Chiến tranh Nga- Ukraine (Bài 13)

SERHII PLOKHY

Trần Quang Nghĩa dịch

13 Xoay Trục Sang Châu Á

USS Ronald Reagan, một tàu sân bay chạy bằng năng lượng hạt nhân, và nhóm tấn công của nó đã rời Singapore vào ngày 25 tháng 7 năm 2022 và hướng về phía bắc tới Biển Đông và Đài Loan. Vài ngày sau, tàu sân bay được phát hiện đang tuần tra ở khoảng cách 115 dặm từ Đá Chữ Thập, một hòn đảo do Trung Quốc chiếm đóng và quân sự hóa cũng được Đài Loan, Việt Nam và Philippines tuyên bố chủ quyền. Hai tàu quân sự Trung Quốc, một tàu khu trục và một tàu hộ tống, được nhìn thấy gần đó. Chẳng mấy chốc, nhiều tàu của Mỹ và Trung Quốc sẽ tiến vào khu vực này, gây ra mối lo ngại rộng rãi về một vụ tai nạn có thể xảy ra và cuộc đối đầu quân sự tiếp theo giữa hai cường quốc.

Căng thẳng đã bắt đầu gia tăng từ nhiều tuần trước, khi có tin đồn về chuyến thăm có thể có của Nancy Pelosi, chủ tịch Hạ viện và là quan chức cấp cao thứ ba của chính phủ Hoa Kỳ, tới Đài Loan, hòn đảo mà Bắc Kinh coi là một tỉnh ly khai của Trung Quốc và Tổng thống Biden gần đây đã cam kết chống lại bất kỳ hành động hung hăng quân sự  nào. Khi tin tức lan truyền và các phản kháng từ Bắc Kinh trở nên dữ dội hơn, Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đã di chuyển tàu Ronald Reagan và nhóm tàu ​​tấn công của nó đến gần Đài Loan hơn. Trung Quốc coi chuyến thăm của Pelosi là vi phạm chính sách “một Trung Quốc” của họ, chính sách này xác định Đài Loan là một phần của Trung Quốc và đã được chính phủ Hoa Kỳ công nhận vào cuối những năm 1970. Một nhà báo Trung Quốc đã kêu gọi quân đội Trung Quốc bắn hạ máy bay của Pelosi nếu bà bay đến Đài Loan. Bộ ngoại giao Trung Quốc đe dọa Hoa Kỳ bằng “các biện pháp mạnh mẽ”. Nhà Trắng tái khẳng định cam kết của mình đối với chính sách “một Trung Quốc”.

Vào ngày 28 tháng 7, khi tàu Ronald Reagan được phát hiện đang tuần tra gần Đá Chữ Thập và Trung Quốc đưa ra tuyên bố của họ, Biden và nhà lãnh đạo Trung Quốc, Tập Cận Bình, đã có cuộc điện đàm kéo dài hai giờ mười bảy phút. Đài Loan nằm trong chương trình nghị sự, và theo bản ghi chép của Trung Quốc về cuộc trò chuyện, Tập đã cảnh báo Biden không nên “đùa với lửa”. Trước đó, Biden đã gợi ý rằng chuyến thăm của Pelosi đến Đài Loan “không phải là một ý tưởng hay vào lúc này”, dựa theo đánh giá của quân đội Hoa Kỳ về tình hình. Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ nhất hoặc thứ hai thế giới, cũng như sở hữu lực lượng hải quân lớn nhất thế giới.

Nhưng bất chấp những lời lẽ gay gắt từ Bắc Kinh và sự can ngăn thận trọng từ Nhà Trắng, Pelosi đã đến thăm Đài Loan vào ngày 2 tháng 8 năm 2022, như một phần của chuyến công du Thái Bình Dương của bà. Bà tuyên bố chuyến thăm của mình là biểu tượng cho “cam kết không lay chuyển của Hoa Kỳ trong việc hỗ trợ nền dân chủ năng động của Đài Loan” và được công dân Đài Loan mang mặt nạ xanh và vàng chào đón tại sân bay (màu cờ Ukraine) và mang theo những tấm biển có dòng chữ “Tự do và Hữu nghị” và “Đài Loan  Trung Quốc.”

Phương tiện truyền thông Trung Quốc đưa tin rằng máy bay phản lực quân sự của Quân đội Giải phóng Nhân dân đang bay qua Eo biển Đài Loan. Thật vậy, 20 máy bay phản lực của Trung Quốc, bao gồm cả máy bay chiến đấu Sukhoi SU-30 do Nga sản xuất, đã xâm nhập vào vùng phòng không của Đài Loan. Cả bộ ngoại giao Trung Quốc và Nga đều phản đối và lên án chuyến thăm, và quân đội Trung Quốc tuyên bố bắt đầu các cuộc tập trận bắn đạn thật xung quanh hòn đảo vào cuối tuần.

Chuyến thăm Đài Loan của Pelosi đã tạo ra cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong quan hệ Mỹ-Trung kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Chuyến thăm có sự ủng hộ của lưỡng đảng tại Quốc hội, nơi đảng Dân chủ muốn đất nước của họ có lập trường cứng rắn hơn đối với Bắc Kinh về vấn đề nhân quyền và dân chủ, và đảng Cộng hòa muốn có chính sách kinh tế và thương mại quyết liệt hơn. Nhưng cuộc khủng hoảng không hề được chào đón tại Nhà Trắng, nơi Biden và các cố vấn của ông đang cố gắng hết sức để tránh đối đầu ngoại giao và kinh tế cùng lúc với cả Nga và Trung Quốc và tuyệt vọng trong việc ngăn cản Trung Quốc phát triển mối quan hệ gần gũi hơn với người hàng xóm phía bắc.

Các nguyên tắc chính trong chính sách của chính quyền Biden đối với Trung Quốc đã được Ngoại trưởng Antony Blinken xây dựng trong bài phát biểu vào cuối tháng 5 tại Đại học George Washington. Bài phát biểu nêu rõ chương trình nghị sự chính sách của chính quyền đối với Trung Quốc, nhưng Blinken bắt đầu bằng cách nói về Nga. “Tổng thống Nga Vladimir Putin đặt ra mối đe dọa rõ ràng và hiện hữu”, Blinken nói với khán giả của mình. “Trong việc tấn công Ukraine ba tháng trước, ông cũng đã tấn công các nguyên tắc về chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, được ghi trong Hiến chương Liên hiệp quốc, nhằm bảo vệ tất cả các quốc gia khỏi bị chinh phục hoặc bị ép buộc.” Nhưng Blinken không tin rằng Nga sẽ thành công. “Rất nhiều quốc gia đã đoàn kết để phản đối hành động xâm lược này vì họ coi đó là một cuộc tấn công trực tiếp vào nền tảng hòa bình và an ninh của chính họ,” ông tiếp tục. Nhắc đến Putin, ông nói: “Thay vì khẳng định sức mạnh của Nga, ông ấy đã làm suy yếu nó. Và thay vì làm suy yếu trật tự quốc tế, ông ấy đã mang các quốc gia đến cùng nhau để bảo vệ nó.”

Câu chuyện lại khác với Trung Quốc, nước mà chính sách đối với nó Blinken trình bày là “thách thức nghiêm trọng lâu dài nhất đối với trật tự quốc tế.” “Trung Quốc là quốc gia duy nhất có cả chủ định định hình lại trật tự quốc tế và ngày càng có sức mạnh kinh tế, ngoại giao, quân sự và công nghệ để thực hiện được điều đó”, Blinken tuyên bố trước khi tiếp tục: “Tầm nhìn của Bắc Kinh sẽ đưa chúng ta rời xa các giá trị phổ quát đã từng duy trì phần lớn sự tiến bộ của thế giới trong 75 năm qua.” Thời gian đó ông muốn nói đến kỷ nguyên hậu Thế chiến II. Blinken trấn an khán giả rằng “Chúng ta không tìm kiếm xung đột hay Chiến tranh Lạnh mới. Ngược lại, chúng ta quyết tâm tránh cả hai.”

Những khẩu hiệu “đầu tư, liên kết, cạnh tranh” là công thức mà Blinken đề xuất để ngăn chặn Trung Quốc và tránh xung đột trong tương lai. “Chúng ta sẽ đầu tư vào nền tảng sức mạnh của chúng ta tại quê nhà – khả năng cạnh tranh, sự đổi mới, nền dân chủ của chúng ta”,

Blinken nói với khán giả. “Chúng ta sẽ liên kết các nỗ lực của mình với mạng lưới đồng minh và đối tác của chúng ta, hành động vì mục đích chung và vì lý tưởng chung. Và khai thác hai tài sản quan trọng này, chúng ta sẽ cạnh tranh với Trung Quốc để bảo vệ lợi ích của mình và xây dựng tầm nhìn cho tương lai.”

Nghe có vẻ giống như chính sách “chung sống hòa bình” và cạnh tranh kinh tế với phương Tây tư bản chủ nghĩa của Liên Xô đã từng gây ra sự chia rẽ Trung-Xô vào những năm 1950. Vào thời điểm đó, Bắc Kinh muốn có cách tiếp cận đối đầu hơn với phương Tây, cả về quân sự lẫn kinh tế. Còn Bắc Kinh đổi mới không muốn có bất kỳ sự hạn chế nào đối với sự phát triển kinh tế của mình. Vương Văn Bân, một phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, cho rằng mục tiêu của Hoa Kỳ là “kiềm chế và ngăn chặn sự phát triển của Trung Quốc và duy trì quyền bá chủ của Hoa Kỳ”. Ông phản đối việc thành lập các liên minh chống lại Trung Quốc và bác bỏ các quy tắc quốc tế do Hoa Kỳ và các đồng minh áp đặt. “Về trật tự quốc tế dựa trên luật lệ mà Hoa Kỳ ủng hộ, tất cả những người có hiểu biết đều có thể thấy rằng chúng chẳng qua chỉ là các quy tắc do Hoa Kỳ và một số quốc gia khác xây dựng với mục đích duy trì trật tự quốc tế do Hoa Kỳ thống trị”, Vương nói.

Hai nền kinh tế lớn nhất thế giới, Hoa Kỳ và Trung Quốc, đang trên đà va chạm, và mặc dù không bên nào muốn tham gia vào cuộc đối đầu trực tiếp, cuộc chiến tranh của Nga ở Ukraine đã làm gia tăng căng thẳng giữa các cường quốc và đẩy nhanh quá trình tái cấu trúc trật tự thế giới được tạo ra vào cuối Chiến tranh Lạnh. Thế giới đơn cực do Hoa Kỳ thống trị đã thay thế thế giới lưỡng cực khi Chiến tranh Lạnh kết thúc vào đầu những năm 1990 đang phải đối mặt với mối đe dọa lớn nhất kể từ khi nó được tạo ra.

Thế Tiến Thoái Lưng Nan ca Washington

Đòn giáng lớn đầu tiên vào thế giới đơn cực Mỹ được tiến hành bởi Tổng thống George W. Bush, người quyết tâm bảo vệ và duy trì thế giới này nhất.

Bush đã phát động cuộc chiến tranh Afghanistan như một phản ứng trực tiếp đối với cuộc tấn công của Al Qaeda ngày 11/9 vào lục địa Hoa Kỳ và đưa quân đội Mỹ vào Iraq một năm rưỡi sau đó để hoàn thành cuộc chiến chống lại chế độ Saddam Hussein, được khởi xướng bởi thân sinh của tổng thống, George H. W. Bush, vào năm 1991 nhưng không hề hoàn thành. Phản ánh tầm nhìn mới của nước Mỹ về vai trò của mình trên thế giới, các cuộc chiến tranh dựa trên hai mô hình chính liên quan đến sự chuyển hướng tân bảo thủ trong cơ sở chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Mô hình đầu tiên cho rằng chiến tranh phòng ngừa là được phép, thậm chí là đáng mong muốn, như một phương tiện để duy trì quyền tối cao của Hoa Kỳ trong thế giới đơn cực đã xuất hiện sau Chiến tranh Lạnh. Mô hình thứ hai là về mặt ý thức hệ, thúc đẩy sự chuyển đổi thế giới thành một cộng đồng các quốc gia dân chủ. Các cuộc chiến tranh được hình dung trong các mô hình này có nghĩa là giao tranh quân sự hạn chế, nhưng trong thực tế nó biến thành các cuộc xung đột kiểu thuộc địa kéo dài, bộc lộ những điểm yếu về kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ, cho thấy những nguy cơ của việc mở rộng chiến tranh quá mức.

Tổng thống Barack Obama muốn chấm dứt chiến tranh ở Iraq và Afghanistan, rút ​​khỏi Trung Đông và tập trung vào Thái Bình Dương. “Sự chuyển hướng sang châu Á” này có thể bắt nguồn từ xuất thân của Obama – ông lớn lên ở Hawaii và dành một phần thời thơ ấu ở Indonesia – nhưng hơn hết, nó được hình thành từ nhận thức rằng thách thức dài hạn đến sức mạnh kinh tế, chính trị và thậm chí có thể là quân sự của Mỹ đến từ Trung Quốc, một đối thủ cạnh tranh đang nổi lên nhanh chóng đã vượt qua Nhật Bản vào năm 2010 để trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Với mức tăng trưởng hàng năm là 10 phần trăm, Trung Quốc đã sẵn sàng vượt qua nền kinh tế Hoa Kỳ và thực sự đã trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới vào năm 2014 nếu GDP của nước này được đo lường trên cơ sở PPP (sức mua tương đương). Obama hy vọng sẽ rút quân đội Hoa Kỳ khỏi Trung Đông để phát triển thương mại và tăng cường các liên minh chính trị ở Thái Bình Dương để cạnh tranh với Trung Quốc sức mạnh kinh tế và chính trị ngày càng tăng ở đó.

Đối với Nga, Nhà Trắng Obama muốn có một khởi đầu mới, đổ lỗi những căng thẳng ngày càng gia tăng giữa Moscow và Washington cho những người tiền nhiệm của mình, George W. Bush và nhóm của ông. Chính quyền Obama-Biden hy vọng cải thiện mối quan hệ với Nga, vốn đã bị tổn hại đáng kể vào năm trước bởi mong muốn của Washington muốn mời Ukraine và Georgia gia nhập NATO và bởi cuộc xâm lược Gruzia (Georgia) của Nga. Không chỉ “tai nạn” George được tha thứ hoàn toàn và các kế hoạch để Ukraine và Georgia trở thành thành viên của NATO đã bị hủy bỏ, nhưng Nhà Trắng cũng đã xếp xó kế hoạch lắp đặt hệ thống phòng thủ tên lửa ở Đông Âu do nhóm Bush đưa ra. Putin, khi đó đã chuyển vai trò từ tổng thống sang thủ tướng, đã ca ngợi quyết định này.

Vào tháng 3 năm 2009, Ngoại trưởng Hoa Kỳ mới Hillary Clinton đã trở thành tiêu đề khi bà tặng cho người đồng cấp Nga Sergei Lavrov một món quà lưu niệm nhỏ – một nút bấm “thiết lập lại” màu đỏ. “Tôi muốn tặng ngài một món quà nhỏ tượng trưng cho những gì Tổng thống Obama, Phó Tổng thống Biden và tôi đã nói, đó là: ‘Chúng tôi muốn thiết lập lại mối quan hệ của chúng ta, và vì vậy chúng ta sẽ cùng nhau làm điều đó.” Khi cả hai mỉm cười và nói đùa, một tương lai tươi sáng dường như đang vẫy gọi hai đối thủ thời Chiến tranh Lạnh. Nhưng cũng có những câu hỏi dai dẳng về ý định của Nga và sự hiểu biết của chính quyền mới về chúng. Chiếc nút bấm mà Clinton tặng cho Lavrov dán nhãn “thiết lập lại” bị dịch sai từ. Thay vì tiếng Nga perezagruzka (thiết lập lại), nó viết là peregruzka (quá tải) “Chúng tôi rất cố gắng để có được từ tiếng Nga đúng. Ngài có nghĩ là chúng tôi dịch đúng không?” Clinton hỏi. “Bà đã hiểu sai” là câu trả lời.

Bất chấp sự cố  với nút bấm, sự cải thiện trong quan hệ Mỹ-Nga đã dẫn đến việc Obama và tổng thống mới của Nga, Dmitrii Medvedev, ký kết một hiệp ước START mới, cắt giảm kho vũ khí hạt nhân của hai siêu cường. Moscow và Washington cũng hợp tác trong các lệnh trừng phạt đối với Iran. Việc giải quyết “vấn đề Nga” này đã cho phép chính quyền Obama cảm thấy khá an toàn khi tuyên bố “xoay trục” sang châu Á vào mùa thu năm 2011. “Một khi chúng tôi nhấn nút thiết lập lại vào năm 2009, từ đó đến năm 2012, chúng tôi đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trong hợp tác với Nga để thúc đẩy lợi ích chung của chúng tôi và tôi cho rằng còn vì lợi ích của châu Âu”, Joe Biden tuyên bố vào tháng 2 năm 2015. Vào thời điểm đó, những đám mây mới không chỉ xuất hiện ở đường chân trời mà còn che khuất hoàn toàn bầu trời phía trên quan hệ Nga-Mỹ.

Người tạo ra đám mây đen chính là Vladimir Putin. Ông ta đã trở lại chức vụ tổng thống cho nhiệm kỳ thứ ba vào tháng 5 năm 2012. Putin đã tự thuyết phục mình rằng các cuộc biểu tình quần chúng ở Moscow vào cuối năm 2011, ngay trước cuộc bầu cử quốc hội Nga và sự trở lại chức vụ của ông, đã được Hoa Kỳ dàn dựng. Ông đã cáo buộc Hillary Clinton phải chịu trách nhiệm cá nhân về sự can thiệp vào công việc nội bộ của Nga, vì bà đã chính thức tuyên bố nghi vấn về tính công bằng của cuộc bầu cử quốc hội Nga. Người dân Nga, bà tuyên bố, “xứng đáng được lắng nghe tiếng nói của mình và phiếu bầu của họ phải được tính, và điều đó có nghĩa là họ xứng đáng được bầu cử công bằng, minh bạch và các nhà lãnh đạo chịu trách nhiệm trước họ.” Putin cáo buộc Clinton đã kích động các cuộc biểu tình.

Việc Nga sáp nhập Crimea vào tháng 3 năm 2014 và việc phát động cuộc chiến tranh hỗn hợp ở Donbas đã dẫn đến lệnh trừng phạt do Hoa Kỳ dẫn đầu đối với Nga để trừng phạt nước này vì hành vi xâm lược vô cớ. Điều đó đã chấm dứt “việc thiết lập lại” quan hệ giữa Washington và Moscow với “sự quá tải”, khiến Nga can thiệp vào cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2016. Theo tình báo Hoa Kỳ, Putin đã đích thân ra lệnh tấn công vào mạng các máy chủ của Ủy ban Quốc gia Dân chủ và các bộ phận và viên chức phụ trách chiến dịch tranh cử của Đảng Dân chủ. Mười một viên chức tình báo Nga sẽ bị buộc tội hack vào máy chủ của bộ phận tranh cử tổng thống của bà Clinton và phát tán hàng trăm email bị đánh cắp khiến làm suy yếu cơ hội đắc cử của bà. Một tổ chức tin tặc của Nga ở St. Petersburg, quê hương của Putin, đã tạo ra hàng nghìn tài khoản mạng xã hội và phát tán thông tin sai lệch đến hàng triệu cử tri Mỹ, tất cả đều nhằm mục đích chung là làm xấu hổ Hillary Clinton và thành công trong việc làm mất uy tín đảng dân chủ Mỹ.

Người hưởng lợi chính từ sự can thiệp của Nga là ứng cử viên tổng thống, đảng Cộng hòa đã đắc cử, Donald John Trump. Trong suốt chiến dịch tranh cử và nhiệm kỳ của mình tại Phòng Bầu dục, ông chưa bao giờ tấn công Vladimir Putin hay chỉ trích các hành động của Nga hoặc “nền dân chủ có chủ quyền” của Điện Kremlin. Giống như Obama, Trump tìm cách đưa khu vực Châu Á – Thái Bình Dương trở thành ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình, nhưng sự xoay trục của ông sang Châu Á khá khác so với người tiền nhiệm. Trump đã rút khỏi Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương do Obama đàm phán và bắt đầu một cuộc chiến thương mại với Trung Quốc, áp đặt thuế quan đối với hàng trăm tỷ đô la giá trị hàng nhập khẩu của Trung Quốc vào Hoa Kỳ.

Các cuộc đàm phán kéo dài và phức tạp đã dẫn đến việc ký kết một thỏa thuận thương mại mới của Hoa Kỳ với Bắc Kinh, cho phép Trump tuyên bố chiến thắng trong cuộc chiến thương mại và để ông tự do tấn công Trung Quốc trên nhiều mặt trận, từ việc gây ra sự bùng phát của COVID đến các hoạt động thương mại không công bằng. Vào năm 2020, năm cuối cùng Trump tại nhiệm, Hoa Kỳ đã trừng phạt 90 tập đoàn và cá nhân Trung Quốc, tạo ra một tình huống mà cứ 10 lệnh trừng phạt của Mỹ được áp dụng vào thời điểm đó thì có một lệnh nhắm vào người Trung Quốc. Trump và các cố vấn rõ ràng coi Trung Quốc là mối đe dọa trực tiếp đến lợi ích của Hoa Kỳ, hạ thấp Nga, nền kinh tế thậm chí còn không được xếp vào nhóm 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới, xuống vị trí thứ yếu.

Trong khi Trump thấy khó che giấu sự ngưỡng mộ của mình đối với Putin và chế độ độc tài của ông ta, chính quyền của ông lại có lập trường cứng rắn hơn đối với Nga và hỗ trợ Ukraine nhiều hơn trong cuộc chiến tranh hỗn hợp với Moscow so với những người tiền nhiệm. Obama đã từ chối cung cấp vũ khí sát thương cho Ukraine mặc dù lưỡng đảng trong quốc hội ủng hộ một biện pháp như vậy. Trump đã chấp thuận bán vũ khí trị giá 47 triệu đô la cho Ukraine, bao gồm tên lửa chống tăng Javelin. Trớ trêu thay, chính sự hỗ trợ quân sự của Hoa Kỳ cho Ukraine đã trở thành bối cảnh cho cuộc luận tội đầu tiên của Hạ viện đối với Trump vào tháng 12 năm 2019. Đầu năm đó, Trump đã cố gắng sử dụng sự chấp thuận của quốc hội về việc cung cấp vũ khí cho Ukraine làm đòn bẩy để khiến tổng thống mới đắc cử của Ukraine, Volodymyr Zelensky, mở cuộc điều tra về con trai của Joe Biden, Hunter, và hoạt động kinh doanh bị cáo buộc là đáng ngờ ở Ukraine.

Vào năm 2019, các chuyên gia có ảnh hưởng của Tập đoàn RAND đã khuyên Washington nên tập trung vào Trung Quốc, chứ không phải Nga, là mối đe dọa chính đối với Hoa Kỳ. Khi chuyển đến Nhà Trắng vào tháng 1 năm 2021, Tổng thống Biden và chính quyền của ông đã nghiêm túc thực hiện lời khuyên đó. Trên thực tế, họ tiếp tục các chính sách quan trọng của Trump đối với Trung Quốc, và dưới sự giám sát của Biden, với việc Hoa Kỳ tuyên bố tẩy chay chính trị Thế vận hội mùa đông 2022 do Trung Quốc đăng cai, quan hệ với Bắc Kinh đã không được cải thiện nhiều. Nhưng quan hệ của Washington với Moscow thậm chí còn tệ hơn cả mức thấp nhất đạt được trong nhiệm kỳ tổng thống của Trump.

Các cố vấn của Biden định nghĩa chính sách đối với Nga là đạt được “mối quan hệ ổn định và có thể dự đoán được”. “Toàn bộ tiền đề giống như câu thần chú ‘mối quan hệ ổn định và có thể dự đoán được’ dẫn đến việc Nga đã rơi khỏi danh sách vấn đề hàng đầu trong chương trình nghị sự”, Samuel Charap, cố vấn về Nga trong chính quyền của Tổng thống Obama, cho biết trong một cuộc phỏng vấn với NPR vào tháng 12 năm 2021. “Nga không gây ra các vấn đề cho Hoa Kỳ và ngừng chiếm thời gian của những nhân vật cấp cao ra quyết định.” Sau đó, ông nói thêm: “Và điều đó đã không hiệu quả.” Chính sách của  Biden đã thất bại về mặt đó vì lập trường ngày càng hung hăng của Putin. Đến mùa thu năm 2021, Nga đã thay thế Trung Quốc trở thành đối thủ chính của Hoa Kỳ và trật tự quốc tế mà nước này chủ trương. Việc xoay trục sang khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ phải chờ trong khi chính quyền buộc phải tập trung sự chú ý của mình vào Nga.

Quan H Đi Tác Phương Đông

Đầu tháng 2, sau khi đã quyết định xâm lược Ukraine, Putin đã bay tới Bắc Kinh để trở thành khách mời danh dự tại lễ khai mạc Thế Vận Hội Mùa Đông do Tập Cận Bình chủ trì.

Hai bên đã gặp nhau và công bố một bức ảnh trong đó Putin không giữ khoảng cách với người đồng cấp Trung Quốc, như ông đã từng làm trong các cuộc họp với các nhà lãnh đạo phương Tây trong vài tuần trước. Tập Cận Bình và Putin cũng công bố một tuyên bố dài 5.000 từ tuyên bố tình hữu nghị và hợp tác  không có “giới hạn” hoặc không có “vùng hợp tác bị cấm” giữa hai nước, hàm ý cả hợp tác quân sự. Mặc dù vậy, tuyên bố này vẫn chưa phải là một liên minh chính thức, vì Trung Quốc vẫn coi trật tự quốc tế là có thứ bậc và chưa coi Nga ngang hàng về mặt lịch sử và văn hóa, chưa nói đến sức mạnh và tiềm năng kinh tế. Văn bản này coi thỏa thuận mới là “vượt trội hơn các liên minh chính trị và quân sự của thời kỳ chiến tranh lạnh”.

Không có thông tin cụ thể về cách thức quan hệ đối tác sẽ hoạt động, nhưng có những tuyên bố cụ thể về địa chính trị. Tập đã công khai ủng hộ Putin phản đối việc NATO mở rộng về phía đông – lý do chính mà ông chủ Điện Kremlin đưa ra để biện minh cho hành động xâm lược sắp xảy ra của mình. Đáp lại Putin ủng hộ yêu sách của Trung Quốc đối với Đài Loan, và cả hai nhà lãnh đạo đều tuyên bố phản đối “việc Hoa Kỳ thúc đẩy các kế hoạch phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa toàn cầu và triển khai các nguồn lực của mình tại nhiều khu vực khác nhau trên thế giới, kết hợp với việc xây dựng năng lực vũ khí phi hạt nhân có độ chính xác cao để vô hiệu hóa các hành động giáng trả và các mục tiêu chiến lược khác”.

Không rõ cuộc chiến sắp tới ở Ukraine đã được thảo luận đến mức độ nào tại hội nghị thượng đỉnh, nhưng Putin ắt hẳn không thể không báo trước cho Tập về cuộc chiến, nếu không ông ta sẽ làm sứt mẻ “tình bạn không giới hạn” trước khi nó bắt đầu. Tình báo phương Tây phát hiện ra rằng Tập không muốn chiến tranh bắt đầu trước lễ bế mạc Thế Vận Hội, để không làm mất tập trung sự chú ý của thế giới vào thành tựu to lớn của mình. Thật vậy, quyết định của Putin về việc rút khỏi Thỏa thuận Minsk với Ukraine đã được công khai trình bày với thế giới vào ngày 21 tháng 2, một ngày sau khi Thế Vận Hội kết thúc.

Người Trung Quốc dường như mong đợi một chiến dịch cảnh sát ngắn hạn theo kiểu mà Putin đã tuyên bố khi bắt đầu cuộc gây hấn của mình, thay vì một cuộc xâm lược toàn diện, vì họ khuyên công dân của mình ở Kyiv không nên đi ra ngoài hoặc tích trữ lương thực, trong khi nhân viên đại sứ quán phương Tây đang vội vã rời khỏi thành phố và đất nước. Bất ngờ trước quy mô của cuộc xâm lược, Trung Quốc chỉ bắt đầu sơ tán công dân của mình khỏi Kyiv vào ngày thứ tư của cuộc chiến và chỉ hoàn tất cho đến hai tuần sau khi cuộc chiến bắt đầu.

Putin hẳn đã trở về từ Bắc Kinh với sự mãn nguyện vì lập trường trung lập và sự hỗ trợ tiềm năng của Trung Quốc trong cuộc đối đầu sắp tới với phương Tây. Thật vậy, Bắc Kinh tuyên bố trung lập về cuộc chiến. Theo một tuyên bố do Bộ Ngoại giao Trung Quốc công bố, Tập Cận Bình đã nói với Putin trong một cuộc điện đàm, đáp lại những lời phàn nàn của ông này về NATO và việc Hoa Kỳ phớt lờ “những quan ngại chính đáng về an ninh của Nga” rằng cần phải “tôn trọng những quan ngại hợp lý về an ninh của tất cả các quốc gia và đạt được một cơ chế an ninh châu Âu cân bằng, hiệu quả và bền vững”, và Tập nói thêm rằng điều đó sẽ phải được thực hiện thông qua đàm phán. Ông rõ ràng muốn “chiến dịch quân sự” kết thúc nhanh chóng. Ông Tập tiếp tục: “Trung Quốc ủng hộ Nga giải quyết vấn đề thông qua đàm phán với Ukraine.” Ông nhắc nhở người đồng cấp rằng “Trung Quốc từ lâu đã giữ lập trường cơ bản là tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của tất cả các quốc gia, và tuân thủ các mục đích và nguyên tắc của Hiến chương Liên hiệp quốc.”

Trung Quốc, đã đầu tư rất nhiều vào Ukraine trước chiến tranh, từ chối công nhận việc Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và có rất ít lý do để ủng hộ Nga trong cuộc tấn công vào Kyiv, vì họ thực sự coi trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia – lập luận chính trong yêu sách của họ đối với Đài Loan. Bên cạnh đó, chính sách đối ngoại của Trung Quốc dựa trên việc sử dụng đòn bẩy kinh tế để thể hiện sức mạnh của mình, coi can thiệp quân sự là biện pháp cuối cùng. Về phần mình, người Nga chỉ có vỏn vẹn phương tiện quân sự để khẳng định mình là một cường quốc, và, như giai đoạn đầu của cuộc xâm lược Ukraine của họ sẽ cho thấy, ngay cả  phương tiện đó cũng không hiệu quả.

Tuy nhiên, nếu chiến tranh diễn ra theo kế hoạch của Putin, Trung Quốc được hưởng lợi từ chiến thắng của ông ta theo nhiều cách. Sự sụp đổ của Ukraine sẽ làm giảm thêm vị thế của Hoa Kỳ trên thế giới, tạo ra những vết nứt trong liên minh châu Âu-Đại Tây Dương và thu hút sự tập trung chú ý của phương Tây vào việc đối phó với Moscow. Điều đó sẽ cho phép Trung Quốc tránh khỏi sự giám sát và chỉ trích liên tục của Hoa Kỳ, đồng thời phát triển hơn nữa năng lực kinh tế và quân sự của mình và củng cố vị thế của mình ở nước ngoài.

Nhưng mọi thứ đã không diễn ra như kế hoạch của Putin hoặc, nói rộng ra, cho Tập. Cuộc kháng cự thành công của Ukraine đã mang lại cho phương Tây lý do, cơ hội và thời gian để thể hiện tình đoàn kết hơn bao giờ hết – tin xấu cho giới lãnh đạo Trung Quốc, vốn luôn trông chờ vào sự chia rẽ không chỉ giữa Hoa Kỳ và Châu Âu mà còn trong chính Châu Âu. Tác động của cuộc chiến đối với nền kinh tế toàn cầu, với giá năng lượng tăng và sự phục hồi chậm lại sau COVID, là một đòn giáng mạnh vào Bắc Kinh. Uy tín của Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng, do mối quan hệ gần gũi và công khai của Tập với Putin, một con người hoang tưởng trở thành một kẻ phá hoại liều lĩnh trật tự thế giới với một đạo quân kém khả năng chiến đấu trong một cuộc chiến hiện đại. Việc Nga không thể đạt được mục tiêu chiến tranh của mình cũng là một tín hiệu cảnh báo cho Tập Cận Bình về triển vọng xâm lược Đài Loan thành công. Tóm lại, kết quả của “chiến dịch quân sự đặc biệt” của Putin đều không tốt cho Trung Quốc.

Sự xê dịch trong thái độ của Bắc Kinh đối với cuộc chiến được phản ánh trong phạm vi đưa tin của phương tiện truyền thông Trung Quốc. Lúc đầu, sau một số do dự và hoài nghi, phương tiện truyền thông nhà nước đã chấp nhận lời tường thuật của Nga về cuộc chiến như một chiến dịch đặc biệt không gì khác ngoài phản ứng đáp lại tư thế hung hăng của phương Tây và đang diễn ra theo đúng kế hoạch. Các phương tiện truyền thông từ chối gọi cuộc chiến là “cuộc xâm lược” và bám sát đường lối đó với một số thay đổi nhỏ. Nhưng khi cuộc chiến diễn ra, không có dấu hiệu nào cho thấy Nga sẽ giành chiến thắng nhanh chóng, các phương tiện truyền thông Trung Quốc bắt đầu đưa ra các ý kiến ​​chỉ trích cuộc xâm lược.

Vào ngày 30 tháng 4 năm 2022, hãng thông tấn nhà nước Tân Hoa xã đã phát đi một tuyên bố của Ngoại trưởng Ukraine, Dmytro Kuleba. Ông đưa ra lập luận phản đối cuộc chiến từ góc nhìn của Trung Quốc. “Nga đang gây rủi ro cho Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường của các nhà lãnh đạo Trung Quốc,” Kuleba tuyên bố, tiếp tục nói rằng “Cuộc chiến này không phù hợp với lợi ích của Trung Quốc. Cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu và các vấn đề kinh tế… sẽ gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với nền kinh tế Trung Quốc.” Ông muốn Trung Quốc kiềm chế Nga.

Trong khi đó, sau thất bại trong nỗ lực quân sự của mình trong những tuần đầu tiên của cuộc chiến, Putin một lần nữa gõ cửa nhà Tập Cận Bình, yêu cầu cung cấp thiết bị quân sự và hỗ trợ kinh tế. Tập khó có thể từ chối Putin hoàn toàn, vì ông muốn giữ Nga, với tài nguyên thiên nhiên dồi dào, trong quỹ đạo của mình, nhưng ông cũng không thể bỏ qua Hoa Kỳ và Châu Âu, những thị trường lớn nhất của Trung Quốc, đang áp đặt lệnh trừng phạt đối với Nga và, theo nghĩa mở rộng, đối với bất kỳ quốc gia nào vi phạm chế độ trừng phạt của họ. Ngoại trưởng Trung Quốc, Vương Nghị, đã tuyên bố rằng Trung Quốc lên án các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga. Nhưng vấn đề là Trung Quốc không thể phớt lờ chúng.

Vào ngày 18 tháng 3, trong cuộc họp trực tuyến với Tập Cận Bình, Tổng thống Biden đã cảnh báo nhà lãnh đạo Trung Quốc về “những tác động và hậu quả nếu Trung Quốc cung cấp hỗ trợ vật chất cho Nga khi nước này tiến hành các cuộc tấn công tàn bạo vào các thành phố và dân thường của Ukraine.” Tập Cận Bình phản pháo, cho rằng chiến tranh không phải là điều mà người Trung Quốc muốn thấy, và nhắc nhở Biden về “trách nhiệm quốc tế” chung của mình. Nhưng thông điệp đã được tiếp nhận. Tăng trưởng kinh tế của Bắc Kinh tiếp tục phụ thuộc vào an ninh quốc tế và trật tự kinh tế và tài chính do Washington bảo hiểm. Tập Cận Bình được cho là đã ra lệnh cho các quan chức của mình tìm cách giúp Nga mà không vi phạm lệnh trừng phạt. “Chúng tôi hiểu tình thế khó khăn của Moscow. Nhưng chúng tôi không thể bỏ qua tình hình của chính mình trong cuộc đối thoại này,” một quan chức Trung Quốc giấu tên đã tuyên bố.

S Tr Li ca Ngưi Ottoman

Vào ngày 18 tháng 7 năm 2022, Vladimir Putin đã thực hiện chuyến công du nước ngoài đầu tiên kể từ khi chiến tranh nổ ra, thăm các khách hàng và đồng minh ở Trung Á. Sau đó, ông đến Tehran – một dấu hiệu rõ ràng cho thấy sự cô lập của ông trên trường thế giới, cũng như là biểu tượng cho sự chuyển hướng sang phương Đông của mình.

Chuyến đi của Putin nhằm mục đích tăng cường sự đoàn kết chống phương Tây với Iran, một quốc gia hứng chịu sự trừng phạt trong nhiều thập kỷ của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu, nhưng chuyến đi cũng liên quan đến nỗ lực chiến tranh của ông ở Ukraine. Thua trong chiến tranh công nghệ cao ở Ukraine trước HIMARS của Mỹ cũng như máy bay không người lái của Mỹ và Thổ Nhĩ Kỳ, Moscow hiện đang hướng đến Trung Đông vì một thế hệ vũ khí mới – một bước ngoặt đáng xấu hổ sau nhiều thập kỷ Nga luôn  cung cấp vũ khí cho khu vực này.

Người Nga đang để mắt đến máy bay không người lái Shahed 129 và Shahed 191 của Iran. Putin cũng thảo luận về máy bay không người lái với một vị khách khác đến thủ đô Iran, Thủ tướng Recep Tayyip Erdogan của Thổ Nhĩ Kỳ. Họ đã gặp nhau với sự có mặt của Lãnh tụ tối cao Iran, Ayatollah Ali Khamenei, và đã có một cuộc họp riêng thu hút nhiều chú ý của giới truyền thông và công chúng hơn bất kỳ phần nào khác của hội nghị thượng đỉnh. 

Khoảng một phút trước khi cuộc họp bắt đầu, biểu cảm không vui của Putin đã được ghi lại trong một đoạn video lan truyền. Chỉ trong 50 giây, Putin buộc phải chờ đợi trước ống kính máy truyền hình người đồng cấp Thổ Nhĩ Kỳ của mình bước vào phòng. Tổng thống Nga trông ủ ê và bẽ mặt: thông thường chính ông là người khiến các nhà lãnh đạo khác phải chờ đợi.

“50 giây đó mà Erdogan bắt Putin phải chờ đợi, trông bệ rạc trước ống kính máy quay, nói lên nhiều điều đã  thay đổi sau cuộc chiến Ukraine”, Joyce Karam, một phóng viên Mỹ kỳ cựu của tờ The National có trụ sở tại Abu Dhabi đã tweet. “Đây cũng là sự trả thù ngọt ngào của Erdogan, người từng bị Putin làm bẽ mặt khi bắt mình phải chờ 2 phút trong một trò chơi quyền lực ở Nga vào năm 2020”, Karam nói thêm trong dòng tweet của cô ấy, dòng tweet đã nhận được 3 triệu lượt xem trong những giờ đầu tiên sau khi đăng và thêm 3 triệu lượt xem nữa trong vài ngày tiếp theo.

Vào tháng 3 năm 2020, Putin đã bắt Erdogan và hàng chục viên chức Thổ Nhĩ Kỳ trong đoàn tùy tùng  đến Moscow phải chờ hai phút, được quay phim tại tiền sảnh trước phòng họp Điện Kremlin. Đoạn video quay cảnh người Thổ Nhĩ Kỳ bị làm nhục khi đứng chờ trước cánh cửa đóng kín sau đó được phát trên truyền hình Nga. Đây là cách Putin công khai khoe khoang chiến thắng của mình ở Syria: Erdogan đã đến Moscow để yêu cầu Putin ngừng bắn trong cuộc giao tranh giữa lực lượng của Tổng thống Bashar al-Assad do Nga hậu thuẫn và phiến quân do Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn ở tỉnh Idlib.

Putin đã trao cho Erdogan những gì ông ta muốn, ngăn chặn bước tiến của al-Assad trong khu vực có tầm quan trọng chiến lược đối với Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng còn bắt ông ta phải chịu thêm những sỉ nhục khác nữa. Tại tiền sảnh nơi phái đoàn Thổ Nhĩ Kỳ đang chờ có treo chân dung của các vị tướng Nga, bao gồm Aleksandr Suvorov, người đã chiến thắng trong các cuộc chiến của Đế chế Nga chống lại Đế chế Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ vào nửa sau thế kỷ thứ mười tám. Phòng họp mà Erdogan cuối cùng được phép vào có dựng một bức tượng khổng lồ của Catherine Đại đế, người đã tiến hành các cuộc chiến đó, và đằng sau ghế của hai nhà lãnh đạo khi họ tạo dáng chụp ảnh chung là một chiếc đồng hồ thời đế quốc được trang trí bằng nghệ phẩm điêu khắc đồng mô tả hoạt cảnh trong một cuộc chiến khác mà Nga đã chiến thắng Thổ Nhĩ Kỳ, cuộc chiến năm 1877-78.

Phía Nga phủ nhận mọi ý định xấu khi bắt phái đoàn của Erdogan phải chờ đợi hoặc chọn địa điểm cho cuộc gặp với Putin, và thủ tướng Thổ Nhĩ Kỳ và phái đoàn của ông đã phải nỗ lực thuyết phục giới truyền thông Thổ Nhĩ Kỳ rằng không có gì bất thường trong nghi thức ngoại giao mà họ phải tuân thủ ở Nga, và họ không hề cảm thấy bị xúc phạm.

Bây giờ, vào tháng 7 năm 2022, đến lượt Putin giả vờ bình thản về việc tiếp đón ông tại Tehran, mặc dù khuôn mặt và ngôn ngữ cơ thể ông thể hiện trong video cho thấy điều ngược lại. Erdogan đến Tehran, trong số những việc khác, để yêu cầu Nga và Iran ủng hộ hoạt động quân sự theo kế hoạch của ông tại Syria nhằm tạo ra vùng đệm giữa Thổ Nhĩ Kỳ và quân nổi dậy Syria. Tuy nhiên, lần này, ông không chỉ là người thỉnh cầu; ông còn được nhờ vả.

Putin cảm ơn Erdogan vì vai trò của ông ta trong các cuộc đàm phán Nga-Ukraine về việc xuất khẩu ngũ cốc Ukraine từ các cảng Odessa. Putin cũng có ý định mua máy bay không người lái vũ trang của Thổ Nhĩ Kỳ, được gọi là Bayraktar TB2. Chúng đã hoạt động cực kỳ tốt trong tay quân Ukraine chống lại quân đội Nga, và giờ đây nhà lãnh đạo Nga muốn Erdogan xây dựng một nhà máy sản xuất máy bay không người lái ở Nga. Bayraktar được sản xuất và vận chuyển đến Ukraine bởi Baykar, một công ty do con rể của Erdogan, một nhà phát minh và doanh nhân, Selcuk Bayraktar, sở hữu. Năm 2020, trong chuyến đi của Erdogan tới Moscow, các phương tiện truyền thông Nga đã chế giễu thành tích của máy bay không người lái Thổ Nhĩ Kỳ trong cuộc chiến tranh Syria, nhưng giờ đây Putin, sau khi bị Israel từ chối bán máy bay không người lái, muốn có sản phẩm của Thổ Nhĩ Kỳ cho riêng mình. Erdogan không sẵn sàng tuân thủ. Một ngày trước đó, Haluk Bayraktar, em trai của Selcuk và là giám đốc điều hành công ty Baykar, đã tuyên bố rằng công ty của ông sẽ “không bao giờ cung cấp” máy bay không người lái của mình cho Nga.

Erdogan, người trước đây đã phớt lờ những lời phàn nàn của Nga về việc nước ông cung cấp máy bay không người lái cho Ukraine, giờ đây sẽ không nhượng bộ. Ông không muốn thấy Nga thắng thế ở Ukraine. Istanbul và Moscow, và sau đó là St. Petersburg và rồi là Moscow một lần nữa, đã từng là đối thủ cạnh tranh ở khu vực bắc Biển Đen trong nhiều thế kỷ, và không phải lúc nào Nga cũng giành chiến thắng. Còn Putin thì tin điều ngược lại, nên đã háo hức chọn Moscow làm địa điểm cho cuộc gặp của ông với Erdogan vào năm 2020. Vào thế kỷ 16, quân đội Ottoman cùng với người Tatar Crimea, chư hầu khu vực của Ottoman, đã tấn công và phóng hỏa Moscow, buộc Ivan Bạo chúa phải chạy trốn khỏi thủ đô. Vào thế kỷ 17, người Ottoman đã chiến đấu với bình lính Muscovite ở Ukraine, đứng về phía người Cossack Ukraine đã nổi loạn chống lại cả Warsaw và Moscow. Vào thế kỷ 19, người Ottoman, liên minh với Anh và Pháp, đã đánh bại Nga trong Chiến tranh Crimea và buộc phải phi quân sự hóa bán đảo.

Sự cạnh tranh giữa Nga và Thổ Nhĩ Kỳ trong khu vực không chỉ là vấn đề của quá khứ. Người Tatar Crimea, dân bản địa của Crimea, đã chia sẻ với người Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi không chỉ một phần lịch sử của họ mà còn cả tôn giáo của họ. Họ đã có một cộng đồng di cư khoảng một triệu người ở Thổ Nhĩ Kỳ – kết quả của một cuộc di dân khỏi Crimea sau khi Nga sáp nhập bán đảo vào thế kỷ thứ mười tám và sau đó là Chiến tranh Crimea vào thế kỷ thứ mười chín. Istanbul không công nhận việc Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và ủng hộ các nhà lãnh đạo Tatar Crimea tìm nơi ẩn náu ở Kyiv. Thổ Nhĩ Kỳ cũng cam kết sẽ sát cánh cùng người Tatar Crimea khi cuộc chiến mới này bắt đầu. Hơn nữa, vào năm 2020, Istanbul đã khẳng định mình là một cường quốc đáng gờm ở Kavkaz khi một đạo quân Azerbaijan được trang bị và huấn luyện bởi Thổ Nhĩ Kỳ đã đánh bại lực lượng Armenia do Nga hậu thuẫn ở Nagorno-Karabakh. Người Nga đã gửi lực lượng gìn giữ hòa bình để thiết lập sự hiện diện của mình trong khu vực, nhưng giờ đây họ phải đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Thổ Nhĩ Kỳ tại nơi được coi là sân sau của Moscow trong nhiều thập kỷ.

Nếu Ukraine bị Nga đánh bại, thì lợi ích của Thổ Nhĩ Kỳ sẽ bị suy yếu không chỉ ở không gian hậu Xô Viết mà còn ở khu vực Biển Đen, nơi Istanbul đang bận rộn phát triển mối quan hệ tốt đẹp với Gruzia, Bulgaria và Romania – tất cả đều nhằm mục đích kiềm chế nước Nga ngày càng tỏ ra quyết đoán hơn. Để tạo ra một rào cản cho Putin, Thổ Nhĩ Kỳ đã sử dụng quyền hạn của mình theo Công ước Montreux năm 1936 để từ chối tàu chiến Nga từ Đại Tây Dương qua Địa Trung Hải vào Biển Đen. Việc cung cấp Bayraktars là một cử chỉ mang tính biểu tượng và thực tế khác khiến Thổ Nhĩ Kỳ và Erdogan trở thành đồng minh có giá trị của Kyiv.

Nhưng trong khi ủng hộ Kyiv, Erdogan không muốn làm tổn hại đến mối quan hệ của đất nước mình với Nga, nước cung cấp khí đốt cho Thổ Nhĩ Kỳ và thông qua Thổ Nhĩ Kỳ, cho vùng Balkan và các nước Đông Nam Âu còn lại. Hàng triệu du khách Nga đóng vai trò quan trọng đối với ngành du lịch Thổ Nhĩ Kỳ, mang lại 30 tỷ đô la hàng năm và Nga là thị trường quan trọng đối với doanh nghiệp Thổ Nhĩ Kỳ. Erdogan đã cung cấp cho Putin một hình thức trung lập mà không quốc gia NATO nào khác có thể sao chép được và một nền tảng đàm phán với thế giới mà Putin không có. Thổ Nhĩ Kỳ đã từ chối tham gia cùng các đồng minh NATO còn lại của mình trong việc áp đặt lệnh trừng phạt đối với Nga và cố gắng ngăn chặn việc Thụy Điển và Phần Lan gia nhập liên minh. Erdogan đã rất thận trọng kín trong việc chỉ trích công khai Putin và hành động của Nga. Ông đã xử lý tất cả những điều đó mà không làm hỏng mối quan hệ của đất nước mình với Hoa Kỳ, Châu Âu hoặc Ukraine.

Vì Erdogan có thể mang lại lợi ích cho cả Nga và Ukraine, ông đã sớm nổi lên như một nhà trung gian quan trọng trong quan hệ giữa hai nước, cũng như giữa họ và phần còn lại của thế giới. Vào cuối tháng 3, Erdogan đã tổ chức một vòng đàm phán quan trọng giữa các đại diện của Ukraine và Nga tại Cung điện Dolmabahçe ở Istanbul, nơi Nga đã sử dụng để tuyên bố rút quân khỏi khu vực Kyiv. Phái đoàn Ukraine đã thể hiện sự sẵn sàng từ bỏ nỗ lực gia nhập NATO của đất nước để đổi lấy một thỏa thuận chung trong đó 8 quốc gia sẽ đảm bảo chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Các cuộc đàm phán sau đó đã bị đình trệ do việc phơi bày về tội ác chiến tranh của Nga ở Bucha và các thị trấn khác gần thủ đô Ukraine, nhưng Thổ Nhĩ Kỳ vẫn là nơi mà hai bên tham chiến gặp gỡ thoải mái nhất để trao đổi ngoại giao.

Vào tháng 6, Erdogan đã đạt được điều gì đó mà Emmanuel Macron và Olaf Scholz đã thất bại. Ông đã giúp đàm phán một thỏa thuận Nga-Ukraine về việc nối lại các chuyến hàng ngũ cốc của Ukraine từ các cảng Odesa, mà Nga đã chặn. Thỏa thuận đã được hoàn tất vào ngày 22 tháng 7, giúp có thể vận chuyển 20 triệu tấn ngũ cốc từ vụ thu hoạch năm trước và hàng triệu tấn từ vụ thu hoạch năm mới. Ukraine đã kiếm được gần 10 tỷ đô la từ thỏa thuận này. Nga đã được Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu khen thưởng bằng cách nới lỏng các lệnh trừng phạt đối với nông nghiệp và các hoạt động liên quan đến nông nghiệp xuất khẩu. Nhưng Erdogan là người chiến thắng chính. Ông đã giành được quyền mua ngũ cốc xuất khẩu từ Ukraine với mức chiết khấu 25 phần trăm – một thỏa thuận khá hời cho nhà lãnh đạo của một quốc gia có nền kinh tế đang lao đao và lạm phát lên tới 80 phần trăm. Nhưng thành tựu chính của ông là cứu nhiều người khỏi nạn đói và chết đói – một số quốc gia châu Phi dựa vào ngũ cốc của Ukraine để tránh đói kém, và châu Âu dựa vào nó để ngăn chặn một thảm họa nhân đạo khác và cuộc khủng hoảng người tị nạn gần bờ biển của mình.

Nga tấn công cảng Odessa bằng một cuộc pháo kích bằng tên lửa ngay hôm sau ngày bộ trưởng quốc phòng Sergei Shoigu ký thỏa thuận ngũ cốc tại Istanbul – có lẽ là để trả đũa vụ 50 giây mà Putin đã phải chờ đợi trước cuộc gặp với Erdogan tại Teheran. Nhưng thỏa thuận do Erdogan đàm phán vẫn tồn tại sau cuộc tấn công bằng tên lửa đó và một số cuộc tấn công khác. Thổ Nhĩ Kỳ, hợp tác với Liên hiệp quốc, nổi lên như là bên bảo lãnh cho thỏa thuận, và người Ukraine hoan nghênh việc hai tàu hải quân Thổ Nhĩ Kỳ và một tàu ngầm từ Địa Trung Hải vào Biển Đen để bảo vệ các chuyến hàng ngũ cốc.

Tàu Ukraine, chở 25.000 tấn ngô, rời Odessa đến Istanbul vào ngày 1 tháng 8. Vào đầu tháng 11, khi Nga rút khỏi thỏa thuận, viện dẫn một cuộc tấn công của Ukraine vào hải quân Nga ở Biển Đen, Erdogan tuyên bố rằng việc xuất khẩu ngũ cốc của Ukraine sẽ tiếp tục dù có hoặc không sự đồng ý của Nga. Putin đã phải quay ngoắt lại và trở lại thỏa thuận sau cuộc điện đàm với tổng thống Thổ Nhĩ Kỳ.

Cuộc chiến có khả năng đe dọa làm suy yếu Thổ Nhĩ Kỳ và lôi kéo nước này vào nhiều cuộc cãi vã quốc tế, đã được Erdogan khéo léo sử dụng như một bước đệm để thiết lập bản thân và đất nước của mình trong vai trò lãnh đạo khu vực, giờ đây không chỉ ở Trung Đông Hồi giáo mà còn ở không gian hậu Xô Viết, và như một tác nhân chính trị trên trường quốc tế. Sự trỗi dậy của Thổ Nhĩ Kỳ trong vai trò đó đã được thúc đẩy bởi cuộc chiến và trở nên khả thi nhờ nhiều thất bại mà Nga phải chịu trong tháng đầu tiên, cả trên chiến trường và trên trường ngoại giao. Sự trỗi dậy của Thổ Nhĩ Kỳ đã làm suy yếu thêm nước Nga và buộc Putin, như trong chuyến thăm của ông tới Tehran, phải chờ đợi những người mà trước đó ông ta đã bắt họ phải chờ đợi.

Phương Tây Khép Vòng Vây

Kỳ vọng của Moscow đối với phản ứng của phương Tây trước “chiến dịch quân sự” mà Putin sắp phát động đã được cựu Tổng thống Nga Dmitrii Medvedev tóm tắt vào ngày 21 tháng 2 năm 2022. Ông đưa ra phát biểu của mình trong quá trình thảo luận trên truyền hình của Hội đồng An ninh Nga về việc Nga rút khỏi Thỏa thuận Minsk.

“Sẽ rất khó khăn”, Medvedev nói, “nhưng sau một thời gian, với năng lực quản lý tình hình – và, theo tôi, dưới sự lãnh đạo của tổng thống, chúng ta đã làm chủ được điều đó – thì sự căng thẳng hiện đang lan tỏa khắp đất nước chúng ta sẽ tan biến theo cách này hay cách khác. Không nhanh chóng, không phải trong một khoảnh khắc, nhưng lịch sử loài người được sắp xếp theo thứ tự đến mức sớm hay muộn mọi người sẽ mệt mỏi về vấn đề này và sẽ yêu cầu chúng ta quay lại thảo luận và đàm phán về mọi vấn đề đảm bảo an ninh chiến lược.” Vladimir Putin và bộ sậu của mình tham gia vào việc đề ra những quyết định quan trọng để phát động cuộc chiến tranh toàn diện với Ukraine đã rất ngạc nhiên trước phản ứng đoàn kết của phương Tây, nhưng các lệnh trừng phạt do Hoa Kỳ và châu Âu áp đặt hầu như không có tác động ngay lập tức đến khả năng tiến hành chiến tranh của Nga, một phần là do châu Âu vẫn tiếp tục mua khí đốt tự nhiên của Nga. Chỉ hơn hai tháng sau cuộc xâm lược, châu Âu đã mua 46 tỷ đô la năng lượng, chủ yếu là khí đốt, từ Liên bang Nga. Châu Âu phụ thuộc vào Nga để cung cấp 40 phần trăm lượng khí đốt tiêu thụ, và điều tốt nhất mà EU có thể làm trong hoàn cảnh này là cắt giảm hai phần ba con số đó trong vòng một năm. Việc cắt giảm ngay lập tức sẽ gây ra các vấn đề kinh tế và xã hội lớn. Chỉ riêng ở Đức, biện pháp như vậy sẽ gây mất 400.000 việc làm và dẫn đến sự xáo trộn xã hội.

Giá năng lượng tăng do lo ngại về chiến tranh và nguồn cung gián đoạn, cũng như lệnh trừng phạt đối với việc nhập khẩu khí đốt và dầu của Nga, dẫn đến lợi nhuận năng lượng cao hơn và doanh thu lớn hơn cho Moscow. Người tiêu dùng phải đối mặt với giá cao hơn ở trong nước và tại các trạm xăng: ở Châu Âu, giá khí đốt tự nhiên tăng 20 phần trăm. Khi giá dầu tăng, giá xăng cũng tăng theo. Ở Tây Ban Nha, giá một lít dầu diesel tăng vọt hơn 50 phần trăm, từ 1,20 euro lên 1,90 euro, trong vòng một năm. Ở Hoa Kỳ, giá xăng tăng 55 xu trong một tuần của tháng 3 năm 2022, phá vỡ kỷ lục 13 năm là 4,10 đô la một gallon.

Giá dầu và khí đốt cao là tin tốt, thực tế là tin tuyệt vời, đối với Nga và khả năng chịu đựng các lệnh trừng phạt của nước này, ít nhất là trong ngắn hạn. Theo một số ước tính, thặng dư tài khoản của quốc gia này vào năm 2022 có khả năng đạt 250 tỷ đô la, bù đắp một phần đáng kể số tài sản bị phương Tây đóng băng vào đầu cuộc chiến. Nga cũng đã xoay xở để chống chọi với cú sốc tài chính do lệnh trừng phạt. Đồng rúp, ban đầu mất giá 60 phần trăm, đã phục hồi vào cuối tháng 3 nhờ các biện pháp do Ngân hàng Trung ương hiện đang bị trừng phạt thực hiện, tăng gấp đôi lãi suất và đóng cửa thị trường chứng khoán trong một tháng. Trong nỗ lực tạo ra nhu cầu cho đồng tiền của mình, Moscow đã khăng khăng yêu cầu thanh toán bằng đồng rúp cho khí đốt của mình và cắt nguồn cung cấp cho Ba Lan và Bulgaria khi họ từ chối tuân thủ. Những nước khác đã được tha vì Putin dường như muốn trừng phạt Ba Lan và tạo ra sự chia rẽ trong liên minh trừng phạt của châu Âu. Ông đã làm điều tương tự với Phần Lan vào tháng 5, giờ đây cũng là để trả đũa cho quyết định gia nhập NATO của nước này.

Giá khí đốt tăng cao không chỉ gây tổn hại cho châu Âu mà còn cho cả Hoa Kỳ. Để đối phó với sự gia tăng này, Tổng thống Biden đã ra lệnh giải phóng 180 triệu thùng dầu từ kho dự trữ quốc gia, nhưng đây chỉ là biện pháp tạm thời và không đủ. Tình hình đòi hỏi phải có tác động đến các nhà sản xuất dầu lớn nhất thế giới, chẳng hạn như Iran, Venezuela và Ả Rập Xê Út. Nhưng hai nước đầu tiên đã chịu lệnh trừng phạt, còn người Ả Rập Xê Út đã trở nên không hợp tác sau khi tình báo Hoa Kỳ ám chỉ Thái tử Mohammed bin Salman ra lệnh giết nhà báo  Ả Rập Xê Út lưu vong Jamal Khashoggi.

Vào tháng 7, Biden không có lựa chọn nào khác ngoài việc đến thăm  Ả Rập Xê Út, khiến nhiều người ủng hộ ông thất vọng, trong nỗ lực xoa dịu cuộc khủng hoảng năng lượng do chiến tranh gây ra. Nhưng người   Ả Rập Xê Út,từ chối tăng sản lượng, khiến giá dầu tăng đột biến ngay lập tức. Chỉ đến cuối tháng 11, khi chính quyền Biden đưa ra lập trường cho rằng Thái tử nên được cấp quyền miễn trừ quốc gia trong vụ án dân sự Khashoggi chống lại ông, thì Ả Rập Xê Út mới ủng hộ việc tăng sản lượng dầu của các nước OPEC.

Việc các lệnh trừng phạt không thể chấm dứt chiến tranh và có xu hướng gây tổn hại không chỉ cho Nga mà còn cho các quốc gia áp đặt chúng đã che khuất tình trạng chuyển dịch địa chính trị to lớn mà chúng đã hoàn thành đối với quan hệ kinh tế và do đó quan hệ chính trị của Nga với tập thể phương Tây. Trong khi nhu cầu đồng thuận khiến các quốc gia thành viên EU khó có thể nhất trí về việc áp đặt lệnh trừng phạt, cùng nhân tố đó khiến việc gỡ bỏ chúng cũng hóa ra khó khăn. Do đó, chúng có khả năng sẽ tồn tại trong nhiều năm, nếu không muốn nói là nhiều thập kỷ. Và tác động của chúng đối với nền kinh tế Nga đã trở nên rõ ràng ngay từ khi bắt đầu cuộc chiến.

Trong những tháng đầu tiên, hơn 1.000 công ty quốc tế, chiếm 40 phần trăm GDP của Nga, đã rời khỏi Liên bang Nga, một số chịu áp lực trừng phạt và một số khác tự nguyện rời khỏi để tránh rủi ro về danh tiếng.

Các doanh nghiệp Nga, bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất cho quân đội, được báo cáo là đã ngừng hoạt động các dây chuyền lắp ráp do thiếu vi mạch và linh kiện theo truyền thống được nhập khẩu từ các quốc gia hiện đang tham gia lệnh trừng phạt. 72 phần trăm máy bay thương mại đã bị đình trệ, vì họ không thể lấy được phụ tùng thay thế từ Boeing và Airbus. Lượng nhập khẩu của Nga giảm mạnh, với lượng nhập khẩu hàng hóa sản xuất từ ​​chín nền kinh tế lớn nhất thế giới giảm 51 phần trăm. Lượng nhập khẩu vi mạch giảm đáng kinh ngạc 90 phần trăm, trong khi sản xuất ô tô giảm 64 phần trăm. Đến tháng 10, sản lượng khí đốt tự nhiên so với tháng 10 năm 2021 giảm 20 phần trăm và doanh thu từ khu vực phi năng lượng cũng vậy. Theo Ngân hàng Trung ương Nga, GDP giảm 4,1 phần trăm và 4 phần trăm trong quý 2 và quý 3 của năm và chuẩn bị giảm 7,1 phần trăm trong quý 4. Nền kinh tế Nga đang suy thoái, làm giảm khả năng chiến đấu của Điện Kremlin và góp phần vào căng thẳng xã hội trong nước.

Việc châu Âu quay lưng với dầu mỏ của Nga và cam kết cắt giảm mạnh lượng tiêu thụ khí đốt của Nga đã bắt đầu đóng cửa thị trường năng lượng Nga ở châu Âu sớm hơn nhiều so với những gì người ủng hộ chiến lược dài hạn của châu Âu – đạt được mục tiêu phát thải khí nhà kính ròng bằng 0 vào năm 2050 – đã mong đợi. Việc mất đi những thị trường châu Âu béo bở nhất không hứa hẹn điều gì tốt đẹp cho một quốc gia mà 60 phần trăm doanh thu của chính phủ thu được từ xuất khẩu năng lượng. Đức, phụ thuộc vào khí đốt của Nga cho 55 phần trăm năng lượng của mình trước chiến tranh, đã giảm thị phần đó xuống còn hơn một phần ba nguồn cung  trong những tháng đầu tiên của chiến tranh. Nước này cũng đã lập kế hoạch xây dựng các trạm LNG (Khí tự nhiên hóa lỏng) mới cho Mỹ. Đến tháng 7 năm 2022, Châu Âu đã nhập khẩu nhiều LNG từ Hoa Kỳ hơn lượng khí đốt tự nhiên mà họ đã mua trước đó từ Nga.

Những diễn biến này của châu Âu đã gây ra sự thất vọng đáng kể ở Điện Kremlin. Vào tháng 5, phát biểu tại một cuộc họp về sự phát triển của ngành công nghiệp dầu mỏ Nga, vốn đang chuẩn bị cho thời kỳ khó khăn khi không có sự hỗ trợ công nghệ của phương Tây, Putin đã gọi chính sách năng lượng của EU là tự sát. “Rõ ràng là, với việc chuyển hướng các nguồn năng lượng của Nga sang các khu vực khác trên thế giới, châu Âu cũng sẽ mất khả năng tăng trưởng hoạt động kinh tế. Một hành động bị thiêu sống về  kinh tế như vậy là tự sát”, Putin tuyên bố. Ít ai nghi ngờ, ở Nga hay bất kỳ nơi nào khác, rằng “khu vực khác” mà năng lượng của Nga có thể hướng đến là Trung Quốc. Con đường cho những mặt hàng xuất khẩu như vậy của Nga đã mở rộng trước chiến tranh, khi, như một phần trong chuyến thăm Bắc Kinh của Putin, gã khổng lồ khí đốt nhà nước của Nga Gazprom đã đạt được một thỏa thuận với đối tác Trung Quốc của mình để cung cấp 10 tỷ mét khối khí đốt tự nhiên mỗi năm từ Viễn Đông của Nga. Tổng giá trị của các thỏa thuận dầu khí đạt được trong khuôn khổ chuyến thăm ước tính là 117,5 tỷ đô la.

Khi chiến tranh nổ ra, không chỉ Trung Quốc mà cả Ấn Độ cũng nổi lên như một bên hưởng lợi từ sự chuyển hướng về phía đông của Nga đối với hoạt động xuất khẩu dầu khí. Giống như Trung Quốc, Ấn Độ tái khẳng định cam kết của mình đối với các nguyên tắc về chủ quyền nhà nước và tính bất khả xâm phạm của biên giới quốc tế nhưng từ chối lên án hoặc chỉ trích công khai Nga vì hành động xâm lược Ukraine. Do đó, nền dân chủ đông dân nhất thế giới đã đứng về phía chính phủ độc tài Nga và làm phức tạp thêm mối quan hệ với đồng minh quan trọng của nước này là Hoa Kỳ.

Chính sách “tính mơ hồ chiến lược” mà New Delhi áp dụng đã ăn sâu vào lịch sử, vì Ấn Độ coi Moscow là đối tác chiến lược kể từ thời Chiến tranh Lạnh, khi nước này từ chối lên án việc Liên Xô đàn áp cuộc nổi dậy của nhân dân Hungary năm 1956 và cuộc xâm lược Tiệp Khắc năm 1968 và Afghanistan năm 1979. Nhưng có nhiều điều liên quan hơn là lịch sử khi nói đến thái độ trung lập về mặt hình thức nhưng về cơ bản là ủng hộ Moscow của Ấn Độ. Nguồn cung cấp vũ khí của Nga là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến vị thế của New Delhi; mong muốn không đẩy Nga lại gần Trung Quốc và Pakistan – những đối thủ chính của Ấn Độ trong khu vực – là một yếu tố khác; và cuối cùng là cơ hội kinh tế hấp dẫn khi tiếp cận các nguồn năng lượng của Nga với giá bán tháo.

Đến tháng 5 năm 2022, Trung Quốc và Ấn Độ đã mua 2,4 triệu thùng dầu của Nga mỗi ngày – một nửa lượng dầu xuất khẩu của Moscow – với mức chiết khấu lên tới 30 phần trăm. Ấn Độ đã tăng lượng dầu mua từ Nga từ 33.000 thùng vào tháng 6 năm 2021 lên 1,15 triệu thùng vào tháng 6 năm 2022, giảm số dầu mỏ Iraq giá mắc hơn. New Delhi đã ngừng nhập khẩu dầu từ Mexico và giảm lượng dầu mua từ Mỹ, Nigeria và Ả Rập Xê-Út.

Vào tháng 6 năm 2022, Nga đã vượt qua  Ả Rập Xê-Út để trở thành nhà cung cấp dầu chính cho Trung Quốc. Lượng khí đốt tự nhiên nhập khẩu từ Nga vào Trung Quốc được chiết khấu 22 phần trăm vào năm 2021 và phải giảm giá thêm nữa khi chiến tranh nổ ra, khiến Trung Quốc có thể chấm dứt hoàn toàn việc mua LNG từ Hoa Kỳ và chuyển sang các nhà cung cấp của Nga. Châu Âu đã nhìn thấy tia hy vọng trong việc sắp xếp lại nguồn cung năng lượng thế giới: Nguồn cung cấp khí đốt tự nhiên của Nga cho Trung Quốc dự kiến ​​sẽ làm giảm nhu cầu về LNG của  nước này, giúp người châu Âu mua khí hóa lỏng dễ dàng và rẻ hơn.

Trong mười tháng đầu năm 2022, xuất khẩu năng lượng của Nga sang Trung Quốc tăng 64% về giá trị và 10% về khối lượng, nhưng vào tháng 11, Trung Quốc bắt đầu giảm tốc độ mua dầu của Nga vì lo ngại về lệnh cấm nhập khẩu dầu thô của EU sắp tới. Có những giới hạn về số lượng dầu và khí đốt của Nga mà Trung Quốc sẵn sàng mua mà không gây rủi ro an ninh năng lượng cho mình và trở nên quá phụ thuộc vào Moscow, như đã xảy ra với Đức và các thành viên khác của Liên minh châu Âu. Tuy nhiên, Trung Quốc đang chuẩn bị nổi lên như là bên hưởng lợi chính từ sự chuyển hướng của Moscow sang phương Đông. Không còn nơi nào khác để đi, Putin bỗng trở nên dễ bị tổn thương hơn nhiều trước các yêu cầu truyền thống của Trung Quốc nhằm hạn chế doanh số bán vũ khí của Nga cho Ấn Độ, thị trường vũ khí chính của Nga, và sẽ phải đưa ra mức chiết khấu ngày càng lớn hơn để thuyết phục Trung Quốc mua thêm dầu của ông ta.

Thật vậy, vào giữa tháng 9 năm 2022, khi Putin và Tập tham dự cuộc họp của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải tại Samarkand, Uzbekistan, rõ ràng là cuộc chiến ở Ukraine và thất bại gần đây của Quân đội Nga tại Kharkiv đã củng cố vị thế của Trung Quốc trong cái gọi là liên minh “không giới hạn” và làm suy yếu vị thế của Nga. Khi Putin và Tập gặp nhau, tổng thống Nga đã phải thừa nhận “những câu hỏi và mối quan tâm” của Trung Quốc liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine. Để gặp Tập, Putin đã phải đến khách sạn Samarkand, nơi phái đoàn Trung Quốc đang ở để tham dự hội nghị thượng đỉnh – một dấu hiệu rõ ràng cho thấy Trung Quốc không chỉ là đối tác cấp cao trong mối quan hệ mà còn là người quyết định trong sân sau của Trung Á.

Trước hội nghị thượng đỉnh, Tập Cận Bình đã đến thăm Kazakhstan, một đồng minh lâu năm của Nga đang cảm thấy bị đe dọa bởi sự xâm lược của Điện Kremlin đối với Ukraine. Tập Cận Bình đảm bảo với giới lãnh đạo Kazakhstan rằng Trung Quốc ủng hộ toàn vẹn lãnh thổ của nước này. Nga là quốc gia duy nhất đặc biệt coi trọng lời đảm bảo như vậy chống lại mình.

Khi các nhà lãnh đạo của các quốc gia bao gồm nhóm G-20 gồm các nền kinh tế lớn nhất thế giới họp vào giữa tháng 11 tại Bali, Indonesia, Putin đã vắng mặt một cách đáng chú ý trong cuộc họp. Ông ta biết rằng mình sẽ phải đối mặt với các nhà lãnh đạo như thủ tướng mới của Anh Rishi Sunak về hành động xâm lược của mình đối với Ukraine. Zelensky thay vào đó đã có mặt thông qua liên kết video, và Biden và Tập đã có một cuộc họp kéo dài trước khi bắt đầu hội nghị thượng đỉnh. Họ dường như đồng ý về hai vấn đề: nên tránh đối đầu giữa hai nền kinh tế lớn nhất và nên ngăn Putin sử dụng vũ khí hạt nhân ở Ukraine. “Thế giới đủ lớn để hai nước cùng nhau phát triển và thịnh vượng”, Hua Chunying, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã tweet. Theo thông tin từ Hoa Kỳ về cuộc họp, hai nhà lãnh đạo đã nhất trí rằng “một cuộc chiến tranh hạt nhân không bao giờ nên xảy ra vì không bao giờ có bên nào có thể giành chiến thắng”. Trung Quốc không xác nhận cũng không phủ nhận tuyên bố đó, gợi ý tuyên bố đó là đúng.

Sự xâm lược của Nga đối với Ukraine đã làm rung chuyển liên minh Nga-Trung, khiến liên minh này trở nên bất bình đẳng hơn bao giờ hết. Vào tháng 6 năm 2022, vài tháng trước hội nghị thượng đỉnh Samarkand và Putin không xuất hiện ở Bali, tờ Politico đã gọi Putin là “chư hầu mới của Trung Quốc”. Trong một cuộc phỏng vấn với trang web, chiến lược gia an ninh người Mỹ Matthew Kroenig cho rằng “ngược lại với mô hình Chiến tranh Lạnh, Nga sẽ là đối tác yếu hơn của một Trung Quốc hùng mạnh hơn”. Lịch sử đang lặp lại theo một cách mới và không thể đoán trước.

LI KT

Trt T Thế Gii Mi

Cuốn sách này được viết trong khoảng thời gian từ tháng 3 năm 2022 đến tháng 2 năm 2023, năm đầu tiên của cuộc chiến tranh toàn diện của Nga với Ukraine. Khi tôi hoàn thành bản thảo, thật khó để dự đoán thời gian và cách thức chiến tranh sẽ kết thúc, nhưng 12 tháng đầu tiên đã cung cấp đủ manh mối để nhận ra những thay đổi cục bộ và toàn cầu sẽ ảnh hưởng và có thể định hình tương lai của Ukraine, Nga, Châu Âu và phần còn lại của thế giới.

Chiến tranh Nga-Ukraine đã trở thành cuộc xung đột quân sự mới nhất trong lịch sử lâu dài của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, có thể bắt nguồn từ Cách mạng Hoa Kỳ. Nó cũng thuộc về danh sách dài các cuộc chiến tranh đi kèm với sự suy tàn và tan rã của các đế chế thế giới từ Tây Ban Nha đến Ottoman và Áo-Hung, rồi từ Anh và Pháp đến Hà Lan, Bỉ và Bồ Đào Nha. Chúng ta biết những cuộc chiến tranh đó đã kết thúc như thế nào – với chủ quyền chính trị của các thuộc địa và vùng phụ thuộc cũ và sự chuyển giao đồng thời của các đế chế cũ thành các quốc gia dân tộc hậu đế quốc.

Bằng cách đẩy lùi cuộc tấn công của Nga và huy động bản thân và một nửa thế giới để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình, Ukraine đã đảm bảo sự tồn tại liên tục của mình như một quốc gia và nhà nước độc lập. Cuộc chiến, thường được mô tả là cuộc chiến của Nga ở hoặc chống lại Ukraine, thực sự đã trở thành cuộc chiến Nga-Ukraine trong đó những kẻ xâm lược phải đối mặt với sức quật khởi không chỉ từ các nhóm du kích mà còn từ một đội quân chính quy hùng mạnh.

Nhà nước Ukraine đã chứng minh rằng họ có khả năng tồn tại và hoạt động trong điều kiện chiến tranh liên miên ở mức độ mà ít quốc gia nào trong khu vực châu Âu của Ukraine có thể làm được trong các cuộc chiến tranh thế kỷ 20.

Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy quốc gia Ukraine sẽ thoát khỏi cuộc chiến này với tình đoàn kết và sự khẳng định chắc chắn hơn về bản sắc của mình so với bất kỳ thời điểm nào khác trong lịch sử hiện đại. Hơn nữa, sức kháng cự thành công của Ukraine trước sự xâm lược của Nga chắc chắn sẽ thúc đẩy dự án xây dựng quốc gia của riêng Nga. Nga và giới tinh hoa của họ hiện nay không có nhiều lựa chọn ngoài việc tái hiện bản sắc đất nước của họ bằng cách chia tay không chỉ với chủ nghĩa đế quốc của quá khứ Sa hoàng mà còn với mô hình lỗi thời của một quốc gia Nga bao gồm người Nga, người Ukraine và người Belarus. Bằng cách trả một cái giá khổng lồ bằng tài sản và xương máu của nhân dân, Ukraine đang chấm dứt kỷ nguyên thống trị của Nga ở một phần lớn Đông Âu và thách thức khoác lác của Moscow về quyền tối cao trong phần còn lại của không gian hậu Xô Viết.

Tác động của cuộc chiến tranh Nga-Ukraine đã được cảm nhận vượt xa khỏi những vùng đất trước đây của triều đại Romanov và các chính ủy cộng sản. Ukraine đã sống sót sau cuộc tấn công của Nga và tự vệ nhờ vào sự đoàn kết chưa từng có của cộng đồng quốc tế, nơi đã cung cấp cho chính phủ và người dân Ukraine sự hỗ trợ về chính trị, kinh tế và quân sự ở quy mô chưa từng thấy trong nhiều thập kỷ.

Đối với nhiều người bạn của Ukraine, cuộc chiến này không chỉ trở thành cuộc xung đột quân sự lớn nhất và đẫm máu nhất ở châu Âu kể từ khi kết thúc Thế chiến II, mà còn là cuộc chiến lớn đầu tiên kể từ chiến thắng trước chủ nghĩa Quốc xã trong đó có rất ít sắc thái màu xám khi nói đến chiều kích đạo đức. Đó là “cuộc chiến tranh chính nghĩa” đầu tiên kể từ cuộc xung đột toàn cầu 1939-45, trong đó ngay từ đầu đã rất rõ ràng ai là kẻ xâm lược và ai là nạn nhân, ai là kẻ xấu ác và ai là người hùng, và ai muốn đứng về phe nào.

Sự xâm lược của Nga chống lại Ukraine đã tạo ra một cuộc chiến tranh thế kỷ 19 được tiến hành bằng các chiến thuật của thế kỷ 20 và vũ khí của thế kỷ 21. Nền tảng tư tưởng của nó xuất phát từ tầm nhìn về sự bành trướng lãnh thổ đặc trưng của thời kỳ đế quốc Nga thế kỷ19; chiến lược của nó được Điện Kremlin mượn từ Thế chiến II và các hướng dẫn thời hậu chiến của Quân đội Liên Xô; và các đặc điểm chính của nó phát minh trong thế kỷ 21 không chỉ là tên lửa dẫn đường chính xác mà còn là vệ tinh thu thập thông tin tình báo và chiến tranh mạng được cả hai bên sử dụng ở các mức độ khác nhau.

Cuộc chiến đã gây ra mối đe dọa hạt nhân cho thế giới ngay từ khi bắt đầu. Việc Nga tiếp quản địa điểm hạt nhân Chernobyl và nhà máy điện hạt nhân Zaporizhia trong những ngày đầu của cuộc xung đột toàn diện đã tạo nên mối nguy hiểm rõ ràng và hiện hữu đối với một phần châu Âu và Trung Đông, cũng như là thách thức đối với an toàn của các cơ sở hạt nhân trên toàn thế giới.

Đối với nhiều người, sự xâm lược của Nga đối với Ukraine và việc huy động phương Tây cùng các đồng minh của họ để chống lại sự xâm lược đó đã gợi lại hình ảnh của Chiến tranh Lạnh. Thật vậy, cuộc chiến tranh mới đã làm sống lại những mối thù cũ, khôi phục các liên minh đang suy yếu, tái lập các đường đứt gãy cũ. Chiến tranh Lạnh cũng cung cấp một ngôn ngữ và khuôn khổ lý giải để mô tả và hiểu được cuộc xung đột toàn cầu mới. Tuy nhiên, không có nhiều nghi ngờ rằng mặc dù có nhiều điểm tương đồng với quá khứ, thế giới ngày nay đang bước vào một kỷ nguyên mới. Khoản cổ tức hòa bình đi kèm với sự kết thúc của Chiến tranh Lạnh đã được chi tiêu hết nếu không muốn nói là đã phung phí trong ba mươi năm qua. Thế giới đang quay trở lại thời kỳ cạnh tranh giữa các cường quốc ở quy mô chưa từng thấy kể từ khi Bức tường Berlin sụp đổ năm 1989. Cuộc chiến tranh Nga-Ukraine, không giống như bất kỳ điều gì khác, đã làm suy yếu nền tảng của trật tự hậu Chiến tranh Lạnh, kích hoạt các quá trình dẫn đến sự hình thành của trật tự quốc tế mới.

Thế giới đơn cực Mỹ thay thế thế giới lưỡng cực Xô-Mỹ thời Chiến tranh Lạnh không hề thiếu những kẻ chỉ trích, lên án, và thách thức. Chúng nổi lên ngay sau khi Liên Xô tan rã. nhưng chúng chường mặt ra vào đầu thế kỷ 21 và bao gồm cả các thành viên chính phủ và phi chính phủ.

Hồi giáo cực đoan đã xúi giục cuộc nổi loạn chống lại sự thống trị của Mỹ ở Trung Đông, được các thủ lĩnh từ Al Qaeda đến Nhà nước Hồi giáo Iraq và Levant ủng hộ. Chủ nghĩa dân tộc, kết hợp với chủ nghĩa bài phương Tây và cuộc thập tự chinh bảo vệ “các giá trị truyền thống”, đã tạo cơ sở cho những thách thức công khai đối với trật tự quốc tế từ một nước Nga ngày càng toàn trị và những thách thức tinh vi hơn từ Trung Quốc vẫn theo chủ nghĩa cộng sản, những nhà lãnh đạo của nước này đã học cách sử dụng trật tự hiện có để mang lại lợi ích cho họ nhưng có ý định thay thế Hoa Kỳ làm người lãnh đạo và người bảo vệ, điều này sẽ cho phép họ viết lại các quy tắc giao tranh.

Lý tưởng chung của tất cả những người thách thức là một thế giới đa cực không lệ thuộc nhiều vào các nguyên tắc Westphalian về chủ quyền nhà nước mà dựa vào mô hình các phạm vi ảnh hưởng của các cường quốc. Một sự trở lại với thế giới được cho là được chia cắt thành phạm vi ảnh hưởng theo Hội nghị Yalta năm 1945 đã trở thành yêu cầu của cả Moscow và Bắc Kinh. Mỉa mai thay, quan điểm cho rằng Hội nghị Yalta đã thiết lập các phạm vi ảnh hưởng là sai lầm: tại hội nghị, Tổng thống Franklin Roosevelt không chỉ bác bỏ nguyên tắc về phạm vi ảnh hưởng mà còn bác bỏ cả tuyên bố của Stalin về quyền kiểm soát độc quyền đối với Đông Âu.

Washington đã phản đối thách thức này, từ chối công nhận không gian hậu Xô Viết là phạm vi ảnh hưởng của Nga và Biển Đông là biển của Trung Quốc. Cuộc xâm lược của Nga vào Georgia năm 2008 và cuộc chiến của nước này với Ukraine, dẫn đến việc sáp nhập Crimea và thành lập các quốc gia bù nhìn ở vùng Donbas của Ukraine, đã biến một cuộc cạnh tranh hoàn toàn về ngoại giao và kinh tế giữa Nga và phương Tây thành một cuộc xung đột quân sự. Hoa Kỳ quá bận rộn hoặc với các cuộc chiến ở Trung Đông hoặc để thoát khỏi chúng để chống lại thách thức của Nga đối với trật tự quốc tế đã được thiết lập bằng bất cứ biện pháp nào ngoài các lệnh trừng phạt kinh tế.

Cuộc rút quân vụng về của Mỹ khỏi Afghanistan năm 2021 đã đưa ra hình ảnh một nước Mỹ thiếu quyết đoán và suy yếu đáng kể, khuyến khích Putin thử vận ​​may ở Ukraine. Nhưng việc Mỹ rút quân cũng giải phóng Hoa Kỳ để đối phó với thách thức mới từ Nga. Cuộc xâm lược toàn diện của Putin vào Ukraine vào tháng 2 năm 2022 và quan trọng nhất là sức kháng cự ngoan cường của Ukraine đã mang đến cho Hoa Kỳ thời gian và cơ hội để huy động các nguồn lực trong nước và quốc tế nhằm đẩy lùi thách thức của Nga, không chỉ bằng các lệnh trừng phạt mạnh hơn nhiều mà còn bằng hỗ trợ quân sự cho Ukraine. Phản ứng của Hoa Kỳ đối với cuộc chiến cho thấy Hoa Kỳ vẫn duy trì vị thế là cường quốc thế giới hàng đầu, có khả năng phục hồi và tạo ra các liên minh của riêng mình và ngăn chặn việc hình thành các liên minh cạnh tranh bằng cách sử dụng các công cụ tài chính và kinh tế. Washington đã xoay xở để tập hợp một liên minh đáng gờm chống lại sự xâm lược của Nga ngay cả trước khi nó bắt đầu, tận dụng sự hỗ trợ từ Vương quốc Anh và các quốc gia ở sườn phía đông của NATO và EU, do Ba Lan đứng đầu. Liên minh đó đã giúp thuyết phục ngay cả các quốc gia của châu Âu cũ, chủ yếu là Đức, Pháp và Ý, theo truyền thống không muốn làm Nga tức giận, cũng tham gia. Quyết định của Phần Lan và Thụy Điển nộp đơn xin gia nhập NATO khiến ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu thậm chí còn mạnh hơn trước chiến tranh.

Chiến tranh đã chôn vùi hy vọng của nước Nga muốn trở thành một trung tâm toàn cầu mới trong thế giới đa cực được các chính trị gia và nhà ngoại giao Nga hình dung từ những năm 1990. Nó phơi bày những điểm yếu không chỉ trong lực lượng quân sự Nga vốn được đánh giá quá cao và được quảng bá quá mức  mà còn trong tiềm năng kinh tế của nước này. Trong bối cảnh đó, quyết định gia nhập NATO của Thụy Điển và Phần Lan không chỉ là phản ứng trước mối đe dọa từ chế độ bất hảo của Putin mà còn là nhận thức rằng một nước Nga đang suy yếu sẽ không thể ngăn cản động thái của mình.

Về phần mình, Nga đã không còn đồng minh. Họ đã buộc nhân vật sừng sỏ của Belarus, Aliaksandr Lukashenka, người được Nga giải cứu vào năm 2020 trong cuộc nổi dậy của chính người dân mình, phải cho phép quân đội Nga sử dụng lãnh thổ Belarus để tấn công Ukraine nhưng không thuyết phục được ông ta tham gia cuộc chiến. Thậm chí Nga còn nhận ít sự ủng hộ hơn từ các thành viên của CSTO (Tổ chức Hiệp ước An ninh Tập thể), liên minh quân sự do Nga đứng đầu của các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ là Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Uzbekistan.

Bên ngoài Liên Xô cũ, thành tựu ngoại giao chính của Nga là liên minh với Iran và sự trung lập của Thổ Nhĩ Kỳ, nước đã nắm bắt cơ hội Nga bị cô lập và suy yếu để khẳng định mình là một cường quốc khu vực ngoài Trung Đông.

Trung Quốc đã đặt ra những giới hạn cho thỏa thuận hợp tác “không giới hạn” với Nga chỉ vài tuần sau khi ký kết. Trong khi công khai bày tỏ mối quan ngại mà họ chia sẻ với Nga về lập trường của NATO tại châu Âu, Bắc Kinh đã cung cấp cho Moscow sự hỗ trợ chính trị và kinh tế hạn chế và, theo hiểu biết hiện tại, không có hỗ trợ quân sự nào. Điều này cho phép Trung Quốc tiếp tục hưởng lợi từ trật tự quốc tế hiện tại và tránh các lệnh trừng phạt tài chính và kinh tế của Hoa Kỳ, vốn có thể làm gián đoạn thương mại quốc tế và gây tổn hại cho nền kinh tế Trung Quốc. Trung Quốc khó có thể tránh khỏi bị làm phiền bởi sự yếu kém rõ ràng của người bạn đồng hành Nga, nhưng quan tâm nhiều hơn đến sự trở lại mạnh mẽ của Hoa Kỳ trên trường quốc tế và tinh thần đoàn kết mới trong Liên minh châu Âu và giữa Hoa Kỳ và EU. Trung Quốc hiện có cơ hội tốt nhất trong số các quốc gia để trở thành bên hưởng lợi chính từ cuộc chiến hiện tại và mối thù giữa Nga và phương Tây mà cuộc xung đột đã tạo ra.

Cuộc chiến đã dựng lên một Vạn lý Trường thành về chính trị và kinh tế giữa châu Âu và Nga, bức tường này sẽ ngày càng cao hơn khi Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu tiếp tục từ bỏ việc lệ thuộc dầu khí của Nga. Bắc Kinh đã được hưởng lợi từ sự khởi đầu quá trình đa dạng hóa của châu Âu và sự định hướng lại xuất khẩu năng lượng của Nga sang phương Đông. Họ sẽ được hưởng lợi nhiều hơn nữa khi Nga, mong muốn bảo vệ thị trường Trung Quốc để thay thế doanh thu bị mất từ ​​châu Âu, thấy khó đàm phán giá dầu khí có lợi cho mình. Trung Quốc sẽ không có được một đồng minh Nga mạnh về kinh tế trong cuộc cạnh tranh với Hoa Kỳ, nhưng họ sẽ có được nhiều dầu khí giá rẻ để thúc đẩy cuộc cạnh tranh đó.

Với khả năng suy yếu về mặt địa chính trị nếu không muốn nói là sự sụp đổ từ bên trong của Nga và sự phụ thuộc ngày càng tăng của nước này vào phương Đông, cũng như sự xích lại gần nhau đang diễn ra giữa châu Âu và Hoa Kỳ, cuộc chiến ở Ukraine đã góp phần vào sự phân cực của thế giới giữa hai siêu cường kinh tế, Hoa Kỳ và Trung Quốc, và giữa hai phe phái quốc gia hướng đến họ. Phương Tây đã xây dựng lại liên minh Chiến tranh Lạnh của mình, hiện được củng cố bởi các thành viên mới ở Đông Âu, Baltic và Scandinavia, trong khi ở phương Đông có xu hướng tái lập Liên minh Trung-Nga tồn tại vào những năm 1950, trong giai đoạn nguy hiểm nhất của Chiến tranh Lạnh.

Nếu Hoa Kỳ vẫn dẫn đầu phương Tây, thì đã có sự thay đổi vai trò ở phương Đông, với Trung Quốc giờ đang nắm quyền chỉ huy và Nga trở thành thành viên nghèo hơn và liều lĩnh hơn của liên minh – vai trò ban đầu do Trung Quốc đảm nhiệm. Ukraine nổi lên trên bản đồ đó như một nước Đức thời Chiến tranh Lạnh mới, với lãnh thổ không chỉ bị chia cắt giữa hai quốc gia, mà còn giữa hai phạm vi ảnh hưởng toàn cầu và hai khối kinh tế. Như trong quá khứ, có những quốc gia đứng giữa, đáng chú ý là Ấn Độ, hiện tại không liên kết nhưng có thể buộc phải chọn phe trong tương lai do mối quan hệ rắc rối với Trung Quốc.

Có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy sự quay lưng của Nga với phương Tây không phải là một giai đoạn nhất thời. Khó có thể nói xu hướng đó có thể kéo dài hay vĩnh viễn đến mức nào, xét đến sự không chắc chắn trong mối quan hệ của Nga với châu Âu và Hoa Kỳ một mặt, và với Trung Quốc mặt khác. Quan hệ Nga-Trung không hề đơn giản hay dễ dàng trong Chiến tranh Lạnh, thay đổi từ liên minh chặt chẽ vào đầu những năm 1950 đến mối đe dọa tấn công hạt nhân của Liên Xô vào Trung Quốc những năm 1960, và việc thiết lập quan hệ đặc biệt giữa Hoa Kỳ với Trung Quốc vào những năm 1970. Sự cạnh tranh về công nghệ giữa Nga và Trung Quốc, sự cạnh tranh giành ảnh hưởng của họ ở Trung Á, và những tuyên bố không bao giờ quên của Trung Quốc đối với các phần lãnh thổ của Siberia và Viễn Đông hiện nay của Nga, cùng với dòng người Trung Quốc đổ vào những vùng thưa thớt dân cư này, báo trước sự va chạm và khả năng xảy ra xung đột trong tương lai. Nhưng cho dù cuối cùng Nga đứng về phía một trung tâm quyền lực mới nổi này hay trung tâm kia, xu hướng chung hướng tới một trật tự thế giới lưỡng cực có lẽ sẽ không bị ảnh hưởng.

Trật tự thế giới đã ở đúng vị trí vào sáng ngày 24 tháng 2 năm 2022, khi cuộc xâm lược của Nga bắt đầu, vẫn sống sót sau cuộc tấn công, nhưng cuộc chiến tranh toàn diện giữa Nga và Ukraine đã chứng tỏ rằng một xu hướng chưa từng có sắp xảy ra hướng tới sự chuyển đổi của nó. Thay vì thế giới đa cực mà Nga hy vọng, cuộc xung đột báo trước sự trở lại của thế giới lưỡng cực thời Chiến tranh Lạnh, giờ đây không tập trung vào Washington và Moscow, mà là Washington và Bắc Kinh.


Dịch xong, ngày 25 tháng 1 năm 2025

Bình luận về bài viết này