
NEAL BASCOMB
Trần Quang Nghĩa dịch
5 Con Đường Mở Rộng
ỦY BAN HỢP KIM ỐNG họp vào ngày 23 tháng 4 năm 1942, tại Phố Old Queen ở Luân Đôn, tập trung tại một ngôi nhà phố có từ thế kỷ XVII với những cửa sổ cao và tầm nhìn tuyệt đẹp ra cảnh đầu xuân ở Công viên St. James bên dưới. Như thường lệ, các nhà khoa học, dẫn đầu bởi Wallace Akers, cựu giám đốc nghiên cứu của Imperial Chemical Industries (ICI) đối thủ của Norsk Hydro, có rất nhiều điều để nói: công việc thử nghiệm việc làm nổ một quả bom, hợp tác với các nhà khoa học Mỹ, đã mở rộng mô hình nhà máy tách đồng vị và đặt hàng thêm uranium oxit. Như mọi cuộc họp, họ đều thảo luận về người Đức, nhưng lần này với sự khẩn cấp lên cao.
Kể từ năm 1939, cơ sở khoa học Anh đã lo sợ Đức Quốc xã sẽ có được bom nguyên tử. Cuộc xâm lược Ba Lan của Hitler, sau đó là lời khoe khoang rằng ông ta sẽ sớm “sử dụng một loại vũ khí” không có đối thủ đã khiến mối nguy hiểm đó ngày càng lớn hơn, khiến Ngài Henry Tizard, người đứng đầu bộ phận nghiên cứu của Bộ Hàng không, phải điều tra việc sản xuất bom của Anh. Với tư cách là trưởng cố vấn khoa học của chính phủ, chịu trách nhiệm phát triển các công nghệ mới như radar, lời nói của Tizard rất có trọng lượng. Và thế là cuộc điều tra bắt đầu.
Hai nhà vật lý trẻ, Otto Frisch và Rudolf Peierls, đều là người Do Thái tị nạn từ Đức, đã đưa người Anh đi theo con đường của họ một cách vững chắc. Vào ngày 19 tháng 3 năm 1940, báo cáo của họ, “Về việc chế tạo một siêu bom”, được đặt lên bàn của Tizard như một tiếng sét. Frisch và Peierls mô tả chi tiết hơn một cân Anh U-235 nguyên chất được chia thành hai (hoặc nhiều) bộ phận sau đó cho va đập vào nhau với vận tốc cao sẽ tạo ra một vụ nổ “hủy diệt sự sống trên một khu vực rộng… có lẽ là trung tâm của một thành phố lớn… ở nhiệt độ tương đương với nhiệt độ bên trong “mặt trời.” Sau đó, họ dấy lên mối lo ngại rằng các nhà khoa học Đức có thể sẽ sớm “sở hữu loại vũ khí này”. Họ kết luận rằng cách duy nhất để chống lại mối đe dọa này là Anh cũng phải có công nghệ này.
Tháng sau, chính phủ Anh thành lập Ủy ban MAUD. Nghiên cứu thăm dò bắt đầu với một số các nhà khoa học ưu việt của nó, cùng với Peierls và Frisch. Trước hết, họ đề xuất xây dựng một nhà máy để tách U-235 quý hiếm khỏi người anh em U-238 của nó. Nhà máy này sẽ có giá tương đương một tàu chiến. Vào tháng 7 năm 1941, nhóm đã đưa ra lộ trình cho chương trình bom nguyên tử. Tizard vẫn còn hoài nghi, đặc biệt là về giá thành của nó. Ông ấy nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên giải quyết mọi việc. Nhưng dự án giờ đây đã có người đứng đầu là Lord Cherwell, nhà vật lý trường Oxford, người mà Churchill cho rằng có thể “giải mã các tín hiệu từ các chuyên gia ở những chân trời xa xôi và giải thích cho tôi bằng những thuật ngữ rõ ràng và giản dị về các vấn đề”. Vào ngày 27 tháng 8 năm 1941, Cherwell đề xuất tiếp tục sản xuất quả bom đầu tiên trong vòng hai năm. Các chuyên gia cho rằng dự án có tỷ lệ thành công là 10%, nhưng Cherwell nói với thủ tướng rằng ông sẽ đặt cược nhiều hơn “thậm chí cả tiền.” Ông tiếp tục, “Sẽ không thể tha thứ nếu chúng ta để người Đức phát triển một quy trình trước chúng ta bằng cách đó họ có thể đánh bại chúng ta trong chiến tranh hoặc đảo ngược cục diện sau khi họ đã bị đánh bại.”
Churchill đã viết thư cho Nội các Chiến tranh của mình, khẳng định: “Mặc dù cá nhân tôi khá hài lòng với chất nổ hiện có, tôi cảm thấy chúng ta không được cản trở con đường cải tiến.” Nội các đồng ý, hứa hẹn “không nên tiết kiệm thời gian, nhân lực, vật chất hoặc tiền bạc để thúc đẩy sự phát triển của loại vũ khí này.” Tổng cục Hợp kim ống được thành lập.
Trong suốt thời kỳ này, nỗi lo sợ về quả bom của Đức vẫn tồn tại. Từ khắp nơi xuất hiện những lời thì thầm, những mối đe dọa và những tin đồn, cùng sự thật, trộn lẫn với nhau tạo thành một loại bia thường gây hoang mang mà các chính phủ gọi là “tình báo”. Tình cờ nghe lén hai phi công Đức trên xe điện bàn về những “quả bom mới” “rất nguy hiểm” và có sức mạnh như một trận động đất. Một nhà vật lý Đức di cư cảnh báo rằng có áp lực từ cấp cao trong chính phủ Đức Quốc xã trong việc chế tạo bom và quân Đồng minh “phải nhanh lên”. Một người khác cảnh báo rằng Wehrmacht (Quân đội Đức) đã tiếp quản Viện Vật lý Kaiser Wilhelm. Một tùy viên quân sự ở Stockholm báo cáo: “Tôi lại được nghe câu chuyện rằng người Đức đang tiến hành chế tạo một quả bom uranium có sức công phá khủng khiếp, có thể làm nổ tung mọi thứ, và thông qua sức mạnh của một quả bom, cả một thị trấn có thể bị san bằng.” Các báo cáo khác ghi lại một cuộc họp bí ẩn vào tháng 9 năm 1941, nơi Werner Heisenberg thừa nhận với Niels Bohr, người đang sống ở Đan Mạch do Đức Quốc xã chiếm đóng, rằng một quả bom có thể được chế tạo, “và chúng tôi’ đang làm việc với nó.”
Nỗ lực thu thập thêm thông tin tình báo phần lớn là do Eric Welsh thực hiện. Từ Griffin, người Anh đã có được một số hiểu biết sâu sắc về máy móc ở Berlin. Peierls và Frisch cũng đưa ra gợi ý về sự quan tâm của người Đức đối với bom bằng cách chọn lọc danh sách các nhà vật lý người Đức và mổ xẻ bất kỳ bài báo nào họ xuất bản về nghiên cứu nguyên tử. Một lần nữa, những thành phần này được thêm vào bia, nhưng không có gì chắc chắn.
Thông tin tình báo tốt nhất mà người Anh nhận được đến từ hoạt động của Đức tại Vemork. Ngay từ tháng 4 năm 1940, Jacques Allier đã cảnh báo các đồng minh Anh về nỗ lực của Đức Quốc xã trong việc nghiên cứu uranium sử dụng nước nặng từ nhà máy. Sau khi chiếm đóng Paris hai tháng sau, nguồn cung cấp 185 kg nước nặng của Na Uy do Joliot-Curie trông coi được chuyển ra khỏi đất nước trên một con tàu của Anh trước khi người Đức kịp chiếm giữ nó. 26 chiếc bình được cất giấu trong Lâu đài Windsor cho đến khi các nhà khoa học của Hợp kim Ống bắt đầu dùng chất liệu này cho các thí nghiệm của riêng họ.
Việc Đức tiếp tục tập trung vào nước nặng cho đến năm 1942 thậm chí còn có tầm quan trọng lớn hơn vì một nguyên tố mới được phát hiện có tên là plutonium. Người Anh đang tập trung nỗ lực vào việc tách đồng vị để sản xuất đủ U-235 tinh khiết cho quả bom của họ. Nhưng các nhà khoa học Anh và Mỹ biết đây không phải là con đường duy nhất hướng tới chất nổ. Vào giữa năm 1940, trước khi bức màn kiểm duyệt hạ xuống hoàn toàn, một bài báo được xuất bản rộng rãi trên tạp chí Physical Review tiết lộ rằng khi uranium (số nguyên tử 92) bị neutron bắn phá, một số tách ra thành hạt nhân đồng vị hiếm U-235 nhưng một số khác được hấp thụ bởi hạt nhân U-238 phổ biến hơn nhiều, biến đổi nó thành đồng vị U-239. Đồng vị không ổn định này bị phân hủy bởi cái gọi là phát xạ beta, có tác dụng làm tăng số lượng proton trong hạt nhân lên một đồng thời làm giảm số lượng neutron với cùng một lượng. Nguyên tố mới này, neptunium (số nguyên tử 93), dễ dàng phân hủy một lần nữa, tạo ra một nguyên tố khác nhưng ổn định: plutonium (số nguyên tử 94).
Như các thí nghiệm tiếp theo của Đồng minh cho thấy, nhưng bây giờ nằm trong các báo cáo mật, plutonium có khả năng phân hạch tương tự như U-235 và có thể được sử dụng làm vật liệu nổ. Tuy nhiên, không giống như U-235, plutonium khác với uranium về mặt hóa học, và do đó tách rời nhau dễ dàng hơn – và tiết kiệm chi phí hơn rất nhiều. Nếu có thể thiết kế được lò phản ứng tự duy trì với uranium và một chất điều tiết, nó sẽ sinh ra đủ số plutonium mà sau đó có thể được chiết xuất để giúp chế tạo bom. Các nhà vật lý Đồng minh đưa ra giả thuyết rằng loại lò phản ứng này cần từ ba đến sáu tấn nước nặng. Thông qua Leif Tronstad, người Anh biết người Đức đang cố gắng sản xuất một lượng lớn nước nặng tương tự tại Vemork.
Tại cuộc họp của Hợp kim Ống ngày 23 tháng 4, Akers và nhóm các nhà khoa học của ông đã thảo luận về những phát hiện của một nguồn tin SOE mới ở Na Uy (Skinnarland hoạt động thật nhanh chóng). Theo thông điệp mã hóa anh gửi, sản lượng nước nặng lên tới 120 kg một tháng và ngày càng tăng. Một điều gì đó, những nhân vật ở Phố Old Queen quyết định, phải được thực hiện và sớm thôi. Trong biên bản cuộc họp được gửi tới Nội các Chiến tranh của Churchill, họ tuyên bố: “Vì các thí nghiệm gần đây đã xác nhận rằng nguyên tố 94 sẽ tốt như U-235 cho mục đích quân sự và vì nguyên tố này được chuẩn bị tốt nhất trong các hệ thống liên quan đến việc sử dụng nước nặng, Ủy ban khuyến nghị rằng, nếu có thể, nên thực hiện nỗ lực nhằm chấm dứt việc sản xuất của Norsk Hydro.” Nếu Vemork không phải là mục tiêu quan trọng trước đây thì giờ đây nó chắc chắn là mục tiêu quan trọng.
*
Trong những tuần sau đó, Tronstad đột nhiên thấy mình bận tâm đến nước nặng. Vào ngày 1 tháng 5, Wilson đã gửi cho ông một bức thư, yêu cầu ông xác định địa điểm và ai ở Đức đã nhận hàng từ Vemork do Norsk Hydro chuyển giao. Cùng ngày hôm đó, ông đã tham khảo ý kiến của Akers về việc xây dựng một nhà máy nước nặng tại Anh. Ngay sau đó, ông lại ngồi nói chuyện với Eric Welsh, người muốn ông thiết lập một mạng lưới gián điệp, cả trong và ngoài Vemork.
Skinnarland đã cung cấp thông tin tình báo tốt, nhưng đơn giản là nó không đủ. Ủy ban Hợp kim Ống suy đoán rằng Đức Quốc xã đang theo đuổi một lò phản ứng để sản xuất plutonium, con đường chắc chắn cho vũ khí và mọi thứ phải được biết về hoạt động của họ. Đức phần lớn kín kẻ với công việc tình báo, nhưng các nhà khoa học Đức Quốc xã đã tới Vemork, Oslo và Stockholm, những nơi Tronstad có mối liên hệ chặt chẽ.
Vào ngày 11 tháng 5, Tronstad viết hai lá thư, giọng điệu khẩn trương rõ ràng. Đầu tiên là gửi đến “Ông thầy”: Jomar Brun. Tronstad yêu cầu bản phác thảo, sơ đồ chi tiết, và các bức ảnh về nhà máy Vemork, cũng như số liệu sản xuất bất cứ thứ gì Brun có thể khám phá về việc người Đức sử dụng “nước trái cây của chúng ta” và địa chỉ cụ thể nơi nó được gửi đi “để chúng tôi có thể gửi lời hỏi thăm tới những người ở đó.” Tronstad viết: “Anh có thể coi đây là nỗ lực chiến tranh của mình! Nó phải được theo đuổi bằng mọi cách.” ông ấy đã ký vào bức thư Mikkel, “Con cáo”, bí danh mới của ông khi đến Anh.
Tronstad gửi bức thư thứ hai tới Harald Wergeland, học trò cũ của ông và hiện là giáo sư Đại học Oslo. Wergeland đã học dưới sự hướng dẫn của Heisenberg và thân thiết với một số nhà khoa học Đức khác. Gọi anh ấy là “Người bạn trẻ thân yêu của tôi”, Tronstad viết, bằng mật mã được che đậy mỏng manh, “Chúng ta phải biết liệu người Đức có chế ngự được những sinh vật nhỏ nhất hay không.” ông muốn biết tất cả những gì Wergeland biết được từ chuyến đi gặp Niels Bohr được báo cáo gần đây. Tronstad hướng dẫn anh ta len lỏi vào Đảng Nasjonal Samling (đảng cầm quyền ở Na Uy thân Đức), sau đó cố gắng thực hiện một chuyến nghiên cứu đến Đức để “hấp thụ mọi thứ nhanh nhất có thể.”
Khi những lá thư này được được đưa đến Welsh,Tronstad yêu cầu SIS và SOE phải đảm bảo giữ các đường dây liên lạc tách biệt nghiêm ngặt với Skinnarland và với Brun tại Vemork. Không có mối liên hệ nào giữa hai người này bị nghi ngờ. Họ không muốn một hành động tàn bạo khác giống như vụ vừa xảy ra ở Telavag.
Gần một tháng trước, cả hai quân chủng của Anh đều sử dụng ngôi làng đảo ven biển phía tây nam Bergen làm điểm xâm nhập cho các hoạt động của mình. Vào ngày 17 tháng 4, hai chiến binh Đại đội Linge đi thuyền đến Telavåg để tổ chức các nhóm kháng chiến và tiến hành hoạt động phá hoại. Gestapo đã được báo động sau khi một số đặc vụ SIS đã được nhìn thấy trong khu vực này những ngày trước đó. Một số lời nói không ý tứ và quà tặng bột mì của người Anh khiến sự hiện diện của chiến sĩ Linge bị bại lộ. Họ đã bị dồn vào một ngôi nhà và cuộc đấu súng diễn ra sau đó. Một trong hai đã chết, người còn lại bị bắt và một sĩ quan SS Đức bị giết. Toàn quyền Terboven nổi giận trước hành động trắng trợn và việc khám phá nhiều kho vũ khí cất giấu trong làng. Na Uy nằm dưới quyền kiểm soát của y, và y muốn tất cả mọi người phải nhận thức rõ ràng điều này bằng cách lấy Telavåg làm gương.
Y ra lệnh san bằng ngôi làng và đích thân chứng kiến điều đó xảy ra: mọi ngôi nhà và tòa nhà bị đốt rụi, mọi con thuyền trong bến cảng bị đánh chìm, mọi động vật bị giết, và toàn bộ cộng đồng đàn ông, phụ nữ và trẻ em đều bị đưa đến các trại tập trung khác nhau. Terboven cũng cho bắt 18 công dân khi họ cố gắng trốn thoát và bị xử bắn tại chỗ. Y đã nghiêm túc làm theo lời khuyên của Goebbels: “Nếu họ không thể học cách yêu chúng ta thì ít nhất họ cũng nên sợ chúng ta.”
Tronstad cũng lo sợ điều tương tự sẽ xảy ra với những người được ông giao nhiệm vụ làm gián điệp cho ông. Những suy nghĩ như vậy đè nặng lên tâm khảm ông, đặc biệt là trong khi ông an giấc vào ban đêm giữa một ngôi nhà bên cạnh Hampstead Heath rộng lớn thì một số đồng chí ông thường xuyên gặp nguy hiểm.
*
Nếu Lillian Syverstad bị lính Đức chặn lại – luôn có lính Đức tuần tra ở Rjukan, cô ấy sẽ chỉ nói rằng mình đang trên đường đến thăm chị gái, Maggen, đã kết hôn với người trợ lý trông coi đập nước, Torstein Skinnarland, trên Hồ Mos. Lillian, một cô gái xinh đẹp mười tám tuổi, làm việc ở hiệu sách của thị trấn, và nụ cười và nét quyến rũ của cô ấy có thể giúp cô thoát ra khỏi hầu hết tình huống khó khăn. Ngày tháng sáu đặc biệt đó, cô mang theo một bức tin đã được gấp lại, do một người bạn chuyển giao tại thị trấn. Có khả năng đó là từ anh trai Gunnar, một trợ lý phòng thí nghiệm ở Vemork, nhưng Lillian chưa bao giờ mở ra xem để biết tin nhắn là gì. Một khi đến được đập nước, cô sẽ nhìn quanh để chắc chắn không ai theo dõi, rồi mới giấu bức tin phía sau một tảng đá tròn đơn giản. Sẽ sớm thôi sau đó, người bạn thời thơ ấu của Lillian, Einar Skinnarland, sẽ đến lấy lại bức tin, và thế là một mẩu tin tình báo về Vemork đã được thu thập.
Vào đêm anh nhảy dù xuống Na Uy, một cơn gió tây bắc mạnh đã thổi Skinnarland vào một sườn đồi đá. Anh đập mạnh xuống đất, cột sống bị nén lại như một chiếc đàn accordion. Khi anh đứng dậy và thu lại chiếc dù của mình, anh cảm thấy có thứ gì đó thụt vào trong phía lưng dưới của mình, nhưng anh không thể làm gì được. Anh nhanh chóng tìm thấy gói nhỏ được gửi ngay sau anh , nhưng không tìm thấy ống đựng vũ khí nào cả. Tìm thấy nó trong bóng tối là điều vô vọng.
Từ hình bóng của núi Gausta, Skinnarland ước tính mình cách Hồ Møs ít nhất mười dặm về phía tây bắc. Lưng anh nhức nhối, đầu gối vẫn còn đau, anh băng qua những ngọn núi hiểm trở để về nhà. Anh đến nơi ngay trước bình minh. Chỉ có anh trai Torstein biết anh đã ở đâu. Những người còn lại trong gia đình chào đón anh nồng nhiệt và hỏi thăm chuyến đi săn dài ngày của anh như thế nào. Anh cầu xin đừng hỏi bất kỳ câu hỏi nào về cái lưng đơ cứng của mình, và có rất ít thời gian để hàn huyên đoàn tụ.
Skinnarland khởi hành trên ván trượt để gặp người bạn tâm giao Olav và Sko-gen, hoạt động ở một nhà nghỉ trên núi ở giữa đường đến Rjukan. Thủ lĩnh Milorg địa phương, với mái tóc xoăn đen hất cao trên vầng trán rộng, đã đoán ngay từ đầu Skinnarland đã ở đâu. Nghe tin về vụ thả dù hàng tiếp tế, Skogen nhấn mạnh cần phải tìm cho ra thùng chứa vũ khí được tiếp tế càng nhanh càng tốt. Cả hai lên đường đến địa điểm thả dù nhưng không tìm thấy gì. Thùng chứa có thể đã bị lún trong lớp tuyết dày và sẽ không bao giờ có thể thu hồi được.
Skinnarland quay trở lại công việc của mình là xây dựng một con đập ở Kalhovd, cách Hồ Møs 18 dặm về phía bắc. Có rất ít thời gian để gặp Gudveig, sống ở Bergen, nhưng thỉnh thoảng anh vẫn gửi thư cho cô, không nói gì về công việc bí mật của mình. Anh bắt đầu thu thập thông tin tình báo về Vemork, một phần thông qua hoạt động trinh sát của chính mình nhưng chủ yếu là thông qua những mối liên hệ của anh bên trong nhà máy.
*
Skinnarland không biết điều đó, nhưng Jomar Brun cũng đang cung cấp rất nhiều thông tin về Vemork tới London. Vào ngày 3 tháng 10 năm 1941, Paul Harteck và một nhà khoa học Đức khác đã tới Rjukan cùng với Lãnh sự Erhard Schöpke. Là một tên Đức Quốc xã cuồng tín với bộ đồng phục đeo huy chương phù hợp, Schöpke chịu trách nhiệm khai thác ngành công nghiệp của đất nước cho Đệ tam Đế chế với tư cách là thành viên của Wehrwirtschaftsstab Norwegen (Nhân viên Kinh tế Chiến tranh của Na Uy). Đi cùng họ có Bjarne Eriksen; vị cựu luật sư của Norsk Hydro đã thay thế Axel Aubert làm tổng giám đốc khi ông nghỉ hưu. Mặc dù công ty ủng hộ Đồng minh trước đó, nhưng kể từ khi bị chiếm đóng Eriksen về cơ bản đã giữ quan điểm rằng sự sống còn của công ty quan trọng hơn lòng yêu nước hoặc, như một số công nhân của công ty đã nói thẳng thừng hơn, “Hydro muôn năm… Chết tiệt Na Uy.”
Sau khi Brun đi tham quan nhà máy nước nặng, những nhân vật tập trung tại trụ sở hành chính trang nghiêm ở Rjukan. Họ thưởng thức một bữa tối vui vẻ và sau đó, bên đống lửa ấm áp, hút xì gà và nhấm nháp rượu whisky, Schöpke bắt tay vào công việc. Số lượng sản xuất đã giảm và một điều gì đó cần phải được thực hiện. Trong 20 tháng kể từ khi quân Đức xâm lược, Vemork đã vận chuyển 390 kg nước nặng, bất chấp đơn đặt hàng của Đức là 1.500 kg mỗi năm. Norsk Hydro không chỉ thua xa mục tiêu đầu tiên mà công ty còn được yêu cầu tăng gấp ba lần sản lượng lên 5.000 kg mỗi năm.
Sau đó Harteck nói. Có hai cách để tăng sản lượng lên mức như vậy. Đầu tiên, họ có thể mở rộng nhà máy điện phân như hiện tại, bổ sung thêm nhiều máy điện phân vào tầng ban đầu và tăng gấp đôi quy mô của nhà máy cô đặc. Thứ hai, họ có thể thử nghiệm và chế tạo một công nghệ mới (trao đổi xúc tác) hứa hẹn không lãng phí deuterium bị đốt cháy dưới dạng khí trong quá trình điện phân. Cuối cùng, họ quyết định làm cả hai.
Brun được hướng dẫn xây dựng một kế hoạch để thực hiện những ý tưởng này. Không muốn hợp tác và vẫn không hiểu tại sao lại cần đến nước nặng, Brun cứ lê lết. Trong những tháng trước đó, ông đã tích cực làm chậm quá trình sản xuất bằng cách làm ô nhiễm các tế bào nồng độ cao bằng dầu gan cá tuyết, làm cho nước nặng sủi bọt. Tuy nhiên ông không thể tiếp tục làm gián đoạn sản xuất theo cách này mà không bị lộ. Tháng 1 năm 1942, ông được lệnh đến Berlin. Tại Cục Quân khí Quân đội ở Hardenbergstraße 10, ông phải chịu đựng nhiều cuộc họp hơn và nhiều yêu cầu tăng cường sản xuất hơn, chủ yếu từ Tiến sĩ Kurt Diebner. Khi Brun hỏi Diebner mục đích của lượng nước nặng nhiều như vậy là gì, Diebner trả lời rằng nó sẽ được gửi đến “nhà máy quinine” để tạo ra một loại thuốc bổ giải khát. Brun không thấy hứng thú.
Trong vài ngày tiếp theo, Brun làm việc với Harteck để hình thành phương pháp cải tiến Vemork. Việc sửa đổi nhà máy cần phải được thực hiện ngay lập tức, bất kể chi phí. Với những cải tiến này, Harteck cho rằng họ có thể sản xuất ít nhất 8 kg mỗi ngày. Hơn nữa, Brun được cho biết, Norsk Hydro cần xem xét việc xây dựng các nhà máy nước nặng tại hai nhà máy thủy điện khác: Såheim (ở Rjukan) và ở Notodden. Đó là những nhà máy điện nhỏ hơn, với cơ sở điện phân hạn chế hơn, nhưng cùng nhau họ có thể sản xuất thêm sáu kg nữa mỗi ngày, nâng tổng sản lượng lên năm nghìn kg một năm, có thể nhiều hơn nữa.
Một số nhà khoa học mà Brun gặp ở Berlin đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn của Na Uy và lặng lẽ bày tỏ sự ghê tởm của họ đối với Hitler. Họ cảnh báo Brun hãy cẩn thận với những gì ông nói với ai, đặc biệt là với những tên Đức Quốc xã sốt sắng như Diebner. Mặc dù vậy, không ai trong số họ tiết lộ họ cần nước nặng để làm gì, mặc dù họ đảm bảo với ông rằng nó không dành cho chiến tranh. Đó là một chuyến đi đáng lo ngại. Brun thường nghe thấy cụm từ “Heil Hitler.” Biển báo trên xe điện cảnh báo tai địch ở khắp nơi. Chỉ có một lượng thực phẩm nhỏ dự trữ ở căn tin Viện Kaiiser Wilhelm và các văn phòng hầu như không được sưởi ấm. Một ngày nọ, Brun đi ngang qua một góc phố có vài cô gái Do Thái trẻ tuổi có đính những ngôi sao màu vàng trên ngực áo.
Khi trở về nhà, Brun không còn lựa chọn nào khác ngoài việc bắt đầu mở rộng nhà máy. Công nhân đã tăng gấp đôi số lượng tế bào có nồng độ cao lên 18. Dòng thác chín giai đoạn, vốn đã rất lớn, đã phát triển lên bao gồm hơn 43.000 tế bào. Ngoài ra, Brun đã bắt đầu thử nghiệm thí điểm quá trình trao đổi xúc tác và các kế hoạch đã được phát triển cho Såheim và Notodden.
Vào tháng 5, Toàn quyền Terboven đã đến thăm Vemork, sau đó Harteck quay lại để hoàn thiện phương thức trao đổi mới của mình trước khi nó được triển khai. Sản lượng đã tăng từ mức trung bình 80 kg một tháng vào tháng 12 năm 1941 lên 130 kg vào tháng 6 năm 1942 và vẫn tiếp tục tăng. Såheim và Notodden cũng sẽ sớm đi vào hoạt động.
Tất cả những thông tin này và nhiều thông tin khác nữa được Skinnarland và Brun, hoạt động độc lập, gửi dưới dạng tin nhắn được mã hóa thông qua hệ thống chuyển phát nhanh đến Oslo, sau đó đến Thụy Điển. Một số được giấu vào bên trong ống kem đánh răng. Số khác được dán vào lưng người đưa tin mang theo chúng qua biên giới. Sau đó, chúng được đưa bằng máy bay tới London, rồi lên đường đến Khu Chiltern.
Một báo cáo từ Skinnarland trình bày chi tiết về tình hình an ninh sơ sài tại nhà máy, nói rằng quân Đức ” trông cậy quá nhiều vào hệ thống phòng thủ tự nhiên xung quanh. Người bảo vệ ban đêm thường là Georg Nyhus, một gã đàn ông trung niên, tử tế. Một người hàng xóm. Không nên làm tổn thương anh ta. “Công việc duy nhất của anh ta là kiểm tra giấy phép của công nhân qua ô cửa sổ, sau khi họ đã được hai lính canh trên cầu kiểm tra.”
Một tin khác từ Brun, được dán nhãn “Nhà máy cô đặc cao để làm giàu glucose”, bao gồm bản kiểm kê của nhà máy cho đến các ống chì, vòng đệm cát, ống nhựa kết nối và các mép nối của các tế bào nồng độ cao. Các vi ảnh của thiết kế xây dựng, bản vẽ chi tiết của thiết bị và số liệu sản xuất được gửi theo sau. Đó là tất cả những gì cần để xây dựng một nhà máy nước nặng, hoặc thậm chí để phá hủy nhà máy duy nhất còn tồn tại.
*
Vào ngày 4 tháng 6 năm 1942, Kurt Diebner đứng nhìn một hàng khách mời, một số mặc vest lịch sự, những người khác mặc quân phục xếp hàng vào phòng giảng tại Harnack House, trụ sở của Viện Kaiser Wilhelm. Ngoài các nhà khoa học tham gia nghiên cứu nguyên tử, khách tham dự còn có Tướng Emil Leeb, Đô đốc Karl Witzell và Nguyên soái Erhard Milch, lần lượt là những người đứng đầu khí tài quân sự của lục quân, hải quân và không quân Đức. Albert Speer mắt diều hâu, bộ trưởng vũ khí và chiến cụ mới được bổ nhiệm, đã triệu tập họ lại để quyết định tương lai của chương trình nguyên tử. Mặc dù điều này đã được phát động theo sáng kiến của Diebner, chính Heisenberg là người đã lên sân khấu để trình bày về những phát hiện của họ, để mặc Diebner đứng ra một bên.
Trong hai năm đầu tiên Câu lạc bộ Uranium tồn tại, họ đã đạt được những tiến bộ vững chắc trong khoa học nguyên tử. Nhờ những thành tựu quân sự của Đức Quốc xã, họ đã dễ dàng tiếp cận được nguồn nước nặng của Vemork, một chất liệu càng trở nên quan trọng hơn nhờ quyết định cuối cùng rằng nó vừa ưu việt hơn than chì để làm chất điều tiết (dựa trên tính toán sai lầm của một trong những nhà khoa học chính của Câu lạc bộ, Walther Bothe) vừa dễ dàng có được độ tinh khiết cao hơn sản phẩm than. Họ cũng có quyền tiếp cận hàng tấn quặng uranium của Bỉ và một máy gia tốc cyclotron ở Paris được trưng dụng từ Frédéric Joliot-Curie để thí nghiệm quá trình va đập hạt hạ nguyên tử.
Hơn 70 nhà khoa học, phân bố ở nhiều viện nghiên cứu, đang theo đuổi những nghiên cứu cơ bản nhưng cần thiết về mọi thứ, từ năng lượng của các sản phẩm phân hạch, đến một số phương pháp tách đồng vị U-235, đến chế tạo máy làm uranium, và cuối cùng là khả năng của một chất liệu phân hạch mới được tạo ra từ một máy như vậy: nguyên tố 94 (mà người Mỹ gọi là plutonium). Họ đã động thổ một phòng thí nghiệm mới bên cạnh Viện Vật lý Kaiser Wilhelm (được mệnh danh là phòng Vi rút để ngăn cản những vị khách không mời). Tất cả đều có vẻ tươi sáng cho tương lai.
Trong tất cả các diễn tiến, điều thú vị nhất có liên quan đến việc chế tạo máy làm uranium. Tại Leipzig vào tháng 9 năm 1941, với sự hỗ trợ của Heisenberg, Giáo sư Robert Döpel đã chế tạo một cỗ máy hình cầu nhỏ với hai lớp đồng tâm gồm uranium oxit và nước nặng, một nguồn neutron berili tại cốt lõi của nó. Họ nhúng quả cầu vào thùng nước và chờ kết quả kiểm tra. Sự gia tăng số neutron là nhỏ, nhưng nó ở đó, bằng chứng cho thấy cỗ máy đã tách thành công các nguyên tử U-235. Với nhiều lớp nước nặng hơn và uranium cấp độ cao hơn, Heisenberg biết “trong xương tủy” rằng chúng sẽ có một số lượng lớn tự duy trì. Ông nói, từ thời điểm đó trở đi, “có một con đường rộng mở phía trước chúng ta, dẫn đến bom nguyên tử”. Diebner đồng ý. Trong suy nghĩ của ông, thành công bây giờ là vấn đề chuyển tất cả các nghiên cứu cơ bản của họ sang một chương trình công nghiệp.
Nhưng hai tháng sau, khi quân Nga phản công ở Mặt trận phía Đông và Hitler kêu gọi Đức tập trung đáp ứng các yêu cầu ngắn hạn của cuộc chiến, Erich Schumann, người giám sát của Diebner và ngay từ đầu không phải là người hâm mộ “chuyện nguyên tử bá láp”, đã kêu gọi một đánh giá khác của nghiên cứu. Vào ngày 16 tháng 12, Schumann đề nghị với các tướng lĩnh của mình rằng trách nhiệm về chương trình sẽ được giao cho Hội đồng Nghiên cứu Đế chế, cơ quan dân sự, lấy ngành công nghiệp làm trung tâm để thực hiện nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng. Một vũ khí, ngay cả khi có thể đạt được, vẫn còn quá xa, Schumann xác định. Các tướng lĩnh thúc đẩy tổ chức hội nghị lần thứ hai vào tháng 2 năm 1942. Vào thời điểm đó, một trong những nhà khoa học hàng đầu của hội đồng, Abraham Esau, đã được đề cử làm người đứng đầu tiềm năng mới của bất kỳ nhóm tổng thể nào. Là người tiên phong về điện báo vô tuyến, giáo sư vật lý và là người có ảnh hưởng đáng kể trong Đế chế, Esau đã bị quân đội tước bỏ quyền nghiên cứu phân hạch khi Diebner được bổ nhiệm làm người đứng đầu Câu lạc bộ Uranium vào năm 1939. Giờ đây ông có vẻ sẵn sàng trong tư thế trả thù. .
Đối với hội nghị Quân khí lần thứ hai, được tổ chức vào ngày 26 tháng 2, Diebner đã trình bày quan điểm của mình trong một báo cáo đầy đủ dài 131 trang. “Trong tình hình hiện tại, cần phải chuẩn bị cho việc khai thác năng lượng nguyên tử… hơn nữa, vấn đề này cũng đang được các quốc gia thù địch, đặc biệt Mỹ, giải quyết một cách tích cực.” Với 5 tấn uranium kim loại, nước nặng và một cỗ máy tự duy trì, “một quả bom có hiệu quả cao nhất” sử dụng từ 10 đến 100 kg plutonium đang trong tầm mắt. Diebner đưa ra kế hoạch từng bước để đạt được mục tiêu này. Đơn giản là ông ta cần nhân lực, vật tư, vốn để đạt được điều đó.
Và cùng ngày hôm đó, Hội đồng Nghiên cứu Đế chế đã tổ chức cuộc họp riêng về vật lý nguyên tử với Hahn, Heisenberg và Esau là diễn giả chính. Những người tham dự hội nghị đã rất ấn tượng về tiềm năng của công nghệ trong tương lai. Goebbels đã viết trong nhật ký của mình, “Nghiên cứu trong lĩnh vực phá vỡ nguyên tử tiến bộ đến mức kết quả của nó có thể được sử dụng để tiến hành cuộc chiến này. Ở đây, những nỗ lực nhỏ bé cũng dẫn đến những tác động hủy diệt to lớn đến nỗi người ta trông đợi với nỗi kinh hoàng về diễn biến tương lai của cuộc chiến này.”
Nhưng các tướng quân đội vẫn không bị thuyết phục. Diebner không thể hứa hẹn thành công một cách chắc chắn. Không thể biện minh cho chi phí và nỗ lực đó nếu không có sự đảm bảo về vũ khí trong vòng một năm, quân đội đã trao quyền kiểm soát Câu lạc bộ Uranium cho Hội đồng Nghiên cứu Đế chế. Một đòn nữa giáng vào Diebner là khi Heisenberg được chọn làm giám đốc mới của Viện Vật lý Kaiser Wilhelm, và Diebner buộc phải rời khỏi văn phòng của mình ở đó.
Bốn tháng sau cuộc cải tổ, Diebner vẫn tin rằng có cơ hội cho một chương trình quy mô công nghiệp. Speer, người đã điều khiển dự án trong phạm vi ảnh hưởng của mình, đã triệu tập cuộc họp vào tháng 6 năm 1942 tại Harnack House để quyết định xem ông nên ủng hộ bao nhiêu cho dự án.
Heisenberg đã lên sân khấu để trình bày những phát hiện của các nhà khoa học. Cao, mắt xanh, với mái tóc màu rơm, ông ta thống trị căn phòng theo cách mà Diebner không bao giờ có thể làm được. Ông bắt đầu bằng việc đưa ra một cái nhìn tổng quan lý thuyết về khoa học nguyên tử, sau đó đi sâu vào các chi tiết cụ thể về tách đồng vị, máy làm uranium và sản xuất plutonium. Sau đó, ông đánh mạnh vào óc tưởng tượng của khán giả bằng tiềm năng ứng dụng kỹ thuật của khoa học này. Với một cỗ máy uranium, họ có thể “cung cấp năng lượng cho tàu, thậm chí có thể là máy bay, với tầm hoạt động lớn nhất có thể tưởng tượng được”. Với plutonium, họ có thể tạo ra chất nổ “có hiệu quả gấp hàng triệu lần so với tất cả các loại thuốc nổ trước đây”. Một vị tướng từng có ý tưởng thả bom xuống New York muốn biết những quả bom như vậy sẽ lớn đến mức nào. Heisenberg khum khum bàn tay và nói: “Cỡ bằng quả dứa.”
Heisenberg sau đó quay sang tình hình thực tế. Họ vẫn đang ở giai đoạn nghiên cứu cơ bản, ông nói. Cần phát triển thêm lý thuyết, thực hiện nhiều thí nghiệm hơn. Có rất nhiều chướng ngại vật cản đường họ, bao gồm cả nguồn cung cấp nước nặng. Ông kết luận rằng một ngày nào đó trong tương lai xa, một quả bom có thể “xoay chuyển cục diện chiến tranh”; nhưng trước tiên họ cần một lò phản ứng hoạt động được, và điều đó còn lâu mới đạt được.
Speer sau đó hỏi dự án của họ cần bao nhiêu tiền. Heisenberg đề xuất số tiền 350.000 mác – thực tế là không có là bao. Có những chương trình khác, cụ thể là bom bay V-1/V-2, mà các nhà khoa học đã yêu cầu hàng tỷ mác và hàng chục nghìn công nhân để hoàn thành dự án của họ và đưa chúng vào sử dụng trong chiến tranh. Speer sửng sốt còn Diebner thì tức tối khi Heisenberg đưa ra yêu cầu một khoản tiền nhỏ như vậy. Nếu người ta chắc chắn rằng một quả bom cỡ quả dứa sẽ quyết định cuộc chiến và nếu người ta quyết tâm sản xuất nó thì sẽ cần nhiều hơn nữa để nó trở thành hiện thực.
Sau cuộc gặp, Speer hướng sự ủng hộ của mình đối với các chương trình như ném bom mà ông tin rằng sẽ có lợi nhất cho chiến lược chiến tranh trước mắt của Đức. Nghiên cứu cơ bản về khai thác sức mạnh nguyên tử vẫn được tiếp tục. Hội đồng Nghiên cứu Đế chế sẽ lãnh đạo dự án và Bộ Quân khí sẽ giúp tài trợ cho dự án. Các nhà khoa học sẽ có sẵn nguồn cung cấp và họ sẽ vẫn được miễn nghĩa vụ quân sự để thực hiện công việc của mình. Nhưng trừ khi có lý do để xem xét lại, tất cả nghiên cứu này đều tập trung vào tiềm năng trong tương lai. Sẽ không có dự án lớn nào để giúp đưa nó vào sử dụng trong cuộc chiến này.
Diebner không hề nản lòng. Ông quay trở lại với nghiên cứu của mình tại Cơ sở Thử nghiệm Quân khí Kummersdorf ở Gottow, cách Berlin 15 dặm về phía tây nam. Với một loạt các nhà vật lý trẻ mà ông đã tuyển dụng trong những ngày đầu tiên của chương trình, ông lặng lẽ tiếp tục chế tạo cỗ máy uranium của riêng mình với thiết kế rất khác so với những máy mà các nhà vật lý khác đã chế tạo. Mạnh mẽ và khẩn trương, ông ta dấn mình về phía quả bom.
*
Thủ tướng Winston Churchill nhai điếu xì gà khi nhìn ra vùng nước ngập ánh trăng của Đại Tây Dương vào ngày 17 tháng 6 năm 1942. Ngồi trong buồng lái của chiếc thuyền bay Boeing Clipper, ông có nhiều vấn đề đè nặng trong suy nghĩ khi bay tới Hoa Kỳ. Toàn bộ lục địa châu Âu vẫn nằm dưới gót chân của Hitler, và mặc dù các máy bay oanh tạc của Anh và Mỹ ném bom Đức suốt đêm này qua đêm khác, chỉ có cuộc đổ bộ xuyên eo biển Manche mới có thể giải phóng lục địa. Nhưng Churchill biết rằng lực lượng Đồng minh còn lâu mới sẵn sàng cho một cuộc tấn công như vậy. Ông ta phải thuyết phục cho được tổng thống Mỹ, Franklin D. Roosevelt, trì hoãn cuộc đổ bộ – một trong hai mục đích chính trong hành trình xuyên Đại Tây Dương kéo dài 28 giờ của ông. Mục tiêu còn lại là thảo luận về bom nguyên tử.
Sau một ly sâm panh và một giấc ngủ ngắn không yên, Churchill thắt dây an toàn để hạ cánh bên cạnh phi công trưởng đáng tin cậy của mình, Rogers. Chiếc Clipper lướt qua Đài tưởng niệm Washington và hạ cánh xuống mặt Sông Potomac. Tại thủ đô, ông gặp Tướng Marshall, và sáng hôm sau Churchill bay tới Hyde Park, New York, nơi có dinh thự của gia đình Roosevelt. Tổng thống Mỹ chào đón ông trên đường băng. Về mặt thể chất, hai người đàn ông này là một sự đối lập hoàn toàn: chú chó bulldog Anh thấp bé, hung hãn bên cạnh chú sư tử Mỹ cao và mượt mà. Nhưng Churchill và Roosevelt đều là những trí thức cũng như những chính trị gia mưu trí, và họ cùng chia sẻ gánh nặng khủng khiếp khi lãnh đạo người dân của mình vượt qua một cuộc đại chiến. Họ cũng là những người bạn tốt.
Lái chiếc Ford Phaeton màu xanh lam, có cần điều khiển bằng tay đặc biệt để phù hợp với tình trạng khuyết tật về thể chất của mình, Roosevelt đã đưa vị khách của mình tham quan một chuyến dựng tóc gáy dọc theo bờ sông Hudson có dốc đứng. Suốt hai giờ họ nói về chiến tranh, và Churchill được khích lệ bởi họ đã giải quyết nhiều việc khi lướt qua khu đất hơn khi ngồi ở hai phía đối diện trong bàn hội nghị đông đúc.
Đầu tuần đó, Roosevelt đã đọc qua một báo cáo đề ra kế hoạch cho một chương trình khổng lồ của Quân đội Hoa Kỳ nhằm chế tạo bom nguyên tử. Trưởng cố vấn khoa học của ông, Vannevar Bush, người sáng lập tập đoàn sản xuất Raytheon, đang dẫn đầu nỗ lực này với chi phí ước tính khoảng 500 triệu USD.
Nguồn gốc của chương trình phản chiếu theo nhiều cách Chương trình Hợp kim Ống của Anh. Vào tháng 8 năm 1939, Albert Einstein, khi liên lạc với một nhóm các nhà khoa học mới di cư từ châu Âu, đã gửi một lá thư cho Roosevelt cảnh báo về sự cần thiết phải khai thác tiềm năng bùng nổ của phân hạch trước khi người Đức làm được. Một “Ủy ban Uranium” gồm các nhà vật lý hàng đầu được thành lập, và trong hai năm tiếp theo, với kinh phí hạn hẹp nhưng đầy tham vọng, họ đã tiến hành nghiên cứu, chào đón cái nhìn sâu sắc từ người Anh và kết luận rằng thực sự có thể tạo ra một loại vũ khí mới có sức tàn phá lớn và rằng ở đó có một con đường tiềm năng đi đến thành công. Vào mùa hè năm 1942, có tin từ châu Âu rằng người Đức có thể đã chế tạo được một lò phản ứng hạt nhân đang hoạt động, điều mà Hoa Kỳ vẫn chưa đạt được. Như một nhà khoa học đã viết cho Bush, kêu gọi một nỗ lực mang tính quyết định của Mỹ, “Bây giờ không ai có thể biết liệu chúng ta có sẵn sàng trước khi bom Đức quét sạch các thành phố của Mỹ hay không.”
Với một bức thư viết tay có nội dung đơn giản là “Ok. V.B.”, Roosevelt đã phê duyệt việc phát triển chương trình có tên mã là Dự án Manhattan. Theo kiểu “càng lớn càng tốt” điển hình của Mỹ, các nhà lãnh đạo của nước này đã quyết định rằng nên theo đuổi mọi con đường chế tạo bom, bao gồm sử dụng lò phản ứng nước nặng, plutonium và tách đồng vị U-235.
Vào ngày 20 tháng 6, Roosevelt và Churchill tổ chức một cuộc họp trong một phòng làm việc nhỏ, tối tăm đối diện với hiên trước của dinh thự Hyde Park. Trước kia những đứa con của Roosevelt từng sử dụng không gian này làm lớp học, nhưng giờ đây nó là nơi ẩn náu yên tĩnh của ông, với những giá sách và những bức tranh về hàng hải trên tường và một chiếc bàn gỗ sồi khổng lồ chiếm phần lớn không gian.
Churchill ngồi xuống, một quả địa cầu bên cạnh chân và đi thẳng vào vấn đề. “Chuyện gì nếu kẻ thù có được một quả bom nguyên tử trước chúng ta!”, sau này ông viết, kể lại cuộc họp. “Cho dù người ta có cảm thấy hoài nghi về những khẳng định của các nhà khoa học hay không, họ còn có nhiều cuộc tranh cãi, được diễn đạt bằng những thuật ngữ khó hiểu đối với người bình thường, chúng ta không thể đứng nhìn một nguy cơ chết người khi bị bỏ xa trong lĩnh vực khủng khiếp này.” Hai quốc gia của họ cần phải “tổng hợp thông tin, làm việc cùng nhau trên cơ sở bình đẳng và chia sẻ kết quả, nếu có, một cách bình đẳng giữa chúng ta.” Nếu Churchill mong đợi một cuộc tranh luận, thì ông không nhận được cuộc tranh luận nào. Roosevelt toàn tâm toàn ý với đề xuất này, và xét đến việc Đức Quốc xã đang tiếp tục ném bom ác liệt xuống nước Anh, họ quyết định rằng Hoa Kỳ phải là trung tâm của hoạt động.
Họ cũng thảo luận về việc Đức tập trung vào việc tạo ra nước nặng – “một thuật ngữ nham hiểm, ma quái, không tự nhiên”, Churchill sau đó nói. Vài ngày sau khi thủ tướng bay trở lại London, Nội các Chiến tranh Anh đưa ra kế hoạch, với ưu tiên cao nhất, cho một cuộc đột kích vào Vemork.
PHẦN II
6 Lệnh biệt kích
JENS-ANTON POULSSON, một người gốc Rjukan, muốn nhận một nhiệm vụ và nếu các chỉ huy của anh không giao cho anh ta nhiệm vụ nào, anh sẽ tự mình thực hiện. Anh gần như đã đi vòng quanh thế giới để đến Anh tham gia Đại đội Linge, và kể từ khi đến Anh vào tháng 10 năm 1941, anh đã nghe rất nhiều kế hoạch nhưng chưa thấy thực hiện. Triển vọng tốt nhất của anh là lãnh đạo một trong sáu đội của Chiến dịch Clairvoyant đặc biệt là nhiệm vụ hướng dẫn các máy bay ném bom vào ban đêm xuống nhà máy điện Vemork bằng cách thắp đèn ở Thung lũng Vestjord. Nhưng sau đó hoạt động này bị bỏ dở và như anh viết trong nhật ký, “cơ hội lớn nhất trong đời tôi đã vụt mất.”
Vì vậy, vào cuối tháng 2 năm 1942, Poulsson đã từ Scotland xuống để trình bày với các ông chủ của mình ở London một kế hoạch mới. Gặp gỡ một thành viên trong ban tham mưu của Đại tá Wilson, Poulsson đề xuất ý tưởng thành lập một đội nhỏ để tổ chức các chi bộ kháng chiến xung quanh Telemark và chuẩn bị phá hoại các tuyến đường sắt. Anh soạn thảo chi tiết trong một báo cáo, sau đó quay trở lại Scotland trong khi chờ kế hoạch được xem xét.
Nhiều tuần trôi qua và không có câu trả lời nào được gửi đến. Anh được cử đi huấn luyện để tấn công một sân bay. Sau đó, vào đầu tháng 4, anh nhận được lệnh đến STS 31, “trường hoàn tất” tại Beaulieu, một khu rừng ở miền nam nước Anh. Trong ba tuần tiếp theo, anh được đào tạo về hoạt động gián điệp và sống một cuộc sống ngầm. Anh đã học cách phát triển một vỏ bọc (“Câu chuyện của bạn chủ yếu là sự thật”); theo dõi mục tiêu; tuyển người cung cấp thông tin (“Một vài ly rượu có thể hữu ích”); xây dựng một chi bộ ngầm; thành lập một trụ sở bí mật; và ngăn chặn các nỗ lực phản gián, bao gồm cắt đuôi (“Dẫn anh ta qua một con phố dài vắng vẻ rồi lao vào đám đông”), luôn cảnh giác (“Một giọng nói hoặc khuôn mặt quen thuộc cho thấy một đặc vụ đang bị theo dõi”), và tạo ra bằng chứng ngoại phạm tốt. Những hướng dẫn viên đã dạy anh cách giám sát mục tiêu, hòa vào hậu cảnh trên đường phố, đột nhập vào một ngôi nhà, mở còng tay, nắm bắt tình hình để trốn thoát nhanh chóng. Anh đã trở nên thành thạo trong việc để lại những tin nhắn ẩn dưới dạng ảnh vi mô, mật mã và mực vô hình. Tất cả đều rất khác so với kiểu chiến tranh mà anh tưởng tượng.
Anh nghiên cứu kẻ thù, mọi thứ từ tổ chức, đồng phục, quy định cho đến các biện pháp trinh thám, khả năng nghe lén tin vô tuyến và kỹ thuật thẩm vấn. Nếu khi nào thấy mình bị thẩm vấn, các giảng viên của anh ta sẽ nói, “Hãy tạo ấn tượng mình là một công dân lương thiện, ngu ngốc ở mức trung bình.” Người chỉ huy của trường, Thiếu tá Woolrych, nói với các học viên của mình, “Hãy nhớ rằng: những đặc vụ giỏi nhất không bao giờ bị bắt. Nhưng một số đặc vụ… họ có xu hướng nới lỏng các biện pháp đề phòng. Đó chính là thời điểm cần lưu ý. Không bao giờ thư giãn. Đừng bao giờ tự lừa dối mình bằng cách nghĩ rằng kẻ thù đang ngủ. Họ có thể đang theo dõi bạn mọi lúc, vì vậy hãy cẩn thận bước đi của bạn.”
Poulsson tốt nghiệp trường STS 31 với một đánh giá của người hướng dẫn có phần hỗn tạp: “Thông minh hơn nhiều so với vẻ ngoài của anh ngay từ cái nhìn đầu tiên vì anh ấy có tính cách thu mình. Tuy nhiên, anh ấy có sự hiểu biết thấu đáo về công việc… Có thể làm đươc một phó chỉ huy tốt.” Mặc dù cao – sáu bộ hai inch – với mái tóc xoăn đen, khuôn mặt gầy gò và đôi mắt xanh sáng, Poulsson là một nhân vật ẩn dật trong một căn phòng đông đúc. Anh thích ở lại phía sau, người bao trùm bởi khói thuốc ống píp. Tuy nhiên, “một người phó chỉ huy tốt” thì còn xa sự thật.
Poulsson sinh ra ở Rjukan, nơi người ta kể rằng cư dân lớn lên dưới ánh nắng hoặc trong bóng tối. Những vị cao cấp nhất của Norsk Hydro sống trong những ngôi nhà lớn trên sườn đồi đầy nắng phía bắc của Thung lũng Vestjord, trong khi đội ngũ tàng tàng thấy mình sống sâu bên dưới, bên bờ sông. Vì cha của Jens-Anton là một kỹ sư trưởng của Norsk Hydro trong thị trấn, anh lớn lên trong ánh sáng. Gia đình anh có lịch sử lâu đời thuộc tầng lớp quý tộc, thuyền trưởng, sĩ quan quân đội cấp cao, hiệp sĩ Anh và sở hữu gần mười nghìn mẫu đất ở Vidda, bao gồm cả hòn đảo trên Hồ Møs.
Được đặt theo tên của cha và ông nội, Jens-Anton là con thứ sáu trong gia đình có bảy người con. Anh có những lọn tóc xoăn màu vàng và có thói quen vuốt phẳng chúng bằng một tay, và anh rất ngại ngùng khi ở chốn đông người, thường chúi mũi vào cuốn sổ phác thảo hoặc một câu chuyện phiêu lưu. Anh ngấu nghiến những câu chuyện về chiến tranh, những chuyến thám hiểm vùng cực, và sinh tồn trong tự nhiên, và mặc dù là một người ham đọc sách nhưng anh lại không quan tâm nhiều đến trường học. Sở thích của anh ấy là ở ngoài trời. Poulsson nhận được một khẩu súng ngắn vào sinh nhật lần thứ 11 và ngay sau đó đã giết chết con gà gô đầu tiên của mình. Cùng với người bạn thân và hàng xóm của mình, Claus Helberg, anh đã trải qua tuổi thiếu niên lang thang ở Vidda, trượt tuyết, câu cá, săn bắn và đi bộ đường dài. Toát ra một thẩm quyền trầm lặng, điềm tĩnh, Poulsson nghiễm nhiên là người lãnh đạo trong nhóm bạn của mình.
Anh chưa bao giờ nghi ngờ ước mơ của mình trong tương lai: một sĩ quan quân đội. Một mũi tên thẳng, anh ấy thích các quy tắc và phác đồ. Tại trường học ở Rjukan, có hai lớp học sinh cùng tuổi với anh, một lớp hoang dã và ngỗ ngược, lớp còn lại ngoan ngoãn. Vì muốn thuần hóa những đứa trẻ khó dạy, hiệu trưởng đã chuyển Poulsson và Helberg vào lớp học quậy phá, và trong vòng vài tháng, kỷ luật đã được khôi phục. Năm mười lăm tuổi, Poulsson trải qua một mùa hè tại trại quân đội. Anh được tặng súng carbine Krag- Jørgensen của riêng mình và học cách hành quân theo từng bước. Năm hai mươi tuổi, anh gia nhập trường Hạ sĩ quan Sư đoàn hai của Quân đội. Anh đang ở đó khi quân Đức xâm chiếm. Trong vòng năm ngày, chỉ tiểu đoàn của anh được triển khai ở vị trí phòng thủ, đầu hàng và rút lui về Thụy Điển. Poulsson viết: “Ngày buồn nhất trong cuộc đời tôi. Họ thậm chí còn không giao chiến.
Sau một thời gian dài làm việc ở Thụy Điển, anh trở về Na Uy và ẩn náu bên ngoài Rjukan trong vài tháng, sẵn sàng làm một việc gì đó. Không thể đến Anh bằng thuyền, anh trượt tuyết trở lại Thụy Điển trung lập, và từ đó anh đi vòng quanh thế giới. Ở Thổ Nhĩ Kỳ, anh đã chứng kiến ”những túp lều bằng bùn, đá và những thùng dầu đập dẹp để làm mái nhà”. Ở Cairo anh thấy “ruồi và những người bán hàng rong là những điều khó chịu nhất.” Trên những vùng biển lớn đến Bombay, anh bị “đau bụng và đau đầu.” Ở Ấn Độ, trại “có rất nhiều chấy rận, không phải những người bạn cùng giường tử tế.” Tuy nhiên, đó là một cuộc phiêu lưu và một sự kiện đáng chú ý – đoạn mở đầu cho cuộc đời một chàng trai trẻ chưa từng xa quê hương trong cuộc hành trình kéo dài sáu tháng, đôi lúc anh lo lắng liệu mình có đủ tố chất để trở thành một người lính giỏi hay không. Một đêm nọ, anh viết trong nhật ký, “Người ta không bao giờ biết được phản ứng của chính mình khi lần đầu tiên bị tấn công.”
Sau khi kết thúc khóa huấn luyện điệp viên, Poulsson trở về STS 26 và được biết rằng đề xuất xây dựng các đơn vị kháng chiến xung quanh Rjukan của anh đã được chấp nhận. Cuối cùng, anh sẽ sớm biết mình thuộc loại lính nào. Chiến dịch Gà Gô dự kiến sẽ khởi hành trong vài tuần nữa, do Poulsson đứng đầu. Anh và nhóm của mình phải sống sót trong điều kiện mùa đông khắc nghiệt nhất ở nơi hoang dã, giống như loài gà gô núi cao mà nhiệm vụ của họ mang tẻn, trong khi chờ đèn xanh để hoạt động.
Một sự chậm trễ đáng tiếc nối tiếp một sự chậm trễ đáng tiếc khác, và ngay sau đó những ngày hè dài ở Na Uy đã khiến việc khởi động sứ mệnh trở nên quá nguy hiểm. Việc thả dù xuống Na Uy bị giới hạn trong một cửa sổ rất hẹp. Trong nửa năm, ban đêm có quá nhiều ánh sáng nên máy bay không thể bay qua vùng nông thôn mà quân Đức không thể nhìn thấy. Đối với nửa còn lại, đặc biệt là trong mùa đông dài, cần nhảy dù vào khoảng thời gian trăng tròn, khi bóng đêm bị cắt giảm bởi ánh sáng tự nhiên vừa đủ để phi công có thể định hướng theo các điểm mốc và người nhảy dù có thể tìm ra nơi an toàn để tiếp đất.
Với việc hoạt động hiện đã bị trì hoãn ít nhất cho đến cuối tháng 9, Poulsson tự hỏi liệu tốt hơn hết mình có thể nên tái gia nhập quân đội chính quy hay không. Những người khác trong đại đội, như Knut Haukelid, cũng cảm thấy như vậy, ngay cả những chiến sĩ trong Quân đội Na Uy tìm đường đến Anh cũng thất vọng tương tự vì không được hành động. Được các chỉ huy Đại đội Linge trấn an rằng họ sẽ sớm có cơ hội, nên họ vẫn nán lại.
Trong khi chờ đợi, Poulsson đã hoàn thiện đội ngũ nhỏ của mình: Arne Kjelstrup, một thợ sửa ống nước thấp người, ngực rộng sinh ra nhưng không lớn lên ở Rjukan, người đã lãnh một viên đạn vào hông sau khi chiến đấu với quân Đức trong cuộc xâm lược. Anh ấy đồng hành cùng Poulsson trong hành trình vòng quanh thế giới để gia nhập Đại đội Linge. Knut Haugland là một thanh niên hai mươi bốn tuổi có thân hình hơi gầy với mái tóc dày màu vàng và khuôn mặt gầy gò trông trẻ con trái ngược với trí thông minh nhạy bén của anh ta. Là con trai một người thợ mộc ở Rjukan, anh đã trở thành nhân viên điều hành đài hạng nhất. Và Knut Haukelid, người mà Poulsson thường cùng đi săn hươu ở Cao nguyên, biết cần phải làm gì để tồn tại và hoạt động ở Vidda.
Trong khi chờ lệnh bật đèn, Haukelid đã vấp ngã và tự bắn vào chân mình trong một buổi tập huấn ở nông thôn. Các bác sĩ nói với người lính biệt kích đang chán nản rằng anh sẽ không “đủ sức để làm nhiệm vụ” cho đến ít nhất là tháng 10. Poulsson nhanh chóng quyết định người thay thế mình: Claus Helberg, người bạn thời thơ ấu của anh. Bây giờ gầy hơn, cao hơn và khỏe mạnh hơn hầu hết mọi người, và với ánh mắt lấp lánh tinh nghịch, Helberg đã tìm đường đến Anh vào đầu mùa xuân để gia nhập Đại đội Linge. Poulsson biết anh sẽ cần được huấn luyện nhảy dù, nhưng vẫn còn thời gian cho việc đó.
Jens-Anton Poulsson, chỉ huy sứ mạng Gà Gô

Claus Helberg

Arne Kjelstrup

Knut Haugland, người điều hành máy truyền tin của Gà Gô
Trong suốt tháng 8, Poulsson và những người khác chuẩn bị cho hoạt động của mình, thu thập đủ nguồn cung cấp đầy tám thùng chứa hình trụ, sẽ được thả dù với họ. Hàng tồn kho danh sách dài hai trang, nguồn cung cấp nặng gần như bảy trăm cân: bánh răng trượt tuyết, ủng, ghệt, áo gió, đồ lót len, túi ngủ, dụng cụ nấu ăn, công cụ, thuốc lá, nến, lều, dầu hỏa, ba lô, bản đồ, thuốc mỡ chống tê cóng, một bộ máy phát sóng và hai bộ pin sạc 6 volt để cung cấp năng lượng cho nó, súng, đạn và thực phẩm. Không có ai yêu cầu khắt khe hơn nhân viên truyền tin Knut Haughland. Trước sự càu nhàu của thủ kho người Anh, anh chỉ định chính xác loại pin nào và các thiết bị vô tuyến khác cần thiết cho hoạt động. Đó là kiểu của anh ấy.
Ngày 29 tháng 8, một ngày nắng nóng xen lẫn giông bão, Poulsson tới London để gặp Đại tá Wilson và Leif Tronstad tại Khu Chiltern để hoàn thiện kế hoạch của họ. Đội Gà Gô sẽ nhảy xuống gần Hồ Langesjå, cách Rjukan 10 dặm về phía bắc-tây bắc, với Einar Skinnarland trên mặt đất để dẫn đường cho máy bay đến. Haugland biết rõ về Skinnarland qua cuộc kháng chiến của người Rjukan ở địa phương và tất cả những người lính trong nhóm đều quen biết với gia đình Skinnarland. (Torstein, anh trai của Einar là một huyền thoại nhảy trượt tuyết trong thị trấn.) Nếu vì lý do nào đó mà Skinnarland không thể làm người dẫn đường, họ sẽ nhảy dù mù và tự mình đi đến Hồ Møs. Wilson và Tronstad đưa ra những hướng dẫn điều hành cho họ, tập trung vào việc thành lập “các nhóm nhỏ độc lập” để chuẩn bị cho các hoạt động nhắm vào các mục tiêu trong tương lai. Chúng bao gồm thông tin liên lạc, cầu và đường của Đức. Vemork không được đề cập đến. Theo như Poulsson biết, mục tiêu này đã không còn trên bàn kể từ khi Chiến dịch Clairvoyant đóng cửa.
Hai ngày sau, nhóm Gà Gô khởi hành đến STS 61 tại Gaynes Hall, gần sân bay Tempsford bên ngoài Cambridge. Dinh thự nổi tiếng từng là cơ ngơi của Oliver Cromwell (1599-1658), một nhà lãnh đạo chính trị và quân sự người Anh, người đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập nền cộng hòa ở Anh), nhưng giờ đây được dùng làm điểm phát động của SOE cho các đặc vụ ở nước ngoài trở về xứ sở hoạt động. Đội Gò Gô sẽ tiếp tục tập luyện ở đây và chờ đợi.
*
Cùng ngày hôm đó, ngày 31 tháng 8, Leif Tronstad ngồi trong một căn phòng đầy khói thuốc trên phố Old Queen, trụ sở của Hợp kim Ống, và xúc tiến triển vọng Gà Gô sẽ dẫn đầu cuộc tấn công vào Vemork. Ngồi quanh bàn với ông là Đại tá Robert Neville, người lập kế hoạch chính cho các Hoạt động Phối hợp, Wallace Akers, và cựu trợ lý ICI của Akers, Michael Perrin, hiện là thành viên chủ chốt của chương trình nguyên tử của Anh.
Khi Lord Louis Mountbatten tiếp quản các Hoạt động Phối hợp vào tháng 10 năm 1941, quyền chỉ huy mà ông kế thừa, chịu trách nhiệm thực hiện các nhiệm vụ tập hợp các lực lượng hải quân, không quân và lục quân, đang ở trong tình trạng hỗn loạn. Và thực sự, kể từ đó các hoạt động của anh hùng hải quân Anh, bốn mươi hai tuổi, có dòng máu hoàng gia cùng lắm chỉ là một thành tích ba chìm bảy nổi. Những câu chuyện thảm họa về trận đột kích đầu cầu giữa tháng 8 tại bờ biển Dieppe phía bắc nước Pháp chỉ mới bắt đầu rút lui khỏi các tít hàng đầu trên mặt báo.
Kể từ khi Churchill trở về từ Mỹ, Nội các Chiến tranh đã giao Mountbatten nhiệm vụ nghiên cứu một chiến dịch nhắm vào Vemork. Neville, người lập kế hoạch chính của ông ấy và là một thủy quân lục chiến Hoàng gia, có vẻ như mình có thể đảm nhận trọng trách một mình.
Bốn nhân vật đã cân nhắc một số phương án hành động tiềm năng để phá hủy việc sản xuất nước nặng tại Vemork: (1) một cuộc tấn công từ bên trong của nhân viên Norsk Hydro, (2) sự xâm nhập của Poulsson và nhóm của anh ta, (3) một nhóm tấn công SOE gồm sáu người để làm nổ tung các đường ống (phản ánh kế hoạch Clairvoyant), (4) một cuộc đột kích của Hoạt động Phối hợp gồm từ 25 đến 50 người nhằm phá hủy các đường ống và nhà máy, và (5) một cuộc ném bom của Không lực Hoàng giá.
Tronstad lập luận chống lại một cuộc tấn công trên không: với tất cả hydroden và amoniac được sản xuất trong khu vực, thị trấn Rjukan có thể bị xóa sổ trong một vụ nổ kinh hoàng, và khó có quả bom nào xâm nhập đủ sâu vào nhà máy để hủy diệt các tầng có nồng độ cao nằm ở tầng hầm. Về việc tuyển dụng những kẻ phá hoại nằm trong nhà máy, ông không tin rằng họ có thể tìm được đủ người đáng tin cậy ở Vemork để thực hiện công việc này. Thay vào đó, Tronstad muốn đội Gà Gô của mình đi đầu trong một cuộc tấn công trực tiếp. Họ biết khu vực này và theo thông tin tình báo gần đây nhất, an ninh tại nhà máy chỉ ở mức hạn chế. Với một đội phá hoại bổ sung gồm sáu người để thực hiện việc phá hủy, nhóm sẽ có tỷ lệ thành công cao.
Neville không chắc – hàng phòng ngự của Đức có thể mạnh hơn báo cáo. Ông ưu ái các đặc công (kỹ sư tác chiến) của Anh thực hiện cuộc tấn công, với đội Gà Gô đóng vai trò hướng dẫn. Năm mươi binh sĩ có thể vượt qua mọi sự kháng cự và với sức mạnh đông đảo của mình, họ có thể thực hiện một cuộc tấn công lớn hơn vào nhà máy, đảm bảo rằng nó sẽ bị loại bỏ như một mối đe dọa. Rắc rối sẽ là đưa những người này ra khỏi Na Uy. Neville nhận ra rằng thử thách này khiến các đặc công rất có thể trở thành một “đội cảm tử”.
Bốn người biết Mountbatten sẽ là người ra quyết định cuối cùng, nhưng có vẻ như nhóm Gà Gô thực sự sẽ đóng một vai trò nào đó trong kế hoạch Vemork.
Tronstad cũng mong muốn được tham gia bất kỳ hoạt động nào trên thực địa. Vâng, ông đã góp phần vào nỗ lực chiến tranh. Ông có mạng lưới tình báo của riêng mình, đã tuyển dụng các nhà khoa học người Na Uy để hỗ trợ ngành công nghiệp quốc phòng Anh. Ông đưa ra lời khuyên về các cuộc tấn công hóa học có thể xảy ra. Ông đã giúp chỉ đạo chiến lược, đào tạo và vận hành Đại đội Linge. Nhưng đôi khi ông cảm thấy như mình đang chiến đấu trong một cuộc chiến giấy tờ, các báo cáo và hội nghị. Ông muốn thoát khỏi “cuộc sống bất thường này.” Ông cảm nhận những người khác đang phải gánh chịu gánh nặng của cuộc xung đột trong khi ông vẫn an toàn ở London. Nhiều người bạn thân của ông đã chết; Gestapo đã đuổi gia đình ông ra khỏi nhà và truy bức vợ ông để biết thông tin về nơi ở của ông. Brun và Skinnarland đang liều mạng mỗi ngày để làm gián điệp cho đất nước của mình. Tronstad cũng muốn làm điều tương tự.
Sau khi tổ chức sinh nhật lần thứ ba mươi chín vào tháng ba năm đó, ông đã bỏ thuốc lá và bắt đầu chăm chỉ tập thể dục. Vào tháng 6, ông tham gia khóa huấn luyện nhảy dù ở STS 51. Mỗi tối, ống cố gắng tham gia một “công việc biệt kích nhỏ” ở công viên rộng lớn, Hampstead Heath, gần nhà ông.
Tin rằng mình đã chuẩn bị sẵn sàng đối với bất kỳ nhiệm vụ nào, ông đánh tiếng cho Thiếu tướng Gubbins, người đứng đầu SOE, mình muốn trực tiếp tham gia vào Gà Gô. Nhưng Gubbins nói với Tronstad rằng vị trí của ông là ở London. Đồng minh không thể mạo hiểm đánh mất tầm nhìn sâu sắc và khả năng lãnh đạo của ông. Đi đến một nền hòa bình khó khăn với việc ở lại, Tronstad lao vào chỉ huy Đại đội Linge của mình.
Quyết tâm của ông càng được củng cố bởi những tin tức từ quê nhà. Trên khắp Na Uy, những người dân bình thường đã tích cực chống lại quân Đức bằng mọi cách có thể. Đầu năm nay, các giáo viên đã đình công, từ chối yêu cầu của Đức Quốc xã phải dạy trật tự mới cho học sinh của họ. Terboven đã ra lệnh bắt giữ 500 giáo viên ngoan cố nhất và đưa họ đến trại tập trung ở cảng biển Kirkenes Bắc Cực. Cuộc hành trình kéo dài 16 ngày, các tù nhân chen chúc bên trong hầm hàng của một chiếc tàu hơi nước bằng gỗ cũ, với ít thức ăn hoặc nước uống và không có nhà vệ sinh. Họ bị buộc phải làm việc mười hai giờ một ngày tại các bến tàu, cùng với các tù binh Liên Xô, bị cho ăn kém, nhà ở tồi tàn và bị đánh đập bất chợt. Một số đã chết. Những người khác phát điên. Tuy nhiên, họ vẫn chống cự.
“Chiến tranh khiến tâm trí trở nên chai lì,” Tronstad viết trong nhật ký của mình khi nghĩ đến những tin tức mới nhất về những khổ nhục của họ. “Trở thành một người nhạy cảm một lần nữa sẽ không dễ dàng.”
*
Trong suốt tháng 9, khi Knut Haukelid ngắm những cơn mưa quét khắp Scotland và chăm sóc bàn chân bị thương của mình, anh ấy đã khao khát rằng mình có thể tham gia đội Gà Gô. Tuy nhiên, từ những lá thư của nhóm, có vẻ như họ cũng đang gặp bế tắc như anh. Trong một bức thư có tựa đề “Nơi nào đó ở Anh”, Poulsson viết, “Nếu bạn nghĩ chúng tôi đã rời đi thì bạn đã nhầm to rồi… Một tuần chờ đợi thời tiết đẹp mà không bao giờ đến. Dù sao thì ở đây cũng tốt vì có rất nhiều FANY [y tá quân đội dã chiến].” Sau đó, vào ngày 9 tháng 9, “Hôm nay có đèn đỏ và chúng tôi hy vọng điều tốt nhất. Bây giờ chúng tôi đã sẵn sàng để bắt đầu.”
Haukelid chờ đợi tin họ đã tiếp đất an toàn. Một khi họ kết nối vô tuyến với Tronstad và đã bố trí an toàn ở Telemark, kế hoạch là cho anh ấy tham gia cùng họ với một thành viên Linge khác. Nếu chỉ vì cái chân chết tiệt đó…
Cuối tháng 9, một lá thư khác được gửi đến. “Tất nhiên là chúng tôi đã quay lại. Động cơ gặp sự cố.” Ngày hôm sau lại mang đến một tin nhắn khác từ đội Gà Gô. “Nỗ lực không thành công. Sương mù ở Biển Bắc. Quỷ dữ đã chiếm thế thượng phong! Nhưng hãy tin tưởng.”
Sau đó im lặng. Không có gì. Chắc chắn bây giờ họ đã đi rồi, nhảy xuống Vidda mà không có mình.
*
Tướng Nikolaus von Falkenhorst, chỉ huy lực lượng quân sự Đức ở Na Uy bị chiếm đóng, đã đi qua khu vực Vemork vào ngày 1 tháng 10, ấn tượng trước khả năng phòng thủ tự nhiên của nó nhưng ý thức được rằng chúng không đủ để bảo vệ nhà máy khỏi bọn cướp người Anh. Cần phải có đèn pha, thêm lính canh, thêm tuần tra, doanh trại cho quân của y, có thể là một khẩu đội phòng không. Mìn phải được bố trí ở các sườn đồi xung quanh và dọc theo các đường ống dẫn xuống trạm điện. Hàng rào xung quanh khuôn viên phải được nâng lên và phủ lên trên những vòng dây thép gai. Cây cầu hẹp dẫn vào nhà máy cần có cổng được gia cố.
Với khuôn mặt như được tạc từ đá, Falkenhorst là một quân nhân theo trường phái cũ. Y xuất thân từ một gia đình quý tộc người Đức, đã từng chiến đấu trong Thế chiến thứ nhất và đã giành được nhiều thăng tiến trước khi đất nước của y lại bị lôi kéo vào chiến tranh. Trong cuộc tiến công vào Ba Lan, y đã tỏa sáng. Khi Hitler cần một chỉ huy để chiếm Na Uy, Falkenhorst được đề cử, một phần vì y có thời gian làm việc ở Phần Lan năm 1918
Quốc trưởng chỉ cho y vài giờ để quay lại với một kế hoạch đánh chiến Na Uy. Falkenhorst, vốn biết rất ít về Na Uy, đã phác thảo cuộc tấn công một phần dựa trên những gì y học được từ cẩm nang hướng dẫn du lịch được tìm thấy ở một hiệu sách địa phương. Thành công của y trong cuộc xâm lược đã không mang lại quyền chỉ huy nào khác cho các cuộc tiến công liên tục của quân Đức. Thay vào đó, y thấy mình bị mắc kẹt ở Na Uy, canh gác đất nước như một tên lính canh bình thường. Y giữ mối quan hệ tử tế với Terboven và SS nhưng không hề thưởng thức các trò tàn bạo của họ trong việc kìm kẹp đất nước bị chiếm đóng. Tuy nhiên, chắc chắn rằng nếu được Hitler ra lệnh, y chắc chắn cũng sẽ tuân theo, bất chấp điều gì.
Sau khi hoàn tất việc kiểm tra Vemork, Falkenhorst đã tập hợp các giám đốc, kỹ sư, công nhân và lính canh của mình. Y giải thích rằng chỉ mười một ngày trước, nhà máy điện ở Glomjord đã bị nổ tung trong một cuộc đột kích của biệt kích Anh, khiến các công trình nhôm phụ thuộc vào nó phải dừng lại. Túm lấy một người lính bảo vệ từ phía sau, Falkenhorst đã minh họa cho khán giả thấy lính biệt kích này nhanh nhẹn và tàn nhẫn như thế nào trong một cuộc tấn công. Y cảnh báo rằng họ có thể đến thị trấn với tư cách là những hành khách bình thường trên tàu hỏa hoặc xe buýt nhưng họ sẽ “được trang bị vũ khí tự động có bộ giảm thanh, thuốc gây mê, lựu đạn cầm tay và quả đấm sắt.” Y kết luận rằng Vemork cần phải chuẩn bị sẵn sàng.

Tướng Nikolaus von Falkenhorst và Toàn quyền Josef Terboven đến thăm Vemork
Cái giá cho sự thất bại – hoặc cho những ai hỗ trợ một hoạt động phá hoại đã sớm được làm rõ. Vào ngày 5 tháng 10, những người mặc quân phục Anh đã đột kích vào một mỏ quặng sắt bên ngoài Trondheim với những gì mà tình báo Đức tin là có tiếp tay rõ ràng từ cuộc kháng chiến của người Na Uy (trên thực tế, đó là một hoạt động do Tronstad dàn dựng và Đại đội Linge thực hiện). Ngày hôm sau, thành phố thức dậy và trông thấy những tấm áp phích tuyên bố tình trạng khẩn cấp; Toàn quyền Terboven đến bằng chuyến tàu đêm, cùng với Trung tá SS Heinrich Fehlis và nhiều thành viên Gestapo của ông ta. Sau vụ đánh bom của RAF vào trụ sở Victoria Terrasse của họ hai tuần trước, SS rất muốn đổ máu.
Tại quảng trường thị trấn, Terboven đã có bài phát biểu. “Tôi chân thành và tin tưởng đặt lợi ích tốt đẹp của đất nước và nhân dân này vào lòng… Tôi đã hào hiệp chờ đợi trong một thời gian dài, nhưng bây giờ tôi nhận ra rằng mình buộc phải thực hiện các biện pháp nghiêm khắc. Khi những người Quốc xã chúng tôi lần đầu tiên nhận ra mình phải can thiệp, chúng tôi không làm theo phương pháp dân chủ, treo cổ cá nhỏ, còn cá lớn bơi đi. Thay vào đó chúng tôi nắm giữ những tên đầu sỏ, những tên muốn ở phía sau… Tối nay, người dân sẽ được biết về nguyên tắc này.” Terboven và SS đã chọn ra mười công dân địa phương nổi tiếng – một luật sư, biên tập viên báo chí, giám đốc nhà hát, giám đốc ngân hàng và người môi giới tàu trong số những người này “để chuộc tội cho một số hành vi phá hoại”. Sau đó, đội hành quyết của Fehlis đã bắn vào sau gáy họ.
Biên giới Thụy Điển đã bị đóng cửa một cách nghiêm ngặt và Fehlis đã dẫn đầu một cuộc truy lùng toàn diện các thành viên kháng chiến thực sự, đối với bất kỳ ai nắm giữ hàng lậu (radio, vũ khí hoặc số tiền lớn). Quân lính của hắn đã lục soát hàng chục nghìn người, xe cộ, nhà cửa và trang trại. Cuối cùng chúng đã bắt giữ 91 người cũng như mọi nam giới Do Thái trên 15 tuổi. Một số những tù nhân này cũng bị xử tử.
Terboven tăng cường nỗ lực ngăn chặn bất kỳ cuộc đột kích nào trong tương lai và phá vỡ ý chí của người dân Na Uy. Các quy định biên giới mới, thẻ khẩu phần và giấy phép du lịch đã được ban hành. Danh sách các hành vi vi phạm có thể bị trừng phạt bằng tử hình hiện bao gồm việc cung cấp nơi trú ẩn cho kẻ thù của nhà nước và cố gắng trốn khỏi đất nước. Trên khắp Na Uy, hàng nghìn dân thường bị bắt một cách bừa bãi. Số tù nhân được vận chuyển đến Đức tăng lên. Người cung cấp thông tin bị cưỡng ép khai ra những người tham gia kháng chiến. Biện pháp tra tấn tăng cường. Nếu không thể tìm thấy một thành viên kháng chiến đã biết, Gestapo sẽ bắt cha mẹ hoặc anh chị em của người đó.
Vào giữa tháng 10, Hitler đã đưa ra một mệnh lệnh bí mật, Kommandobefehl, cho các tướng lĩnh của ông trên khắp châu Âu, bao gồm cả Falkenhorst, để trừng phạt thêm quân Đồng minh vì các cuộc tấn công biệt kích của họ: “Từ nay về sau, tất cả quân địch gặp phải trong cái gọi là các cuộc đột kích biệt kích ở châu Âu hoặc châu Phi, sẽ bị tiêu diệt đến người cuối cùng. Điều này sẽ được thực hiện cho dù họ là những người lính mặc quân phục hay các nhóm, có vũ trang hoặc không vũ trang và dù đang chiến đấu hay đang tìm cách trốn thoát… tắt cả đều bị tiêu diệt. Nếu những người này có vẻ sắp đầu hàng, về nguyên tắc chung, chúng cũng không được tha chết. ” Lệnh này rõ ràng đã vi phạm các quy luật chiến tranh bằng văn bản và bất thành văn.