
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
7 Hãy làm tốt công việc
KHI ĐẠI TÁ WILSON triệu tập Poulsson và nhân viên điều hành đài phát Haugland đến Luân Đôn vào ngày 12 tháng 10, các thành viên trong nhóm Gà Gô không khỏi lo sợ rằng sứ mệnh của họ sẽ bị hoãn lại một lần nữa, hoặc tệ hơn, bị hủy bỏ hoàn toàn. Phi công của họ đã hủy bỏ chuyến bay lần đầu tiên vì sương mù dày đặc. Vào ngày thứ hai, máy bay Halifax của họ đã bay qua Na Uy khi một trong những động cơ của nó bị cháy và họ buộc phải quay lại. Họ gần như cần phải nhảy dù xuống Scotland, nhưng phi công đã bỏ đi thiết bị nặng nề, khiến máy bay đủ nhẹ để hạ cánh khẩn cấp. Vào thời điểm họ sẵn sàng thử lại, khung cửa sổ hẹp mỗi tháng, nơi có đủ ánh trăng, đã trôi qua. Cuối cùng – như nhiều thành viên Đại đội Linge thường nói khi máy bay của họ chuẩn bị cất cánh cho một chiến dịch – bây giờ có thể.là “Không bao giờ.”
Tại Khu Chiltern, đại tá đi thẳng vào vấn đề. Thay vì khuấy động cuộc kháng chiến ở Rjukan, Gà Gô bây giờ sẽ lãnh hoạt động tiên phong cho quân đội Anh tấn công Vemork. Đầu tiên, họ sẽ trinh sát khu vực tiếp đất cho lực lượng nhảy dù hoặc tàu lượn Horsa. Thứ hai, họ hoạt động như một ủy ban tiếp tân, chớp đèn để hướng dẫn máy bay cũng như phát đèn hiệu vô tuyến. Thứ ba, vào đêm tấn công, họ sẽ hướng dẫn từ 20 đến 30 đặc công Hoàng gia đến mục tiêu. Về việc tạo điều kiện cho họ trốn thoát, hoặc mục đích cụ thể của việc làm nổ tung Vemork và nhà máy nước nặng của nó, Wilson không hé môi với họ. Họ biết tốt hơn không hỏi.
Nhấn mạnh tính chất tối mật của sứ mệnh, Wilson dặn dò Poulsson và Haugland chỉ kể về sự thay đổi nhiệm vụ cho Helberg và Kjelstrup biết cho đến khi cả đội đến Na Uy. Hơn nữa, họ sẽ nhảy dù mù xuống Vidda vì lý do an ninh, Einar Skinnarland sẽ không đi theo họ, họ cũng không có bất kỳ liên hệ nào với anh ấy hoặc gia đình anh ấy. Nếu lộ trình của họ không bao giờ giao nhau, người Đức sẽ không thể gắn kết cả hai cùng nhau. Đội Gà Gô sẽ lên đường rời đi vào ngày đầu tiên thuận lợi của tuần trăng tiếp theo, ngày 18 tháng 10 là tốt nhất, và hoạt động sẽ diễn ra vào tháng sau, để họ có thời gian chuẩn bị. Sau đó Wilson dẫn họ vào một căn phòng chứa đầy bản đồ và ảnh trinh sát. Ông ta muốn họ chọn một địa điểm an toàn trong vùng lân cận Vemork để đặc công đổ bộ. Một số gợi ý đã được đưa ra về một vùng núi trống trải, nhưng Poulsson lo lắng rằng binh lính Anh sẽ gặp khó khăn khi di chuyển qua tuyết và địa hình khắc nghiệt. Vào tháng 11, một cơn bão tuyết sớm sẽ đòi hỏi những người trượt tuyết phải được luyện tập.
Hãy quay lại với câu trả lời, Wilson nói với họ.
Hai người Rjukan không cần bản đồ vì họ đã từng đi bộ khắp nơi trên khu vực xung quanh bằng ván trượt. Cả hai Poulsson và Haugland đều đi đến cùng một kết luận: đầm lầy Skoland. Các đầm lầy là một vùng đất không có dân cư sinh sống ở điểm phía đông của Hồ Møs. Chúng nằm ở phía Tây Nam của con đập và cạnh con đường núi nối Rjukan với Rauland bị đóng cửa trong những tháng mùa đông. Các đặc công Hoàng gia Anh sẽ có một lộ trình rõ ràng để tới Vemork, chỉ cách đó tám dặm.
Nơi này đặc biệt quen thuộc với Haugland. Khi còn là một cậu bé, anh đã cùng gia đình đi bộ dọc theo con đèo hướng tới Rauland, câu cá hồi và hái dâu trên đường đi. Một lần nọ, khi họ đang cắm trại ở đó, người anh cả của anh, Ottar, bị bệnh ban đỏ. Cha của họ đeo ba lô ngang ngực và cõng cậu con trai mười bốn tuổi to lớn của mình lên lưng, đưa cậu bé băng qua núi để được chăm sóc y tế. Khi đó chàng trai Knut mới hiểu được ý nghĩa của sức mạnh.
Poulsson và Haugland trình bày sự lựa chọn của họ cho Wilson, và ông ấy đã trình lên Bộ phận Hoạt động Phối hợp. Trong vài ngày tiếp theo, cả hai đã được thông báo ngắn gọn về những gì họ sẽ liên lạc và thời điểm thực hiện toàn bộ hoạt động, kể cả mã và mật khẩu. Tất cả các hướng dẫn của họ đều được đưa ra bằng lời nói và buộc phải ghi nhớ. “Đây là Piccadilly,” Poulsson sẽ nói khi tiếp nhận lính biệt kích. “Tôi muốn Quảng trường Leicester,” họ phải trả lời. Khó có khả năng sẽ có bất kỳ binh sĩ Anh nào khác đến vùng đầm lầy bằng tàu lượn vào tháng 11, nhưng Poulsson và Haugland không đặt câu hỏi về sự cần thiết của mật khẩu.
Vào ngày họ khởi hành đi Scotland, Wilson đã đưa họ đến dự cuộc gặp mặt cuối cùng. Ông nói: “Sứ mệnh này cực kỳ quan trọng. Phải ngăn chặn người Đức chạm tay vào một lượng lớn nước nặng. Họ sử dụng nó cho các thí nghiệm, mà nếu thành công, có thể tạo ra một vụ nổ có thể quét sạch London khỏi bản đồ.” Đại tá chắc hẳn hơi phấn khích quá mức, Poulsson và Haugland nghĩ; không có chất nổ nào có thể làm được điều đó. Có lẽ ông ấy chỉ đơn giản muốn truyền cảm hứng cho họ trong nhiệm vụ đang diễn ra. Tuy nhiên, họ đảm bảo với ông rằng họ sẽ làm mọi thứ có thể để hoạt động thành công.
“Hãy làm tốt công việc đó nhé,” Wilson trả lời.
*
Tại Drumintoul Lodge của STS 26, trong một căn phòng bên cạnh có một lò sưởi nhỏ, Joachim Rønneberg đặt trụ sở chính cho Chiến dịch Fieldfare. Thiếu úy trẻ tuổi dán bản đồ Na Uy lên tường và liệt kê danh sách các thiết bị sinh tồn trong mùa đông mà mình cần, tất cả để chuẩn bị cho nhiệm vụ vừa được phê duyệt, thành lập một đơn vị kháng chiến ở Thung lũng Romsdal. Từ đó, anh và thành viên Đại đội Linge Birger Strømsheim sẽ phá hoại các tuyến đường sắt tiếp tế quan trọng của Đức.
Trong gần một năm rưỡi, kể từ lần đầu gặp Martin Linge tại Nhà Na Uy, Rønneberg, giống như hầu hết những người đồng hương của mình, đã chờ đợi một chiến dịch. Linge đã thuyết phục anh rằng lựa chọn đầu tiên của anh, Hải quân, có thể hoạt động mà không cần có anh và có “một công việc có giá trị” dành cho anh với Đại đội Độc lập Na Uy.
Nhiều tháng huấn luyện tiếp theo. Có những đêm, Rønneberg khó ngủ, vô cùng lo lắng vì thực chất anh đang ở trong một “trường dạy nghề bán thịt”. Đó là một cuộc sống rất khác với cuộc sống yên bình, tĩnh lặng mà anh đã lớn lên.
Rønneberg đến từ thị trấn cảng nổi tiếng Ålesund, trên bờ biển phía tây bắc của Na Uy. Trong nhiều thế hệ, gia đình anh đã sở hữu một tập hợp các doanh nghiệp tập trung vào ngành đánh cá, mọi thứ từ tàu, sà lan và nhà kho bến cảng cho đến nhà máy sản xuất dây thừng và kinh doanh xuất khẩu.
Lớn lên, Rønneberg cảm thấy thoải mái nhất khi ở ngoài trời. Anh yêu thích môn trượt tuyết trên dãy Alps và trượt đua bất cứ khi nào có thể. Anh thường mạo hiểm vào trong núi nhiều ngày liền. Anh đặc biệt thích kỹ năng định hướng. Khi còn là một thiếu niên, anh đã đủ tự tin để tự mình đi ra ngoài, tìm đường chỉ với một bản đồ và la bàn. Anh nói: “Nếu bạn ở một mình trong thế giới hoang dã, bạn sẽ không bao giờ cảm thấy cô đơn”. “Bạn không sợ hãi. Bạn biết rõ mình phải làm gì.”
Ở tuổi hai mươi, Rønneberg có ý định tham gia công việc kinh doanh của gia đình. Khi được gọi đi nghĩa vụ quốc gia, anh tình nguyện làm trợ lý khảo sát đất đai thay vì tham gia quân đội; do đó, khi chiến tranh nổ ra, anh không được điều động. Trong khi ở lại Ålesund với cảm giác tội lỗi vì bạn bè anh đã ra trận. Một số người đã chết, trong đó có người bạn thân nhất của anh, anh ấy đã đi ra khi một tên lính Đức vẫy cờ trắng đầu hàng như một mưu mẹo để lôi kéo anh đến gần rồi giết chết anh. Mặc dù Rønneberg không tham gia hoạt động ngầm nhưng anh căm ghét sự hiện diện của Đức Quốc xã ở Ålesund, binh lính Đức diễu hành và ca hát trên đường phố quê hương anh, hành động như thể họ là chủ nhân. Anh nóng lòng muốn làm gì đó. Vào tháng 3 năm 1941, anh sắp xếp lên tàu đến Anh.
Lo sợ bố mẹ có thể ngăn cản, anh viết cho họ một bức thư chỉ được gửi sau khi anh rời đi: “Giá như bố mẹ biết con đã phải khổ sở như thế nào khi cố làm ra vẻ bình thản trước mọi việc. Bố mẹ sẽ thắc mắc tại sao con không về, không ăn tối, sao giường con trống rỗng… Bố mẹ có thể tìm thấy niềm an ủi khi biết rằng giờ đây bố mẹ cũng đang chia sẻ sự hy sinh giống như bao gia đình trên đất nước thân yêu của chúng ta và rằng con sẽ không bao giờ cảm thấy tự do hơn ngày tụi con giã từ đất Na Uy và vượt biển, hướng tới vùng đất hy vọng cuối cùng của tự do. Hãy sống thật tốt nhé bố mẹ và các em thân yêu… Chẳng bao lâu nữa chúng ta sẽ gặp lại nhau. Các người thân yêu sẽ luôn ở bên con dù con đi bất cứ nơi nào trên thế giới.” Anh băng qua Biển Bắc đang dậy sóng trên một chiếc thuyền đánh cá dài 45 bộ, thường cầm lái khi những người khác trong đoàn bị say sóng.
Khi gia nhập Đại đội Na Uy, Rønneberg mới 21 tuổi. Anh không được huấn luyện quân sự và không có kinh nghiệm tham gia chiến tranh hay công tác kháng chiến. Tuy nhiên, anh rất xuất sắc trong các trường đào tạo của SOE, đặc biệt là với các bài tập về chất nổ và đột kích. Anh cũng làm bạn với sự tàn bạo mà mình đang được dạy, vì anh biết nó sẽ cho phép mình sống sót trong mọi tình huống.
Sau khi kết thúc khóa đào tạo, Rønneberg chắc chắn rằng anh sẽ được cử đi làm nhiệm vụ, nhưng Linge đã gọi anh đến London và nói với anh: “Chúng ta sẽ đến tiệm may.” Ở đó, anh mặc một bộ đồng phục mới cho vai trò mới của mình. Lúc đầu, điều này có nghĩa là anh chủ yếu tham gia vào các hoạt động dịch thuật và liên lạc (thông thạo tiếng Anh bằng cách đọc tiểu thuyết trinh thám), nhưng với mỗi đội mới xuất hiện, anh lại dấn sâu vào công tác hướng dẫn nhiều hơn. Từ Stodham Park anh được gửi đến Meoble, rồi cuối cùng đến Aviemore. Anh trở thành chuyên gia phá dỡ và nghĩ ra nhiều kế hoạch phá hoại nhằm vào các cây cầu, nhà ga và doanh trại quân đội mà các học trò của anh thực hiện. Lúc đầu, anh cảm thấy không phù hợp với vai diễn này. Anh nghĩ mình nên thực hiện những nhiệm vụ thực sự, làm công việc thực sự. Nhưng mỗi khi một 1ngườ1i lãnh đạo hoạt động yêu cầu Rønneberg vào nhóm của mình, SOE lại nói với người ấy rằng: “Không, chúng tôi cần anh ấy ở đây.” Cuối cùng, anh đã chấp nhận vai trò của mình, đưa các học viên thực hành các cuộc tấn công phá hoại trên khắp Scotland. Thay vì sử dụng chất nổ, họ đánh dấu các mục tiêu đã định bằng phấn trắng. Nếu những gì các học viên học được dưới sự hướng dẫn của anh giúp sứ mệnh của họ thành công thì anh đang tạo ra sự khác biệt. Trong khi đó, anh vẫn phát triển và đề xuất các hoạt động của riêng mình với cấp trên, nhưng chưa có hoạt động nào được thực hiện.
Vào mùa thu năm 1942, SOE đã phê chuẩn Chiến dịch Fieldfare. Sau khi quá trình chuẩn bị của Rønneberg đã hoàn tất và đúng tuần trăng, anh và Strømsheim dự kiến sẽ được đưa đến Na Uy để bắt đầu.
“Số một, đi!” người điều phối hét lên trong cơn gió lạnh thổi vào Halifax. Lúc đó là 23h36, ngày 18 tháng 10 năm 1942. Với sự phấn khích và sợ hãi dâng trào, Poulsson nhích ra cửa sập đang mở trên bụng máy bay. Anh nghiêng người về phía trước, cẩn thận giữ đầu mình tránh xa phía đối diện của cửa sập. Và rồi trong khoảnh khắc anh rơi, rơi rất nhanh. Sợi dây dài 16 bộ nối với gói dù của anh và một sợi cáp thép ở Halifax bị căng ra. Chiếc dù thoát ra khỏi gói như một con bướm thoát ra khỏi cái kén của nó. Anh tiếp tục rơi tự do cho đến khi không khí cuốn vào chiếc dù lụa và anh bị giật mạnh thình lình về phía trên bởi dây buộc chặt vào đôi vai. Âm thanh động cơ máy bay nhỏ dần, và anh đang rơi xuống từ một ngàn bộ.
Vidda trải rộng bên dưới anh dưới ánh trăng trong: những ngọn núi phủ tuyết, những ngọn đồi biệt lập, hồ, sông và khe núi hẹp. Đó là một nơi vừa đẹp vừa khủng khiếp, và Poulsson biết nó phải được tôn trọng. Ở độ cao ba nghìn bộ so với mực nước biển, nó gặp phải những điều kiện thời tiết khó lường và gió lớn có thể quật ngã một người. Vào mùa đông, một vận động viên trượt tuyết có thể đang phơi nắng trên một tảng đá trong chốc lát để rồi nhận ra ngay sau đó một cơn bão đang quét qua, mang theo những mảnh băng và tuyết chói mắt và nhiệt độ xuống dưới âm ba mươi độ C. Truyền thuyết Na Uy kể rằng nhiệt độ có thể trở nên đủ lạnh đủ, đủ nhanh để đóng băng ngọn lửa đang cháy. Theo thực tế đơn giản, nó có thể giết chết ai không chuẩn bị trong hai giờ.

Nhảy dù xuống Vidda

Khu vực Vidda
Quân Đức đã đi vòng quanh cao nguyên rộng 3.500 dặm vuông khi họ tấn công Na Uy, và thậm chí bây giờ bọn chiếm đóng chỉ dám mạo hiểm vào đó đủ xa để có thể thoát ra trước khi mặt trời lặn. Không có đường sá, không có nơi ở cố định trên vùng đất rộng lớn. Chỉ những người trượt tuyết và đi bộ đường dài lành nghề mới có thể tiếp cận các cabin săn bắn rải rác trong khu vực. Trong các thung lũng, người ta có thể bắt gặp những cây bạch dương, nhưng nhiều khu vực chỉ đơn giản là những sườn đồi đóng băng, vô hồn với những lớp đá vụn vỡ, cách một dặm không thể phân biệt được.
Khi quan sát khung cảnh chuẩn bị tiếp đất, Poulsson nhận thấy mình không thể xác định được vùng đầm lầy Løkkjes bằng phẳng, cách 20 dặm về phía Tây Vemork, nơi họ dự kiến sẽ rơi xuống. Thay vào đó, chỉ có những sườn đồi phủ đầy tuyết và những tảng đá lý tưởng để bẻ cổ người.
Anh tiếp đất khó khăn nhưng may mắn không bị thương và nhanh chóng tháo dỡ chiếc dù trước khi một cơn gió mạnh thổi bay anh ta trên địa hình gồ ghề. Anh gọi các thành viên khác của nhóm Gà Gô, những người đã nhảy theo anh ra khỏi máy bay. Kjelstrup và Haugland đang có phong độ tốt, nhưng Helberg bước đi thận trọng sau khi va vào mép một tảng đá. Khi khám, phía sau đùi của anh ấy bị sưng tấy nhưng không có vết gãy. Anh ta không phàn nàn.
Trong vài giờ tiếp theo, họ tìm kiếm trên sườn đồi để tìm tám thùng chứa thiết bị, quan trọng nhất là bếp lò, lều và túi ngủ. Nếu một cơn bão ập đến mà không có những nguồn cung cấp thiết yếu đó, họ sẽ gặp rắc rối. Mặc dù họ đã tìm thấy thiết bị này nhưng đã quá muộn để làm bất cứ điều gì khác ngoài việc trú gió và nghỉ qua đêm. Họ dựng trại, rúc vào nhau bên cạnh một tảng đá. Trời lạnh nhưng có thể chịu đựng được. Tất cả họ đều mặc đồ lót dài và hai đôi vớ len. Sau đó là quần gabardine, áo sơ mi cài cúc và áo len dày. Bên trên là áo parka và quần chống gió. Họ cũng có mũ len và hai đôi găng tay, cũng như mũ trùm đầu và kính bảo hộ, nhưng bây giờ không cần những thứ đó.
Poulsson thọc tay vào túi thuốc lá và chuẩn bị tẩu thuốc, một nghi thức bằng cách nào đó giúp xoa dịu thần kinh của những người khác. Anh châm tẩu thuốc, rít vài hơi rồi nói với các thành viên trong nhóm Gà Gô, những người vẫn chưa biết về sự thay đổi nhiệm vụ. “Có một mệnh lệnh mới của ngày hôm nay,” anh nói với Helberg và Kjelstrup. Họ không còn ở đó để xây dựng mạng lưới các tổ kháng chiến nữa; thay vào đó, họ là đội tiên phong cho một chiến dịch phá hoại. Khi nghe kế hoạch, Helberg cho rằng đó là một nhiệm vụ tự sát của quân đội Anh: Làm thế nào họ có thể thoát khỏi Na Uy? Tuy nhiên, cả bốn lính biệt kích Na Uy đều vui mừng khi được đảm nhận một công việc lớn hơn. Như Haugland nghĩ: Bạn không thể nhảy ra khỏi máy bay qua đất nước bị chiếm đóng của mình mà chỉ đóng góp có một chút..
Chia thành từng cặp ngủ trong hai lều, bốn người dùng dù làm tấm trải nền, quấn mình trong túi ngủ. Họ thức dậy với bầu trời trong xanh đến kinh ngạc, những ngọn đồi gồ ghề bao quanh họ tạo nên một bức phù điêu sắc nét. Bây giờ họ đã về nhà, cách xa Scotland sũng nước; ở đây không khí trong lành và khô ráo. Xem xét địa hình, Poulsson xác định họ đã đổ bộ lên rìa Thung lũng Songa, cách điểm thả quân dự kiến hơn 10 dặm về phía Tây.
Những người đàn ông đã dành hai ngày vất vả để thu thập những thùng tiếp tế còn lại nằm rải rác trong khu vực. Khi kiểm tra, họ phát hiện một số vấn đề nghiêm trọng. Đầu tiên, nhân viên người Anh cung cấp hàng tiếp tế đã quên đóng gói đủ dầu hỏa cho các bếp Primus nhỏ của họ. Những chiếc bếp này sẽ cho phép họ đi bộ thẳng qua những ngọn núi cằn cỗi đến đầm lầy Skoland, nơi họ sẽ gặp các đặc công Hoàng gia. Nhưng băng qua vùng nông thôn kiểu này là một rủi ro quá lớn nếu không có nguồn nhiệt, vì vậy họ sẽ phải đi qua thung lũng, nơi có những cabin để trú ẩn và những cây bạch dương để làm củi. Điều đó làm quãng đường dài thêm rất nhiều và ít nhất mất thêm vài ngày đường cho cuộc hành trình của họ.
Thứ hai, các người cung cấp của họ đã mắc một số lỗi nghiêm trọng với thiết bị vô tuyến mà Haugland đặt hàng. Họ đã không trang bị cọc tre để buộc ăng-ten. Họ cũng đã thay thế loại pin tiêu chuẩn của ô tô Ford, dùng để cấp nguồn cho thiết bị không dây và đèn hiệu dẫn đường, bằng loại pin nặng gấp đôi. Tệ hơn nữa, những cục pin này lại được dán nhãn MADE IN ENGLAND. Mối liên hệ với nước Anh sẽ khiến bất kỳ ai liên quan đến việc sạc pin có thể gặp nguy hiểm nghiêm trọng nếu bị bắt. Họ thử buộc các gậy trượt tuyết lại với nhau bằng dây dù để tạo thành ăng-ten, nhưng họ không thể gọi được London bằng vô tuyến. Bây giờ họ phải đối mặt với chuyến hành trình dài 45 dặm xuyên qua sông Vidda, không chắc liệu có thể liên lạc qua bộ đàm với người điều khiển hoặc đến địa điểm thả quân kịp thời để gặp đặc công Anh hay không.
8
Cay nồng như mù tạt
VÀO NGÀY 20 THÁNG 10, Einar Skinnarland đang làm việc trong bóng tối. Bên rìa hồ Langesjå rộng lớn, đóng băng, hình con dao, anh chờ đợi sự xuất hiện của Gà Gô suốt một đêm nữa. Cái lạnh phả vào mặt anh, và từ những cơn gió quét qua địa hình không có cây cối, rải rác đá, anh có thể biết một cơn bão đang đến. Anh đã nhận được tin về vụ thả dù dự tính từ một chương trình phát sóng buổi tối của BBC với nội dung: “Đây là tin tức mới nhất từ London,” thay vì như thường lệ, “Đây là tin tức từ London.” Cũng như hai buổi sáng trước đó, anh trở về nhà tay không, khuôn mặt trầy xước vì gió và nhiệt độ khắc nghiệt.
Trong sáu tháng Skinnarland sống một cuộc sống hai mặt, nỗi sợ bị phát hiện luôn thường trực. Ban ngày anh làm việc cho Norsk Hydro. Đến tối, anh tiếp tục vận hành mạng lưới tình báo của mình. Anh có một số người cung cấp thông tin ở Vemork, và anh biết được rằng một người trong số đó đã được đưa giải đến Cảnh sát trưởng Rjukan. Chẳng có gì xảy ra ngoại trừ một lời nói không ý tứ, một sai lầm duy nhất của bất kỳ ai trong số nhiều người, kể cả chính Skinnarland, và anh sẽ tiêu đời. Bất chấp những rủi ro này, anh thường xuyên bực mình vì nhận được ít thông tin hơn mức cần thiết từ những người quản lý của mình ở London, dù là do sự cố liên lạc hay vì bí mật đến phút cuối.
Đây là công việc mà anh đã tình nguyện đảm nhận, nhưng anh có thể tiếp tục mời gọi thảm họa cho những người đàn ông không bao giờ xuất hiện trong bao lâu? Anh sẽ tới Oslo trong vài ngày tới, giao thông tin tình báo mới nhất và tìm hiểu xem mình sẽ phải làm gì tiếp theo. Cho đến lúc đó, anh sẽ tiếp tục qua đêm ở Hồ Langesjå và chờ đợi.
*
Jomar Brun nhấc máy đang đổ chuông. Đầu dây bên kia là một sinh viên Đại học Oslo, người tự giới thiệu mình là Berg. Anh ấy đang gọi từ Rjukan. Cáo muốn gặp trực tiếp Thầy càng sớm càng tốt. Tronstad đang ở London. Berg hỏi liệu mình có thể đến Vemork để thảo luận trực tiếp vấn đề này với Brun, người vẫn sống trên cùng một vách đá cheo leo dựng đứng như chính nhà máy.
“Tôi sẽ gặp anh sau một giờ nữa,” Brun trả lời.
Sau khi cúp điện thoại, Brun gọi điện đến trạm gác mới được gia cố trên cầu treo và ra lệnh cho lính Đức đang canh gác cho người khách đi qua. Ngay sau đó, anh sinh viên, thành viên “bộ phận xuất khẩu” của Milorg, đã đi bộ đến. Anh bảo Brun hãy chuẩn bị rời đi càng sớm càng tốt. Chính Winston Churchill đã yêu cầu đưa Brun đến London ngày lập tức.
Brun khẩn khoản xin cho vợ anh, Tomy, đi cùng. Hơn nữa, ông cần một thời gian để thu thập càng nhiều thông tin tình báo càng tốt trước khi khởi hành. Berg đồng ý, ở lại Vemork để giúp sắp xếp chuyến đi của gia đình Bruns đến Oslo.
Hai ngày sau, ngày 24 tháng 10, Jomar và Tomy Brun qua cầu treo và đi xe buýt đến Rjukan. Brun đã nói với cấp trên của mình rằng ông có cuộc hẹn với bác sĩ ở thủ đô. Ông mang theo một túi nặng đựng các bản vẽ, ảnh và tài liệu cũng như hai kí nước nặng. Cùng với Berg, họ đi phà xuôi Hồ Tinnsjø, sau đó bắt tàu đến thủ đô. Berg đã dẫn họ đến một ngôi nhà an toàn trong thành phố và rời đi. Người quản lý mới của họ, Gran, một nhà xuất khẩu khác của Milorg, hiện đang nắm quyền. Brun đã chuyển thông tin tình báo của mình, và Gran nói với ông nó sẽ được chụp vi ảnh và chuyển đi riêng biệt.
Cùng với các bản thiết kế và bản vẽ bổ sung, Brun còn có nhiều điều để tiết lộ. Vemork không còn được củng cố chỉ bằng khả năng phòng thủ của điều kiện tự nhiên nữa. Đặc công đã giăng dây thép gai lên hàng rào xung quanh nhà máy và các nhà trại. Họ đã bắt đầu đặt mìn, bẫy mìn và dây bẫy báo động. Quân Áo với số lượng gần một trăm người được trang bị vũ khí tự động hiện đã được bố trí ở Rjukan, Vemork và bên cạnh đập Hồ Møs. Cây cầu treo dẫn tới Vemork được canh gác suốt ngày đêm. Dây điện được dẫn lên sân thượng của nhà máy để cung cấp năng lượng cho đèn pha, dàn súng phòng không dự kiến sẽ sớm xây dựng. Người ta đồn rằng Gestapo đã chuyển đến Rjukan, đặt trụ sở tại khách sạn tốt nhất.
Gran đưa cho gia đình Bruns hộ chiếu và thẻ đi lại mới, đồng thời yêu cầu họ giao cho anh chiếc nhẫn cưới có chạm khắc, đề phòng trường hợp họ bị bắt trên đường đi. Đêm trước khi họ lên đường đi Thụy Điển, có tiếng gõ cửa khẩn cấp ngôi nhà an toàn. Gran đã bị Gestapo theo dõi và chỉ bị cắt được đuôi trong gang tấc. Ngôi nhà an toàn sẽ không còn an toàn nữa. Anh dẫn gia đình Brun vội vã chạy qua những con phố tối tăm đến một căn hộ sang trọng phía sau Cung điện Hoàng gia. Ngày hôm sau, họ bắt chuyến tàu đi về phía bắc từ thành phố với người dẫn đường mới, nghỉ qua đêm tại một trang trại ở biên giới, rồi đi bộ qua một cây cầu không có người bảo vệ vào đất Thụy Điển.
Vào khoảng thời gian đó, Einar Skinnarland đã đến Oslo. Với thông tin tình báo của chính mình về hệ thống phòng thủ mới của Vemork, anh đã chứng thực các báo cáo từ Brun. Khi ở thủ đô, Skinnarland biết được rằng mình có thể dừng việc chờ đợi hàng đêm ở Hồ Langesjå. Các chàng trai sẽ không đến. Đó là tất cả những gì anh được kể.
*
Vào lúc 9 giờ sáng đúng ngày sau khi đội Gà Gô rời nước Anh, Trung tá Mark Henniker bước vào một túp lều mái tôn lạnh lẽo ở căn cứ quân sự Bulford, cách 85 dặm về phía Tây London trên đồng bằng Salisbury. Người đàn ông ba mươi sáu tuổi có bộ ria mép được cắt tỉa gọn gàng và khuôn mặt cứng rắn hơn nhờ kinh nghiệm chiến đấu ở Pháp. Bên trong túp lều là những người đến từ hai đại đội dã chiến của Đặc công Hoàng gia. Trước khi nhập ngũ, những chàng trai trẻ này hầu hết là những người buôn bán lành nghề: thợ điện, thợ cơ khí, thợ mộc, thợ sửa giày, thợ ống nước, v.v.
Henniker nói với các đặc công rằng anh biết họ “cay nồng như mù tạt” trong hành động, nhưng ông phải nói rõ ràng. Có một nhiệm vụ lớn lao, rất nguy hiểm, rất bí mật phía trước. Nếu họ thất bại trong mục tiêu của mình, người Đức có thể sẽ giành chiến thắng trong cuộc chiến trong vòng sáu tháng. Ông ấy cần tình nguyện viên nhưng nói rằng bất kỳ ai muốn từ chối, hoặc vì họ mới kết hôn hay sắp có con hoặc đơn giản là không đủ khả năng, không cần phải xấu hổ, không ai thắc mắc. Henniker đã miễn cưỡng đảm nhận việc huấn luyện và lập kế hoạch cho nhiệm vụ Vemork từ Hoạt động Phối Hợp. Ông lo ngại rằng RAF không vượt qua được thách thức trong việc điều hướng đến địa điểm thả quân; và, với tư cách là một quân nhân chuyên nghiệp, ông không thích ý tưởng về lực lượng đặc công của mình khi đánh mục tiêu thì mặc quân phục, sau đó chuyển sang mặc quần áo dân sự để trốn thoát. Họ nên chiến đấu để thoát ra vì họ là những người lính . Mệnh lệnh, vị tướng bực dọc thông báo với ông, mệnh lệnh.
Mỗi một đặc công đều bước tới tình nguyện. Trong số họ có Wallis Jackson, một thanh niên 21 tuổi vạm vỡ, có kỹ năng sử dụng chất nổ và rất vui khi đưa ra một số kỷ luật đối với những tân binh. Anh cũng nói được tiếng Pháp và viết những lá thư nhẹ nhàng cho mẹ và ba chị gái ở Leeds. Bên cạnh Jackson là Bill Bray, một cựu tài xế xe tải và là một người đàn ông có dáng vẻ căng thẳng, đang mong đợi đứa con đầu lòng vào tháng 1 năm sau.
Henniker hướng dẫn họ nói với bất kỳ ai có hỏi rằng họ đang chuẩn bị cho một cuộc thi sức bền với lính dù Mỹ. Trong tuần đầu tiên ở Bulford, Jackson, Bray và vài chục Đặc công Hoàng gia khác đã đi hành quân, tập bắn, ngủ trên chiếu rơm và phải chịu đựng những bài giảng về cách giữ cho đôi chân của họ được khỏe mạnh (hai đôi tất khô). Sau đó, họ được chuyển đến miền bắc xứ Wales, ở đó, họ bị đè nặng bởi những chiếc ba lô trên lưng, được cử đi trên những chuyến hành trình dài xuyên qua dãy núi Snowdonia, thức dậy lúc bình minh và hoàn thành lúc hoàng hôn. Sau đó một lần nữa. Họ ngủ rúc vào nhau, một đống đàn ông chia nhau số chăn không đủ dùng. Lên đến đỉnh một ngọn núi, Bray gục xuống vì kiệt sức. Nhóm của anh đã giúp anh đứng dậy và chia nhau mang bớt đồ nghề cho anh. Những người bị ngã và không đứng dậy được sẽ bị loại khỏi nhiệm vụ. Bất kỳ câu hỏi nào về lý do tại sao điều kiện đó lại cần thiết, nhiệm vụ đòi hỏi điều gì và nó sẽ diễn ra ở đâu chỉ được trả lời bằng câu: “Bạn không được phép biết. Chưa.”
Thậm chí rất ít người từng nghe đến mật danh của sứ mạng Chiến dịch Freshman: (Sinh viên năm nhất). Henniker bực dọc với cái tên này vì nó đánh vào cốt lõi những nghi ngờ của anh về kế hoạch. Các chiến dịch phối hợp đã quyết định đưa đặc công của mình đến mục tiêu bằng tàu lượn do máy bay kéo thay vì thả họ bằng dù. Mặc dù người Đức đã sử dụng một đội tàu lượn im lặng này trong cuộc xâm lược Bỉ, đáng chú ý nhất là việc đổ bộ chúng vào bên trong Pháo đài Eben-Emael, nơi từng được coi là bất khả xâm phạm, đây là lần đầu tiên người Anh cố gắng sử dụng chúng trong một hoạt động. Henniker muốn thấy người của mình hoàn thành nhiệm vụ của họ và sống sót thoát ra ngoài. Ông chẳng quan tâm đến việc khai phá nền tảng mới.
Đội trưởng Tom Cooper, đối tác của Henniker trong RAF, đã chọn mẫu tàu lượn mới nhất cho sứ mệnh: Horsa Mark I. Với chiều dài 65 bộ từ đầu đến đuôi và 85 bộ từ cánh này sang cánh khác, chiếc Horsa đã được chế tạo. bằng khung gỗ chắc chắn với lớp vỏ ngoài bằng gỗ dán hình vòm. Một số người nói rằng nó giống như một chiếc quan tài. Nó có thể mang trọng tải bốn tấn trong phạm vi thân máy bay hẹp – ví dụ như xe jeep hoặc pháo. Có những chiếc ghế gỗ có thể gập lại dành cho 28 binh sĩ. Buồng lái dành cho hai phi công có một cột lái và thanh bánh lái đơn giản, cùng với một la bàn và các đồng hồ đo tốc độ và áp suất không khí, tốc độ lên/hạ xuống và góc cáp kéo (cái mà các phi công gọi là góc treo lủng lẳng).
Chính khoảng thời gian treo lủng lẳng này khiến Cooper lo lắng. Bộ chỉ huy Cánh 38 của ông thường lái những chiếc Whitley hai động cơ, và các phi công lái tàu lượn đã được huấn luyện cách kéo phía sau chiếc máy bay này. Nhưng tới Na Uy là một chuyến bay bốn trăm dặm qua Biển Bắc, và chỉ có chiếc Halifax bốn động cơ mới có thể chở một chiếc tàu lượn đi quãng đường đó và quay trở lại, nếu cần. Các phi hành đoàn của ông sẽ cần được đào tạo để lái những chiếc Halifax, có và không có tàu lượn, và ông cần mượn những máy bay ném bom hạng nặng này từ các lệnh khác. Đương nhiên, những chiếc máy bay mà ông được cung cấp không phải là niềm tự hào của RAF. Ngay cả khi mọi thứ diễn ra suôn sẻ trên chuyến bay, Cooper vẫn lo lắng về những nguy hiểm mà phi hành đoàn của anh phải đối mặt ở Na Uy. Các phi công sẽ phải hạ cánh chiếc tàu lượn dễ vỡ vào ban đêm, ở vùng lãnh thổ không xác định, dễ gặp thời tiết giông bão và địa hình không chắc chắn.
Cooper bày tỏ mối quan ngại của mình với Bộ phận Hoạt động Phối hợp, cũng như Đại tá Wilson và Leif Tronstad, những người chịu trách nhiệm tổ chức đội tiếp sức trên mặt đất. Các nhà hoạch định quân sự đã cân nhắc rủi ro này, cùng với những rủi ro khác, để chống lại việc không tiêu diệt Vemork, và quyết định sử dụng tàu lượn.
Các chiến dịch phối hợp đã thống nhất kế hoạch chiến thuật của mình qua một loạt cuộc họp vào tháng 9 và tháng 10. Một cuộc tấn công ném bom vào ban đêm bởi RAF cho ra tỷ lệ bắn trúng mục tiêu không tốt và có thể sẽ giết chết nhiều thường dân vô tội. Một cuộc tấn công của lực lượng phá hoại của Đại đội Linge đã bị từ chối vì việc phá hủy thành công sẽ cần hàng trăm cân chất nổ, quá nhiều để một lực lượng nhỏ có thể mang theo. Hơn nữa, người Na Uy được coi là không được huấn luyện đầy đủ để làm nổ tung nhà máy điện và nhà máy nước nặng. Vì vậy, đặc công Anh đã được chọn.
Mười lăm người là đủ cho cuộc đột kích, nhưng vì một số có thể bị giết trước khi tiếp cận mục tiêu, nên cơ quan Hoạt động Phối hợp quyết định rằng hai lực lượng gồm 15 người sẽ đảm bảo nhiệm vụ được hoàn thành. Rốt cuộc, như những người lập kế hoạch đã báo cáo trong một cuộc họp, “Trong mọi khả năng chỉ có thể có một nỗ lực nhằm đạt được mục tiêu của Freshmen và điều đó phải thành công.”
SOE đề nghị đưa đặc công đến bằng thuyền bay Catalina, tạo cơ hội cho họ đánh trúng mục tiêu rồi tẩu thoát bằng máy bay. Nhưng đường đi dốc đến các hồ, cộng với thực tế là chúng có thể bị đóng băng, đã loại trừ khả năng này. Đến bằng dù cũng không được kể đến: Thả dù đặc công gần nhà máy, máy bay sẽ phải bay quá thấp, quá gần Rjukan, có nguy cơ bị phát hiện. Tệ hơn nữa, quá nhiều đặc công có thể bị thương khi đổ bộ xuống địa hình hiểm trở và họ có thể bị phân tán quá xa để có thể tìm thấy nhau kịp thời. Tàu lượn, được thả ở độ cao mười nghìn bộ (khoảng 3000m), sẽ hạ cánh tất cả mọi người cùng với tất cả các thiết bị cần thiết cho hoạt động. Để giảm nguy cơ cả nhóm bị phát hiện, những người lập kế hoạch cho rằng bắt buộc phải tiến hành một hoạt động vào đêm thả xuống.
Kế hoạch đã thành hình. Nhóm Gà Gô sẽ sử dụng đèn để báo hiệu cho cả hai tàu lượn, mỗi chiếc mang theo 15 đặc công, hạ cánh xuống đầm lầy Skoland. Họ cũng sẽ sử dụng hệ thống Eureka/Rebecca, một công nghệ mới, chưa được thử nghiệm, sử dụng tín hiệu vô tuyến để cung cấp tín hiệu dẫn đường cho máy bay. Họ sẽ hướng dẫn các đặc công dọc theo con đường phía bắc Thung lũng Vestjord đến nhà máy, nếu có thể bằng xe đạp. Tại Vemork, quân Anh sẽ băng qua cầu treo, vô hiệu hóa số lượng nhỏ lính canh và đặt gần 300 cân chất nổ để làm nổ tung các máy phát điện của nhà máy điện và nhà máy hydro. Khi rời khỏi nhà máy, họ phải chia thành nhóm từ hai đến ba người và thay quần áo dân sự. Sau đó, họ phải đi bộ dọc theo tuyến đường dài hai trăm dặm, thường xuyên qua vùng lãnh thổ đông dân cư để đến Thụy Điển. Họ sẽ được trang bị bản đồ, khẩu phần ăn cho 10 ngày và một vài câu cửa miệng của người Na Uy nếu họ gặp đội tuần tra. (“Tôi vừa ra ngoài mua đồ cho mẹ tôi.”)
Thông tin tình báo mới đến từ Skinnarland và Brun, tiết lộ một làn sóng binh lính và các công sự mới tại Vemork, đã thúc đẩy các nỗ lực điều chỉnh kế hoạch của Hoạt động Phối hợp để phản ánh tình hình trên thực địa. Các đề xuất đã được đưa ra để tăng lực lượng lên 250 đến 300 người hoặc tiến hành một cuộc tấn công ném bom quy mô lớn vào ban ngày, phù hợp nhất với Bộ chỉ huy máy bay ném bom Hoa Kỳ. Nhưng những thay đổi như vậy sẽ trì hoãn hoạt động hàng tháng. Và một cuộc ném bom vào ban ngày sẽ giết chết nhiều thường dân hơn một cuộc tấn công vào ban đêm.
Mặc dù chiến dịch lúc này rõ ràng là nguy hiểm, nhưng Mountbatten lại càng thúc đẩy Churchill tiến về phía trước với Chiến dịch Freshman như kế hoạch. Mountbatten khuyên: “Điều quan trọng là nó phải diễn ra vào thời điểm này vì những khó khăn lớn hơn sẽ gặp phải trong các kỳ trăng tiếp theo”. Trước mối đe dọa từ một quả bom của Đức, Ngài John Anderson, thành viên Nội các Chiến tranh và là người có thẩm quyền tối cao về Hợp kim Ống, đã xác nhận một lần nữa với những người lập kế hoạch chiến dịch rằng nhiệm vụ là “ưu tiên cao nhất”.
Vào trưa ngày 2 tháng 11, Henniker chở những đặc công mệt mỏi của mình bằng tàu hỏa đến một nhà ga không có biển hiệu ở phía bắc London. Đang chờ đợi họ là một dòng ô tô Humber Snipe. Với rèm che cửa sổ, những chiếc ô tô đưa họ đến STS 17, trường phá hoại công nghiệp của SOE ở Brickendonbury Hall, một trang viên kiểu Jacobean được sử dụng gần đây nhất làm trường dự bị tư nhân.
Nếu người Anh có một lợi thế để chống lđểại những điều chưa biết về thời tiết và địa điểm đổ bộ, thì đó chính là thông tin tình báo của họ về mục tiêu. Ở đó khi lưu trú tại Brickendonbury Hall, người của Henniker được gặp Leif Tronstad. Nhờ thông tin tình báo từ Skinnarland và Brun, ông ta có thể cung cấp cho các đặc công bản thiết kế của các tòa nhà cũng như hình ảnh và bản vẽ của thiết bị được nhắm mục tiêu. Ông ấy cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc về vị trí của nhân viên và nhân viên an ninh tại bất kỳ thời điểm nào, bên trong và bên ngoài Vemork. Các đặc công gần như biết tất cả mọi thứ về nhà máy, từ loại ổ khóa trên cửa, vị trí chìa khóa và số bậc thang để đến nhà máy nồng độ nước nặng cao ở tầng hầm. Thiếu tá George Rheam, bậc thầy về phá hoại công nghiệp người Anh, thậm chí đã chế tạo một mô hình bằng gỗ của các tế bào cô đặc nước nặng cho các đặc công luyện tập.
Chỉ có một vấn đề. Đã hơn hai tuần kể từ khi nhóm Gà Gô rời Anh và Tronstad không nhận được tin tức gì từ họ. Nếu không có bốn thanh niên Na Uy, không có liên lạc điện đài thường xuyên, Chiến dịch Freshman sẽ không thể thực hiện được.
*
Knut Haugland lạnh, đói, kiệt sức và ướt át. Các thành viên trong nhóm của anh, đang trượt tuyết theo hàng phía sau anh qua Thung lũng Songa, cũng phải chịu đựng điều tương tự. Gánh nặng bảy mươi cân thiết bị, Haugland thường xuyên chìm sâu trong tuyết dày đặc. Sáp nến anh phết trên ván trượt tỏ ra vô dụng; với thời tiết ôn hòa, tuyết mới đóng cục như kẹo cao su dưới đáy, khiến chuyến đi trở nên khó nhọc như ốc sên. Số lượng sáp trượt tuyết thực tế có hạn mà họ được trang bị phải được dự trữ cho đêm diễn ra chiến dịch phá hoại.
Haugland di chuyển quanh những cây bạch dương và địa hình gồ ghề, nhiều đá cuội, bám sát bờ sông và hồ nhỏ. Vào giữa mùa đông, anh có thể dễ dàng trượt thẳng qua chúng, nhưng vào sáng ngày 24/10, băng vẫn chưa đóng cứng hoàn toàn. Ở một số đoạn mà anh nghĩ họ có thể băng qua, nước mặt trên băng khiến ủng và tất của họ ướt sũng. Sau khi đi được vài dặm, Haugland và những người khác dừng lại, trút bỏ ba lô và nghỉ một lát để ăn. Poulsson đã chia khẩu phần cho mỗi người một phần tư miếng bánh pemmican, bốn chiếc bánh quy giòn, một ít bơ, một miếng pho mát, một miếng sô cô la, một nắm yến mạch và bột mì cho cả ngày. Pemmican, một hỗn hợp ép gồm bột khô, mỡ tan chảy và trái cây sấy khô, được trân trọng hơn hết. Nhìn chung, họ có thể đốt cháy gấp đôi lượng calo họ ăn mỗi ngày. Sau khi nghỉ ngơi xong, bốn người quay trở lại điểm xuất phát buổi sáng, lần này với những chiếc ba lô trống rỗng, và lấy nửa còn lại của thiết bị và thức ăn, mỗi chiếc còn lại 70 cân. Họ đã kéo nó đi khắp vùng nông thôn, lần theo dấu vết của mình mà đôi khi có cảm giác giống như dã tràng xe cát. Chỉ cần trượt ván chệch hướng một chút là họ sẽ bị chìm tới thắt lưng.
Dự định rời khỏi địa điểm nhảy dù của họ đã bị trì hoãn một ngày do cơn bão khủng khiếp. Suốt đêm ngày 21 tháng 10, bốn người thu mình lại bên trong lều, được bao quanh bởi tám thùng hàng, khi một trận bão tuyết hoành hành. Họ thức dậy với lớp tuyết ẩm cao bốn bộ và quãng đường bốn mươi lăm dặm đi bộ phía trước. Trong điều kiện lý tưởng, họ có thể trượt khoảng cách này trong một vài ngày. Nhưng ngay cả khi để lại những vật dụng không cần thiết trong một hầm kho đào trong tuyết, họ vẫn còn 560 cân để mang theo, bao gồm một máy phát sóng vô tuyến, hai pin, đèn hiệu Eureka, máy phát điện cầm tay, thiết bị dã chiến, vũ khí, và thực phẩm. Chia bốn, mỗi người mang 140 cân, không thể chuyên chở được trừ khi họ chia thành hai hành trình. Như thế, cuộc hành trình của họ sẽ là 135 dặm, và điều kiện tuyết còn lâu mới lý tưởng.
Vào cuối ngày thứ ba của chuyến hành trình, chỉ cách địa điểm nhảy dù của họ có tám dặm, họ tình cờ gặp một trang trại bỏ hoang bên cạnh Hồ Songa, nơi họ tìm thấy một ít bột mì và thịt đông lạnh. Họ đốt lửa, đun chảy tuyết trong nồi rồi đun mềm thịt trong nước sôi. Lần đầu tiên sau gần một tuần, họ mới được ăn no nê. Bên đống lửa kêu lách tách, những chiếc tất, ủng và quần áo ướt của họ bốc hơi khi chúng khô đi. Tuyệt vời hơn nữa, họ còn tìm thấy một điều ngạc nhiên đáng hoan nghênh trong cabin: một chiếc xe trượt cũ bằng gỗ và vải mà cha của Poulsson đã tặng anh khi còn nhỏ. Trong cuộc xâm lược, lực lượng Na Uy đã mượn nó và bằng cách nào đó nó đã đến được trang trại.
Trong sáu ngày tiếp theo, cả nhóm tiến về phía đông một cách chậm rãi và ổn định, hàng cung cấp của họ được chia cho ba lô và xe trượt. Họ không còn cần phải thực hiện chuyến đi kép. Nhưng hành trình vẫn còn vất vả. Có lúc, Poulsson rơi xuống mặt hồ gần đóng băng, và Kjelstrup, cơ thể nằm bẹp trên lớp băng mỏng, phải dùng một cây sào để kéo anh ta ra. Poulsson cũng bị nổi mụn mủ ở bàn tay trái và phải đeo cánh tay khi không trượt tuyết. Vào ban đêm, họ tiếp tục đột nhập vào các cabin để trú ẩn, nhưng không cabin nào chứa các chiến lợi phẩm như trang trại. Họ ăn ngấu nghiến món pemmican, đôi khi ăn lạnh, đôi khi trộn với yến mạch hoặc bột mì trong món cháo nóng, nhưng họ luôn muốn nhiều hơn nữa.
Ngày này qua ngày khác, bốn người ngày càng gầy đi, râu ria xồm xoàm, má và môi phồng rộp vì gió, lạnh và cực nhọc liên tục. Họ hầu như luôn ướt vì quần áo của họ không bao giờ khô hoàn toàn vào ban đêm. Ván trượt của họ, lúc nào cũng thấm nước, trở nên nặng như khúc gỗ. Đôi ủng Canada của họ sờn đến mức họ phải đan.lại vào mỗi buổi sáng để giữ cho chúng không bị rách hoàn toàn. Nếu không nhờ quá trình tập luyện chăm chỉ ở Scotland, họ đã bỏ cuộc.
Trên đường đi, Haugland tịch thu đủ số cần câu trong các cabin họ trú ẩn để làm cột cho ăng-ten. Một đêm nọ, khi cố gắng kích hoạt thiết bị vô tuyến của mình, nó bị đoản mạch. Quá muộn để anh nhận ra rằng máy phát bị bao phủ bởi hơi nước đọng lại do được mang từ cái lạnh khắc nghiệt bên ngoài vào cabin ấm áp. Lần sau, anh ấy sẽ đợi bên trong khô hẳn rồi mới khởi động.
Đến ngày 30 tháng 10, cách đầm lầy Skoland bảy dặm về phía tây nam, Poulsson viết nguệch ngoạc trong cuốn nhật ký nhỏ của mình: “Chúng tôi đã gần như xong việc”. Họ dừng lại tại một túp lều nhỏ của thợ săn ở một nơi tên là Reinar và xác định chặng đường phía trước. Helberg đề nghị quay lại trang trại một mình để lấy thêm đồ. Poulsson và Kjelstrup sẽ tìm ra con đường dễ dàng nhất tới vùng đầm lầy, còn Haugland sẽ cố gắng tiếp cận London bằng mạng vô tuyến một lần nữa.
Mỗi người trong số họ đều hiểu rằng công việc điều hành máy phát là thiết yếu nhất và không ai cảm thấy áp lực của việc này hơn Haugland. Giọng nói xuyên qua bóng tối và khoảng cách, giọng nói mang đến sự hỗ trợ, giải cứu những sinh mạng, đó chính là công việc mà anh muốn làm. Anh luôn muốn trở thành một chuyên viên truyền tin, một tham vọng được nhen nhóm bởi một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu hải hành mà anh đã đọc khi còn là một thiếu niên, trong đó vai chính là một nhân viên vô tuyến đã cứu toàn bộ thủy thủ đoàn của mình. Sau khi tốt nghiệp trung học ở Rjukan, Haugland tham gia khóa học tín hiệu của Quân đội ở Oslo. Vận hành một máy đánh Morse cũng giống như học chơi piano. Lúc đầu anh toàn sử dụng ngón tay cái, chậm chạp và vụng về, nhưng sau khi luyện tập, luyện tập, luyện tập, anh thấy mình là một tay điêu luyện, gõ dấu chấm, dấu gạch ngang mà không cần suy nghĩ.
Khi tốt nghiệp năm 1939, ông làm điều hành viên điện đàm trên một con tàu buôn nặng ba nghìn tấn, đã đi lại giữa Na Uy và Iceland. Cuộc chiến trên biển đã diễn ra và Haugland lắng nghe những tín hiệu cấp cứu SOS từ những con tàu ở xa đang chìm, biết rằng tín hiệu của ông ở quá xa nên không thể giúp được gì. Khi Na Uy bị xâm lược, Haugland nhận thấy kỹ năng của mình rất cần thiết, đặc biệt là trong các trận chiến quyết liệt ở Narvik. Là một người quan sát tiền phương, anh di chuyển khắp vùng nông thôn, xác định vị trí của quân địch và dàn pháo rồi báo lại cho chỉ huy của mình bằng điện đài. Anh liên tục bị tấn công, dù là từ súng cối, bom cháy hay súng máy, và anh đã chứng kiến sự khủng khiếp mà chúng gây ra. Một đêm nọ, khi Haugland đang trú ẩn trong một con hào đào vội vã, một người đàn ông vấp ngã về phía anh, ngực thủng lỗ chỗ những viên đạn, một viên xuyên qua má. Những ngày khác, anh đi ngang qua những thi thể gần như không thể nhận dạng được ra con người. Trong suốt thời gian đó, Haugland vẫn ở lại bộ phận truyền tin của mình. Anh là một điều hành viên điện đài nhanh nhẹn và anh đã học được một điều mà một người lính chỉ biết khi được thử thách: anh ấy gần như bình tĩnh một cách lạ thường trước áp lực. Mọi chuyện càng trở nên tồi tệ, anh càng tập trung và bình tĩnh.
Khi được kêu gọi hạ vũ khí, anh cảm thấy một cảm xúc mờ mịt, khủng khiếp: tức giận, vô vọng, bối rối, buồn bã. Hitler hiện đã kiểm soát Na Uy và lẽ ra anh phải chấp nhận điều đó. Ở Oslo, anh tìm được việc làm ở một nhà máy phát thanh. Anh đã sớm tình nguyện xây dựng các bộ máy và thiết lập các trạm vô tuyến cho quân kháng chiến. Nhiều lần Gestapo và cảnh sát nhà nước đã bắt giữ anh. Mỗi lần như vậy, anh đều biện bạch để thoát khỏi tình huống khó khăn. Nhưng khi một người cung cấp thông tin khai ra anh một cách dứt khoát, Haugland phải tìm đường trốn thoát. Quân Đức treo thưởng một nghìn kroner cho cái đầu của anh.
Haugland gia nhập Đại đội Linge ngay sau khi anh đến Anh. “Yên tĩnh, chăm chỉ và nhạy bén, rất thông minh,” những hướng dẫn viên của anh tại Stodham Park kể lại. “Rất can đảm và siêng năng. Chuyên gia về Morse,” họ nói ở Meoble. Haugland sau đó theo học STS 52, trường chuyên biệt dành cho các nhà khai thác mạng vô tuyến, nơi các giáo viên của anh cho rằng lẽ ra anh nên hướng dẫn họ. Anh đã mã hóa các mã và gõ Morse nhanh hơn hầu hết mọi người và anh có thể chế tạo một chiếc radio từ chất liệu ít ỏi nhất. Anh rất chú tâm trong mọi việc anh làm, khiến các học viên châm biếm rằng anh vẫn đang hí hoáy lập kế hoạch trong khi những người khác đã hoàn thành công việc thực tế. Tuy nhiên, những hướng dẫn viên của anh báo cáo, “Suy nghĩ nhanh chóng và luôn chú ý đến từng chi tiết … Anh ấy có một phương án hành động hợp lý để đáp ứng từng trường hợp khẩn cấp.”
Bây giờ, đã mười ba ngày kể từ hoạt động đầu tiên, Haugland vẫn chưa thể làm cho chiếc máy phát của mình hoạt động được và điều đó khiến anh cảm thấy khó chịu. Một mình tại cabin ở Reinar, quyết tâm không để thất bại lần nữa, Haugland đã chuẩn bị sẵn máy phát và cột ăng-ten. Lần này, anh đã giữ bộ máy và pin của nó bên trong cabin suốt đêm. Khi đã sẵn sàng, anh bật nó lên, hy vọng tín hiệu sóng ngắn sẽ đến được với các nhà điều hành người Anh tại Trạm Chính, Grendon Hall, Northamptonshire.
Ngay lập tức anh được tiếp nhận, nhưng rồi ngay sau đó, không có gì cả. Toàn bộ cục pin 30 cân “Made in England” đã hết năng lượng. Thời gian sử dụng của nó đáng lẽ phải kéo dài một tháng. Chưa chịu thua, Haugland đã cố gắng sạc lại nó bằng máy phát điện cầm tay, nhưng tay quay hầu như không nhúc nhích vì tay cầm ngắn. Khi nó chịu quay, lớp cách điện trên dây của máy phát điện bắt đầu cháy vì nó không hoạt động phù hợp cho một pin lớn như vậy. Không còn cách nào khác là anh cần một pin mới.
Cuối cùng đồng đội của Haugland cũng quay trở lại cabin Reinar. Helberg đã kiệt sức sau một chuyến đi dài xuyên qua những cơn gió giật để đến trang trại, còn Poulsson và Kjelstrup đều suýt chết khi lao xuống một hồ nước gần đóng băng. Haugland chia sẻ với họ những tin tức ảm đạm về pin. Không khí trong cabin thật u ám. Trong 16 ngày nữa, mặt trăng sẽ sẵn sàng cho chiến dịch đột kích Vemork. Đội của họ cần phải có mặt để trinh sát địa điểm đổ bộ, cung cấp báo cáo thời tiết và thông tin tình báo về cơ sở, đồng thời tiếp nhận các đặc công của Anh. Họ vẫn còn nhiều dặm phải đi và máy điện đài vẫn chưa hoạt động.
Sau khi chôn cục pin, họ quyết định rằng một người sẽ đi trước những người khác đến đập Hồ Møs để tìm kiếm sự giúp đỡ từ Torstein Skinnarland. Helberg tình nguyện đi. Việc đồng đội của anh sẵn sàng tham gia cuộc hành trình ngay sau chuyến đi đến trang trại đã truyền cảm hứng cho Poulsson viết trong nhật ký của mình, “Helberg đã chứng minh câu nói của người xưa ‘Một người đàn ông là một người đàn ông thực sự khi tiếp tục cho đến khi anh ta không thể làm được, như vậy anh ta đã đi xa gấp đôi.” Mặc dù nhóm Gà Gô đã được lệnh không liên lạc với Skinnarlands, Poulsson cảm thấy họ không có lựa chọn nào khác. Không có đài: không có nhiệm vụ.
Tại con đập, Helberg tìm thấy Torstein Skinnarland. Cả hai đều không biết nhau, nhưng Einar đã nói với anh trai mình rằng họ có thể sẽ sớm gặp một số vị khách thân thiện trong khu vực. Helberg chỉ giải thích họ đang thực hiện một “nhiệm vụ đặc biệt”. Torstein hứa sẽ cung cấp pin mới, ủng mới và một số thực phẩm, nhưng sẽ mất thời gian. Einar có một số đồ dùng như thế đã được giấu đi, nhưng Torstein không biết chúng ở đâu. Helberg sau đó khởi hành. Với lượng tuyết mới rơi và nhiệt độ giảm, điều kiện trên mặt đất được cải thiện, các thành viên khác của nhóm Gà Gô đã nhanh chóng tiến về phía đông trong hai ngày tiếp theo. Helberg gặp họ tại một bến sông khi anh trở về từ con đập.
Vào rạng sáng ngày 5 tháng 11, nhóm Gà Gô đến một cabin bên cạnh Hồ Sand, cách đầm lầy Skoland ba dặm về phía đông. Bên trong, bốn người bẩn thỉu, chưa cạo râu và sắp chết đói ngã gục vì căng thẳng. Giày họ lộn xộn, áo len của họ bị co rút và tả tơi, và hai chiếc ba lô của họ đã bị nhai nát do axit từ pin nhỏ giọt. Đêm đó họ ngủ như chết.
Ngày hôm sau, Haugland bắt đầu chế tạo lại ăng-ten trời của mình. Anh buộc hai giá đỡ làm từ cần câu cá lại với nhau, đặt chúng cách nhau 15 bộ và giăng dây đồng cách điện giữa chúng. Sau đó, anh đóng đinh nhiều tấm ván lại với nhau và cố định chúng vào thành cabin. Anh nối ăng-ten từ máy phát của mình qua góc cửa sổ cabin, lên các tấm ván và vào dây điện. nối giữa hai giá đỡ. Trong khi Haugland làm việc, Poulsson và Kjelstrup trượt đến đầm lầy để kiểm tra bãi đáp, còn Helberg rời đi đến con đập, hy vọng rằng Torstein có thể kiếm cho họ được cục pin mới.
Sau khi trời tối vào ngày 9 tháng 11, Haugland cuối cùng nghĩ rằng mình đã chuẩn bị mọi thứ để khởi động lại máy phát, bao gồm cả pin mới do Skinnarland cung cấp. Anh đã mã hóa tin nhắn của mình, một mớ chữ cái lộn xộn dường như ngẫu nhiên trên cuốn sổ ghi chú trước mặt anh. Nó cần phải ngắn gọn và nhanh chóng vì người Đức vận hành các trạm máy D/F (định hướng) theo dõi các chương trình phát sóng từ Na Uy. Nếu Haugland truyền đi quá lâu và hai trạm của Đức ở đủ gần, họ có thể phát hiện vị trí của anh. Là một điều hành viên điện đài, Haugland biết rằng sự ngắn gọn và tốc độ sẽ cứu sống chính mình và đồng đội.
Với nguồn pin mới được cung cấp với dòng điện ổn định, Haugland cấp nguồn cho bộ vô tuyến. Với ba thành viên trong nhóm đang theo dõi chặt chẽ, và bàn tay run rẩy vì lạnh và phấn khích, anh gửi dấu hiệu nhận dạng của mình. Ngay lập lức anh nhận được câu trả lời đáp lại. Họ đã liên lạc được với Trạm Chính. Poulsson và hai người khác hú lên reo hò và chúc mừng Haugland.
Haugland gửi đi thông điệp đầu tiên của mình: “Hạ cánh vui vẻ mặc dù đá ở khắp mọi nơi. Xin lỗi đã để bạn phải chờ đợi. Bão tuyết và sương mù buộc chúng tôi phải đi xuống thung lũng. Tuyết dày 4 bộ không thể có thiết bị để vượt qua những ngọn núi dày đặc. Phải nhanh chóng tiếp cận khu vực mục tiêu đúng hạn. Sẽ tiếp thêm thông tin.”
Gà Gô đã chuẩn bị thực hiện sứ mệnh của mình và sẵn sàng hướng dẫn các đặc công đến mục tiêu của họ.

Gà gô đến Na Uy