
Tác giả : KANG CHOL-HWAN
với Pierre Rigoulot
Trần Quang Nghĩa dịch
21 ĐẾN NAM HÀN
Chuyến khởi hành của chúng tôi được ấn định vào ngày 14 tháng 9. Thuyền trưởng đã lên kế hoạch cho mọi thứ rất chi tiết, bởi vì việc thực hiện sẽ không hề dễ dàng. Để đến được con tàu, chúng tôi phải băng qua một cây cầu bắc qua một nhánh biển. Dọc theo cây cầu đều có cảnh sát và nhân viên hải quan Trung Quốc đồn trú. May mắn thay, các đội “Honduran” được đối xử tương đối lỏng lẻo, giấy tờ của họ chỉ được xem xét chiếu lệ. Khi thuyền trưởng của chúng tôi đi uống rượu, ông ấy đã mượn hai giấy tờ tùy thân của thủy thủ cho An-hyuk và tôi, đồng thời cũng mua cho chúng tôi một số quần áo thủy thủ. Đã đến lúc phải lên tàu.
Thuyền trưởng đi trước với chúng tôi theo sát gót. Tôi nhìn thẳng về phía trước và cố mỉm cười, nhưng tim tôi đang đập xuyên qua áo và chân tôi như cao su. Chỉ mất ba mươi giây để qua cầu nhưng dường như dài vô tận. Tôi cố gắng trình thẻ của mình nhanh chóng và thờ ơ nhất có thể, nhưng một cảnh sát cúi người về phía trước, dường như đang cố gắng nhìn rõ hơn. Tôi gần như bất tỉnh. Tôi biết mình đang dao động giữa sự sống và cái chết. Tôi không còn nhìn thấy cửa quay phía trước nữa và có cảm giác như mình đang bước vào một bộ phim quay chậm. Nhưng viên cảnh sát dường như đã mất đi dòng suy nghĩ của mình. Không hiểu vì lý do gì mà tôi không thể nhìn thấy, anh ta đột nhiên đứng thẳng lên và nhìn ra chỗ khác. Đôi chân run rẩy của tôi lại tiếp tục bước đi. Đầu tôi cảm thấy hoàn toàn trống rỗng, không trọng lượng… Nghĩ lại, tôi chắc chắn rằng viên cảnh sát đó không hề quan tâm đến tôi hay bức ảnh một chút nào. Tuy nhiên, vào thời điểm đó, tôi nghĩ trò chơi đã kết thúc.
Khi chúng tôi đã ở trên tàu, bước tiếp theo là tìm nơi ẩn náu. Một giờ trước khi tàu khởi hành đi nước khác, cảnh sát Trung Quốc lên tàu để kiểm tra hành khách đi lậu. Họ đếm số thủy thủ, kiểm tra kỹ giấy tờ tùy thân của họ và khám xét con tàu từ mũi đến đuôi tàu. Để tránh bị phát hiện, An-hyuk và tôi chui vào thùng dầu nóng, tại đó chúng tôi lội trong chất lỏng loãng đến ngang hông. Chỉ có thuyền trưởng và thuyền phó biết chúng tôi đang ở trên tàu. Chúng tôi ở dưới đó suốt ba tiếng đồng hồ, bao bọc trong tiếng ồn ào của máy móc và hít thở khói độc, cho đến khi con tàu cuối cùng rời khỏi lãnh hải Trung Quốc. Sau khi tắm rửa thật lâu để xua đi mùi dầu, chúng tôi lên boong. Chúng tôi đã gần đến điểm cuối của cuộc hành trình. Như khi vượt sông Áp Lục, một lần nữa ký ức về gia đình và những mối liên hệ của tôi với miền Bắc lại ùa về trong tôi. Tôi lo lắng các tờ báo Nhật Bản hay Hàn Quốc có thể viết về trường hợp của tôi. Rồi chuyện gì sẽ xảy ra với gia đình tôi? Tôi cố gắng an ủi rằng bất cứ thiệt hại nào có thể xảy ra đều đã xảy ra rồi. Không thể quay lại. Và tôi đã thắng ít nhất hai điều: Tôi được bình an vô sự, và tôi có thể kể cho cả thế giới về cuộc sống trong các trại ở Bắc Triều Tiên.
Cuối cùng, khi chúng tôi đến vùng biển quốc tế, thuyền trưởng đưa ra lời kêu gọi tới tất cả các tàu Hàn Quốc trong vùng lân cận. Ông ấy nghĩ điều này sẽ ít nguy hiểm hơn so với việc cố gắng đưa chúng tôi đến Nhật Bản – bến cảng đầu tiên của anh ấy – mặc dù có khả năng cuộc gọi vô tuyến của ông ấy có thể bị tàu Bắc Triều Tiên chặn lại. Ngay sau khi tin nhắn được gửi đi, chúng tôi thấy một tàu quân sự đến gần. Lúc đó ngày đã chuyển sang đêm và rất khó để xác định dấu hiệu xuất xứ của nó. Nó đến từ miền Bắc hay miền Nam? Sự lo lắng của chúng tôi tăng lên. Sau khi đi được vài chục thước, con tàu đột ngột bật đèn pha và chĩa thẳng vào chúng tôi. Sau đó có người đã phát loa và yêu cầu tàu của chúng tôi dừng lại và xác nhận danh tính. Chúng tôi đã gọi được một con tàu Hàn Quốc! Một vài thủy thủ của họ đã được mời lên tàu để nói chuyện riêng với thuyền trưởng của chúng tôi. Khi xong việc, các thủy thủ Hàn Quốc ra hiệu cho chúng tôi theo họ về tàu. Chúng tôi cảm ơn người đã chở lậu mình với tâm trạng vô cùng xúc động, nước mắt rưng rưng. Người thuyền trưởng đó đã cứu mạng chúng tôi.
Khi lên tàu, thuyền trưởng con tàu Hàn Quốc hỏi chúng tôi vài câu ngắn gọn – tuổi, tên, nghề nghiệp. Anh ấy ghi chép những câu trả lời của chúng tôi, rồi chuyển tiếp chúng đến Seoul qua điện đài Sau đó chúng tôi được đưa đến một cabin trông giống như một phòng khách sạn sang trọng, có cả tivi màu. Tất cả các sĩ quan buổi tối đều đến gặp chúng tôi, đưa ra những lời động viên và hỏi thăm về kế hoạch của chúng tôi. Sự đón tiếp nồng nhiệt khiến chúng tôi sửng sờ. Từ lâu, chúng tôi đã thoát khỏi những lời dối trá cưỡng ép của miền Bắc, nhưng sự ân cần như vậy của “những con rối của chủ nghĩa đế quốc Mỹ” vẫn khó có thể hiểu được. Sau đó, thuyền trưởng của con tàu đã tham gia cùng chúng tôi, anh muốn hỏi thêm về hành trình của chúng tôi, những nơi chúng tôi đã sống, công việc và đào tạo chuyên môn của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi làm theo gợi ý của anh ấy là cố gắng nghỉ ngơi và thư giãn. Chúng tôi bật truyền hình Hàn Quốc lần đầu tiên trong đời.
Đột nhiên, chương trình chúng tôi đang xem bị gián đoạn vì một bản tin đặc biệt: hai thanh niên từ Bắc Triều Tiên đang trên đường vào miền Nam sau khi đi qua một “nước thứ ba” – như cách gọi thông thường là Trung Quốc. Khi sự ngạc nhiên qua đi, chúng tôi thưởng thức chương trình truyền hình không bị kiểm duyệt, lướt các kênh và xem thử nhiều chương trình khác nhau. Chúng tôi có một người trông nom đi cùng chúng tôi trong cabin, một chàng trai trẻ đang thi hành nghĩa vụ quân sự cưỡng bách, nhưng sự hiện diện của anh không hề gây khó chịu chút nào. Chuyến đi thật thú vị, với biển lặng và bầu trời trong xanh. Thức ăn được mang đến tận cabin của chúng tôi và giữa các bữa ăn, chúng tôi được phục vụ đồ ăn nhẹ gồm bia và bánh ngọt.
Có lúc con tàu dừng lại trong vài giờ. Tôi tưởng tượng nó đang chờ đợi thông tin từ Seoul về phương cách xử lý trường hợp chúng tôi. Nếu vậy thì cuối cùng mệnh lệnh đã đến và ba giờ sau, khi màn đêm buông xuống, chúng tôi đến quân cảng Inchon, cách Seoul không xa. Có rất nhiều binh sĩ đang chờ chúng tôi ở bến tàu, cùng với một số người mặc thường phục – chắc chắn là nhân viên an ninh Hàn Quốc. Họ nắm tay An-hyuk và tôi rồi dẫn chúng tôi vào xe riêng. Tôi ngồi giữa hàng ghế sau với một người bảo vệ vạm vỡ ở hai bên. Chúng tôi lái xe về hướng Seoul, dừng lại ở một ngôi nhà biệt lập trông có vẻ bình thường. Một bữa tiệc xa hoa đang chờ chúng tôi trên bàn ăn, và trước khi chuyển sang công việc nghiêm túc, chúng tôi được mời thưởng thức. Sau đó, An-hyuk và tôi được đưa đến các phòng riêng biệt và bị thẩm vấn rất lâu. Các đặc vụ dường như muốn chắc chắn rằng câu chuyện của chúng tôi có căn cứ. Họ hỏi đi hỏi lại cùng một câu hỏi. Có lúc, người đặc vụ đang thẩm vấn tôi nói: “Anh thấy đấy, tôi đã hỏi anh câu hỏi này ba lần theo ba cách khác nhau, và mỗi lần anh đều đưa ra cho tôi một câu trả lời giống hệt nhau. Nếu anh đang nói dối thì quả là anh rất thông minh về điều đó! Anh ấy đưa cho tôi một tờ giấy và yêu cầu tôi vẽ bản đồ Yodok. Tôi làm như được bảo, cố gắng ghi nhớ từng chi tiết và dành sự chú ý đặc biệt đến Ipsok, địa điểm hành quyết và những ngọn núi. Người đại diện có vẻ hơi ngạc nhiên. Anh ấy nhìn tôi một lúc lâu rồi lấy một bức ảnh ra khỏi ngăn kéo bàn làm việc. Tôi không thể tin vào mắt mình: đó là trại của tôi! Nhìn thấy túp lều của mình, tôi kêu lên. Người đại diện cúi đầu xuống. Anh ấy bắt đầu tin tưởng tôi. Sau đó tôi xác định những công trình kiến trúc khác cho anh ta: doanh trại của tù độc thân, nhà máy chưng cất rượu. . . . Việc này diễn ra khá lâu. Tôi kể cho anh ấy mọi điều tôi biết. Bầu không khí trong phòng đã thay đổi hoàn toàn kể từ khi bắt đầu cuộc thẩm vấn. Người đại diện tỏ ra thoải mái, sự vui vẻ gượng ép của anh ta đã chuyển sang sự hài hước thân tình và tôi tâm sự với anh ta với sự tin tưởng hoàn toàn. Cuộc thẩm vấn kéo dài một tuần. Nó được tiến hành bởi hai đặc vụ, thay phiên nhau cách nhau hai giờ. Nếu cần nghỉ ngơi, tôi có thể ngủ ở phòng bên cạnh. Sau đó chúng tôi sẽ bắt đầu lại. Các đặc vụ ở trong tòa nhà suốt ngày đêm, giống như tôi.
Cuối tuần đó, tôi được phép rời văn phòng. Mặc dù cuộc thẩm vấn khiến tôi cảm thấy choáng váng và trống rỗng, nhưng tôi hiểu tại sao câu chuyện của tôi lại khiến nhà chức trách quan tâm và nghĩ rằng việc họ muốn xác nhận tính xác thực là điều bình thường. Dù cuộc thẩm vấn đã kết thúc nhưng tôi vẫn tiếp tục sống trong ngôi nhà đó và dùng bữa với các nhân viên an ninh và giám đốc của họ. Cuối tuần đầu tiên, người đứng đầu cơ quan an ninh đến bắt tay tôi.
“Anh đã vượt qua được rào cản đầu tiên,” ông ấy nói. “Nhưng còn có những người khác. Anh đã đến từ một nơi rất xa, anh biết đấy. . . .” Ông dừng lại, rồi kết luận bằng một lời đặc biệt chân thành: “Trong số những người bỏ ngũ mà tôi từng gặp, anh là người phải chịu đựng nhiều nhất”.
Theo thời gian, sự tương tác của tôi với các đặc vụ ngày càng ít trang trọng hơn và lịch trình của tôi cũng ít bị hạn chế hơn. Quá trình này kéo dài khoảng sáu tháng. Những cuộc thẩm vấn tiếp theo – hay đúng ra là những cuộc trò chuyện – dần dần trở nên ngắn gọn hơn và ít thường xuyên hơn. Các câu hỏi chuyển từ trại cải tạo sang những năm tôi làm việc trong tỉnh Yodok và công việc phân phối hàng của tôi. Tôi cũng đã trả lời nhiều cuộc phỏng vấn và bắt đầu học tiếng Anh như một cách giải trí. Sau cuộc thẩm vấn đầu tiên, tôi cũng được phép dành thời gian với An-hyuk. Chúng tôi ngồi trò chuyện, hút thuốc và đọc báo. Sau ba tháng, chúng tôi được chuyển vào cùng một phòng.
Những lo lắng ban đầu của chúng tôi – sau 25 năm ở Triều Tiên, việc chuyển đến một văn phòng an ninh Hàn Quốc là một vấn đề không hề nhỏ – đã giảm bớt. Những đặc vụ điềm tĩnh này không bao giờ hết làm tôi ngạc nhiên. Họ được hun đúc bằng những phẩm chất khác với những đặc vụ tôi từng gặp ở miền Bắc. Đặc biệt, một trong hai người thẩm vấn tôi dường như có cảm tình sâu sắc với tôi. Anh ấy thường mang cho tôi sách, một ít tiền hoặc một chút gì đó đặc biệt để ăn chơi. Ngay cả khi đó có thể là một phần việc của anh ấy, một mối liên kết thực sự đã phát triển, mối liên kết giữa con người với con người. Chúng tôi vẫn là bạn bè cho đến ngày nay. Theo thời gian, tôi được phép rời khỏi trung tâm thẩm vấn—tất nhiên là có một người đi cùng. Anh ấy chỉ cho tôi những địa điểm nổi tiếng của Seoul: Tòa thị chính, Namdaemun, bờ sông Hàn, các công viên, Itaewon. Một buổi tối, chúng tôi lên Tháp Truyền Hình Namsam và nhìn thấy toàn bộ Seoul sáng rực bên dưới. Khung cảnh làm tôi ngạc nhiên.
Tuy nhiên, điều làm tôi ấn tượng nhất là cách mọi người sống. Mọi người dường như được tự do làm bất cứ điều gì mình muốn. Không có hệ thống nào tổ chức các phong trào và hoạt động của họ. Tôi phải thừa nhận rằng lúc đầu tôi khá lo lắng. Loại xã hội này không thể tồn tại lâu dài; nó không thể đương đầu với một cuộc khủng hoảng. Sau này tôi nhận ra rằng điều này chỉ giống như sự hỗn loạn. Một logic lan tỏa chi phối sự tương tác của mọi người. Mặc dù nguyên tắc mọi người vì mình là tối cao nhưng người dân ở đây tỏ ra trung thực; họ nghĩ đến người khác và chia sẻ những giá trị chung. Seoul tràn ngập ô tô. Tôi chưa bao giờ thấy nhiều đến thế. Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng hầu hết chúng đều được sản xuất tại Hàn Quốc. Điều này chưa bao giờ được đề cập ở miền Bắc. Tôi nhớ cảm giác tự hào khi phát hiện ra điều này – cảm giác tự hào đầu tiên của tôi đối với Hàn Quốc. Cuối cùng, tôi trở nên say mê thành phố rộng lớn đó với hàng triệu cư dân, những rừng các tòa nhà chọc trời hiện đại, giao thông dày đặc, cuộc sống nhộn nhịp và đầy năng lượng về đêm.
Bất cứ khi nào một kẻ đào thoát đến Seoul, một cuộc họp báo sẽ được triệu tập. Trường hợp của chúng tôi cũng không ngoại lệ. Một tháng sau khi đến, chúng tôi được đưa đến Trung tâm Báo chí Seoul để được hàng chục nhà báo phỏng vấn. Họ bắt đầu bằng những câu hỏi điển hình về cách chúng tôi đến được Hàn Quốc, cuộc sống trong trại cải tạo, v.v. Nhưng sau đó họ quay sang các đặc vụ để hỏi chúng tôi được tìm thấy khi nào và như thế nào, chúng tôi đã được đưa ra những chỉ dẫn gì trước cuộc phỏng vấn này và liệu chúng tôi có được đảm bảo quyền tự do ngôn luận hay không. Đó là một cú sốc khủng khiếp. Tôi đã trải qua rất nhiều điều khủng khiếp, và những người này, những người đã sống cả đời trong sự thoải mái hoàn hảo, đang nhìn tôi đầy nghi ngờ! Rõ ràng bài nói chuyện của tôi không thuận lợi cho miền Bắc. Rõ ràng, lời khai của chúng tôi về các trại và sự đàn áp của chế độ Bình Nhưỡng sẽ củng cố tuyên bố của miền Nam rằng họ là đại diện hợp pháp của quốc gia Triều Tiên. Nhưng như vậy thì sao? Nói sự thật có nhất thiết đồng nghĩa với việc phải chống lại chính phủ không? Tôi có nên tuyên bố rằng mình đã bị Cơ quan An ninh miền Nam thao túng không? Có phải miền Nam tư bản luôn được cho là sai?
Tôi thấy nhà báo của tờ Hangyore đặc biệt khó chịu. Còn có chỗ nào ông không dành nỗi ngờ vực cho các nạn nhân? Hàng triệu người đang chết hoặc bị đói, toàn bộ dân số bị tước đoạt tự do, và mối quan tâm duy nhất của ông là chúng tôi có đáng tin không. Chúng tôi đã liều mạng chạy trốn. Chúng tôi đã gặp nguy hiểm với tính mạng khi bị giam giữ trong trại. Chúng tôi còn cần chứng minh điều gì nữa? Các nhân viên an ninh không bao giờ thì thầm một lời nào vào tai chúng tôi. Khi tôi xin lời khuyên từ họ về cách ứng xử trong cuộc họp báo, một người trong số họ gợi ý rằng tôi nên nói bất cứ điều gì tôi cảm thấy—“chỉ là bạn có thể không muốn nói với họ mọi thứ,” anh ấy nói thêm, “hoặc họ có thể không tin bạn.” . Chúng tôi không hề bị thao túng. Sự hoài nghi và xiên xỏ của những người phỏng vấn chúng tôi đã khiến An-hyuk bị chấn động sâu sắc. Anh và một vài đặc vụ đã rơi nước mắt; đây không giống một cuộc họp báo được tổ chức cho mục đích tuyên truyền. Thậm chí một số nhà báo cũng cảm động.
Tôi quyết định nói. “Nếu bạn không muốn tin chúng tôi, hãy đi về miền Bắc! Bạn có nghĩ rằng chúng tôi đã mạo hiểm mạng sống của mình để có thể đến đây và nói dối không?
Một đám đông lớn đã có mặt tại buổi họp báo. Chưa bao giờ trong đời tôi lại nói chuyện trước mặt nhiều người đến vậy. Không bị làm phiền bởi tất cả các máy ảnh và ánh sáng, tôi chỉ thể hiện một phần những gì tôi muốn. Ngày hôm sau, câu chuyện của chúng tôi xuất hiện trên khắp các mặt báo. Các đài phát thanh và truyền hình đã gọi điện cho chúng tôi để phỏng vấn, còn báo chí Nhật Bản và Mỹ cũng quan tâm đến chúng tôi. Dần dần chúng tôi đã quen với việc kể lại câu chuyện của mình. Tuy nhiên, khi lặp lại nó quá thường xuyên, đôi khi tôi cảm thấy mình đang đánh đổi trải nghiệm của mình để lấy một câu chuyện không còn hoàn toàn là của riêng tôi nữa.
22
THÍCH NGHI VỚI THẾ GIỚI TƯ BẢN
Sau khi cuộc phỏng vấn của chúng tôi kết thúc, chúng tôi ngồi đợi ai đó nói cho chúng tôi biết nên làm gì tiếp theo. Chúng tôi có phải làm việc không? Chúng tôi có thể quay lại trường học được không? Sự buồn chán bắt đầu ập đến. Các đặc vụ đề nghị chúng tôi thuê một số băng video.
Họ hỏi: “Các anh muốn xem phim hành động hay phim khiêu dâm?”
“Phim khiêu dâm là gì?”
Họ giải thích rằng phim khiêu dâm về cơ bản là phim khiêu dâm nhẹ nhàng, phim khiêu dâm nặng đô là bất hợp pháp ở Hàn Quốc. Chúng tôi chọn xem phim khiêu dâm—bốn phim liên tiếp! Một đêm buông thả dường như là khoảng thời gian quá ngắn để bù đắp cho sự thận trọng cả đời ở Triều Tiên. Chúng tôi đã bước vào một xứ sở thần tiên. Chúng tôi không thể tin vào mắt mình: Diễn viên loại nào sẽ đóng những vai này? Làm sao họ có thể khỏa thân trước ống kính? Chúng tôi nhớ lại những cáo buộc đồi trụy mà chúng tôi đã nghe nhắm vào miền Nam. Ví dụ, người ta nói rằng trường đại học nữ sinh Ehwa [trường đại học dành cho nữ nổi tiếng ở Seoul] không phải là trường dành cho phụ nữ trẻ mà là trường dành cho gái mại dâm, và những gái điếm này thực sự đã ngủ – hành vi trụy lạc tột độ – với lính Mỹ! Ở Triều Tiên, việc một người đàn ông cố gắng quyến rũ một phụ nữ là điều không thể tưởng tượng được. Những cuộc phiêu lưu lãng mạn là điều không thể tưởng tượng được. Và không chỉ trong phim – trong đời thực cũng vậy, người đàn ông phải chủ động theo cách trực tiếp nhất có thể. Sự tán tỉnh được coi là tàn dư của một thời đại đã qua và tình yêu không bao giờ là mối quan tâm thực sự! Tuy nhiên, đối với tất cả những điều đó, việc một người đàn ông buộc phụ nữ phải nhượng bộ trước những động thái tiến tới của mình được coi là điều bình thường.
Chúng tôi đi ra thành phố, cũng được đồng hành với các đặc vụ như trước. Chính quyền Hàn Quốc muốn quan sát và theo dõi những kẻ bỏ ngũ sau khi họ mới đến. Họ cũng muốn bảo vệ những người này. Vụ sát hại một nhân vật đào thoát cấp cao có quan hệ gia đình với Kim Jong-il do các đặc vụ Bình Nhưỡng thực hiện năm 1996 đã chứng tỏ sự cần thiết phải cảnh giác. Hơn nữa, chúng tôi cần sự giúp đỡ của họ. Tìm đường đi qua siêu đô thị, giải quyết các dịch vụ công cộng, tìm việc làm: không điều nào trong số này là dễ dàng đối với những người đã sống hàng thập kỷ ở Vương quốc Bí Ẩn, biệt danh đôi khi Triều Tiên được gọi.
Sau sáu tháng bị giám sát liên tục, tôi được phép thuê một căn hộ và một cảnh sát địa phương được giao phụ trách vụ việc của tôi. Khi tôi cần ra ngoài – đi họp báo hay phỏng vấn, mua tủ lạnh hay ký hợp đồng thuê nhà – tôi gọi cho anh ấy và anh ấy đi cùng tôi. Sau hai năm, tôi được phép sống hoàn toàn một mình. Sự hiện diện của các nhân viên an ninh nhìn chung có ích hơn là nặng nề. Bất chấp cơn thịnh nộ mà tôi thường cảm thấy đối với thiên thần hộ mệnh của mình, tôi vẫn mang ơn anh ấy vì cuộc gặp gỡ định mệnh nhất trong đời. Anh ấy giới thiệu tôi với một doanh nhân rất giàu gốc miền Bắc, người đã đọc câu chuyện của tôi trên báo và muốn đóng góp 200.000 won (200 USD) mỗi tháng cho học phí đại học của tôi. Ông ấy còn mua cho tôi một chiếc máy tính và trả tiền học lập trình. Quan trọng hơn, ông ấy đã dạy tôi cách đối mặt với những khó khăn trong thế giới mới.
Sau đó, có viên chức Cơ quan An ninh giới thiệu tôi với nhà thờ Tin lành mà tôi vẫn còn đi lễ. Cộng đồng Thiên chúa giáo ở Seoul đã hỗ trợ tôi rất nhiều về vật chất và tinh thần. Tôn giáo rất hấp dẫn đối với những kẻ trốn khỏi Bắc Triều Tiên. Bầu không khí sùng bái gần như tôn giáo nơi chúng tôi lớn lên ở Bắc Triều Tiên chỉ giải thích một phần hiện tượng này; tôi tin rằng điều quan trọng hơn là sự khao khát tình cảm – thậm chí là tình yêu – mà mọi kẻ trốn đi đều cảm thấy. Tôi không biết liệu tôi có sùng đạo sâu sắc hay không, nhưng tôi muốn được rửa tội.
Tôi cũng may mắn nhận được sự hỗ trợ từ ngân hàng, cấp học bổng cho tôi trong suốt thời gian học tập. Thêm vào đó là số tiền tôi kiếm được từ việc trả lời phỏng vấn và thỉnh thoảng viết bài, vì vậy tôi không phải lo lắng nhiều về vật chất.
Vì sự hội nhập của tôi vào cuộc sống Hàn Quốc cuối cùng sẽ phải diễn ra thông qua công việc ổn định nên tôi đã gia nhập Đại học Hanyang. Người sáng lập tổ chức này, Kim Yon-jun, là người ủng hộ mạnh mẽ nhân quyền ở miền Bắc. Nhiều kẻ đào thoát đã đăng ký vào trường đại học của ông ấy, và tôi được khuyến khích làm điều tương tự. Tôi đã chọn ngành kinh doanh quốc tế là chuyên ngành của mình. Tất cả sinh viên đều trẻ hơn tôi rất nhiều và họ chấp nhận tôi như thể một người anh trai. Họ rất quý mến tôi và cố gắng giúp đỡ tôi bằng mọi cách có thể, đặc biệt là với tiếng Anh mà tôi nói rất kém. Bất chấp mối quan hệ thân thiện của chúng tôi, nhiều điều họ làm khiến tôi khó chịu. Họ luôn bỏ đi đến các quán cà phê và nhà hàng, như thể việc lấy một lon soda từ máy pha chế rồi nằm dài trên bãi cỏ vẫn chưa đủ. Họ đang ném tiền qua cửa sổ! Cuộc sống ở miền Bắc đã khiến tôi trở thành một người khổ hạnh. Khi các sinh viên ngồi khoanh chân trước mặt tôi và bắt đầu hút thuốc, tôi phải ráng lắm mới không buột miệng; bạn không được làm thế trước mặt một người lớn tuổi hơn bạn. Người miền Bắc theo chủ nghĩa siêu truyền thống. Tình bạn giữa những người khác giới không được coi là chuẩn mực. Khi một người đàn ông nói chuyện với một người phụ nữ cùng tuổi với mình, anh ta sử dụng cách xưng hô thân mật, nhưng cô ấy phải xưng hô đúng mực. Các mối quan hệ tuân theo một hệ thống phân cấp chặt chẽ. Ở đây, chúng tôi bình đẳng! Một số nữ sinh viên tự tin đến mức họ hầu như không chú ý đến tôi khi tôi nói chuyện với họ.
Cuối cùng tôi đã quen với tất cả các điều này. Tôi có những kỷ niệm đẹp về những ngày ở trường đại học, mặc dù những sinh viên cánh tả thường quấy rầy tôi. Họ luôn tìm cách bới móc những thiếu sót của hệ thống chính quyền Hàn Quốc. Ít nhất miền Bắc không bị tha hóa bởi cuộc chiến khốc liệt giành lợi nhuận không hồi kết! Mặc dù tôi thiếu những lập luận mang tính học thuyết để phản bác lại những tuyên bố của họ nhưng tôi không ấn tượng lắm. “Hãy ra miền Băc sống đi,” tôi nói với những kê phản đối mình, “và các anh sẽ thôi bào chữa cho tất cả những thất bại của Kim Il-sung. Hãy tự mình tìm hiểu trực tiếp đi.”
Một ngày nọ, cuộc thảo luận với một thành viên của Hanchongnyon, tổ chức cánh tả của trường đại học, trở nên khá sôi nổi. Tôi bị công kích bởi những lập luận mang tính trí tuệ về giai cấp, sự thống trị và chủ nghĩa đế quốc, trong đó đề cập đến những người như Pierre Bourdieu. Người xem đã vây quanh chúng tôi. Họ đứng về phía ai? Họ có đồng ý với người đối thoại với tôi khi anh ta nói rằng tôi có quan điểm “chủ quan” và kinh nghiệm cá nhân của tôi không phải là cơ sở để thế giới lên án nền chính trị Triều Tiên? Sau này, một vài sinh viên kể với tôi rằng phần lớn khán giả rất xúc động trước câu chuyện tôi bị cầm tù và trốn sang Trung Quốc. Tôi vui mừng khi nghe điều đó: sự im lặng ban đầu giống như một sức mạnh vô hình to lớn. Những sinh viên cánh tả nên xem xét ý nghĩa của sự im lặng đó.
Tuy nhiên, mối quan tâm hàng đầu của tôi liên quan đến tương lai nghề nghiệp của mình. Bất chấp sự hỗ trợ của các bạn sinh viên, tôi vẫn gặp khó khăn với tiếng Anh. Về phần mình, tôi đã giúp đỡ rất nhiều sinh viên về mặt tài chính. Trớ trêu thay, kẻ đào thoát Bắc Triều Tiên lại trở thành một sinh viên khá giả, được hưởng nền giáo dục miễn phí, được hưởng trợ cấp hậu hĩnh của chính phủ và kiếm được cát-sê từ các bài báo và các buổi diễn thuyết. Ngược lại, nhiều sinh viên từ các tỉnh của Hàn Quốc phải sống chật vật trong các căn phòng thuê nhỏ xíu, làm việc – một số làm nhân viên kiểm tra siêu thị, người khác làm phục vụ nhà hàng – và chờ cha mẹ gửi cho họ một ít tiền tiêu vặt. Tôi bao họ ăn và trong một số trường hợp thậm chí còn trả tiền học phí cho họ. Đối với tôi, đó là một cách để nói lời cảm ơn.
Với rất nhiều tiền trong tay, tôi rơi vào một lối sống kỳ quặc khiến tôi gần như đánh mất chính mình. Có người đề nghị cho tôi thuê một căn hộ mới ở khu Changdam-dong cao cấp, một khu hỗn hợp văn phòng và studio, hay còn gọi là officetel, (văn phòng kết hợp với khách sạn). Tôi quyết định thuê nó. Đây là một thế giới đáng kinh ngạc, trong đó tiền chảy như nước. Phía trước có thể nhìn thấy những chiếc BMW đang đỗ của các bác sĩ, tiếp viên, ngôi sao điện ảnh. Tôi không có một chiếc BMW nào, nhưng tôi tiêu tiền một cách hoang phí, bị mê hoặc bởi sức mạnh mà nó mang lại cho tôi và ngất ngây trước thành công của mình. Tôi, một cựu tù nhân, người đã từng giết chuột để lấy thức ăn và nuốt kỳ nhông, đang uống rượu với cư dân khu vực này và ăn trong nhà hàng của họ! Tôi đã vượt qua một chặng đường dài từ lúc bối rối trước lời mời khiêu vũ của một phụ nữ trẻ Trung Quốc. Bây giờ tôi lại là người mời các cô gái xinh đẹp bước với mình lên sàn nhảy. Đồng thời, tôi vẫn còn là một sinh viên. Cuộc sống ban đêm và việc học của tôi đang trong tình trạng xung đột. Tôi gần như bị hư hỏng bởi tiền bạc tôi nhận được khi mở miệng! Tôi không còn biết mình đang đứng ở đâu nữa. Tôi cảm thấy không thoải mái với chính mình – và nhiều lần tỉnh giấc vào sáng sớm, tôi cảm thấy hơi hổ thẹn.
Tôi cương quyết đoạn tuyệt hoàn toàn với cuộc sống đó. Mong muốn nhấn chìm nỗi buồn của tôi không mạnh mẽ băng nỗi khao khát tạo dựng sự ổn định trong cuộc sống, kể cho thế giới biết về tình hình ở Triều Tiên, giúp đỡ những người tị nạn bất hạnh và tìm một người vợ để chia sẻ phần còn lại của cuộc đời tôi. Tuy nhiên, ở đây, một kẻ đào thoát gặp phải những khó khăn không bao giờ xuất hiện trong số liệu thống kê của chính phủ và không có số tiền nào có thể giải quyết được. Gần đây tôi đã yêu một cô gái đến từ Seoul mà tôi dự định tính đến chuyện lâu dài, nhưng ở Hàn Quốc, hôn nhân không chỉ là sự cam kết giữa hai cá nhân; đó là sự kết hợp của hai gia đình. Gia đình tôi đang ở đâu? Đã chết hoặc mất liên lạc mãi mãi. Không gia đình, không hôn nhân. Hơn nữa, làm sao gia đình cô lại không nghi ngờ một người Bắc Triều Tiên? Việc tôi và gia đình phải trả giá đắt vì không chịu hòa nhập với chế độ Bắc Triều Tiên chẳng có ý nghĩa gì. Những định kiến trong gia đình không bao giờ dễ dàng bị gạt bỏ.
Người dân Hàn Quốc nên nhận ra rằng họ có vai trò quan trọng trong việc chào đón người tị nạn. Người tị nạn không chỉ là những người chạy trốn điều gì đó; họ là những người khó thích nghi và khó quên đi những gì mình đã phải chịu đựng. Tôi tiếp tục có những giấc mơ trong đó tôi vụt chạy qua sông Áp Lục hoặc trên núi, các đặc vụ Bắc Triều Tiên đang đuổi theo bén gót. Họ sắp bắt được tôi và tôi bừng tỉnh dậy, mồ hôi vã ra. Người Hàn nói mình ủng hộ thống nhất là chưa đủ. Họ cần phải chứng minh điều đó bằng hành động. Diễn ngôn về thống nhất là một chuyện, thái độ của người dân đối với những kẻ bỏ trốn khỏi Bắc Triều Tiên lại là một chuyện khác. Tôi không đặt câu hỏi về mong muốn thống nhất của người dân Hàn Quốc, mặc dù một bộ phận lớn không quan tâm đến chuyện đó cách này hay cách khác. Điều tôi thực sự muốn tố cáo – dựa trên kinh nghiệm của bản thân – là vô số thành kiến chống lại người dân miền Bắc. Sự nghèo đói và sự thấp kém về kinh tế của họ thường được coi là phản ánh sự thấp kém tự nhiên nào đó. Bản thân tôi cũng từng là mục tiêu của những nhận thức sai lầm như vậy: bất cứ khi nào tôi ăn mặc sang trọng, mọi người đều nhìn tôi với ánh mắt nghi ngờ. Tôi không hành động theo cách họ mong đợi ở tôi. Công việc cũng vậy. Tiền rất quan trọng ở Hàn Quốc, tôi luôn cảm thấy mình sẽ không bao giờ được coi là bình đẳng trừ khi tôi kiếm được nhiều tiền.
Miền Nam có một số hiệp hội dành cho những kẻ ly khai Bắc Triều Tiên. Một trong số đó được thành lập bởi Ko Yong-hwan, một nhà cựu ngoại giao Triều Tiên đặt trụ sở ở Zaire. Đối với tôi, có vẻ như trọng tâm chính của nhóm là giúp đỡ những người thoát ly giàu có, những người đã thích nghi khá tốt. Ở đầu bên kia của quang phổ, Hwang Jang-yop, nhà tư tưởng của Đảng Lao động đã trốn khỏi Triều Tiên vào tháng 2 năm 1997, đã thành lập một hiệp hội cố gắng giúp đỡ tất cả những người tị nạn trong khi lớn tiếng tuyên bố thái độ thù địch của họ đối với chế độ độc tài Kim Il-sung. Theo người sáng lập, nhiệm vụ thiêng liêng của tổ chức – quan trọng hơn cuộc chiến chống lại sự chiếm đóng của Nhật Bản – là công khai những tội ác mà Kim Jong-il đã gây ra ở miền Bắc. Hwang Jang-yop không muốn gì hơn ngoài việc lật đổ chế độ. Tổ chức này cũng quyên tiền để giúp hỗ trợ và bảo vệ những người thoát ly lang thang dọc biên giới Trung Quốc.
Còn nhiều việc phải làm. Trong mười năm qua, tình hình ở Triều Tiên tiếp tục xấu đi. Những người tị nạn hiện đang vượt qua sông Áp Lục hoặc xa hơn về phía đông qua sông Đồ Môn để đến Trung Quốc, kể cho chúng tôi nghe những điều khủng khiếp về điều kiện ở Triều Tiên. Lời kể của các nhân chứng được thu thập bởi Good Friends (Những Người Bạn Tốt) —một hiệp hội lấy cảm hứng từ Phật giáo—thật là thê thảm. Dân chúng đói quá phải ăn đến cỏ và vỏ cây thông non và sung dâu. Những đứa trẻ hốc hác lang thang với làn da thường đen sạm và thối rữa vì nhiễm trùng. Ngay khi đợt rét đậm đầu tiên ập đến, họ chết vì bệnh thương hàn hoặc bệnh tả. Các gia đình đang bị ly tán Các bậc cha mẹ thậm chí phải bỏ rơi những đứa con út của mình với hy vọng ai đó tốt hơn có thể tìm thấy chúng và cho chúng một mái ấm gia đình. Mọi người cố gắng vượt biên mà không có phương tiện hay sự bảo vệ nào. Bất cứ khi nào tôi nghe những câu chuyện này, tôi nghĩ đến tất cả những thuận lợi mà tôi đã có. Tiền cho phép tôi đến biên giới bằng tàu hỏa và thuê người hướng dẫn.
Ngày nay, hầu hết những người tị nạn đến bờ sông đều kiệt sức sau nhiều ngày, thậm chí nhiều tuần đi bộ. Các lính canh đối xử với họ rất khắc nghiệt. Không có quà tặng? Không thương xót! Vô số câu chuyện về những trận đánh đập dã man và bị giam cầm trong những phòng giam hôi hám. Ngay cả khi họ tránh được lính biên phòng, những người bất hạnh này cũng không được mời ăn tối và hát karaoke sau khi vượt biên như tôi. Cảnh sát Trung Quốc thường nhắm mắt làm ngơ trước nạn buôn người trái phép nhưng họ cũng bắt trả lại một số lượng đáng kể cho Triều Tiên. Dọc theo biên giới, các nhóm Cơ đốc giáo đang làm những việc thiện nguyện đáng kinh ngạc để cứu các kkot-jebi—hay những đứa trẻ lang thang—cho ăn và cung cấp chỗ ở cho những người cần giúp đỡ nhất trong số họ. Các nhóm này cũng đang đấu tranh chống lại việc buôn bán phụ nữ trẻ Bắc Triều Tiên: 2.000 đến 5.000 nhân dân tệ là tất cả giá của một cô dâu Triều Tiên ở khu vực này của Trung Quốc.
Tôi cố gắng giúp những người thoát lý mới đến hòa nhập vào vũ trụ mới của họ. Đôi khi tôi được yêu cầu giúp đỡ những người tị nạn đang trốn ở Trung Quốc. Vào cuối tháng 10 năm 1999, một doanh nhân Hàn Quốc buôn bán ở Trung Quốc nói với tôi rằng ông ta đã chuyển số điện thoại của tôi cho hai kẻ đào thoát tự xưng là biết tôi. Vài ngày sau, tôi nhận được điện thoại từ Trung Quốc. “Đồng chí Kang Chol-hwan đó à?,” giọng nói đó vang lên. “Đồng chí” (dongmu) đó quả là một kẻ lạc hậu. Đã có thời tôi nghe và sử dụng từ đó liên tục. Người gọi điện là em trai một phụ nữ hàng xóm của chúng tôi ở Yodok. Tôi đã gặp anh ấy một lần ở nhà chị gái. Anh bắt đầu cho tôi biết tin tức về em gái tôi, mà anh ấy gặp lần cuối hai năm sau khi tôi đào tẩu. “Tất nhiên là cô ấy đã bị thẩm vấn và trông có vẻ rất nghèo. Chính quyền có vẻ lo lắng khi nhận ra anh đã biến mất. Họ sợ anh sẽ nói xấu về trại. Trong giờ học buổi sáng ở làng chúng tôi, trường hợp của anh luôn được đem ra bàn luận. Bí thư đảng nói với chúng tôi rằng tất cả chúng tôi cần phải cảnh giác và đảm bảo những sự cố như vậy không xảy ra nữa, rằng chúng tôi nên cảm thấy có trách nhiệm tố cáo về bất kỳ tin tức về âm mưu bỏ trốn nào”.
Tôi cũng được biết rằng một số bạn cũ của tôi cũng như một số cán bộ Đảng địa phương liên quan đến vụ việc của tôi đã bị bắt đưa vào trại. Tôi buồn vì đã làm người khác khổ sở. Tôi cũng buồn vì tôi mà em gái tôi phải sống dưới cái bóng đen đe dọa thường xuyên. Đồng thời, tôi tự hào rằng cuộc trốn thoát của tôi đã mang lại cho toàn bộ huyện một niềm hy vọng nhất định. Về phần người tị nạn Bắc Triều Tiên đã gọi điện cho tôi, dù biết rằng tôi cung cấp càng ít chi tiết về câu chuyện của anh ấy thì càng tốt. Tuy nhiên, để giúp mọi người có được bức tranh đầy đủ hơn về những khó khăn mà những kẻ đào thoát phải đối mặt, tôi sẽ đề cập đến việc những kẻ dẫn mối Trung Quốc của anh ta đe dọa sẽ giao trả anh cho cảnh sát và bán rẻ cô bạn gái trẻ đồng hành của anh trừ khi tôi gửi cho họ một ít tiền. May thay, người doanh nhân Hàn Quốc giúp chúng tôi tiếp xúc được đã có cách làm thay đổi suy nghĩ của họ. . . .
LỜI KẾT
THEO ĐUỔI CÔNG CUỘC HỖ TRỢ CHO BẮC TRIỀU TIÊN
Hiện tại, tôi muốn làm việc thay mặt cho những linh hồn bất hạnh đang cố gắng chạy trốn khỏi đàn áp và nạn đói. Tất cả chúng ta, chúng ta và chính phủ, phải tích cực hơn. Có vẻ như chúng ta đều là anh em nhưng chị em chúng ta lại bị mua bán ở biên giới. Chúng ta có tiếp tục thể hiện sự kiềm chế như vậy không? Tình trạng thiếu lương thực, năng lượng và thuốc men đang trở nên nghiêm trọng. Theo báo cáo chưa được kiểm chứng của các nhà báo, đã có vô số nạn nhân. Ước tính nạn đói sẽ khiến từ 1 đến 3 triệu người thiệt mạng. Không có con số chính xác hơn vì chưa có ai thâm nhập đủ sâu vào đất nước khép kín Triều Tiên để thực hiện một nghiên cứu đầy đủ. Bất cứ ai đã từng đứng như tôi bên cạnh một người đang dần chết đói – người đã tận mắt chứng kiến nỗi kinh hoàng này – sẽ không bao giờ rề rà tranh luận về ưu và nhược điểm của việc viện trợ lương thực. Câu hỏi thực sự duy nhất là vấn đề phân phối. Ai biết được bao nhiêu viện trợ được rút rỉa ra để củng cố cho quân đội? Người ta thường nghe thấy những phản đối như vậy, ngay cả trong số những người muốn thấy nhiều lương thực hơn được chở đến miền Bắc.
Đúng là ở Triều Tiên quân đội là trên hết. Nhưng đó không phải là một đội quân chuyên nghiệp bị tách biệt khỏi phần còn lại của dân chúng. Nó được tạo thành hoàn toàn từ những người tình nguyện – quân đoàn này đến quân đoàn khác. Thông thường, số lượng yêu cầu nhiều hơn số lượng cơ hội mở ra. Xuất thân của các tình nguyện viên giải thích cho sự nhiệt tình của họ. Nhiều người trong số họ là con cái của nông dân, đối với họ quân đội là bước đầu tiên để vào Đảng. Những gia đình nghèo nhất tranh thủ đưa con cái của họ vào quân đội vì họ biết rằng ở đó chúng sẽ có được thức ăn và quần áo. Quân đội cũng là cơ hội để leo lên các bậc thang xã hội: 30% cựu chiến binh tiếp tục vào đại học.
Một lập luận khác phản đối việc cung cấp viện trợ là ngay cả khi viện trợ không được chuyển hướng sang quân đội, nó vẫn cho phép chế độ tiết kiệm ngoại tệ – số tiền lẽ ra phải chi cho ngũ cốc – để mua vũ khí và tổ chức các bữa tiệc thịnh soạn để vinh danh các nhà lãnh đạo đất nước. Đây là tình thế tiến thoái lưỡng nan mà người ta luôn phải đối mặt khi cố gắng giúp đỡ một cộng đồng đã trở thành nạn nhân của các hệ thống kinh tế và chính trị gây ra nạn đói: giúp đỡ người dân cũng có nghĩa là duy trì chế độ xấu xa đó.
Vấn đề viện trợ, dù là lương thực hay bất cứ thứ gì khác, không phải là vấn đề chính; đúng hơn, nên ưu tiên tiếp nhận những người bỏ trốn và theo đó họ phải được pháp luật bảo vệ. Còn nhiều việc phải làm để giới thiệu người dân Triều Tiên với thế giới bên ngoài và thế giới bên ngoài với Triều Tiên. Dư luận quốc tế và các nhà lãnh đạo thế giới cần được thúc đẩy để có ý thức hơn về thảm kịch Triều Tiên và buộc Kim Jong-il phải thay đổi hành vi nếu không có nguy cơ bị tòa án quốc tế lên án.
Tôi đã không tham gia vào sự phấn khích và nhiệt tình được chia sẻ bởi nhiều người Hàn Quốc trong hội nghị thượng đỉnh gần đây giữa Triều Tiên và Hàn Quốc. Người ta phải ngây thơ mới tin rằng nụ cười và sự niềm nở của Kim Jong-il với tư cách là chủ nhà báo hiệu bất kỳ sự thay đổi thực sự nào trong một chế độ độc tài không có bình đẳng trong thế giới hiện đại – một nơi mà người dân luôn ở trong tình trạng bị khủng bố liên tục trong nhiều thập kỷ. Nếu Kim Jong-il mỉm cười, đó là vì ông ấy chắc chắn về quyền lực của mình và có kế hoạch tiếp tục thực thi nó với thái độ coi thường những quyền cơ bản nhất của con người.
Đi ngược lại làn sóng dư luận, tôi đã cố gắng giải thích – đáng chú ý nhất là trong số ra tháng 7 năm 2000 của tạp chí Chosun – rằng sự thân thiện của Kim Jong-il đã được tính toán. Mong muốn giả tạo của y về sự cởi mở hơn chỉ nhằm ý đồ như những năm sống ẩn dật có tính toán của y: đào sâu và mở rộng huyền thoại của chính mình. Tôi cũng giải thích rằng việc thống nhất với miền Bắc như hiện nay là điều không thể. Hàn Quốc là một đất nước dân chủ, nơi quyền lực thuộc về nhân dân. Ở miền Bắc, người dân sống một cuộc sống thảm hại, hoàn toàn phó mặc cho Đảng và Kim Jong-il, người tịch thu quyền lực vì mục đích riêng của mình. Sự thống nhất duy nhất có thể chấp nhận được là sự thống nhất trao cho người dân Triều Tiên quyền tự do sống một cuộc sống xứng đáng với con người. Giờ đây họ đang chết đói mà không có quyền thốt ra một lời phản đối nào, bị đè bẹp bởi một hệ thống chà đạp lên tất cả các quyền con người cơ bản của mình.
Chúng ta được biết rằng câu trả lời cho những vấn đề nhỏ này – tôn trọng nhân quyền, trại tập trung, bắt cóc công dân Hàn Quốc và Nhật Bản – hiện không phải là mối quan tâm hàng đầu. Chúng ta được biết rằng cuộc tranh luận này tốt hơn nên để sang một ngày khác, rằng vận mệnh của Triều Tiên sẽ được cải thiện trước khi chúng ta tiến hành thống nhất; nhưng đến lúc đó tất cả họ sẽ chết!
Thống nhất là điều không thể tránh khỏi, nhưng nó chỉ có thể diễn ra một khi Bình Nhưỡng đã ngừng hành hạ người dân dưới sự kiểm soát của mình. Làm sao chúng ta có thể đứng nhìn đoàn quân trẻ mồ côi vượt sông Áp Lục và Đồ Môn tìm nơi ẩn náu ở Trung Quốc? Làm sao chúng ta có thể đứng nhìn cha mẹ bán con gái mình để lấy đồ ăn? Tôi không muốn nhìn thấy thêm bất kỳ đứa trẻ gầy gò nào với đôi mắt mở to sợ hãi nữa. Tôi không muốn thêm bất kỳ đứa trẻ nào bị đưa vào trại và mẹ chúng buộc phải ly dị cha. Tôi muốn ông nội của chúng ở bên để kể cho chúng nghe những câu chuyện thú vị—và những tiếng cười khúc khích của chúng bên bờ sông Daedong không bao giờ bị gián đoạn bởi sự xuất hiện của các quan chức từ Lực lượng An ninh.
Dịch xong ngày 24 tháng 9 năm 2024
Kang Chol-hwan

Kang Chol-hwan bắt tay với Tổng thống Bush ngày 13/6/ 2005 tại Phòng Bầu dục Nhà Trắng