Chiến tranh Nga- Ukraine (Bài 12)

SERHII PLOKHY

Trần Quang Nghĩa dịch

12 Sự Trở Lại của Phương Tây

Bóng tối của một buổi chiều mùa xuân đã bao trùm Lâu đài Hoàng gia ở trung tâm Warsaw khi Tổng thống Biden đến để đọc bài phát biểu mà các quan chức Nhà Trắng nói với các nhà báo sẽ là bài phát biểu mang tính bước ngoặt trong nhiệm kỳ tổng thống của ông.

Lúc đó là 6:15 chiều ngày 26 tháng 3 năm 2022, ngày thứ 30 của cuộc chiến. Vài giờ trước đó, người Nga đã đã phát động một cuộc tấn công bằng tên lửa vào Lviv, một thành phố lớn của Ukraine gần biên giới Ba Lan, gửi một thông điệp rõ ràng tới Tổng thống Biden rằng ông không được chào đón ở nơi mà Moscow coi là sân sau của mình. Biden đang ở ngày thứ ba trong chuyến công du ngoại giao của mình tới châu Âu, bắt đầu tại Brussels với các cuộc họp thượng đỉnh của Liên minh châu Âu và NATO thảo luận về hành động xâm lược của Nga đối với Ukraine. Điểm dừng chân tiếp theo là Warsaw, nơi tổng thống gặp gỡ các quan chức Ba Lan và các thành viên của chính phủ Ukraine, bao gồm các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao, Oleksii Reznikov và Dmytro Kuleba. Biden cũng đã đến thăm một địa điểm gần biên giới Ba Lan-Ukraine, nơi ông đã nói chuyện với những người tị nạn Ukraine. Vào thời điểm đó, 3,5 triệu người đã rời bỏ quê hương và tìm nơi trú ẩn ở Ba Lan và các nước Đông Âu và Trung Âu khác.

Bây giờ một số người tị nạn đó đã tham gia cùng các chức sắc Ba Lan và Ukraine tại Lâu đài Hoàng gia Warsaw để chờ đợi bài phát biểu của tổng thống Hoa Kỳ. Khi Biden xuất hiện trước đám đông, ông đã được chào đón bằng những tràng pháo tay và cờ Mỹ và Ba Lan cũng như ánh đèn flash điện thoại di động nhấp nháy cố gắng nắm bắt khoảnh khắc lịch sử. Biden ngay lập tức gây xúc động với khán giả khi ông trích dẫn lời người con được yêu quý nhất của Ba Lan, Giáo hoàng John Paul II:  “Đừng sợ hãi!”. Ngài nói ra những lời đó trong chuyến thăm đầu tiên của mình tới quê hương vào mùa hè năm 1979. Khi đó, lời lẽ đó được coi là lời kêu gọi không chịu khuất phục trước nỗi sợ hãi đối với một nhà nước cộng sản bạo ngược. “Trước một hệ thống chính quyền tàn ác và hung bạo, đó là thông điệp giúp chấm dứt sự đàn áp của Liên Xô ở Trung và Đông Âu 30 năm về trước”, tổng thống nói, tiếp tục tạo ra mối liên hệ trực tiếp giữa Ba Lan năm 1979 và Ukraine năm 2022. “Đó là thông điệp sẽ giúp vượt qua sự tàn ác và hung bạo của cuộc chiến bất công này.”

Với việc nhắc đến giáo hoàng, Biden không chỉ thiết lập mối liên kết với khán giả của mình mà còn tạo ra cảm nhận tính liên tục giữa cuộc chiến mới và các trận chiến thời Chiến tranh Lạnh trong quá khứ. “Một lần nữa chúng ta lại rơi vào một cuộc chiến vĩ đại vì tự do: cuộc chiến giữa dân chủ và chuyên chế, giữa tự do và áp bức, giữa trật tự dựa trên luật lệ và trật tự cai trị bằng vũ lực”, Biden tuyên bố. Ông tiếp tục cảnh báo rằng cuộc khủng hoảng mới sẽ không qua đi trong vài ngày hoặc vài tuần mà sẽ mất nhiều năm, nếu không muốn nói là nhiều thập kỷ, để vượt qua. “Trận chiến này cũng sẽ không thể thắng trong vài ngày hoặc vài tháng”, Biden tuyên bố. “Chúng ta cần phải chuẩn bị tinh thần cho cuộc chiến lâu dài phía trước”. Ông xác định cuộc đấu tranh mới theo  ngôn ngữ của Chiến tranh Lạnh.

Nhưng bài phát biểu của ông cũng có một giọng điệu khác. Không giống như những Chiến binh Lạnh đặc hiệu như Winston Churchill và Ronald Reagan, thường tránh né các mũi tấn công trực tiếp vào đối thủ của mình – việc Reagan thách thức Gorbachev “phá đổ bức tường này” ở Berlin là một ngoại lệ – Biden đã trực tiếp nhắm vào kẻ thù của mình, Vladimir Putin.

“Putin có đủ gan mật để nói rằng mình đang ‘phi phát xít hóa’ Ukraine. Đó là một lời dối trá. Đúng là vô liêm sỉ. Ông ta biết điều đó. Và điều đó cũng thật khiếm nhã”, Biden nói với đám đông trước khi nhắc đến tổng thống Ukraine, Volodymyr Zelensky, cuộc bầu cử dân chủ của ông ta và thực tế là hầu hết tổ tiên Do Thái của ông ta đã bị sát hại trong cuộc diệt chủng Holocaust.

“Và Putin đầy sự táo tợn, giống như mọi tên độc tài trước ông ta, khi tin rằng sức mạnh sẽ tạo ra lẽ phải”, Biden tiếp tục. Ông kết luận bằng một cơn bộc phát cảm xúc không có trong bản văn: “Vì Chúa, người đàn ông này không thể tiếp tục nắm quyền.”

Nhà Trắng đã cố gắng rút lại lời nhận xét, đưa ra tuyên bố rằng lời nói của Biden không ám chỉ mục tiêu của Hoa Kỳ trong quan hệ với Nga là thay đổi chế độ. Nhận xét này không thấy xuất hiện trong văn bản chính thức của Nhà Trắng. Tuy nhiên, rõ ràng là nó theo đúng tinh thần của Biden trong những bình luận trước đó về Putin. Vào tháng 3 năm 2021, ông đã công khai nhất trí với gợi ý của người phỏng vấn cho rằng Putin là tên sát nhân và sau đó thấy cần phải giải thích với tổng thống Nga. Lần này không thấy có dấu hiệu nào cho thấy sẽ đưa ra lời giải thích hay lời bào chữa nhạt nhẽo nào. Khi gặp những người tị nạn Ukraine tại đấu trường thể thao Warsaw, Biden đã gọi Putin là “tên đồ tể”.

Lời tố cáo này gợi nhớ đến lời công kích của Winston Churchill đối với một nhân vật không kém phần ghê tởm là Adolf Hitler trong bài phát biểu vào ngày 22 tháng 6 năm 1941. “Hitler là một con quái vật độc ác, không hề thỏa mãn tính khát máu và cướp bóc của mình”, Churchill tuyên bố trong một chương trình phát thanh. “Không bằng lòng với việc đặt toàn bộ châu Âu nằm dưới gót giày mình hoặc gieo rắc khủng bố dưới nhiều hình thức khuất phục khác nhau, giờ đây ông ta phải thực hiện công cuộc tàn sát và phá hoại đối với vô số người dân Nga và châu Á.” Trớ trêu thay, bài phát biểu được đưa ra vào đúng ngày Hitler xâm lược Liên Xô và có ý định bày tỏ một số hình thức đoàn kết với Stalin.

Mặc dù chính quyền Biden đã cố gắng làm rõ rằng mình không có ý định đưa Hoa Kỳ vào cuộc chiến tranh Nga-Ukraine, lời lẽ của tổng thống gợi nhớ mạnh mẽ đến Chiến tranh Lạnh. Theo truyền thống đó, bài phát biểu của ông được coi là lưu ý “về những Nỗ lực Đoàn kết của Thế giới Tự do nhằm hỗ trợ Nhân dân Ukraine”. Có 4 lần nhắc đến “phương Tây” hoặc “Thế giới phương Tây” và 20 lần sử dụng các từ “tự do”.  Đối với bất kỳ ai lắng nghe bài phát biểu của Biden vào buổi tối tháng Ba tại Warsaw hoặc xem trên truyền hình trên toàn thế giới, không còn nghi ngờ gì nữa rằng Hoa Kỳ đã trở lại châu Âu để lãnh đạo các đồng minh của mình trong cuộc chiến giành tự do chống lại kẻ thù, và rằng phương Tây nói chung đã tham gia vào cuộc đấu tranh. Các hành động chung của người Mỹ và người châu Âu—cung cấp viện trợ quân sự và kinh tế cho Ukraine, che chở cho người tị nạn và gây tranh cãi nhất là áp đặt lệnh trừng phạt chung đối với Nga—cho thấy sự hồi sinh của liên minh thời Chiến tranh Lạnh.

Liên Minh Trừng Phạt

Joseph Biden đã bắt đầu xây dựng một mặt trận xuyên Đại Tây Dương chống lại sự xâm lược của Nga từ rất lâu trước tháng 2 năm 2022. Khi đó, trọng tâm là lệnh trừng phạt đối với những cá nhân chịu trách nhiệm cho hành động xâm lược của Nga vào năm 2014 và nền kinh tế Nga nói chung. Các lệnh trừng phạt đầu tiên được áp đặt bởi Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu sau khi Nga sáp nhập Crimea và bắt đầu cuộc chiến tranh hỗn hợp ở Donbas.

Các nhà ngoại giao và nhà kinh tế ở Washington và các thủ đô châu Âu đã sớm bận rộn chuẩn bị các lệnh trừng phạt mới trong trường hợp Putin thực sự tuyên chiến. Việc thảo luận công khai về các lệnh trừng phạt mới có thể có nhằm mục đích ngăn cản ông làm như vậy.

Vào cuối tháng 1, Nhà Trắng tuyên bố rằng Hoa Kỳ và các đối tác châu Âu đã sẵn sàng thực hiện “những hậu quả to lớn chưa từng được cân nhắc vào năm 2014”. Một tuần trước khi chiến tranh nổ ra, Phó Tổng thống Kamala Harris đã tuyên bố một mối đe dọa tương tự nhưng cụ thể hơn tại hội nghị an ninh ở Munich: “Chúng ta đã cùng nhau chuẩn bị các biện pháp kinh tế nhanh chóng, nghiêm khắc và thống nhất. Chúng ta sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt tài chính và kiểm soát xuất khẩu sâu rộng. Chúng ta sẽ nhắm mục tiêu vào các tổ chức tài chính và các ngành công nghiệp. Và chúng ta sẽ nhắm vào những kẻ đồng lõa và những kẻ hỗ trợ và tiếp tay cho cuộc xâm lược vô cớ này.” Bất kể phản ứng ở Moscow như thế nào, lần này phương Tây không hề nói suông: Biden thực sự đã tập hợp một liên minh trừng phạt mạnh mẽ.

Ngay sau khi Putin tuyên bố vào ngày 21 tháng 2 rằng ông sẽ từ bỏ Thỏa thuận Minsk và công nhận “sự độc lập” của các quốc gia bù nhìn của mình ở Donbas, các lệnh trừng phạt bắt đầu được triển khai.

Hoa Kỳ ngay lập tức cấm mọi quan hệ kinh tế với các quốc gia bù nhìn, Liên minh châu Âu đã áp đặt lệnh cấm đi lại đối với năm nhân vật Nga nổi tiếng ngoài việc đóng băng tài sản của họ. Đó chỉ là khởi đầu: nhiều lệnh trừng phạt hơn đã được tuyên bố vào ngày hôm sau. Hoa Kỳ đã áp dụng các biện pháp từ chối các thực thể của Nga khả năng vay tiền trên thị trường quốc tế và chặn các giao dịch tài chính của hai ngân hàng Nga và ba nhóm đầu sỏ. Châu Âu cũng không kém cạnh, khi chính phủ Đức dừng cấp phép cho đường ống dẫn khí đốt tự nhiên Nord Stream II trị giá 11 tỷ đô la, trung tâm Hợp tác kinh tế Berlin-Moscow chỉ vài năm trước. Tất cả những điều này diễn ra trước khi xe tăng và quân đội Nga vượt qua biên giới Ukraine. Thông điệp là: lần này chúng tôi nghiêm túc và đoàn kết. Putin đã phớt lờ nó. Sự khởi đầu của cuộc chiến đã gây ra một làn sóng trừng phạt mới. Hoa Kỳ và Châu Âu đã tham gia cùng các đồng minh Châu Á của họ, bao gồm Hàn Quốc và Đài Loan. Trước khi kết thúc tháng 2 năm 2022, tài sản của Nga lên tới 1 nghìn tỷ đô la đã bị đóng băng trên toàn thế giới, phần lớn nhất bao gồm Ngân hàng Trung ương Nga 630 tỷ dự trữ ngoại hối. “Phương Tây tuyên chiến kinh tế với Nga”, một tiêu đề trên ấn phẩm trực tuyến có ảnh hưởng của Mỹ Politico.

Trong suốt mười tháng chiến tranh, từ ngày 23 tháng 2 đến ngày 16 tháng 12 năm 2022, Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu đã nhất trí về 9 gói trừng phạt đối với Nga. Những nhân vật bị trừng phạt lần đầu tiên là chính Vladimir Putin, ngoại trưởng Nga, Sergei Lavrov và hàng trăm thành viên của giới tinh hoa chính trị và kinh doanh Nga, bao gồm cả những người dẫn chương trình truyền hình tham gia vào chiến tranh tuyên truyền và sự lan truyền thông tin sai lệch trong và ngoài nước. Các biện pháp trừng phạt đối với các cá nhân bao gồm lệnh cấm đi lại và đóng băng tài sản. Liên minh châu Âu cũng đình chỉ hoạt động phát sóng của các phương tiện truyền thông nhà nước Nga trên lãnh thổ của mình, đáng chú ý nhất là các cơ quan ngôn luận chính của Điện Kremlin, SputnikRussia Today. Các biện pháp trừng phạt trong lĩnh vực tài chính đã dẫn đến việc đóng băng hơn một nửa dự trữ của Nga và lệnh cấm sử dụng tiền giấy do Euro thống trị trong các giao dịch của EU tại hoặc với Nga. Các ngân hàng Nga đã bị cắt khỏi dịch vụ nhắn tin SWIFT, khiến việc thực hiện các giao dịch tài chính quốc tế liên quan đến ngoại tệ trở nên bất khả thi. Các công nghệ mới, đặc biệt là những công nghệ đã hoặc có thể sẽ được sử dụng trong sản xuất vũ khí của Nga (tất cả các loại vũ khí mới của Nga đều được chế tạo bằng công nghệ phương Tây và vi mạch do nước ngoài cung cấp), đã được đặt ngoài tầm với của Moscow.

Các hoạt động mua, nhập khẩu hoặc chuyển vàng do Nga sản xuất trong các quốc gia tham gia lệnh trừng phạt trở thành bất hợp pháp. Các lệnh cấm và lệnh cấm vận đã được áp dụng đối với các sản phẩm dầu mỏ của Nga, đặc biệt là dầu. Liên minh châu Âu nhất trí chấm dứt nhập khẩu dầu của Nga bằng đường biển trong vòng sáu đến tám tháng, giảm lượng tiêu thụ xuống 90 phần trăm. Các biện pháp đó phù hợp với chương trình nghị sự xanh của EU về giảm lượng khí thải carbon nhưng được đưa ra chủ yếu để hạn chế doanh thu và khả năng tài trợ cho chiến tranh của chính quyền Nga. Thu nhập của Moscow chỉ riêng từ những lần bán đó đã lên tới 1 tỷ đô la mỗi ngày. Vào tháng 12, các nước EU đã đồng ý đưa ra mức giá trần của dầu Nga được bán ra bên ngoài EU. Việc áp đặt lệnh cấm vận và đưa ra mức trần ước tính khiến ngân sách Nga mất 120 triệu đô la mỗi ngày.

Vũ Trang Cho Ukraine

“Những chú chim đang bay vào, như thể đang trở về từ một cơn lốc xoáy!” Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine, Oleksii Reznikov, đã viết trên trang Facebook của mình vào ngày 11 tháng 2 năm 2022. Sau đó, ông giải thích những gì ông nghĩ: “90 tấn đạn dược khác đã đến từ Hoa Kỳ cho Lực lượng Vũ trang Ukraine.” Ông ước tính tổng trọng lượng của viện trợ quân sự được tặng là 1.300 tấn. Những bài đăng như vậy, cùng với cảnh quay vũ khí được dỡ xuống từ máy bay nước ngoài, đã thúc đẩy tinh thần của người Ukraine và giúp đẩy lùi cuộc tấn công của Nga vào Kyiv trong những ngày đầu của cuộc xâm lược.

Vũ khí đến từ một số đồng minh châu Âu của Ukraine, với Anh dẫn đầu nỗ lực cung cấp vũ khí, nhưng phần lớn trong số chúng sẽ đến từ Hoa Kỳ. Vào ngày 26 tháng 2, Tổng thống Biden đã phê duyệt gói viện trợ quân sự trị giá 350 triệu đô la. Tại Washington, các công ty luật và những người vận động hành lang làm việc suốt ngày đêm, đôi khi miễn phí, để giúp chính phủ đưa ra gói viện trợ đó. Tất nhiên đó là một thay đổi lớn.

Vào mùa xuân năm 2021, Washington đã chuẩn bị một gói viện trợ quân sự trị giá 100 triệu đô la cho Ukraine nhưng đã hoãn lại, hy vọng có thể có một bước đột phá tại hội nghị thượng đỉnh Geneva với Putin vào tháng 6. Một gói 60 triệu đô la đã được công bố vào tháng 8, nhưng vũ khí và đạn dược sẽ không được chuyển giao đầy đủ cho Ukraine cho đến tháng 11. Vào tháng 12 năm 2021, khi cuộc khủng hoảng Ukraine dẫn đến căng thẳng quốc tế gia tăng, Nhà Trắng của Biden đã phải chịu sự thúc đẩy của các thành viên Quốc hội để cung cấp tên lửa Stinger và Javelin theo yêu cầu của người Ukraine. Chính quyền đã miễn cưỡng làm như vậy vào thời điểm đó, nhưng sự bùng nổ của chiến tranh đã làm thay đổi thái độ đó.

Vũ khí bắt đầu được chuyển đến hàng loạt khi rõ ràng là người Ukraine đang kháng cự thành công và bất kỳ sự hỗ trợ nào họ nhận được sẽ làm tăng sức mạnh chiến đấu của họ thay vì rơi vào tay kẻ thù, như trường hợp nguồn cung cấp của Hoa Kỳ cho quân đội Afghanistan vài tháng trước đó. Bảy mươi phần trăm vũ khí trong gói hàng được Biden chấp thuận vào ngày 26 tháng 2 đã được chuyển đến Ukraine trong vòng năm ngày sau. Phần lớn hàng giao đó đến từ các căn cứ của Mỹ ở Đức và di chuyển qua biên giới Ba Lan và Romania trước khi quân đội Nga, bị sốc bởi sự kháng cự của Ukraine, có thể thực hiện bất kỳ biện pháp đối phó nào. Người Ukraine đã tận dụng tốt những gì họ nhận được. “Tất cả chúng tôi đều vô cùng ấn tượng về cách các lực lượng vũ trang Ukraine sử dụng hiệu quả các thiết bị mà chúng tôi cung cấp cho họ”, Laura Cooper, chuyên gia cấp cao phụ trách vấn đề Nga của Lầu Năm Góc, đã nói với tờ New York Times.

Sẽ có nhiều hỗ trợ hơn nữa. Vào ngày 16 tháng 3, Biden đã công bố khoản viện trợ quân sự bổ sung 800 triệu đô la cho Ukraine, nâng tổng số tiền mà ông đã phê duyệt trong tuần trước lên 1 tỷ đô la. Một tỷ đô la nữa sẽ theo sau. Gói mới bao gồm 800 hệ thống phòng không Stinger, tăng số lượng tên lửa do Hoa Kỳ cung cấp lên 1.400, cũng như 2.000 tên lửa chống tăng Javelin, nâng tổng số lượng lên 4.600.

Mới tham gia chương trình hỗ trợ là 100 Hệ thống máy Bay Không người lái Chiến thuật. Vào ngày 21 tháng 4, Nhà Trắng đã đưa ra thông báo tiếp theo và thêm 800 triệu đô la viện trợ quân sự. Lần này, gói viện trợ bao gồm máy bay không người lái Switchblade hoặc Tự sát và lựu pháo, hay pháo tầm xa. “Chúng ta đang ở trong một thời điểm quan trọng khi họ chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của cuộc chiến này”, Biden tuyên bố liên quan đến khoản viện trợ mới.

Việc Nga rút quân khỏi Kyiv và miền bắc Ukraine thực sự đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến. Nó bắt đầu với một cú sốc – tin tức khủng khiếp và hình ảnh đau lòng về tội ác do quân đội Nga rút lui gây ra ở Bucha và các thị trấn và làng mạc khác của Ukraine. Thế giới phản ứng với sự kinh hoàng và quyết tâm rằng những tên tội phạm chiến tranh phải bị đánh bại và tiêu diệt. Người Ukraine đã chứng minh có khả năng làm như vậy miễn là họ nhận được nhiều hỗ trợ quân sự: phá vỡ các tuyến tiếp tế của Nga bằng Javelin và các cuộc tấn công bằng máy bay không người lái là không đủ. Quân Nga, vốn có các tuyến tiếp tế ngắn hơn nhiều và được bảo vệ tốt ở phía nam và miền đông Ukraine, chỉ có thể bị đánh bật bằng xe tăng và máy bay. Các thành viên NATO Đông Âu đã thừa hưởng vũ khí của Liên Xô mà người Ukraine quen thuộc đã chuyển những gì họ có thể cho Ukraine. Hoa Kỳ và các đối tác Tây Âu phải cung cấp nhiều hơn nữa.

Biden đã chuẩn bị tăng cường hỗ trợ của Hoa Kỳ cho Ukraine. Một chương trình hỗ trợ quân sự mới của Hoa Kỳ đã được công bố vào ngày 9 tháng 5, Ngày Chiến thắng ở Nga, khi Vladimir Putin tổ chức một cuộc diễu hành trên Quảng trường Đỏ ở Moscow. Có một sự trớ trêu trong sự trùng hợp của “Ngày Chiến thắng” của Nga với chương trình Lend-Lease (Cho thuê-Cho mượn) dành cho Ukraine mà Biden đã yêu cầu và nhận được chấp thuận từ Quốc hội. Hoa Kỳ đã không khởi xướng chương trình Lend-Lease cho một đồng minh nào kể từ Thế chiến II, và các đồng minh vào thời điểm đó là Vương quốc Anh và Liên Xô. Hoa Kỳ đã cung cấp hơn 50 tỷ đô la (690 tỷ đô la theo tỷ giá hối đoái hiện nay), trong đó hơn một nửa số tiền đó dành cho Vương quốc Anh và khoảng một phần năm cho Liên Xô. Đạo luật Lend-Lease mới cho phép tổng thống ủy quyền lên đến 33 tỷ đô la viện trợ quân sự cho Ukraine ngoài 3,8 tỷ đô la đã chi cho mục đích đó kể từ khi bắt đầu chiến tranh. Hạ viện đã ủng hộ dự luật này với đa số 417 phiếu thuận và 10 phiếu chống. “Chi phí cho cuộc chiến không hề rẻ, nhưng khuất phục trước sự xâm lược còn tốn kém hơn”, Biden tuyên bố khi ký ban hành đạo luật này thành luật.

Hoa Kỳ một lần nữa lại tham gia vào loại chiến tranh mà họ chưa từng tham gia kể từ giữa thế kỷ XX. Giống như vào tháng 3 năm 1941, khi Tổng thống Franklin D. Roosevelt ký Đạo luật Cho thuê-Cho mượn ban đầu, Hoa Kỳ không tham gia trực tiếp vào cuộc chiến. Mục tiêu hiện tại, cũng như trước đây, là giúp đỡ các nạn nhân của sự xâm lược. Chính quyền Biden quyết tâm loại bỏ Nga khỏi danh sách các mối đe dọa đối với hòa bình không chỉ ở Ukraine mà còn trên toàn cầu, để đảm bảo đánh bại Nga trong cuộc chiến hiện tại và làm suy yếu khả năng tiến hành các cuộc chiến tranh mới của Nga. Đó là chủ đề chính của các tuyên bố được đưa ra vào ngày 26 tháng 4 bởi Bộ trưởng Quốc phòng Lloyd Austin, người cùng với Ngoại trưởng Antony Blinken, đã có chuyến thăm bất ngờ tới Kyiv một ngày trước đó. “Chúng tôi muốn thấy Nga suy yếu đến mức họ không thể làm những gì mà họ đã làm khi xâm lược Ukraine”, Austin tuyên bố khi đến Ba Lan từ Kyiv. Ông nói thêm: “Chúng tôi tin rằng chúng tôi có thể giành chiến thắng”, rồi tự đính chính: “họ có thể giành chiến thắng nếu họ có đúng thiết bị, đúng sự hỗ trợ”.

Cuối ngày hôm đó, Austin đã tham gia cùng chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân, Tướng Mark A. Milley, Bộ trưởng Quốc phòng Ukraine, Oleksii Reznikov, cùng các quan chức quân sự và dân sự từ hơn 40 quốc gia tại căn cứ không quân Ramstein của Hoa Kỳ, Đức. Đại diện của Hoa Kỳ, Ukraine và Đức ngồi ở bàn chủ tọa. Những người tham gia không chỉ bao gồm các đại biểu của các quốc gia thành viên NATO mà còn có đại biểu của Israel, Morocco và Qatar, cùng nhiều quốc gia khác. Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản đã tham gia cuộc họp trực tuyến. Tất cả họ đã tập trung để thảo luận về việc phối hợp và đẩy nhanh viện trợ quân sự cho Ukraine. “Chúng tôi sẽ di chuyển trời và đất”, Austin nói với nhóm nhà báo có mặt để nhấn mạnh quyết tâm của mình và các đồng nghiệp trong việc hỗ trợ Ukraine bảo vệ độc lập của mình. Những người tham gia đã nhất trí về các bước đi tức thời, thành lập một trung tâm điều phối để quản lý viện trợ và quyết định tổ chức các cuộc họp thường kỳ hàng tháng.

Đây là cuộc họp đầu tiên của “Nhóm Tư vấn Quốc phòng Ukraine” – trên thực tế, một liên minh chiến tranh mới. Hoa Kỳ nắm quyền dẫn đầu về thế chủ động, ảnh hưởng chính trị, số lượng và chất lượng của nguồn cung cấp vũ khí hiện tại và tương lai, nhưng sự hỗ trợ của các đồng minh khác cũng rất cần thiết. Tại Ramstein, thế giới tự do mà Tổng thống Biden đã đề cập ở Warsaw vào tháng trước đã đi đến thống nhất. Những diễn biến tiếp theo trong cuộc chiến và trên thế giới nói chung phụ thuộc vào khả năng đoàn kết của nhóm đó. Nhóm đã đạt được mục tiêu và tăng số lượng thành viên lên hơn 50 quốc gia vào mùa thu năm 2022. Nguồn lực quân sự do các thành viên của nhóm cung cấp đã giúp Ukraine giành lại thế chủ động trên chiến trường vào tháng 9 năm đó.

Anh Quốc Tấn Công

Vào tháng 6 năm 2022, ấn bản tiếng Ukraine của Forbes đã công bố danh sách 20 người bạn của Ukraine – các quốc gia đã đóng góp nhiều nhất cho quốc phòng nước này. Hoa Kỳ tất nhiên là quốc gia dẫn đầu không thể tranh cãi, với cam kết 46 tỷ đô la (0,22 phần trăm GDP) cho mục đích đó. Nhưng danh sách này cũng lưu ý đến số các chuyến thăm của các nhà lãnh đạo quốc gia tới Kyiv và các hình thức hỗ trợ khác, bao gồm cả việc tham gia vào các lệnh trừng phạt đối với Nga, điều này đã đưa Ba Lan lên cao hơn một bậc so với Hoa Kỳ và khiến nước này trở thành nhà hỗ trợ vô song, đạt 97 trên thang điểm 100. Về tỷ lệ GDP dành cho viện trợ Ukraine, quốc gia dẫn đầu là Estonia, với 0,81 phần trăm GDP của nước này, tiếp theo là Latvia với 0,72 phần trăm và Ba Lan với 0,26 phần trăm. Vương quốc Anh đứng ở mức 0,18 phần trăm, trong khi Pháp đóng góp 0,08 phần trăm, Đức 0,06 phần trăm và Ý 0,03 phần trăm GDP của nước tương ứng.

Viện trợ của châu Âu cho Ukraine được đo bằng bách phân GDP bộc lộ sự chia rẽ trong khối phương Tây liên quan đến cuộc chiến ở Ukraine, mặc dù có sự đoàn kết chưa từng có giữa các thủ đô châu Âu trong việc lên án hành động xâm lược vô cớ của Putin đối với một quốc gia có chủ quyền.

Các quốc gia vùng Baltic, trước đây là các nước cộng hòa thuộc Liên Xô cũ đã gia nhập EU và NATO nhưng vẫn cảm thấy bị Nga đe dọa, lo ngại rằng nếu Putin thắng ở Ukraine, họ sẽ là nước tiếp theo. Do đó, họ thuộc  nhóm ủng hộ Ukraine nhiều nhất ở châu Âu. Quan điểm của họ được Thủ tướng Kaja Kallas của Estonia thể hiện rõ nhất, bà tuyên bố trong bài phát biểu của mình tại Berlin rằng khí đốt có thể đắt đỏ, nhưng tự do là vô giá. “Mỗi chính phủ phải quyết định xem người dân của mình sẵn sàng chung vai bao nhiêu gánh nặng. Nhưng chúng ta cũng cần phải truyền tải thông điệp này đến mọi người – vấn đề của hàng xóm chúng ta hôm nay sẽ là vấn đề của chúng ta ngày mai. Chúng ta đang gặp nguy hiểm khi ngôi nhà của hàng xóm chúng ta bốc cháy.”

Cũng háo hức ủng hộ Ukraine là một nhóm các nước vệ tinh Đông Âu cũ của Liên Xô, do Ba Lan dẫn đầu và bao gồm Slovenia và Cộng hòa Séc. Mặc dù là thành viên của EU và NATO, họ lo ngại về khả năng quân đội Nga xuất hiện ở biên giới của họ. Họ không chỉ huy động các nguồn lực ngoại giao, kinh tế và quân sự của mình để giúp Ukraine phòng vệ mà còn tiếp nhận hầu hết dân tị nạn Ukraine – hơn 3,5 triệu người đã được tiếp đón, cung cấp nhà ở và thức ăn chỉ riêng tại Ba Lan. Ngoại lệ duy nhất đối với nhóm quốc gia đó là Hungary, cầm đầu bởi một nhân vật bạo lực chính trị, Viktor Orban, người đã mô phỏng chế độ dân túy phi tự do của mình theo chế độ Vladimir Putin, có lẽ là đồng minh chính trị thân cận nhất của ông ta. Bên cạnh sự đồng cảm chính trị của Orban đối với Moscow, còn có sự tính toán lạnh lùng: phụ thuộc vào Nga để Hungary có được phần lớn nguồn cung cấp năng lượng, Orban chỉ hỗ trợ hạn chế cho phe  liên minh chống Nga, phản đối việc cung cấp vũ khí cho Kyiv và phản đối chế độ trừng phạt do phương Tây áp đặt.

Các quốc gia “Châu Âu Cũ”, không bị đe dọa xâm lược ngay lập tức, chia thành hai nhóm. Trong một “nhóm” riêng biệt chỉ có một mình Vương quốc Anh, quốc gia đã rời khỏi Liên minh Châu Âu nhưng hiện đang tái gia nhập chính trường Châu Âu một cách rất quyết đoán. London nổi lên như là người lãnh đạo mặt trận Châu Âu ủng hộ Ukraine, cam kết tài trợ cho sự nghiệp của Ukraine nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác ngoại trừ Hoa Kỳ – hơn 5 tỷ đô la tính đến tháng 6 năm 2022. Nhóm kia gồm Đức, Pháp và Ý đứng ở vị trí thấp hơn trong danh sách đó. Các nhà lãnh đạo của họ miễn cưỡng áp dụng lệnh trừng phạt đối với Nga và không muốn cung cấp nhiều hỗ trợ quân sự. Trước chiến tranh và trong giai đoạn đầu cuộc chiến, họ đã cố gắng định vị mình là những người có thể làm trung gian trong các cuộc đàm phán hòa bình trong tương lai thay vì là những người tham gia vào một cuộc xung đột chính trị, kinh tế và quân sự đe dọa không chỉ Ukraine mà còn cả toàn bộ châu Âu.

Thủ tướng Anh, Boris Johnson, đã nổi lên như một nhà vô địch giải cứu Ukraine và lợi ích của nước này trên trường châu Âu. Vào ngày 10 tháng 4, ông trở thành nhà lãnh đạo phương Tây đầu tiên đến thăm Volodymyr Zelensky, đi bộ cùng ông ở trung tâm Kyiv ngay sau khi Nga rút quân khỏi vùng ngoại ô Kyiv. Một máy ảnh đã bắt dính hình ảnh một người Kyiv trung niên cảm ơn Johnson vì những gì ông đã làm cho Ukraine và nói rằng mình sẽ biết ơn ông trong suốt quãng đời còn lại. Vào thời điểm đó, Johnson đã trở thành cái tên trên cửa miệng của người dân Ukraine, một biểu tượng cho sự hậu thuẫn của phương Tây đối với đất nước đang gặp khó khăn này.

Theo các nhà báo Ukraine có hiểu biết, chuyến thăm của Johnson tới Kyiv và việc phát hiện ra tội ác chiến tranh của Nga ở vùng ngoại ô Bucha của Kyiv mười ngày trước đó đã thuyết phục Zelensky và nhóm của ông rằng các cuộc đàm phán với Nga ở giai đoạn đó của cuộc chiến là không thể và vô nghĩa. Chuyến thăm của Johnson cũng mở ra cánh cửa cho các chuyến thăm tiếp theo tới Kyiv của các nhà lãnh đạo phương Tây khác, bao gồm các bộ trưởng quốc phòng và ngoại giao Hoa Kỳ, Lloyd Austin và Antony Blinken, vào cuối tháng đó.

Nhiều người, đặc biệt là ở Anh, đã cáo buộc Johnson sử dụng vai trò tự phong là người cổ vũ chính cho Ukraine để đánh lạc hướng sự chú ý của công luận khỏi cuộc điều tra của quốc hội về việc ông tổ chức tiệc tùng vào thời điểm chính quyền áp đặt các hạn chế  tụ tập vì dịch COVID. Nếu những người chỉ trích đúng, thì rõ ràng Johnson biết mình đang làm gì. Sự đồng cảm của công chúng Anh đối với Ukraine trong tháng đầu tiên sau cuộc xâm lược của Nga là rất lớn, cũng như sự lên án hành động của Nga và mong muốn giải phóng nước Anh khỏi ảnh hưởng của nhiều nhà tài phiệt Nga đã biến London thành ngôi nhà thứ hai hoặc thậm chí là ngôi nhà đầu tiên của mình và, trong mắt nhiều công dân, tình trạng ấy đã làm băng hoại nền chính trị và văn hóa Anh bằng tiền của họ. Một cuốn sách của nhà báo Oliver Bullough về chủ đề đó, có tựa đề Butler to the World (Quản Gia của Thế Giới) và được xuất bản vào tháng 3 năm 2022, đã trở thành cuốn sách bán chạy nhất ngay lập tức.

Đầu tháng 6 năm 2022, vào ngày thứ 100 của cuộc chiến tranh toàn diện, đồng minh thân cận của Johnson, Ngoại trưởng Liz Truss, đã đưa ra một tuyên bố liệt kê nhiều hình thức hỗ trợ khác nhau của Anh dành cho Ukraine. Bà bắt đầu bằng các lệnh trừng phạt do Anh áp đặt đối với 1.000 cá nhân và 100 thực thể người Nga, bao gồm cả các nhà tài phiệt có tổng giá trị tài sản ròng hơn 117 tỷ bảng Anh. Johnson đã bị chỉ trích nặng nề bởi những người phản đối và công chúng nói chung vì đã bổ nhiệm một trong những nhà tài phiệt đó, Yevgenii Lebedev, con trai của một cựu điệp viên KGB, vào Thượng Nghị viện mà không có giấy phép an ninh phù hợp. Cũng có những cáo buộc rằng Đảng Bảo thủ của thủ tướng đã nhận tiền từ các nhà tài trợ có liên hệ với các nhà tài phiệt Nga. Nhưng Johnson và Truss hiện đang làm trong sạch mối quan hệ với các nhà tài phiệt. Họ cũng có thể cho thấy mức viện trợ đáng kể cho Ukraine. Trong khi người tị nạn Ukraine vẫn rất khó đến được Anh dù các gia đình Anh chấp thuận đơn xin của họ, Vương quốc Anh đã cung cấp cho Ukraine 1.000 tên lửa và huấn luyện 22.000 quân nhân nước này.

Mặc dù chính tình trong nước chắc chắn đóng vai trò trong việc Boris Johnson hậu thuẫn Ukraine, nhưng thủ tướng không chỉ nghĩ đến chương trình nghị sự trong nước mà còn cả chương trình nghị sự quốc tế. Là tác giả của một cuốn sách bán chạy nhất về Winston Churchill, và đã cố gắng mô phỏng bản thân theo người hùng của mình, Johnson có ý định duy trì  vai trò truyền thống của Anh như một nhân tố chính trị quan trọng của châu Âu và thậm chí là toàn cầu bất chấp tai tiếng quốc tế của đất nước do Brexit gây ra. “Ôi thật mỉa mai!”, tờ Guardian, tờ báo luôn chỉ trích thủ tướng, đã viết như vậy vào giữa tháng 5 năm 2022. “Boris Johnson, thủ lĩnh Brexit đã quay lưng lại với EU, giờ đây lại mạnh dạn lãnh đạo công cuộc bảo vệ châu Âu trước sự xâm lược của Nga. Có phải là cường điệu không? Đúng vậy, nhưng đằng sau sự cường điệu đó là một câu chuyện hấp dẫn …. Johnson đang lợi dụng cuộc khủng hoảng Ukraine để hàn gắn rạn nứt với một số đồng minh cũ của châu Âu. Mục tiêu của ông ta: tái lập Vương quốc Anh như một cường quốc lục địa.”

Chiến tranh Nga-Ukraine thực sự đã mang đến cho London cơ hội xây dựng lại các liên minh cũ với các nước Đông Âu và Bắc Âu, vốn thường hoài nghi về sức mạnh của Brussels và, trong trường hợp của Ba Lan và các quốc gia vùng Baltic, cũng không hài lòng với thái độ thờ ơ của các nước Châu Âu Cũ đối với sự xâm lược của Nga. Johnson đã nhiệt tình ủng hộ quyết định của Phần Lan và Thụy Điển trở thành thành viên của NATO vào năm 2022. Năm 2017 cả hai nước đã gia nhập Lực lượng Viễn chinh do Vương quốc Anh lãnh đạo, một nhóm đồng minh với NATO bao gồm các nước Bắc Âu như Na Uy, Đan Mạch, Iceland, Hà Lan và các quốc gia Baltic. Lực lượng Viễn chinh đã trở thành một đội quân châu Âu đang được hình thành – lực lượng vũ trang mà Pháp đã nói đến nhưng Anh mới thực sự tích cực thành lập. Vào tháng 3, Johnson đã mời các nhà lãnh đạo của các quốc gia thuộc Lực lượng Viễn chinh đến London, nơi Tổng thống Zelensky đã phát biểu với họ qua liên kết video, yêu cầu được hỗ trợ quân sự.

Johnson cũng tham gia với các nước Đông Âu, cố gắng tạo ra một cấu trúc toàn châu Âu sẽ bao gồm Ukraine dưới sự bảo trợ của London. Vào tháng 2, chưa đầy một tuần trước cuộc xâm lược, London, Warsaw và Kyiv đã công bố việc thành lập một sáng kiến ​​quân sự Anh-Ba Lan-Ukraine mà Bộ trưởng Ngoại giao Ukraine, Dmytro Kuleba, gọi là “hình thức hợp tác ba bên”. Theo các báo cáo trên phương tiện truyền thông Ý, trong chuyến thăm Kyiv vào tháng 4, Johnson đã đề xuất với Zelensky về việc thành lập một đối thủ tiềm năng của Liên minh châu Âu – một Khối Thịnh vượng chung châu Âu do Anh lãnh đạo bao gồm Ba Lan, các quốc gia vùng Baltic và Ukraine. Rõ ràng, đối với Johnson, Brexit không có nghĩa là từ bỏ chính trị châu Âu. Ông đang lập kế hoạch cho một trung tâm quyền lực thay thế cho Brussels và thách thức tính hợp pháp của chính sách đối với Nga được đưa ra ở Paris và Berlin, chính sách này ưu tiên các mối quan tâm kinh tế của châu Âu cũ hơn là các mối quan tâm an ninh của châu Âu mới.

Nỗi Sợ Hãi của Người Đức

Cuộc xâm lược Ukraine của Nga là một đòn giáng mạnh vào chính sách do thủ tướng Đức Angela Merkel, người đã phục vụ lâu năm và mới nghỉ hưu, ủng hộ, nhằm khuyến khích hợp tác kinh tế với Nga chứ không phải chỉ để giải quyết các vấn đề năng lượng của Đức và châu Âu mà còn biến Nga thành một đồng minh kinh tế và chính trị đáng tin cậy. Các chính sách của Merkel đối với Nga hiếm khi bị chỉ trích ở Đức trong nhiệm kỳ dài của bà, kéo dài từ tháng 11 năm 2005 đến tháng 12 năm 2021. Bà đã giúp đàm phán các thỏa thuận Minsk II chấm dứt giai đoạn hoạt động của cuộc chiến tranh Nga-Ukraine ở Donbas vào tháng 2 năm 2015 và đóng vai trò quan trọng trong việc áp đặt và duy trì các lệnh trừng phạt của Đức và do đó là của châu Âu đối với Nga sau khi Putin sáp nhập Crimea.

Merkel cũng đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp sự ủng hộ chính trị cho việc xây dựng Nord Stream II, đường ống dẫn khí đốt từ Nga đến Đức, cụ thể hơn là đến khu định cư có tên Lubmin tại khu vực bầu cử Bundestag của bà. Dự án này, được thực hiện sau khi áp đặt lệnh trừng phạt, đã bị chỉ trích ở nước ngoài nhưng được nhìn nhận tích cực ở trong nước. Khi Merkel rời nhiệm sở vào tháng 12 năm 2021 với những lời khen ngợi chung về vô số thành tựu chính trị của bà, có rất ít lý do để tin rằng Nord Stream II sẽ không đi vào hoạt động. Ngay cả sự phản đối của người Mỹ đã chấm dứt sau khi Biden thay thế Trump tại Nhà Trắng.

Đức sắp tiếp tục gia tăng sự phụ thuộc khí đốt của Nga và người ta tin rằng nhu cầu của Nga đối với doanh thu từ phương Tây sẽ khiến Putin thân thiện hơn với châu Âu.

Mặc dù có những đám mây đen trên đường chân trời, với việc Hoa Kỳ và Vương quốc Anh cảnh báo thế giới về sự xâm lược sắp xảy ra của Nga đối với Ukraine, nhiều người Đức tin rằng vấn đề có thể được giải quyết bằng cách nhượng bộ Nga. Vào tháng 1, một sĩ quan hải quân Đức, Phó Đô đốc Kay-Achim Schönbach, đã bị ghi âm lời phát biểu cho rằng Crimea sẽ vẫn là của Nga, và Putin chỉ muốn được tôn trọng. “Thật dễ dàng để dành cho ông ấy sự tôn trọng mà ông ấy thực sự yêu cầu – và có lẽ cũng xứng đáng”, Schönbach tuyên bố, sau khi thốt lên: “Và, lạy Chúa, việc dành cho ai đó sự tôn trọng là chi phí thấp, thậm chí là không mất gì”. Các băng ghi âm đã được công khai trước dư luận và lan truyền rộng rãi, buộc Schönbach phải từ chức. Nhưng những lời nói của ông phản ánh suy nghĩ của giới tinh hoa chính trị, quân sự và kinh doanh Đức  vào thời điểm đó.

Olaf Scholz, 63 tuổi, đảng viên Dân chủ Xã hội, người thay thế Angela Merkel làm thủ tướng vào tháng 12 năm 2021, đã ngay lập tức phải đối mặt với cuộc khủng hoảng quốc tế do yêu cầu của Putin về việc chuyển biên giới của NATO về phía tây và việc ông ta tập trung quân đội Nga vào biên giới Ukraine. Những gì chỉ vài tháng trước đó có vẻ là một chính sách khôn ngoan đối với Nga do Merkel thực hiện giờ đây ngày càng được coi là hành động xoa dịu một kẻ xâm lược. Khí hậu quốc tế đã thay đổi và Nord Stream II đột nhiên nhận thấy mình  lâm vào tình trạng khốn đốn: Các đồng minh của Đức, đặc biệt là Hoa Kỳ, muốn chính phủ Đức dừng việc chứng nhận đường ống gây tranh cãi này.

Vào tháng 2, Scholz đã đến thăm Washington và dường như đã đồng ý với Biden hủy bỏ chứng nhận Nord Stream II nếu Putin tham chiến. “Nếu có hành động xâm lược quân sự chống lại Ukraine, các lệnh trừng phạt cứng rắn, được cả hai bên nhất trí và có phạm vi rộng sẽ được áp đặt. Sẽ vô cùng tốn kém cho Nga nếu họ thực hiện một bước đi như vậy”, Scholz tuyên bố tại một cuộc họp báo chung với người đồng cấp Mỹ.

Sau đó ông bay tới Moscow để thuyết phục Putin không tham chiến, đảm bảo với Putin rằng Ukraine sẽ không có cơ hội gia nhập NATO trong 30 năm tới.

Bị khước từ ở đó, Scholz đã dừng lại ở Kyiv trên đường trở về Đức. Zelensky đã nhanh chóng nhắc nhở ông rằng Nord Stream II là một vũ khí địa chính trị của Nga, và chuyến thăm của ông tới Nga đã không tạo ra nhiều nhiệt tình cho công chúng ở thủ đô Ukraine. Trong khi Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và các nước Đông Âu đã giúp Ukraine bằng vũ khí, Đức đã cung cấp 5.000 mũ sắt. Thị trưởng Kyiv, Vitalii Klychko, một cựu võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp và nhiều lần là nhà vô địch hạng nặng, người từng sống ở Đức và vẫn còn nổi tiếng ở đó, đã nói đùa rằng chuyến hàng tiếp theo của Đức tới Ukraine sẽ bao gồm mền gối.

Sự khởi đầu của cuộc chiến tranh toàn diện vào ngày 24 tháng 2 đã khiến Scholz và giới tinh hoa chính trị Đức hoàn toàn bất ngờ. “Chúng ta đã thức dậy trong một thế giới khác”, Bộ trưởng ngoại giao của Scholz, Annalena Baerbock tuyên bố. Vào ngày 27 tháng 2, trong một phiên họp Chủ Nhật chưa từng có của Bundestag (Quốc hội Liên bang Đức), Scholz đã tuyên bố một sự thay đổi lớn trong chính sách đối ngoại của Đức: ngày hôm trước, chính phủ đã chấp thuận một lô hàng gồm 1.000 tên lửa chống tăng và 500 tên lửa đất đối không cho Ukraine. Các yêu cầu của Estonia và Hà Lan về việc chuyển một số vũ khí của Đức mà họ sở hữu cho Ukraine, trước đây đã bị từ chối, giờ đã được chấp thuận. Nhưng đáng chú ý nhất là quyết định phân bổ 100 tỷ euro cho quốc phòng của Đức và tăng chi tiêu quân sự của nước này lên hơn 2 phần trăm GDP, một yêu cầu của NATO mà Đức trước đây đã bỏ qua.

Scholz đã định nghĩa sự thay đổi trong chính sách của chính phủ ông ở hai cấp độ. Cấp độ đầu tiên là đạo đức và luân lý. Ông lập luận rằng Ukraine đã trở thành nạn nhân của sự xâm lược vô cớ, và Đức sẽ đứng về phía họ. Cấp độ thứ hai là địa chính trị. “Khi tấn công Ukraine, Putin không chỉ muốn xóa sổ một quốc gia khỏi bản đồ thế giới; ông ta đang phá hủy cấu trúc an ninh châu Âu mà chúng ta đã có từ Helsinki”, thủ tướng nói. Ông đang ám chỉ đến Đạo luật cuối cùng hoặc Hiệp định Helsinki năm 1975, công nhận biên giới quốc tế sau Thế chiến II, bao gồm cả biên giới của hai quốc gia Đức, Cộng hòa Liên bang Đức (Tây Đức) và Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức).

Ukraine đã tham gia hiệp định này cùng với các nước hậu Xô Viết khác vào năm 1992. Do đó, theo Scholz, việc vi phạm toàn vẹn lãnh thổ của Ukraine chính là hành vi tấn công vào toàn vẹn và an ninh của tất cả các quốc gia châu Âu, bao gồm cả Cộng hòa Liên bang Đức ngày nay, quốc gia đã thống nhất vào năm 1990.

Putin, Scholz lập luận, muốn “tạo ra một trật tự mới ở châu Âu, và ông không ngần ngại sử dụng năng lực quân sự để đạt được điều đó.” Thủ tướng đổ lỗi chiến tranh cho một cá nhân chứ không phải một quốc gia hay một dân tộc. “Chính Putin đã chọn lựa cuộc chiến này, chứ không phải nhân dân Nga, vì vậy chúng ta phải thấy rõ rằng đây là cuộc chiến của Putin”, Scholz nói với Bundestag. Trong khi những người Đức cùng thế hệ với ông sẽ không bao giờ nghi ngờ về trách nhiệm của quốc gia họ đối với “cuộc chiến của Hitler”, Scholz không định áp dụng cùng một tiêu chuẩn đối với người Nga – việc buộc tội người Nga là một dân tộc xâm lược là điều cấm kỵ ở Đức sau Thế chiến II – mặc dù dữ liệu thăm dò ý kiến ​​sẽ sớm cho thấy sự ủng hộ mạnh mẽ của người dân Nga đối với”hoạt động quân sự đặc biệt” của chính phủ họ ở Ukraine. Scholz cũng cảnh báo công chúng về nhu cầu tránh một cuộc chiến tranh thế giới khác. Chính phủ Đức đã tham gia liên minh thời chiến xuyên Đại Tây Dương nhưng làm như vậy muộn, một cách miễn cưỡng và với nhiều điều kiện.

Mặc dù tuyên bố thay đổi mô hình này trong chính sách đối ngoại, Scholz và chính phủ của ông đã không giành lại được thế chủ động trên trường quốc tế châu Âu, nơi mà chương trình nghị sự hiện đang được thiết lập bởi Hoa Kỳ, Anh và các nước Đông Âu, tất cả đều nhấn mạnh vào sự ủng hộ lớn hơn cho Ukraine. Một số thành viên trong chính phủ của Scholz cũng như những nhân vật chủ chốt trong Bundestag có cùng quan điểm, nhưng Scholz không muốn nghe lời khuyên của họ. Vào tháng 5 năm 2022, một nhà khoa học chính trị Đức đã tóm tắt chiến lược của ông là “phần lớn, khá do dự khi thực hiện những gì các đồng minh đã làm (như lệnh cấm vận và giao vũ khí).”

Vào giữa tháng 3, khi Volodymyr Zelensky được mời đến Bundestag để phát biểu qua đường truyền video từ Kyiv, ông đã không hề né tránh mà đã phát biểu phê phán chính phủ Đức trước đây. Zelensky cáo buộc những người tiền nhiệm của Scholz đã ngăn cản Ukraine gia nhập NATO và EU, tài trợ cho hành động xâm lược của Nga thông qua các thỏa thuận khí đốt với Moscow và trì hoãn các lệnh trừng phạt đối với kẻ xâm lược. Zelensky nói rằng chính phủ Đức đã xây dựng một Bức tường Berlin mới ở châu Âu, khiến đất nước ông ở phía bên kia của nó. Sau đó, ông kêu gọi nhà lãnh đạo mới: “NgàiThủ tướng Scholz! Hãy phá bỏ bức tường này. Hãy trao cho nước Đức sự lãnh đạo mà ông xứng đáng được hưởng. Và những gì con cháu ông sẽ tự hào. Hãy ủng hộ chúng tôi. Hãy ủng hộ hòa bình. Ủng hộ mọi người dân Ukraine. Hãy chấm dứt chiến tranh. Hãy giúp chúng tôi chấm dứt nó.” Bài phát biểu bắt đầu và kết thúc bằng tràng pháo tay của các nghị sĩ Đức, nhưng sự thay đổi trong giọng điệu của Scholz không tạo ra nhiều thay đổi trong chính sách: chính phủ Đức đã hứa viện trợ quân sự nhưng lại không thực hiện.

Zelensky tiếp tục gây sức ép lên Berlin. Vào đầu tháng 4, sau khi phát hiện xác chết của thường dân bị lính Nga sát hại ở Bucha, Zelensky đã công khai mời Angela Merkel và cựu Tổng thống Pháp Nicolas  Sarkozy đến xem chính sách nhượng bộ Nga  trong hơn 14 năm đã dẫn đến đâu.”Hãy xem bằng chính đôi mắt của các bạn những người dân Ukraine bị tra tấn và tàn sát.” Sau đó, ông nhắc nhở khán giả về kỷ niệm hội nghị thượng đỉnh NATO Bucharest năm 2008, nơi hai nhà lãnh đạo châu Âu, hiện đã rời nhiệm sở, đã ngăn cản Ukraine gia nhập liên minh, duy trì cái mà tổng thống Ukraine gọi là “vùng xám, nơi Moscow nghĩ rằng họ được phép làm bất cứ điều gì. Ngay cả những tội ác chiến tranh khủng khiếp nhất.”

Ngay sau chuyến thăm Kyiv của Boris Johnson, Zelensky đã từ chối lời đề nghị của Tổng thống Đức Frank-Walter Steinmeier được viếng thăm thủ đô Ukraine. Lý do là các quan chức và công luận  Ukraine đều coi Steinmeier là người ủng hộ Nga. Trước đó trong sự nghiệp của mình, Steinmeier đã từng là chánh văn phòng của Thủ tướng Gerhard Schröder, và ông này sau khi kết thúc sự nghiệp chính trị của mình đã trở thành người vận động hành lang chính của các dự án khí đốt tự nhiên của Nga tại Đức. Nhưng quan trọng hơn là vai trò mà Steinmeier đã đóng với tư cách là Ngoại trưởng trong chính phủ Angela Merkel, đề xuất “công thức Steinmeier” để thực hiện các thỏa thuận Minsk năm 2015, được đàm phán với sự giúp đỡ của Merkel, mà nhìn chung được cho là có lợi cho Nga ở Ukraine.

Việc Zelensky nêu tên và bêu xấu nước Đức dường như chẳng đi đến đâu khi Scholz chống lại áp lực từ nước ngoài và từ chính công chúng của mình. Vào cuối tháng 5 một nửa quốc gia tin rằng Đức không làm đủ để hỗ trợ Ukraine, và nhiều bộ trưởng trong chính phủ của Scholz đã thất vọng vì những hứa hẹn mà Đức đưa ra nhưng không thực hiện là cung cấp vũ khí hạng nặng cho Ukraine. Johann Wadephul của đảng Liên minh Dân chủ Cơ đốc giáo đối lập đã cáo buộc thủ tướng “cố gắng thay thế các chuyến giao hàng thực tế bằng các lời thông báo.” Ngoại trưởng Ukraine, Dmytro Kuleba, đã bày tỏ sự thất vọng của chính phủ mình với Scholz khi ông tuyên bố: “Có những quốc gia mà chúng tôi đang chờ đợi các chuyến giao hàng, và những quốc gia khác mà chúng tôi đã chán ngán vì phải chờ đợi. Đức thuộc nhóm thứ hai.”

Scholz không bao giờ giải thích lý do cho chiến thuật trì hoãn của mình. Rõ ràng là ông đang câu giờ, hy vọng rằng chiến tranh sẽ kết thúc mà không buộc Đức phải cung cấp vũ khí hạng nặng cho Ukraine như ông đã hứa.

Có ít nhất hai lý do cho hành động này của ông, cả hai đều liên quan đến Nga. Lý do đầu tiên là lịch sử và tâm lý: kể từ Thế chiến II, người Đức cảm thấy mặc cảm về tội ác chiến tranh mà mình gây ra cho người Nga, mặc dù cuộc chiến của Hitler ở phía đông chủ yếu nhắm vào người Ukraine và người Belarus ngay trên lãnh thổ họ, và họ muốn tránh lặp lại bất cứ điều gì có thể được hiểu là sự xâm lược đối với “Nga”, được định nghĩa quá chung chung. Lý do thứ hai là kinh tế: 55 phần trăm khí đốt tự nhiên tiêu thụ ở Đức được mua từ Nga.

Theo đó, Olaf Scholz trước hết tự coi mình là một người gìn giữ hòa bình, một nhà trung gian tiềm năng trong các cuộc đàm phán hòa bình trong tương lai thay vì là người ủng hộ kiên quyết cho Ukraine – vai trò mà Washington và London đảm nhiệm và được các nhà lãnh đạo của các quốc gia Baltic và Đông Âu ủng hộ.

Người Tạo Hòa Bình

Không có nhà lãnh đạo châu Âu nào khác làm việc bền bỉ và chăm chỉ xứng đáng giành được vinh quang của người gìn giữ hòa bình trong lộ trình mới nhất trong cuộc chiến tranh Nga-Ukraine như tổng thống Pháp, Emmanuel Macron. Quay trở lại tháng 12 năm 2019, ông đã từng chủ trì cuộc gặp đầu tiên và duy nhất giữa Putin và Zelensky, cuộc gặp kết thúc với một ghi nhận tích cực nhưng mang lại ít kết quả tích cực. Vào tháng 2 năm 2022, Macron là một trong những vị khách phương Tây cấp cao cuối cùng đến Moscow và Kyiv, cố gắng làm trung gian cho một thỏa thuận có thể ngăn chặn chiến tranh.

Macron chưa bao giờ từ bỏ ý tưởng, được Paris ủng hộ từ lâu, về việc đưa Nga vào châu Âu như một đối trọng với Hoa Kỳ và Đức. Ý tưởng này đã gần như thành hiện thực dưới thời François Mitterrand trong thời đại Gorbachev, chỉ để vuột mất cùng với sự sụp đổ của việc tạo ra một cấu trúc an ninh mới ở châu Âu bao gồm Nga và làm giảm vai trò của Hoa Kỳ trong việc đảm bảo an ninh châu Âu. “Mục tiêu của Macron là khởi xướng một cuộc đối thoại về vai trò của NATO ở châu Âu và Ukraine, và có khả năng là một hiệp ước kiểm soát vũ khí mới, một kiểu Hiệp định Helsinki 2.0”, Carole Grimaud Potter thuộc Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu tại Geneva lập luận vài ngày trước cuộc xâm lược của Putin. “Ông ấy biết rằng sẽ mất thời gian, và NATO và EU sẽ phải nhượng bộ một số yêu cầu của Nga, vì Nga muốn đảm bảo an ninh của mình và khôi phục lại sức mạnh đã mất khi Liên Xô tan rã.”

Vào cuối tháng 5, Macron đã cùng Scholz nỗ lực thuyết phục Putin chấm dứt chiến tranh. Trong một cuộc điện đàm ba bên, họ đã yêu cầu Putin ngừng bắn, rút quân Nga và mở các cuộc đàm phán trực tiếp với Zelensky. Sáng kiến ​​đó không mang lại kết quả gì vì Putin phàn nàn việc phương Tây cung cấp vũ khí cho Ukraine.

Nhưng Putin đã hứa với Macron và Scholz sẽ giải quyết tình trạng thiếu hụt lương thực nghiêm trọng mà ông đã tạo ra bằng cách chặn các cảng Biển Đen của Ukraine và chiếm đóng các cảng trên Biển Azov. Ukraine không còn có thể xuất khẩu ngũ cốc của mình nữa và nếu không có các cảng đó, Châu Phi sẽ phải chịu cảnh đói kém và hàng trăm nghìn nếu không muốn nói là hàng triệu người tị nạn sẽ tràn qua biên giới quốc tế. Putin đã công khai đổ lỗi cuộc khủng hoảng lương thực mới nổi lên cho phương Tây và đề xuất rằng người Ukraine hoặc vận chuyển ngũ cốc của họ qua các cảng do Nga chiếm đóng, do đó công nhận sự chiếm đóng trên thực tế của họ, hoặc phá hủy bom mìn tại  các cảng Odessa, khiến thành phố này dễ bị tấn công bằng đường biển của Nga.

Vài ngày sau cuộc điện đàm ba bên với Putin và Scholz, Macron đã trả lời phỏng vấn trong đó ông đề cập đến vai trò của Pháp như một cường quốc trung gian và gợi ý rằng phương Tây nên tránh làm nhục Nga, “để đến lúc cuộc chiến dừng lại, chúng ta có thể mở đường thoát ra thông qua các biện pháp ngoại giao.”

Nhận xét “làm nhục” này không được đón nhận nồng nhiệt ở Kyiv. Ngoại trưởng Dmytro Kuleba đã tweet vào ngày hôm sau: “Những lời  kêu gọi tránh làm nhục Nga chỉ có thể làm nhục Pháp và mọi quốc gia khác kêu gọi điều đó. Bởi vì chính Nga đang tự làm nhục mình. Tốt hơn hết là tất cả chúng ta nên tập trung tận lực làm thế nào để đưa Nga vào đúng vị trí của họ. Điều này sẽ mang lại hòa bình và cứu sống nhiều người.” Macron đã từng cảnh báo công khai trước đây về việc tránh làm nhục Nga, nhưng đây là lần đầu tiên người Ukraine phản ứng theo cách như vậy.

Zelensky, người được Macron hướng dẫn về chính trị quốc tế sau khi cựu danh hài trẻ tuổi và thiếu kinh nghiệm này trở thành tổng thống của một quốc gia đang có chiến tranh, rõ ràng là tôn trọng  cố vấn người Pháp của mình nhưng cũng đã chán ngấy các sáng kiến ​​hòa bình của Macron, mà theo quan điểm của Kyiv, chỉ có lợi cho Nga. Zelensky đã công khai bác bỏ ý tưởng đổi lãnh thổ Ukraine lấy hòa bình, mà Macron được cho là đã gợi ý với ông.

Các nhà ngoại giao Kyiv không thích lời nhận xét công khai của tổng thống Pháp rằng Ukraine sẽ mất hàng thập kỷ để gia nhập Liên minh châu Âu. Macron đề xuất rằng Ukraine nên tham gia “cộng đồng châu Âu song song” – một thỏa thuận an ninh châu Âu dành cho các thành viên không thuộc EU. Ý tưởng này đã bị Kyiv bác bỏ. Zelensky muốn Ukraine có tư cách ứng cử viên trong Liên minh châu Âu hiện tại, chứ không phải những lời hứa mơ hồ về một số điều chỉnh song song trong tương lai.

Scholz và Macron, Đức và Pháp không phải là thành viên duy nhất của Châu Âu Cũ thúc đẩy việc kết thúc nhanh chóng chiến tranh bằng cách đánh đổi các nhượng bộ của Ukraine. Họ đã tiếp tay một cách nhiệt thành bởi Mario Draghi của Ý. Trong khi hầu hết người Ý thông cảm với Ukraine, thì sự thông cảm theo truyền thống ủng hộ Nga của cánh tả Ý, sự say mê Putin trong một số thành phần cánh hữu, và sự phẫn nộ về quyền bá chủ được cho là của Mỹ ở châu Âu từ cả cánh tả và cánh hữu đã khiến giới truyền thông Ý và công chúng nói chung hoài nghi hơn khi nói đến việc hỗ trợ quân sự cho Ukraine và trừng phạt kinh tế đối với Nga. 56 phần trăm người Ý tin rằng lập trường của Mỹ về cuộc chiến là “tích cực”, và 62 phần trăm đồng ý rằng phương Tây nên tìm cách chấm dứt xung đột quân sự “bằng mọi giá”.

Vào tháng 5, khi cuộc thăm dò được tiến hành, Draghi đã đến thăm Joe Biden tại Washington để truyền đạt một thông điệp đơn giản: trong khi Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ người Ukraine cho đến khi khả năng xâm lược của Nga bị loại bỏ hoàn toàn hoặc bị suy yếu đáng kể, thì Châu Âu, tức là Châu Âu Cũ, muốn chiến tranh kết thúc càng sớm càng tốt. Với những điều kiện nào? Ngoại trưởng Luigi Di Maio đã trình bày một kế hoạch bốn điểm cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc và những người đồng cấp của ông  trong các nước G7. Kyiv cũng nhận được một bản sao, cũng như Moscow. Kế hoạch kêu gọi lệnh ngừng bắn và phi quân sự hóa tiền tuyến dưới sự giám sát của Liên Hiệp Quốc, mở các thỏa thuận về vị thế trung lập của Ukraine và các đàm phán giữa Moscow và Kyiv về tình trạng của Crimea và Donbas. Các cuộc đàm phán Nga-Ukraine sẽ dẫn đến một thỏa thuận đa phương về hòa bình và an ninh ở châu Âu, mục cuối cùng rõ ràng gợi nhớ đến ý tưởng của Macron. Việc rút quân đội Nga khỏi Ukraine sẽ dẫn đến việc dỡ bỏ các lệnh trừng phạt của phương Tây đối với Nga.

Washington hoan nghênh kế hoạch này như một nỗ lực để đạt được hòa bình, trong khi Kyiv vẫn im lặng, và Moscow bác bỏ nó vì “không nghiêm túc”. Kế hoạch đã bị Ngoại trưởng Nga, Sergei Lavrov, bác bỏ, vì cho rằng các tác giả của kế hoạch không biết lịch sử của cuộc khủng hoảng. Ông không nói rõ phần nào của lịch sử mà mình đang nghĩ đến. Những nỗ lực của các nhà lãnh đạo của Châu Âu Cũ nhằm làm trung gian hiện đã bị bác bỏ không chỉ bởi bài đăng mỉa mai trên Twitter của Ngoại trưởng Ukraine về lời kêu gọi của Macron không làm nhục nước Nga mà cũng bởi nhận xét của ngoại trưởng  Nga về kiến ​​thức lịch sử kém cỏi của người Ý.

Mặt Trận Chung

Cuộc thập tự chinh vì hòa bình của các nhà lãnh đạo châu Âu về cơ bản đã kết thúc vào đầu tháng 6. Những nỗ lực của họ hoặc bị từ chối hoàn toàn hoặc không thành công, dường như ngày càng có mùi xoa dịu kẻ gây hấn. Thế chủ động ​​nếu không muốn nói là sự lãnh đạo trong các vấn đề châu Âu dường như đang chuyển vào tay những người bên ngoài. Họ phải thay đổi hướng đi.

Vào đêm ngày 16 tháng 6 Macron, Scholz và Draghi đã thực hiện động thái mạo hiểm nhất kể từ khi chiến tranh bắt đầu. Rủi ro không chỉ về mặt chính trị mà còn về mặt thể chất. Họ bay đến Ba Lan, nơi họ lên tàu hỏa qua biên giới Ukraine đến Kyiv, bị truy đuổi bởi tiếng còi báo động không kích khi họ đến gần thủ đô Ukraine. Họ không còn đến để gợi ý cho Zelensky về việc nên làm hòa với Moscow như thế nào nữa mà là để bày tỏ sự ủng hộ cho bất kỳ lập trường nào mà Kyiv quyết định thực hiện và bắt kịp trong tòa án công luận với những nhà lãnh đạo đã đến thăm Kyiv trước họ – Boris Johnson, Andrzej Duda của Ba Lan và những người Mỹ. Trong khi Biden chưa đích thân đến thăm Kyiv, các ngoại trưởng và bộ trưởng quốc phòng của ông, và chính vợ ông, Jill Biden, đã đến thăm trung tâm khu vực cực tây của Ukraine, Uzhhorod, vào đầu tháng 5.

Nhiều người ở Kyiv quan tâm đến thông điệp mà bộ ba này mang đến cho Zelensky. Macron, phát biểu với các phóng viên tại nhà ga xe lửa Kyiv, đã cố gắng trấn an người Ukraine bằng cách mô tả chuyến thăm là “một thông điệp về sự thống nhất của châu Âu đối với người Ukraine và về sự ủng hộ đối với tình hình hiện tại và tương lai.” Ba nhà lãnh đạo đã gặp Zelensky tại Kyiv và sau đó đi tham quan vùng ngoại ô Irpin và thị trấn lân cận Bucha, nơi họ chứng kiến ​​cảnh tàn phá do quân đội Nga gây ra. Macron đã rút lại những phát biểu trước đó của mình về việc không làm nhục Nga. “Hôm nay, Nga đang tiến hành chiến tranh chống lại Ukraine. Làm sao tôi có thể giải thích cho bất kỳ người Ukraine nào về ý kiến rằng ‘Bạn không nên làm nhục Nga, người dân Nga, cũng như các nhà lãnh đạo của họ’?” Macron nói với các phóng viên. “Hôm nay, họ phải giành chiến thắng trong cuộc chiến này. Pháp sẵn sàng ủng hộ Ukraine để họ chiến thắng.”

Macron và những người đồng hành của ông đã sẵn sàng để Zelensky quyết định các điều khoản chiến thắng. Về phần mình, Zelensky bình luận rằng ông và Macron đã cùng lật sang một trang mới trong mối quan hệ của họ, gạt sang một bên những phát biểu “không nên làm nhục nước Nga”. “Zelensky phải xác định mình muốn chiến thắng quân sự nào”, một thành viên trong phái đoàn của Macron bình luận. “Chúng tôi ủng hộ một chiến thắng hoàn toàn với việc tái lập toàn vẹn lãnh thổ [của Ukraine] trên tất cả các vùng lãnh thổ đã bị người Nga chinh phục, kể cả Crimea.” Macron hứa sẽ tăng nguồn cung cấp vũ khí của Pháp cho Ukraine. Châu Âu Cũ hiện đang hoàn toàn ủng hộ Ukraine không chỉ về mặt lời nói mà còn về mặt ngoại giao và thể chế, sẵn sàng đón nhận nước này như một thành viên tiềm năng của Liên minh Châu Âu.

Một ngày sau khi Macron, Scholz và Draghi đến thăm Kyiv, Ủy ban châu Âu đã khuyến nghị rằng các nguyên thủ quốc gia EU cấp tư cách ứng cử viên thành viên cho Ukraine. Theo khuyến nghị của ủy ban, Nghị viện châu Âu đã thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ với 529 phiếu thuận, 45 phiếu chống và 14 phiếu trắng.

Các nguyên thủ quốc gia châu Âu đã chấp thuận quyết định này. Ukraine đã nộp đơn xin tư cách ứng cử viên ngay sau khi cuộc xâm lược bắt đầu và hiện đã được chấp nhận, cùng với nước cộng hòa láng giềng Moldova, nơi có khu vực Transnistria đã được quân đội Nga tuyên bố là mục tiêu – điểm dừng chân tiếp theo của họ sau Odessa. Tư cách ứng cử viên là lời mời thực tế để gia nhập Liên minh châu Âu: mặc dù việc gia nhập không được đảm bảo và có thể phải mất nhiều năm, nếu không muốn nói là nhiều thập kỷ, quyết định này đã giúp Ukraine tiếp cận một số chương trình của EU, gửi đi một tín hiệu rõ ràng tới Nga rằng cộng đồng châu Âu đã sẵn sàng sát cánh cùng Ukraine.

Sự thống nhất xuyên Đại Tây Dương chống lại sự xâm lược của Nga một lần nữa được thể hiện vào ngày 29 tháng 6, ba ngày sau quyết định của Hội đồng châu Âu về tư cách ứng cử viên cho Ukraine và Moldova. Tại cuộc họp thượng đỉnh NATO ở Madrid, Phần Lan và Thụy Điển, những nước đã nộp đơn xin gia nhập sau cuộc xâm lược Ukraine của Nga, đã chính thức được mời tham gia. Trước đây Thổ Nhĩ Kỳ phản đối chống lại lời mời trên cơ sở rằng cả hai nước Phần Lan và Thụy Điển đều chứa chấp những người tị nạn Thổ Nhĩ Kỳ bị Istanbul dán nhãn là khủng bố, nhưng ngay trước thềm  hội nghị thượng đỉnh, Thổ Nhĩ Kỳ đã thay đổi quyết định.

Quyết định này mang tính lịch sử theo nhiều cách hơn là một. Phần Lan, quốc gia có đường biên giới dài 1.340 km với Nga và đã đứng ngoài NATO trong Chiến tranh Lạnh, hiện đã gia nhập liên minh, trong khi Thụy Điển từ bỏ hơn 200 năm duy trì chính sách trung lập về chính trị.

Còn có một khoảnh khắc lịch sử khác nữa tại Hội nghị thượng đỉnh Madrid. Thông cáo do văn phòng báo chí của hội nghị thượng đỉnh ban hành đã chỉ định Nga là “mối đe dọa quan trọng và trực tiếp nhất đến an ninh của các đồng minh,” lần đầu tiên có một chỉ định như thế kể từ khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Các thành viên của NATO cam kết tiếp tục hỗ trợ cho nỗ lực chiến tranh của Ukraine. “Chúng tôi sẽ tiếp tục và tăng cường hơn nữa sự hỗ trợ về mặt chính trị và thực tế cho đối tác thân thiết của chúng tôi là Ukraine khi họ tiếp tục bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của mình trước sự xâm lược của Nga. Cùng với Ukraine, chúng tôi đã quyết định về một gói hỗ trợ tăng cường”, thông cáo viết. Những bên tham gia cũng đồng ý triển khai thêm lực lượng ở biên giới phía đông của liên minh, cam kết tăng quy mô của tám nhóm tác chiến của họ từ cấp tiểu đoàn lên cấp lữ đoàn khi và ở nơi cần thiết.

Putin không hài lòng. Ông đã cảnh báo Phần Lan rằng tư cách thành viên của nước này trong liên minh sẽ làm suy yếu mối quan hệ giữa Moscow và Helsinki nhưng giờ đây phải chấp nhận thực tế mới. Ông hạ thấp tầm quan trọng của tư cách thành viên NATO của Thụy Điển và Phần Lan với lý do rằng Nga không có tranh chấp lãnh thổ với họ, như với Ukraine. Tranh chấp mà ông nghĩ đến là tranh chấp liên quan đến Crimea. Để tránh những tranh chấp như vậy, Phần Lan, vốn nằm dưới sự cai trị của đế quốc Nga từ năm 1809 đến năm 1917 và có một phần lãnh thổ bị Stalin sáp nhập vào năm 1940, hiện đang gia nhập liên minh.

Phương Tây đã trở lại với sức mạnh toàn diện. Bất chấp những mối quan tâm và chương trình nghị sự khác nhau và đôi khi xung đột của Hoa Kỳ và Châu Âu, và mức độ sẵn sàng khác nhau để tham gia vào các lệnh trừng phạt hoặc cvũ khí Ukraine, Washington và các đồng minh châu Âu đã xoay xở để phát triển một nền tảng chung, đoàn kết hơn với nhau bởi sự xâm lược của Nga và mối đe dọa mà nó gây ra cho châu Âu và trật tự quốc tế. Đây không phải là phản ứng mà Putin đã hình dung khi ông quyết định tấn công Ukraine. Sự xâm lược của ông vào năm 2014 có liên quan đến nỗ lực ngăn cản Kyiv ký một thỏa thuận liên kết với Liên minh châu Âu.

Ukraine hiện đã trở thành ứng cử viên thành viên của EU. Cái cớ của Putin cho cuộc xâm lược vào năm 2022 là sự mở rộng về phía đông của NATO và Nga mong muốn giữ quân đội phương Tây tránh xa biên giới của mình. Bây giờ, Ukraine không chỉ trở thành “đối tác thân cận” của NATO mà biên giới của chính liên minh này, với tư cách thành viên mới của Phần Lan, sẽ mở rộng đến khoảng cách chưa đầy 200 km tới St. Petersburg, nơi sinh và quê quán của Putin và những người cộng sự thân cận nhất của ông ta.

Bình luận về bài viết này