên trung thổ vậy. Ai đóng đủ rồi thì được buôn bán với khách hàng của mình. Họ chẳng xài tiền, mà dùng rượu, gạo, đồ ăn để trao đổi (barter). Mỗi năm họ tính sổ một lần.
Nước này, hễ một người vô núi bị cọp giảo hoặc đi sông bị sấu ăn, người nhà sẽ kiện lên vua. Vua sai thầy cả trong xứ cầu thần, niệm chú, vẽ bùa rải quanh chỗ người bị nạn. Rồi con cọp hoặc con sấu tự nó sẽ tới chỗ đó, và vua ra lịnh giết nó. Song le, nếu chuyện cọp sấu giết người là hoang tưởng, hoặc quan gia chẳng tìm ra manh mối sự việc, thì người kiện sẽ phải đi ngang một ao sấu. Nếu họ nói bậy, sấu sẽ lên nuốt họ, còn họ nói thiệt thì có đi qua lại cả chục lần cũng chẳng con sấu nào tới gần.
Họ mua người làm nô lệ: một đứa con trai giá ba lạng vàng, hoặc trầm hương cùng giá.
Có tàu buôn tới thì quan sở tại lên tàu, cầm một cuốn sổ gồm những tờ da màu đen gấp lại, ghi ‘list’ hàng hóa trên tàu bằng phấn trắng. Kiểm tàu xong, họ cho dỡ hàng, để lại hai phần mười coi như thuế, kỳ dư được phép trao đổi. Hàng nào giấu để trốn kiểm, sẽ bị tịch thâu. Thương nhơn nước ngoài tới đây trao đổi long não, xạ hương, cây bạch đàng (sandal-wood), đồ sơn mài, đồ sứ, chì, thiếc, rượu trắng ‘tam-sao’ 三燒, đường.
Nước này có những ‘thuộc quốc’ (dependency) như sau:
- 舊州 Cựu-châu [Indrapura]
- 烏麗 Ô-lý [Huế]
- 日麗 Nhựt-lệ [Đồng Hới]
- 越裹 Việt-lõa [Quảng Trị ?]
- 微芮 Vi-nhuế
- 賔瞳龍 Tân-đồng-long [Phan Rang]
- 烏馬柭 Ô-mã-phất [Amaravati ?]
- 弄容 Lộng-dong
- 蒲羅甘兀 Bồ-la-cam-ô
- 亮寶 Lương-bửu
- 毗齊 Bì-tư
Chiêm-thành ít có giao thiệp với các trào vua trước bên trung thổ. Họ gởi sứ đi cống lần đầu hồi thời Hiển Đức trào Hậu Châu (951–960). Hai thời Kiến Long và Kiền Đức trào Tống (960–967) Chiêm-thành có cống sản vật. Hồi năm Thái Bình Hưng Quốc thứ 6 (981) Lê Hoàn 黎桓 vua nước Giao-chỉ báo cho Tống đế biết sẽ đưa 93 tù binh tới kinh trao trả. Tống Thái Tông ra lịnh tới Quảng-châu thì dừng lại và cấp đồ ăn cho họ. Từ đó Chiêm-thành thường sang cống và có dịp bày tỏ lòng khâm phục văn minh trung thổ, với số tặng vật hậu hỹ mà thiên trào ban cho.
Từ phía nam nước này đi năm bảy ngày tới Chơn-lạp.
- Tân-đồng-long 賔瞳龍
[Phan Rang]
Vua nước này cũng bận y phục và đội mão như ở Chiêm-thành. Dân lợp nhà bằng lá dừa, hàng rào bằng cây. Hàng năm họ cống sản vật cho Chiêm-thành. Tên nước này có lẽ lấy từ tên của một vị la-hán là Tân-đầu-lô 賓頭盧 [Piṇḍola-Bharadvāja] nhưng gọi trại ra là Tân-đồng-long. Cũng có người nói ở nước này vẫn còn nền nhà 舍基 (xá cơ) của Mục Liên 目連 [Maudgalyayana, đệ tử của Phật].
Hồi năm Ung Hy 4 (987) sứ nước này với nước Đại-thực (Ả-rập) sang cống trào Tống.
[Đường thơ là tài liệu sớm nhứt ghi âm ‘Pandaran’ là 奔陀浪 Bôn-đà-lang.]
- Chơn-lạp 眞臘
Chơn-lạp ở phía nam Chiêm-thành, phía đông giáp biển, tây giáp Bồ-cam 蒲甘, nam giáp Gia-la-hi 加羅希. Từ cảng Toàn-châu tàu thuận gió đi chừng một tháng tới đây. Cả nước rộng 7000 lý vuông. Kinh là 祿ㄫ [Nokor/Angkor]. Nơi đây chẳng có mùa lạnh.
Trang phục của vua giống y Chiêm-thành, nhưng lễ nghi trong trào thì tỉ mỉ hơn. Vua ra ngoài ngồi xe do một đôi ngựa/bò kéo. Nước chia ra huyện và trấn chẳng khác Chiêm-thành. Quan dân ở nhà mái tranh vách tre. Vua ở cung lát đá chẻ (hewn stone). Có ao sen thiệt đẹp bằng đá hoa cương, với những cây cầu bằng vàng, có cây dài hơn 300 bộ. Cung vua xây chắc, trang trí cầu kỳ. Ngai vua ngồi làm bằng gỗ dó và bảy thứ đá quý, bệ cẩn ngọc, khung 竿 (cán) là gỗ mun (ebony), màn sau ngai vua làm bằng ngà chẻ.
Thiết trào, bá quan mọp lạy ba lần dưới chưn ngai vua, rồi quỳ thẳng người, khoanh tay trước ngực, xếp vòng quanh vua mà tâu. Xong buổi chầu, lạy lần nữa rồi lui.
Góc tây-nam kinh thành là một cái đài bằng đồng thau (bronze), trên đó có 24 tháp cũng bằng đồng thau và 8 con voi bằng đồng thau đứng canh, mỗi con nặng 4000 cân (chừng 2.4 tấn). Voi chiến có chừng 200 ngàn, ngựa cũng nhiều nhưng nhỏ con.
Dân nước này mộ đạo Phật, đền chùa có chừng 300 cô người nước ngoài, múa và dâng đồ cúng cho tượng Phật, kêu bằng 阿南 ‘a-nam’ hoặc 妓弟 ‘kỹ-đệ’.
Tục của họ, gian dâm chẳng phải tội, nhưng ăn trộm thì bị chặt một bàn tay, một bàn chưn, đóng dấu trên ngực. Họ tin rằng ‘chơn ngôn’ do thầy tu đạo Phật và thầy tu đạo Hindu đọc ra thì có năng lực vô cùng. Thầy tu đạo Phật mặc y màu vàng được lấy vợ, thầy tu đạo Phật mặc y màu đỏ thì sống đời khổ hạnh trong chùa. Thầy tu đạo Hindu che thân bằng lá cây, siêng thờ thần Bà-đa-lợi 婆多利 [Virabhadra, một ‘thân’ của thần Siva].
Dân nước này coi bàn tay mặt là sạch, bàn tay trái là dơ, bởi vậy, họ lấy bàn tay phải trộn cơm với nước lèo, bốc ăn.
Đất đây màu mỡ, đồng ruộng minh mông. Ai muốn làm bao nhiêu thì làm. Lúa đậu rẻ rề, một lạng chì mua hai giạ lúa. Sản vật có ngà voi, hai loại trầm hương mịn và thô, sáp ong, lông chim bói cá—nước này nhiều lắm—mủ và cục ‘dammar’, dầu, vỏ gừng 萋皮 (thê bì), ‘benzoin’, gỗ cây vang, tơ 線, vải 布.
Thương nhơn nước ngoài đổi hàng bằng vàng, bạc, đồ sứ, satinette (một thứ sa-tanh), dù, trống bịt da, rượu trắng tam-sao, đường, mứt, giấm.
Nước này có những ‘thuộc quốc’ như sau:
- 豋流眉 Đăng-lưu-mi [Tambralinga = Nakhon Si Thammarat]
- 三濼 Tam-bạc
- 波斯蘭 Ba-tư-lan [Sóc Trăng ?]
- 眞里富 Chơn-lý-phú [Chanthaburi ?]
- 羅斛 La-hộc [Lavo]
- 麻羅問 Ma-la-vấn [Kraburi river ?]
- 緑洋 Lục-dương
- 吞里富 Thôn-lý-phú
- 蒲甘 Bồ-cam [Pagan]
- □裹 X-lõa [Myeik ?]
- 西棚 Tây-bằng
- 杜懐潯 Đỗ-hoài-tầm [Dawei]
Từ xưa Chơn-lạp đã có bang giao với Chiêm-thành, hàng năm cống vàng cho Chiêm-thành, nhưng năm Thuần Hy 4 (1177) ngày rằm tháng năm vua Chiêm thình lình đem hải quân qua đánh kinh đô Chơn-lạp, không cho hòa, tàn sát dân chúng. Từ đó người Chơn-lạp mang mối thâm thù, thề trả hận. Qua năm Khánh Nguyên 5 trào Tống (Kỷ Mùi 1199) Chơn-lạp đem đại binh đánh Chiêm-thành, bắt sống vua, xử tử quần thần, tàn sát dân chúng, đưa một người Chơn-lạp làm vua nước Chiêm và tới nay (lúc soạn sách này) Chiêm-thành vẫn là ‘thuộc quốc’ của Chơn-lạp.
Chơn-lạp lần đầu giao thiệp với trung thổ hồi thời Võ Đức trào Đường (618–627), sai sứ sang cống năm Tuyên Hòa 2 trào Tống (1120).
Chơn-lạp phía nam giáp Gia-la-hi [Chaiya] là ‘thuộc quốc’ của nước Tam-phật-tê [Srivijaya].
[Chơn-lạp nêu tên lần đầu trong tài liệu Tàu hồi thế kỷ 7, thời Tống gọi là Chiêm-lạp 占臘, qua thời Nguyên lại gọi Chơn-lạp, thời Minh gọi là 柬埔寨 Giản-bộ-trại hay 甘孛智 Cam-bột-trí, ghi âm ‘Kamboja’. Thế kỷ 7, đô của Chơn-lạp là 伊奢那城 ‘I-xa-na thành’, tức Isanapura.]
Chót hết là bản đồ những nước có giao thương với Tàu trong Chư-phiên-chí.

Hình 2. (Shao-yun Yang)
[1] Chau Ju-kua. On the Chinese and Arab trade in the twelfth and thirteenth centuries, trans and annot F. Hirth and W. W. Rockhill (1911).
[2] Shao-yun Yang (2025) A Chinese gazetteer of foreign lands: a new translation of Part 1 of the Zhufan Zhi 諸蕃志 (1225). https://storymaps.arcgis.com/stories/39bce63e4e0642d3abce6c24db470760
Pingback: Chư Phiên Chí- Bài 2 | Nghiên Cứu Lịch Sử