
Tác giả : KANG CHOL-HWAN
với Pierre Rigoulot
Trần Quang Nghĩa dịch
17 THIÊN ĐƯỜNG BẮC TRIỀU TIÊN
Việc chúng tôi được thả ra khỏi trại chẳng cải thiện được gì nhiều cho sức khỏe của cha tôi. Ông ấy bị bệnh đã lâu, vết loét dạ dày không được điều trị khi chúng tôi còn ở Bình Nhưỡng. Khi ở Yodok, không thể thực hiện được phẫu thuật nào. Thành thật mà nói, với tình trạng bệnh viện ở Triều Tiên, tôi không chắc ông ấy có thể sống sót sau khi ra khỏi đó hay không. Mặt tốt, nếu có thể nói như vậy, là ở Yodok, sức khỏe và thể chất yếu ớt của ông đã giúp ông khỏi bị phân công lao động khổ sai. Bố cũng may mắn có đôi bàn tay khéo léo và là người bổ sung có năng lực cho xưởng chế biến gỗ. Cha tôi là một người điềm tĩnh, ít nói, cam chịu số phận mà không phản kháng. Giống như Mi-ho, tài sản lớn nhất trong cuộc đời ông có lẽ là khả năng không quá để ý vào bản thân. Trong suốt thời gian chúng tôi ở Yodok, ông chưa bao giờ được lôi kéo vào các hoạt động chỉ điểm. Mười năm ở trong trại là những năm tháng ông lãng phí, không nghi ngờ gì nữa – sống trong gian khổ và không ngừng tưởng nhớ đến vợ – nhưng chúng cũng bình yên đến lạ lùng. Thế nhưng số phận của ông đã quá sức chịu đựng. Những ước mơ nghệ thuật đã bị dập tắt, sự vắng mặt của người bạn đời, những năm tháng chỉ loay hoay đóng ghế đẩu và bó chổi: tất cả đã quá nhiều chịu đựng và khổ sở – và chẳng để làm gì?
Bệnh tình của ông trở nên trầm trọng hơn vào cuối tháng 11 năm 1987. Cơn đau không gay gắt như những lần trước đó, nhưng giờ đây ông phải nằm liệt giường. Tôi nhớ ngày cuối cùng của ông. Ông đang nằm yên trên giường nhắm nghiền mắt lại thì toàn thân bỗng nhiên thả lỏng. Ông lấy tay lặng lẽ ra dấu, nhẹ nhàng mỉm cười – điều mà sau này tôi nhận ra là lời từ biệt cuối cùng của bố. Đó là cách bố ra đi mà lúc đó chúng tôi không hề nhận ra. Cảnh tượng đó đã thay đổi nhận thức của tôi về cái chết. Trước đây, cái chết luôn đeo mặt nạ khủng bố; Tôi chưa bao giờ tưởng tượng nó có thể yên bình đến vậy. Từ đó cái chết không còn làm tôi sợ hãi nữa. Cha tôi đã cho tôi thấy ra đi có thể là một khoảnh khắc để mỉm cười.
Trong hai ngày tiếp theo, chúng tôi ngồi bên cạnh thi hài cha tôi theo truyền thống Triều Tiên. Gia đình, bạn bè quây quần uống rượu, ăn bún và đánh bài; hàng xóm ghé qua để giúp đỡ mọi việc hậu sự; và nhà nước Bắc Triều Tiên đã cấp cho chúng tôi ba mươi lít rượu, món quà thường lệ vào dịp một công dân qua đời. Với một chút tiền lót tay, ba mươi lít đã trở thành một trăm lít, một số lượng gần bằng mức cần thiết cho một đám tang đàng hoàng. Tôi chôn cha tôi trên núi, ở một nơi có quang cảnh xinh đẹp. Người Triều Tiên tin rằng địa điểm chôn cất hợp phong thủy sẽ mang lại sự thịnh vượng cho con cháu của người đã khuất. Đôi khi tôi nghĩ điều này có thể giải thích cho tất cả những may mắn mà tôi có được kể từ đó.
Cha tôi qua đời mà không bao giờ được gặp lại mẹ tôi. Điều đó không nhất thiết phải như vậy. Mặc dù việc đi lại của chúng tôi bị hạn chế nhưng bà ấy, nếu muốn, có thể tự do xin giấy phép du lịch để đến thăm chúng tôi. Trở ngại thực sự là chúng tôi không biết bà ấy ở đâu. Ở phương Tây, những thông tin như vậy có thể tìm được bằng cách tham khảo danh bạ điện thoại, xin hỗ trợ của công an hoặc đăng quảng cáo trên báo. Ở Bắc Triều Tiên, những tùy chọn này không có sẵn. Cuối cùng, chính may mắn đã đưa chúng tôi đến với nhau. Em gái út mẹ tôi, sống ở Nampo, đã gặp một cựu tù nhân ở Yodok, vốn vẫn giữ liên lạc với một số bạn cùng trại cũ của ông ấy, trong đó có người biết nơi ở của chúng tôi. Thông qua họ, chúng tôi có được địa chỉ của dì tôi Nhưng sự may mắn bất ngờ này chỉ khiến tôi nhận ra mình chưa sẵn sàng cho một cuộc đoàn tụ. Mặc dù rất muốn gặp mẹ nhưng lòng tôi vẫn còn day dứt với những nghi ngờ dai dẳng – phần lớn là do bà tôi – về hoàn cảnh khiến mẹ tôi đòi ly hôn. Cha tôi, có lẽ bị ảnh hưởng bởi những lời bóng gió không mấy tốt đẹp của bà nội, đã không hỏi thăm những người quen cũ để có thể giúp mình liên lạc với vợ. Còn lý do nào khác khiến tôi ngần ngại khi gặp mẹ mình không? Trong mười năm, bà nội đã nuôi nấng, che chở, đùm bọc chúng tôi. Chúng tôi đã trở thành con cái của bà. Tôi có nghi ngờ rằng bà nội sợ việc đoàn tụ sẽ khiến bà đánh mất chúng tôi không? Dù lý do là gì đi nữa thì tôi cũng không sử dụng địa chỉ này cho đến sau khi bà tôi qua đời vào năm 1989.
Hai năm sau khi chúng tôi được thả, bà nội vẫn còn khỏe mạnh. Bà chủ yếu ở nhà, đôi khi làm những công việc nhẹ nhàng như làm cỏ và tìm kiếm thức ăn cho thỏ. Đầu mùa hè năm 1989 thời tiết cực kỳ nóng bức. Một ngày nọ – chính xác là ngày 25 tháng 6 – bà nội và tôi đã cãi nhau một cách ngu ngốc về món bà nấu cho tôi ăn trưa. Sau đó hối hận vì hành động của mình, tôi quyết định về nhà sớm để xin lỗi bà nhưng khi đến nơi, tôi thấy nhà trống rỗng. Lát sau, hàng xóm chạy sang báo rằng bà nội đã ngã giữa vườn. Tôi chạy nhanh hết mức có thể và thấy bà nằm đó bất động. Chúng tôi bế bà trở lại nhà, nhưng than ôi, bà đã tắt thở. Rất có thể bà đã mất vì xuất huyết não. Đó là một đòn khủng khiếp đối với anh em tôi. Bao năm qua anh em chúng tôi đã rất thân thiết với bà. Bà chính là sợi dây kết nối các mảnh ghép trong gia đình. Mi-ho và tôi giờ đây chỉ vò võ một mình. Rồi với thời gian nỗi nhớ bà nội của tôi cũng vơi bớt phần nào nỗi tuyệt vọng. Bà đã giữ gìn dung nhan của mình cho đến tuổi sáu mươi, nhưng sau một năm ở trại, tóc bà đã bạc trắng, da nhăn nheo và miệng đã móm sọm. Những căn bệnh của bà – bệnh nấm và xuất huyết nội – cũng đã để lại dấu vết. Nhưng, là người con gái kiêu hãnh của Cheju, bà đã vượt qua mọi thử thách.
Vài tuần sau khi bà qua đời, em gái tôi và tôi viết thư cho Nampo để hỏi thông tin về mẹ chúng tôi, và vào tháng 1 năm 1990, chúng tôi được phép đi đến Bình Nhưỡng, nơi chúng tôi được biết bà đang sống. Mẹ rưng rưng kể lại những biến cố trong mười ba năm khốn khổ kể từ khi chúng tôi ra đi. Sau đó đến lượt chúng tôi kể lại chuyện gì đã xảy ra với mình, trong khi bà ấy ngồi đó nhìn chằm chằm, miệng há hốc. Mẹ không ngắt lời chúng tôi một lần, nhưng mẹ cũng không dám nói một lời nào chống lại chế độ. Lòng trung thành của bà ấy có còn nguyên vẹn không? Tất cả những gì bà có thể tự nói là, “Các con thật xui xẻo. Quả là số phận. . . .” Sau khi chúng tôi bị trục xuất đến Yodok, mẹ tôi đã đợi đến lượt mình. Bà chắc chắn rằng mình sẽ sớm bị thẩm vấn và gửi đến họp mặt cùng chúng tôi. Nhưng các nhân viên an ninh không bao giờ xuất hiện, và vì vậy, cuối cùng, bà đã đến gặp họ. Bà muốn được phép sống cùng chúng tôi, nhưng các đặc vụ biết cách ngăn cản bà. “Bà có thực sự muốn bị lên án không?” họ hỏi. “Bà biết đấy, chúng tôi cũng có thể gửi tất cả anh chị em của bà và tất cả con cái của họ đi luôn.”
Mẹ tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ gặp lại chúng tôi nữa. Thay vì mang đến cho bà ấy một chút hy vọng, các đặc vụ đảm bảo với bà rằng chúng tôi sẽ ở lại Yodok cho đến ngày hấp hối. Bà không thể làm khác được. Bà về nhà và dỡ tất cả đồ ăn và quần áo bà định mang theo trong chuyến đi. Một thời gian dài sau đó, bà sống một mình, chán nản và bệnh tật.
Căn hộ nhỏ bà hiện đang sống ở trung tâm Bình Nhưỡng có một phòng chính, một bếp và một phòng giặt nhỏ. Bất cứ khi nào chúng tôi đến thăm mẹ, mẹ sẽ dành hàng giờ để nấu cho chúng tôi những bữa ăn tuyệt vời, hạnh phúc vì được tiếp tục thực hiện nghĩa vụ làm mẹ của mình. Đã có lúc mẹ cân nhắc việc rời khỏi căn hộ của mình và chuyển đến gần chúng tôi hơn, nhưng tôi đã can ngăn. Mẹ may mắn khi được sống ở Bình Nhưỡng và làm việc cho Văn phòng Dịch vụ Nhân dân, cơ quan chính phủ chịu trách nhiệm phân phối hàng tiêu dùng. Tôi đã hứa là chúng tôi sẽ đến thăm thường xuyên nhất có thể. Trong thời gian lưu trú ở Yodok, tôi đã giận mẹ vì đã không đến sống cùng chúng tôi. Tôi đã không hiểu rõ hoàn cảnh của bà. Tôi không biết rằng bố mẹ tôi đã ly thân rồi, nhà nước cũng có thể ép họ ly hôn. Tôi hy vọng mẹ tôi không giận tôi vì đã rời bỏ xứ sở, và tôi hy vọng mẹ hiểu tôi hơn tôi hiểu mẹ.
Cuộc sống cứ trôi theo dòng chảy của nó. Vài tháng sau khi bà nội qua đời, tôi và em gái chuyển đến Pyungsung sống với chú tôi, chú tôi kết hôn không lâu sau đó. Mi-ho quyết định vào trường điều dưỡng. Bây giờ đã ra khỏi trại, tôi lại có nhiều thời gian chia sẻ với em gái. Tại Yodok, nhiệm vụ luôn khiến chúng tôi xa cách. Trong khi tôi thường làm việc ngoài trời thì em dành toàn bộ thời gian ở nhà máy dệt của trại, chỉ về nhà để kiếm chút thức ăn và ngủ. Chỉ bây giờ khi chúng tôi ra ngoài, tôi mới nhận ra em tôi đã thay đổi nhiều như thế nào. Cô ấy mười tám tuổi và xinh đẹp đến kinh ngạc. Khi ở trại, đồng phục gớm ghiếc, sự bẩn thỉu và tình trạng suy dinh dưỡng kéo dài khiến không ai trông hấp dẫn. Tuy nhiên, giờ ra tù, vẻ đẹp của Mi-ho không ai nhìn qua có thể làm ngơ, và tôi tự hào khì mấy thằng bạn tôi mê mẩn khen ngợi tôi có đứa em gái quá quyến rũ. Cô em tôi có rất nhiều người theo đuổi – quá nhiều so với khẩu vị của tôi. Một sĩ quan Quân đội Nhân dân Triều Tiên đặc biệt kiên trì. Anh ta có vẻ là một chàng trai tốt và có thể chất rất khỏe mạnh. Anh từng đoạt giải trong một cuộc thi cấp quốc gia về môn võ tae kwon do. Để lấy lòng tôi, anh thường mang cho tôi gạo và nhiên liệu sưởi ấm mà anh lấy trộm từ doanh trại của mình, khiến tôi khá ngán ngẩm. Bây giờ nhìn lại, anh ta thực sự là một nhân vật khá kỳ quặc. Với tư cách là tài xế cho một vị tướng sư đoàn, anh có tật bẻ lái ra sức cán cho được các con chó tội nghiệp lảng vảng trước đầu xe một cách có hệ thống. Sở thích đã tỏ ra làm hại đến sự nghiệp của anh. Một ngày nọ, anh bị mất lái khi đang đuổi theo một con chó đặc biệt nhanh nhẹn và lao xe của vị tướng xuống một cánh đồng lúa. Anh bị kết án một năm tù và tôi không bao giờ gặp lại anh ta nữa.
Thành thật mà nói, tôi rất thích trò chuyện với anh ấy và thấy có chút thiếu vắng anh. Khi tôi rời Yodok, tôi cũng bỏ lại tất cả bạn bè của mình. Sau đó tôi đã thiết lập lại liên lạc với một số bạn cũng ra tù, nhưng những mối quan hệ này luôn gặp khó khăn. Đó là trường hợp của một đồng đội cũ ở Yodok, cậu ta ra khỏi trại nhờ số tiền mà chị gái anh ấy từ Nhật Bản gửi đến. Anh ta là một người giàu có theo tiêu chuẩn của Triều Tiên và sự giàu có đã mang lại cho anh quyền lực to lớn. Ngoài ra, nó còn giúp anh có thể ly dị người vợ mà cha anh đã sắp đặt cho anh. Trao cho một quan chức một “món quà nhỏ” và y sẽ lật lại một cách kỳ diệu tất cả những hồ sơ đã bị bỏ quên hàng tháng trời. Bạn tôi sau đó đã sử dụng phương pháp tương tự để giải quyết các vấn đề pháp lý nảy sinh từ việc anh ta đánh đập người vợ thứ hai, vụ đánh nhau với người tình mới của cô ấy và yêu cầu ly hôn lần thứ hai của anh ta. Một chút dầu mỡ sẽ bôi trơn mọi thứ một cách tốt đẹp và yên lành. Đó là cách mọi việc thường diễn ra ở Triều Tiên: tiền bạc và bạo lực đại diện cho luật pháp và trật tự. Thậm chí chúng tôi còn có câu nói: “Luật thì xa; nắm đấm thì gần.” Chế độ vốn không bao giờ mệt mỏi trong việc tố cáo chủ nghĩa tư bản lại khai sinh ra một xã hội nơi tiền bạc là vua—hơn bất kỳ xã hội tư bản nào mà tôi từng đến thăm. Đây là ân huệ cứu rỗi cho những người Hàn Quốc đã mắc sai lầm khi rời Nhật Bản trở về Bắc Triều Tiên. Tiền là biện pháp bảo vệ duy nhất cho họ trước sự ngờ vực của những người đồng hương Triều Tiên và sự thù địch thẳng thừng của cảnh sát, vốn luôn nghi ngờ họ hoạt động gián điệp và gây rối trật tự công cộng.
Về bạo lực thì nó có ở khắp mọi nơi. Bất cứ thứ gì gợi nhớ một cách mơ hồ về tình thương hay lòng trắc ẩn đều bị trục xuất khỏi vương quốc. Ai cũng đe dọa và bị đe dọa, đánh và bị đánh. Sau khi được giáo dục ở Yodok, tôi cũng trở nên hung bạo và không hề e ngại làm tổn thương người khác. Mãi cho đến khi rời Triều Tiên, tôi mới bắt đầu hành động giống một con người hơn. Tôi nhớ có lần bị tấn công vào ngày 15 tháng 4, ngày sinh nhật của Kim Il-sung. Như mọi ngày lễ, hầu hết mọi người chỉ đi loanh quanh thành phố, uống rượu và tìm cách gây gổ. Đánh nhau luôn là vi phạm pháp luật ở Triều Tiên, nhưng đánh nhau vào ngày lễ long trọng như ngày sinh nhật của Kim Il-sung bị coi là tội chính trị, có thể bị trừng phạt bằng hình thức lao động khổ sai. Tôi đang đi dạo với một nhóm bạn – băng của tôi, nếu bạn muốn nói – thì chúng tôi gặp một nhóm khác. Sau vài lần lăng mạ, một cuộc chiến nổ ra. Có lúc tôi bị một số tên đè xuống và bắt đầu vung nắm đấm như một tên điên. Bằng cách nào đó, một cú đấm của tôi đã trúng vào mắt một cựu lính thủy đánh bộ, tên đứng đầu băng nhóm kia. Hắn lùi lại tỏ vẻ đau đớn. Lợi dụng sự do dự của hắn, tôi bỏ chạy nhanh nhất có thể. Đó cũng là một điều tốt; một lát sau, một số đặc vụ của Lực lượng An ninh đã đến và bắt giữ một số người. Tối hôm đó, tôi đang ngồi bên ngoài trò chuyện với bạn trai của em gái thì nhìn thấy nhóm đối thủ đang đi tới trên đường. Có khoảng hai mươi tên, một số cầm rìu và xẻng. Lần này tôi thực sự sợ hãi. Nhưng anh chàng theo đuổi em gái tôi đã bước tới: “Nếu muốn tấn công Kang Chol-hwan, trước tiên tụi bây phải giết tao!” Nhờ sự giới thiệu của cậu ấy, tôi có thể bắt chuyện được với tên cầm đầu băng nhóm mà tôi đã đấm. Tôi đưa ra lời xin lỗi và hắn khen ngợi: “Anh thật mạnh mẽ, Kang Chol-hwan. Đây là lần đầu tiên có người đấm tôi như vậy.” Chúng tôi trở thành bạn bè và từ đó tôi trở thành người được hắn bảo trợ. Hệ thống phân cấp của đường phố vẫn còn nguyên vẹn và tôi không còn gì phải sợ nữa.
Hành vi của tôi chỉ thay đổi dần dần. Trong trại tôi bị đánh nhưng không đánh lại được, nhưng bây giờ ra ngoài, tôi đánh trả một cách có hệ thống. Tuy nhiên, bạo lực khiến tôi ghê tởm. Tôi đã đánh nhau và giận bản thân mình vì đã đánh nhau. Nhưng dù tôi có cố gắng tránh nó đến mức nào thì nó vẫn luôn ngáng đường tôi. Một ngày nọ, một băng đảng đánh tôi bằng chai lọ, và thay vì cố gắng chống trả, tôi chạy đi tìm một cảnh sát gần đó mà trước đó tôi đã tặng những món quà nhỏ. Y đã cất công theo dõi những kẻ tấn công tôi và nhốt chúng lại. Sau đó y gọi tôi vào. “Hãy vào phòng giam và đánh chúng một trận nếu cậu muốn,” y đề nghị. “Đánh sao thì đánh miễn đừng giết chúng, sẽ gặp rắc rối to.” Tôi bắt đầu đấm một tên trong số chúng, nhưng rồi cảm thấy quá xấu hổ nên đã dừng lại và rời khỏi phòng giam.
Sau đó, tôi đăng ký một khóa học tae kwon do để giúp tôi kiểm soát cảm xúc của mình và ngăn chặn ai muốn sinh sự với tôi. Sau khi tin đồn lan ra, tôi đã được bình yên. Một trong những điều thú vị về bọn lưu manh Bắc Triều Tiên là sự khinh miệt mà chúng dành cho các cựu tù nhân chính trị. Nhiều thành viên băng đảng phải ngồi tù—đó là quyền của mọi người—và mặc dù gia đình họ không bị kéo xuống cùng họ, nhưng họ coi hoàn cảnh của các tù nhân chính trị của Yodok chỉ là một trò đùa so với những gì họ phải trải qua. Nỗi kinh hoàng mà những kẻ côn đồ này phải đối mặt trong tù hoàn toàn ở một cấp độ khác. Đối với họ, “những kẻ khờ khạo ở trại số 15” sống thoải mái hơn nhiều.”
Cuối cùng tôi đã nhận được công việc làm nhân viên giao hàng cho Văn phòng Phân phối của huyện. Vì vùng tôi làm việc rất nhiều núi và không có đủ xe tải để đi lại nên chúng tôi thường di chuyển bằng xe bò. (Vì sự cần thiết, Kim Il-sung đã từng viết một bài bày tỏ lòng kính trọng đối với phương thức vận tải này.) Tôi rất thích công việc mới này; chúng tôi luôn xuất hiện với những nguồn cung cấp được trông đợi từ lâu, vì vậy những người chúng tôi gặp đều vui mừng khi gặp chúng tôi, chào đón chúng tôi với vòng tay rộng mở và đôi khi cho chúng tôi những lời khuyên. Quan trọng hơn, bằng cách tận dụng sự chênh lệch giá cả giữa Bình Nhưỡng và các tỉnh, chúng tôi có thể tư doanh thêm chút đỉnh. Một đôi giày có giá từ 5 đến 10 won Triều Tiên khi rời khỏi nhà máy ở Bình Nhưỡng có thể được bán với giá gấp 8 đến 10 lần ở các tỉnh – gần bằng một nửa mức lương hàng tháng của một công nhân nhà máy thông thường.
Lúc đầu, tôi rất coi trọng công việc của mình, giải quyết nó bằng tất cả sức lực và hiệu quả mà tôi có thể huy động được. Những năm tháng ở Yodok đã rèn luyện tôi rất tốt! Các đồng nghiệp và cấp trên đánh giá cao công việc của tôi, và tôi rất thân thiết với Bí thư Đảng ủy địa phương, người mà tôi đã từng cung cấp những loại gỗ khó tìm. Để tỏ lòng biết ơn, ông thường xuyên chỉ cho tôi những con đường dễ đi nhất, giúp tôi có nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Như một điều tất yếu, tôi dần mất đi nhiệt huyết với công việc. Không có những người bảo vệ ở phía sau, tôi thấy không có lý do cụ thể nào để nỗ lực nhiều hơn các đồng nghiệp của mình. Điều tôi muốn là đi thăm các vùng khác của huyện và xem liệu có việc kinh doanh nào cần thực hiện không. Vì vậy, sau khi trả tiền cho Bí thư Đảng và nhận giấy thông hành, tôi bắt đầu đi vòng quanh các huyện khác để mua hàng, sau đó tôi vận chuyển bằng xe tải hoặc xe tư. Tôi mua nhân sâm rừng, đổi rượu lấy giày, bán mật gấu và nhau cầy hương – những thứ dường như có tác dụng kỳ diệu đối với các nạn nhân bị đột quỵ. Tôi không kiếm được nhiều tiền nhưng công việc kinh doanh rất tốt. Chẳng bao lâu sau, tôi đã sẵn sàng từ bỏ xe phân và xe bò để tập trung phát triển các dự án thương mại của mình, điều mà tôi đã làm với sự hỗ trợ của vị bí thư Đảng thân thiện của mình.
Văn phòng Dịch vụ Nhân dân có hai chức năng: tổ chức phân phối hàng hóa cho các bộ phận dân cư không hoạt động và bù đắp sự thiếu hiệu quả trong hệ thống phân phối bằng cách mua sắm và phân phối hàng hóa mà hệ thống không thể cung cấp. Chúng bao gồm tất cả mọi thứ, từ sản phẩm làm tóc đến bánh ngọt, giày dép, quần áo, bánh mì cho đến xe đạp. Khi mạng lưới phân phối chính của Đảng rơi vào tình trạng tê liệt ngày càng sâu sắc, mạng lưới bổ sung trở nên không thể thiếu, mặc dù cồng kềnh và không thể đứng vững được. Ví dụ, nếu chúng tôi cần da hoặc xăng, chúng tôi phải vào quân đội, nơi mà người quản lý kho xăng có nhiều quyền lực hơn cả tổng tư lệnh của mình! Có lần tôi đã mua được lượng xăng đủ dùng cho một năm với giá một chiếc đồng hồ Seiko. Mạng lưới phân phối song song cho đến nay là phần tích cực hơn của hệ thống và nó mang đến cho các doanh nhân cơ hội kiếm được nhiều tiền. Ở mức độ tương đối khiêm tốn của tôi, đó chính xác là những gì tôi đã làm. Tôi bỏ túi khoảng 1.000 won mỗi tháng, đủ để trở thành người giàu ở Triều Tiên. Tuy nhiên, đối với hầu hết người dân, tình hình ngày càng trở nên tồi tệ hơn. Cuối cùng, ngay cả phiếu khẩu phần, loại tiền tệ cơ bản nhất, cũng không còn được tôn trọng nữa, bởi vì không có gì xuất hiện ở các cửa hàng, không thực phẩm, quần áo hay sản phẩm tẩy rửa.
Sự sụp đổ xảy ra bất ngờ. Biện pháp rõ ràng nhất là cá trắng mà người Triều Tiên có truyền thống phơi khô trên tường nhà của họ: sự sụt giảm rõ rệt về số lượng cá, bắt đầu từ năm 1988, là một dấu hiệu rõ ràng về cuộc khủng hoảng kinh tế của quốc gia. Đến năm 1990, cá khô không còn thấy ở đâu nữa. Đó cũng là năm mà việc phân phối gạo của đất nước bị quản lý sai lầm nghiêm trọng. Đây là một khía cạnh của nạn đói hiện nay chưa thu hút đủ sự chú ý. Bên cạnh những vấn đề sản xuất phát sinh từ việc khuyến khích làm việc, phân bón và máy kéo không phù hợp, còn có vấn đề về phân phối. Ví dụ, bang Yodok vẫn còn dư thừa cho đến cuối năm 1990, nhưng không có xe lửa để vận chuyển. Phương tiện di chuyển thay thế duy nhất của đất nước là đội xe tải cũ kỹ, quá hạn sử dụng, liên tục hỏng hóc trên những con đường trải nhựa. Gạo cần thiết ở thành phố đang thối rữa ở nông thôn, trong khi hàng hóa sản xuất mà người dân quê cần lại không bao giờ rời khỏi thành phố.
Khi tình hình trở nên tồi tệ hơn, nông dân bắt đầu tự nuôi dê và chó và tiêu tốn ít năng lượng hơn trong các trang trại tập thể. Với mức lương hàng tháng từ 100 đến 150 won mua được rất ít, họ có rất ít sự lựa chọn. Một con chó giá 300 won, một con dê giá 400 won, một lọ mật ong giá 150 won. Để khỏi chết đói, nông dân bắt đầu canh tác hàng nghìn ngọn đồi bị các trang trại tập thể bỏ hoang, biến phần lớn vùng nông thôn thành vùng Viễn Tây bị chiếm đoạt. Thể hiện lòng dũng cảm và sự kiên trì mà sau này tôi phát hiện ra ở những thương nhân ở Namdaemun, những người nông dân này thường làm việc trên mảnh đất mới của họ vào ban đêm sau khi dành cả ngày ở các trang trại tập thể. Dưới sự chỉ đạo của những quan chức bất tài, tham nhũng, họ suốt ngày ngủ gật và ù lỳ. Nhưng vào ban đêm, khi đến lúc phải chu cấp cho gia đình, họ lại làm việc như lũ quỷ. Thật không may, nông nghiệp tư nhân là nguyên nhân chính gây ra lũ lụt trong những năm 1996–97, do các sườn dốc bị phá rừng dễ bị xói mòn đất dẫn đến lở đất và sự tích tụ nguy hiểm của lòng sông. Mặc dù Đảng kịch liệt phản đối việc sử dụng đất tư nhân, phong trào nông dân phát triển mạnh mẽ đến mức Đảng không còn cách nào khác là phải nhượng bộ. Nó chưa bao giờ chính thức thay đổi luật của mình, nhưng nó miễn cưỡng chấp nhận việc làm này và chỉ bằng lòng nhắc nhở nông dân rằng ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên không có đất đai nào thuộc về một chủ sở hữu duy nhất, và bất cứ ai sở hữu một mảnh đất đều có nguy cơ bị tịch thu. Phong trào và các cuộc nổi dậy đã lan rộng đến mức Đảng chỉ chuyển sang giải tán những vụ chiếm đất nghiêm trọng nhất. Tất cả những điều này đều bộc lộ rõ ràng tình hình hiện tại của Triều Tiên và sự trượt dốc không thể tránh khỏi của nước này từ chủ nghĩa cộng sản sang chủ nghĩa tư bản.
Xu hướng hoang dã hướng tới tư nhân hóa – hoặc chiếm đoạt, nếu bạn thích nói như vậy – giải thích tại sao nông dân ngày nay kiếm được lương thực dễ dàng hơn so với những người công nhân sống ở các thị trấn nhỏ, nơi nạn đói hoành hành nặng nề nhất. Nhưng những người nông dân lại phải chịu một cảnh thiếu thốn khác, đó là quần áo mà họ phải mua từ những người bán hàng rong ngoài vòng pháp luật. Những thương nhân này mua hàng hóa của họ ở chợ đen trong thành phố hoặc từ một trong số ít các xưởng và nhà máy còn sót lại. Đôi khi quần áo được nhập lậu từ Trung Quốc. Khi tôi còn sống ở Bắc Triều Tiên vào đầu những năm 1990, các điều kiện trao đổi rất nặng nề đối với người nông dân. Một đôi tất nylon trị giá 40 won có giá 2 kg ngô. Một quả trứng kiếm được 1 won; một chai dầu, 10 đến 15 won; một con gà, 60 won; nhưng mua vải cho một bộ quần áo phải mất từ 100 đến 150 won; 400 won cho một chiếc quần may kiểu Nhật; Từ 100 đến 130 won cho một chiếc áo sơ mi ngắn tay sản xuất tại Trung Quốc và 250 won nếu nó được sản xuất tại Nhật Bản. Điều này giải thích tại sao thân nhân của những cư dân Nhật Bản trước đây luôn đến thăm Triều Tiên với vô số vớ, quần áo và rượu, những thứ có giá trị trao đổi rất lớn.
Sự hào phóng của gia đình chúng tôi ở Nhật Bản chắc chắn đã tạo ra sự khác biệt lớn trong cuộc sống của chúng tôi. Nó cho phép chúng tôi mua được lòng nhân từ của những người bảo vệ và người giám sát và dần dần tiến gần hơn đến Bình Nhưỡng. Theo luật, các cựu tù nhân không được phép rời khỏi khu vực nơi họ được chỉ định sinh sống. Trên thực tế, hối lộ khiến mọi thứ đều có thể thực hiện được. Chúng tôi viết thư cho người thân nhờ giúp đỡ, cẩn thận che giấu ý định của mình để không chọc tức cơ quan kiểm duyệt. Người Triều Tiên được phép gửi thư ra nước ngoài miễn là họ không chỉ trích hay phàn nàn về chế độ. Khi những người thân của chúng tôi bất ngờ nhận được một lá thư từ chúng tôi sau mười năm im lặng, họ đã có một ý tưởng khá rõ ràng về những gì đã xảy ra với chúng tôi. Trong những năm chúng tôi mất tích, họ đã nhiều lần cố gắng đến thăm chúng tôi ở Triều Tiên nhưng bị cảnh sát từ chối nhiều lần và nói với họ rằng chúng tôi đang đi nghỉ dưỡng. Ở Nhật Bản có nhiều lo ngại về việc tất cả những người Triều Tiên đột ngột rời đi trong kỳ nghỉ kéo dài. Các kiến nghị đã được lưu hành về vấn đề này. Cư dân Hàn Quốc tại Nhật Bản xuất hiện trên truyền hình kể về sự mất tích của người thân. Có lẽ một số điều này thậm chí còn đóng một vai trò nào đó trong việc giải phóng chúng tôi, mặc dù cái chết của ông tôi có lẽ liên quan nhiều hơn đến điều đó. Mặc dù chúng tôi có thể sẽ không bao giờ khám phá ra điều gì thực sự đã xảy ra với ông, nhưng người ta tin rằng chính quyền đã chờ đợi một tên tội phạm chính trị bị kết án chết trước khi thả gia đình ông ra.
Nhờ sức mạnh của đồng tiền, chúng tôi thoát khỏi cuộc sống khủng khiếp, tù túng ở Bắc Triều Tiên. Bạn muốn gọi điện thoại? Bạn sẽ phải thông qua nhân viên điều hành. . . và chờ máy. . . . Và để đến được Nhật Bản, vô vàn rắc rối. Tất nhiên, về mặt chính thức thì điều đó hoàn toàn có thể xảy ra. Trên thực tế, chỉ có các trung tâm điện thoại đặc biệt—tức là bị nghe lén—được trang bị cho công việc và họ chỉ chấp nhận ngoại tệ. Muốn đi ra ngoài? Cả bang chỉ có một rạp chiếu phim. Và mặc dù giá cả cực kỳ rẻ, bộ phim chắc chắn sẽ tôn vinh Bắc Triều Tiên, quân đội của nước này, các đảng phái chống Nhật, v.v. Mọi người đều phải vật lộn để tồn tại, và những người không có nguồn lực nào khác phải tự kiếm sống bằng cách bán chai nhựa, tất nylon, giày và quần áo dư thừa của quân đội, những thứ được đánh giá cao vì độ bền của chúng. “Thặng dư” quân đội là nền tảng của hoạt động buôn bán chợ đen phát triển mạnh mẽ do các sĩ quan quân đội tổ chức. Nó khiến những người lính Bắc Triều Tiên mặc đồng phục cũ kỹ và đi ủng vải thấm nước.
Để được phép rời khỏi bang của mình, chúng ta phải vượt qua tất cả các điểm dừng. Có thể phải có thẻ thông hành địa phương cho một bao thuốc lá và một lượng nhỏ rượu, nhưng giấy phép di chuyển đến khu vực Bình Nhưỡng đòi hỏi nhiều hơn thế. Trong một thời gian dài, những nỗ lực của chúng tôi chẳng đi đến đâu, nhưng chuyến thăm của gia đình chúng tôi đã thay đổi mọi thứ. Các đặc vụ của Lực lượng An ninh, những người đã thờ ơ với những lời kháng cáo của chúng tôi – không nói là khinh thường – đột nhiên quan tâm đến hạnh phúc của chúng tôi. Họ bắt đầu nói chuyện với chúng tôi và thậm chí còn chặn chúng tôi lại trên đường để bắt tay! Các điều kiện rõ ràng đã chín muồi cho một số cuộc đàm phán kín đáo. Với sự giúp đỡ của một vài món quà khá xa hoa – đáng chú ý nhất là một chiếc tivi màu Nhật Bản – tôi và em gái tôi được phép đến gặp chú chúng tôi ở Pyungsung, một thành phố cách Bình Nhưỡng hai mươi dặm. Trung tâm nghiên cứu khoa học ở Pyungsung đã yêu cầu chú đảm nhiệm lại vị trí mà chú đã đảm nhiệm trước khi bị bắt. Khi còn là sinh viên trường đại học bách khoa, chú đã đứng đầu lớp và tài năng của chú được nhiều người công nhận. Sau Yodok, chú tiếp tục nghiên cứu hóa học và năm 1991 nhận bằng tiến sĩ. Chú đang ở một vị trí tốt: nhân viên của viện được đối xử như công dân của Bình Nhưỡng. Một số người có thể ngạc nhiên khi biết rằng một cựu tù nhân chính trị lại được phép lấy bằng thạc sĩ và tiến sĩ; nhưng sự thật là chú tôi làm việc trong một lĩnh vực mà chú có thể bị giám sát và kiểm soát chặt chẽ. Chú ấy cũng có được một sự may mắn tuyệt vời nào đó: phó chủ tịch viện là bạn cùng phòng thời đại học của chú ấy; và chú của người bạn cùng phòng, một trong những người quản lý chính của Yodok, đã thông báo với cháu trai ông rằng lý do dẫn đến việc chú tôi bị bắt chỉ là chuyện nhỏ và hồ sơ cá nhân của chú ấy rất trong sạch.
Sống ở Pyungsung, tôi gần mẹ hơn nhiều và có thể đến thăm mẹ thường xuyên, đôi khi với em gái, nhưng thường là một mình. Chúng tôi luôn vui vẻ khi gặp nhau. Bà nấu những bữa ăn nhỏ cho tôi và mua quần áo cho tôi. Tuy nhiên, có một số điều làm tôi lo lắng. Vì khó có được giấy phép đến thăm Bình Nhưỡng nên tôi thường đi du lịch mà không có giấy phép, vi phạm pháp luật một cách trắng trợn. Trưởng công an xã, một phụ nữ, thường nhắm mắt làm ngơ khi tôi đưa hối lộ, nhưng bà ấy sẽ tiếp tục bao lâu trước khi thổi còi? Tôi đã đặt không chỉ bản thân mình vào tình thế nguy hiểm mà cả mẹ tôi nữa. Cuối cùng, tôi quyết định cắt giảm các chuyến thăm của mình.
Tôi cũng phải suy nghĩ về tương lai của mình. Chú tôi đã gây áp lực buộc tôi phải vào đại học, điều mà bố tôi luôn mong ước. Bằng cách đưa ra lựa chọn bây giờ, cuối cùng tôi cũng sẽ vâng lời chú ấy. Tôi đã tham gia kỳ thi tuyển sinh, phân phát quà cho các thành viên trong hội đồng tuyển sinh và được nhận vào trường đại học công nghiệp nhẹ ở Hamhung. Tôi thích Đại học Bình Nhưỡng hơn, nhưng với tư cách là một cựu tù nhân chính trị, cơ hội vào được của tôi gần như bằng không. Tôi đã tham gia các lớp học ở Hamhung được vài tháng nhưng chưa tìm được chỗ đứng phù hợp cho mình. Một vấn đề là tôi sống như một người nội trú trong một ngôi nhà mà tôi hoàn toàn không có mối liên hệ nào. Vấn đề thứ hai, cuối cùng tỏ ra nhức nhối hơn, là bầu không khí bài ngoại của thị trấn tỉnh lẻ, nơi “người lạ” từ các vùng khác không được ưa chuộng cũng như không được chào đón. Tệ hơn nữa, thị trấn đầy rẫy bọn lưu manh, và tôi đã thấy đủ chuyện đánh nhau trên đường phố rồi. Tôi đã cân nhắc việc chuyển sang trường đại học ở Pyungsung, nhưng điều đó không dễ dàng hơn việc vào Bình Nhưỡng. Vì vậy, vào mùa thu năm 1991, tôi quyết định bỏ dở việc học và chuyển về căn hộ của chúng tôi ở Pyungsung.
Tôi đã phải chọn một sự nghiệp bên ngoài trường đại học. Trong khi tôi đang cân nhắc các lựa chọn, viện trợ từ người thân của tôi ở Nhật Bản đã giúp tôi thoát khỏi cảnh nghèo đói. Người phương Tây đã quen với tình hình ở Cuba, nơi một phần dân số sống nhờ vào các gói hàng được gửi từ các thành viên gia đình ở Hoa Kỳ và Châu Âu. Ở Bắc Triều Tiên, lộc này có nguồn gốc từ Nhật Bản. Hệ thống phân phối của Triều Tiên càng suy thoái thì dòng tiền này càng trở nên cần thiết. Vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, có những thời điểm ngay cả phiếu khẩu phần – quên cả khẩu phần đi – cũng ngừng được phân phát. Cách duy nhất để có được bất cứ thứ gì là phân phát quà tặng. Thật may mắn cho chúng tôi, gia đình tôi đủ giàu để có được tình bạn của cả bí thư đảng ủy và người quản lý huyện. Những gói hàng và thư từ từ Nhật Bản được gửi qua đường bưu điện, qua một con tàu vẫn thực hiện chuyến hành trình kéo dài mười lăm giờ giữa Niigata và Wonsan mỗi tháng một lần. Tất nhiên, mọi gói hàng đều được kiểm tra nhưng chỉ những sản phẩm sản xuất tại Nam Hàn mới bị cấm. Ngay cả tiền cũng được thông qua. Tuy nhiên, thứ chúng tôi cần nhất là thuốc men và quần áo cũ.
Về việc cho phép du khách vào nước, chính quyền có hai suy nghĩ. Một mặt, họ vui mừng chào đón du khách mang theo ngoại tệ mạnh. Mặt khác, luôn có nguy cơ những du khách này sẽ phổ biến tin tức về tình hình kinh tế và chính trị đang gặp khó khăn của đất nước. Vì vậy, khi một gia đình Nhật Bản đến thăm, toàn bộ bang được yêu cầu phải dọn dẹp và trông thật lịch sự. Mỗi ngôi làng và ngôi nhà khách có thể nhìn thấy đều được quét sạch và cải thiện. Đôi khi chính quyền còn đi xa hơn một bước: trước khi thân nhân chúng tôi đến, chúng tôi được chuyển đến một ngôi nhà lớn có hai phòng, có nhà kho phía sau, để có thể đóng vai chủ nhà tốt hơn. Ngay trước khi người thân của tôi đến, các đặc vụ của Lực lượng An ninh đã ghé qua mang theo mệnh lệnh cho chúng tôi. Chúng tôi không được đề cập đến trại cũng như không phàn nàn về bất cứ điều gì. Chúng tôi có thể trò chuyện nhưng không được phép đề cập đến bất cứ điều gì hàm ý chỉ trích chính phủ. Để đảm bảo chúng tôi tuân theo, các đặc vụ đã lắng nghe cuộc trò chuyện của chúng tôi suốt ngày đêm. Vào giữa những năm 1980, sau khoảng mười năm phản đối – phần lớn là từ Chosen Soren – chính quyền đã quyết định hạn chế việc giám sát của họ chỉ vào ban ngày. Việc này chả thực sự quan trọng lắm. Nếu muốn trao đổi thẳng thắn, chúng tôi chỉ cần đưa cho người đại diện chính quyền một ít tiền để y đi dạo. . . . Trong mọi trường hợp, chính quyền thực sự không có gì phải lo sợ các họ hàng đến thăm – họ thừa biết mối nguy hiểm mà họ sẽ gây ra cho các thành viên trong gia đình mình nếu họ dám bép xép khi trở về xứ của mình.
18
TRẠI CẢI TẠO LẠI HĂM HE
Khoảng thời gian này, tôi nối lại liên lạc với bạn tôi Yi Yongmo – cậu bé từng mê sảng giữa giờ học. Gia đình cậu đã được thả khỏi Yodok bốn năm trước chúng tôi, nhưng giờ đây có vẻ như họ sắp bị gửi trở lại. Lực lượng An ninh đã bắt đầu gọi cha cậu ấy thẩm vấn và thỉnh thoảng cũng triệu tập bạn tôi. Chúng tôi rất thân thiết và thường xuyên gặp nhau. Cậu kể cho tôi nghe về nỗi sợ hãi của mình và trút giận lên chế độ. Là một cựu tù nhân, tôi cũng bị giám sát, và làm bạn với anh ấy có thể mang lại cho tôi rắc rối. Mùa xuân năm 1991, bố Yong-mo bị buộc tội chỉ trích Kim Jong-il, và cả gia đình bị đưa trở lại trại. Tôi đã không nghe tin gì từ bạn tôi kể từ đó. Cậu ta có còn sống không? Cậu luôn gầy gò, và tôi sợ điều tồi tệ nhất. . . . Cậu ta thường xuyên bị ngất xỉu, mồ hôi lạnh vã ra như tắm. Tôi yêu tâm tính của cậu ấy. Cậu là người bạn tốt nhất và trung thành nhất của tôi. Ngoài gia đình tôi, không có ai tôi nhớ hơn. Có lúc tôi lo lắng cậu ấy sẽ bị tra tấn và buộc phải thú nhận về những cuộc trò chuyện phản cách mạng của chúng tôi. Ở Bắc Triều Tiên, mọi tội phạm chính trị đều bị tra tấn: Yong-mo đã chỉ trích Kim Jong-il và hát những bài hát của Nam Hàn, và vì điều này mà cậu ta chắc chắn đã bị đánh đập, không được ăn và ngủ.
Lẽ ra tôi đã có thể tiếp tục sống tương đối yên bình ở Pyungsung nếu tôi không bị buộc tội bắt sóng trái phép đài phát thanh Hàn Quốc. Những lần bắt sóng này tôi chọn lọc những bài hát nổi bật, những thông điệp ngầm nhắm vào cán bộ Đảng, phân tích tình hình miền Bắc. Một chương trình có các cuộc phỏng vấn với những kẻ phản bội đào thoát. Một chương trình tin tức lượm lặt từ khắp nơi trên thế giới. Nhờ đó tôi mới biết về sự sụp đổ của chế độ Romania và vụ hành quyết của tên độc tài Ceausescus cũng như việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Nga; nhưng cái chết của Nicolae Ceausescu mới là điều khiến tôi ấn tượng nhất. Hắn là bạn thân của Kim Il-sung và đã đến thăm ông nhiều lần. Tôi nóng lòng muốn báo tin này cho mọi người. Có phải tôi đã bất cẩn? Có lẽ vậy, nhưng tôi nghĩ sai lầm thực sự của tôi là đã nghe những chương trình đó quá thường xuyên và với quá nhiều người. Tôi cảm thấy sự giám sát của Lực lượng An ninh dần dần thắt chặt xung quanh tôi. Gã cán bộ đại diện thường giải quyết các nhu cầu hành chính của tôi để đổi lấy quà biếu và các khoản vay khác đang dần tránh mặt tôi; tệ hơn nữa là gã không dám nhận quà của tôi nữa. Bây giờ có phải gã gặp nguy khi nhận hối lộ từ tay tôi không? Một ngày nọ, tôi hỏi dồn và moi được từ gã một tin sốt dẻo. “Cậu đang bị theo dõi,” gã thừa nhận. “Một người bạn của cậu phê bình cậu hay nghe đài Hàn Quốc.” Sau khi bắt tôi hứa không bao giờ được tiết lộ nguồn tin, gã chỉ ra người tố cáo tôi. Tôi thật sửng sốt—đó là người mà tôi coi là bạn! Tôi chưa bao giờ nghĩ đến chuyện ấy.
Không có gì khiến các đặc vụ an ninh hài lòng hơn là xác định được những kẻ tái phạm và đưa họ trở lại trại. Quà tặng là cách duy nhất để giữ chân các đặc vụ, và đến thời điểm này, quà tặng phải vừa xa hoa vừa dồi dào. Tôi ghét những tên này biết bao. Khi đến Hàn Quốc, tôi không ngần ngại cố gắng làm cho cuộc sống của họ trở nên khốn khổ nhất có thể. Bất cứ khi nào trả lời phỏng vấn, tôi đều đề cập đến việc tôi đã ngạc nhiên như thế nào sau khi bị tố cáo và thấy mình bị thẩm vấn bởi hai đặc vụ vốn là bạn lâu năm và bạn cùng nghe đài của tôi. Tôi muốn trả thù! Những tên đê tiện đó hẳn đã phải trả giá ngay đúng nơi mà chúng thường gửi những người khác đến. Tôi tưởng tượng đến bây giờ chắc chúng đã đền tội xong và theo tôi nghĩ, chúng có thể đã được trả tự do.
Vào đầu những năm 1990, rất ít người Triều Tiên dám bắt sóng nghe đài từ Nam Hàn. Bây giờ thì nhiều hơn rồi. Tôi mua hai chiếc máy thu thanh từ một cửa hàng ở Bình Nhưỡng, nơi bạn có thể mua được bất cứ thứ gì: thuốc lá, bia, quần áo, giày dép. Thứ duy nhất họ không có là các sản phẩm được sản xuất tại Hàn Quốc – và tất nhiên, họ chỉ chấp nhận ngoại tệ mạnh. Ngay cả người nước ngoài cũng mua sắm ở đó. Vì việc bán máy thu thanh không được giám sát chặt chẽ như mong đợi nên tôi đã có thể đăng ký một chiếc và trả tiền im lặng cho chiếc thứ hai. Việc nghe đài phát thanh Hàn Quốc phải được thực hiện hết sức thận trọng. Khả năng cách âm kém của hầu hết các ngôi nhà ở Triều Tiên có thể dễ dàng khiến chúng ta bị lộ. Để tránh bị nghe lén, tôi và các bạn thính giả đã lấy chiếc đài và vùi mình ba hoặc bốn người cùng một lúc dưới một đống chăn. Chỉ còn lại ăng-ten.
Thử thách khác là tránh tĩnh điện. Tín hiệu luôn rõ ràng nhất trong khoảng thời gian từ 11 giờ tối và 5 giờ sáng Chúng tôi thích nghe các chương trình Cơ đốc giáo trên Hệ thống Phát thanh Hàn Quốc. Thông điệp về tình yêu thương và sự tôn trọng đồng loại ngọt ngào như mật ngọt đối với chúng tôi. Nó rất khác so với những gì chúng tôi đã từng nghe. Ở Bắc Triều Tiên, đài phát thanh và truyền hình nhà nước, báo chí, giáo viên và thậm chí cả truyện tranh chỉ cố gắng lấp đầy trái tim chúng tôi bằng sự căm thù—đối với bọn đế quốc, kẻ thù giai cấp, kẻ phản bội, và ai biết được còn gì nữa! Chúng tôi cũng có thể theo dõi Đài Tiếng nói Hoa Kỳ và cập nhật tin tức quốc tế mà chúng tôi đã bị cắt đứt quá lâu. Chúng tôi khao khát một diễn ngôn để phá vỡ sự độc quyền của sự dối trá. Ở Bắc Triều Tiên, tất cả thực tế đều được đi qua bộ lọc tư duy một chiều. Nghe đài đã cho chúng tôi những lời cần thiết để bày tỏ sự bất mãn của mình. Mỗi chương trình, mỗi khám phá mới, đều giúp chúng tôi thoát khỏi một chút mạng lưới lừa dối đang bao trùm. Biết rằng có một phía đối lập với thực tế chính thức đã là một kiểu trốn thoát, một lối thoát có thể vừa phấn khởi vừa bối rối. Chẳng hạn, thật khó để giải thích, những cảm xúc mà chúng tôi cảm thấy khi nghe nó chứng tỏ, với bằng chứng tích cực, rằng miền Bắc thực sự là bên phát động Chiến tranh Triều Tiên chứ không phải đế quốc Mỹ như chúng tôi vẫn luôn được tuyên truyền.
Các chương trình phát thanh từ miền Nam đã giúp chúng tôi có thể mài giũa những lý luận để chỉ trích chế độ Kim Nhật Thành. Từ lâu, chúng tôi đã nhận thức được tất cả những khuyết điểm của nó, từ tham nhũng đến đàn áp, từ các trại tập trung đến tình trạng thiếu lương thực, từ việc tàn phá đạo đức làm việc của người dân đến sự lãng phí vô nhân, rõ ràng nhất là trong lễ kỷ niệm sinh nhật xa hoa để tưởng nhớ hai thần tượng của chúng tôi, cha và con. Chúng tôi có rất nhiều bằng chứng mắt thấy tai nghe để đánh giá chế độ này – và phán xét nó một cách gay gắt. Điều chúng tôi thiếu — và đó là những gì đài phát thanh đã cung cấp cho chúng tôi—là những yếu tố kết nối mà chúng tôi cần để gắn kết tất cả lại với nhau. Các chương trình này đã cung cấp cho chúng tôi cái nhìn tổng quan về toàn bộ hệ thống: nguồn gốc của nó, lý do đằng sau những khó khăn hiện tại của nó, sự ngông cuồng của việc khoe khoang trơ trẽn về khả năng tự cung tự cấp của mình trong bối cảnh nước này đang cầu xin viện trợ quốc tế. Tôi nghĩ rằng bạn bè của tôi và tôi đã rất tự hào khi biết được những sự thật này. Tôi rất muốn nói với chú tôi về điều tôi đã khám phá ra, nhưng tôi không dám; Mặc dù tôi biết chú ấy sẽ thích các bài hát Hàn Quốc nhưng tôi sợ chú sẽ cấm tôi nghe.
Vẫn có nguy cơ hoạt động của tôi có thể khiến chú ấy gặp nguy hiểm, mặc dù chú không hay biết gì. Vì lợi ích của mọi người, mục tiêu chính của tôi sẽ là tránh càng nhiều mối nguy hiểm càng tốt. Bạn tôi, An-hyuk, sống ở quận lân cận, cũng đã biết về cuộc điều tra mà Lực lượng An ninh đang tiến hành đối với tôi. Theo anh, các đặc vụ đang tiến hành một cách chậm rãi, với hy vọng bủa lưới khắp toàn bộ nhóm nghe đài bất hợp pháp. An-hyuk, hay nghe đài Hàn Quốc, cũng đang đối mặt với mối nguy hiểm tương tự như tôi. Chúng tôi bị dồn vào tường: chúng tôi có thể đợi Lực lượng An ninh đến tóm hoặc có thể cố gắng trốn thoát. Các lựa chọn đều nguy hiểm như nhau, nhưng lựa chọn thứ hai mang đến một tia hy vọng. An-hyuk đã từng lẻn vào Trung Quốc một lần trước đây. Tuy nhiên, trên đường trở về, anh ta bị bắt vì tội vượt biên trái phép và bị đưa đến Yodok, nơi anh bị giam một năm rưỡi tiếp theo. Đó là cách chúng tôi gặp nhau lần đầu tiên. Sau này, sau khi cả hai chúng tôi được thả ra, chúng tôi vẫn giữ liên lạc qua thư. Chính trong một bức thư được mã hóa cẩn thận, anh đã tiết lộ rằng chúng tôi đang gặp rắc rối và cần bàn bạc. Mã của chúng tôi đơn giản nhưng hiệu quả: chúng tôi viết hoàn toàn trái ngược với những gì chúng tôi thực sự muốn nói.
Trong lá thư chỉ trích, An-hyuk liên tục lặp lại rằng “mọi thứ đang diễn ra rất tốt”, rằng “mọi thứ đang tiến triển tốt”, v.v. Anh ấy cũng thông báo về “lễ cưới của những người bạn của chúng ta” sắp tới. Tài liệu tham khảo hơi lộn xộn, nhưng tôi hiểu. Chúng tôi tập hợp lại và đánh giá tình hình, đồng ý rằng chúng tôi phải trốn thoát. Nhưng đi đâu? Tiến vào miền Nam không phải là mục tiêu chính của chúng tôi. Chúng tôi chỉ muốn tránh xa khu trại bằng mọi cách có thể. Tuy nhiên, trước đây tôi đã ấp ủ ý nghĩ chuyển ra nước ngoài và đã để dành một số tiền cho mục đích đó. Thời điểm hành động đã đến; nó gần như là một câu hỏi về sự sống và cái chết. Nếu họ bắt được chúng tôi lần này, chúng tôi sẽ phải vào trại lao động khổ sai.
Nếu kế hoạch của chúng tôi thành công thì nó sẽ phải được giữ bí mật. Ngay cả với gia đình chúng tôi cũng sẽ phải giữ bí mật, và việc nói với bạn bè là điều hoàn toàn không thể. May mắn thay, vì tôi đang làm công việc phân phối đậu và ngô nên mọi người thường thấy tôi rời thị trấn vài ngày một lần. Do đó, sự ra đi của chúng tôi sẽ không phải là nguyên nhân gây ra sự nghi ngờ hoặc lo lắng ngay lập tức. Tất nhiên, cuối cùng các câu hỏi sẽ nảy sinh, nhưng vào thời điểm đó, chúng tôi hy vọng mình đã biến mất từ lâu.
Thật khó khăn cho tôi khi đi con đường này. Tôi đang bỏ lại phía sau gia đình và một cô gái trẻ mà tôi yêu thương. Tôi đã gặp cô ấy ở Yodok. Gia đình cô ấy, những người được thả ra khi chúng tôi ở đó, đã được hưởng lợi từ sự giúp đỡ của một bà ngoại ở Nhật Bản. Ra khỏi trại, cô ấy đã trở thành một cô gái xinh đẹp và tôi luôn nghĩ về cô ấy; tuy nhiên sự nhút nhát và thường xuyên di chuyển của tôi đã khiến mối quan hệ trở nên khó khăn và tôi chưa bao giờ công khai chuyện tình cảm. Ở miền Bắc, rất khó để kết thân sâu đâm với một người phụ nữ vì kiểu thân mật đó bị coi là không tốt. Vì vậy tôi thậm chí không thể nói với cô ấy về kế hoạch của chúng tôi. Điều gì sẽ xảy ra nếu cô ấy phản đối nó? Điều gì sẽ xảy ra nếu cô ấy bắt đầu nói với mọi người?
Về phần mình, An-hyuk đã sống một cuộc sống tương đối hạnh phúc, độc lập nên bố mẹ anh sẽ không nhận ra sự ra đi của anh trong ít nhất vài ngày. Rời đi cùng anh đã cho tôi hy vọng. Chúng tôi là bạn bè và tin tưởng nhau như anh em. Có anh ấy bên cạnh, cuộc phiêu lưu dường như không đến nỗi bất khả thi. Chẳng phải anh ấy đã đến Trung Quốc rồi sao? Đúng là anh đã quay lại giữa hai bộ đội biên phòng, nhưng trải nghiệm đó chắc chắn đã dạy anh điều gì đó. Hơn nữa, một người bạn của anh ấy đã trốn thoát thành công đã cho anh ấy biết rằng mọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều khi chúng tôi đến Trung Quốc.
Điều tôi mang đến cho mối quan hệ hợp tác là kiến thức hoàn hảo về hệ thống tàu hỏa và tuyến đường đến khu vực biên giới. Trong thời gian sau khi ra trại, tôi thường đi tuyến Bình Nhưỡng-Musan để thăm gia đình sống ở miền Bắc. Để tránh rắc rối – thẻ căn cước của tôi ghi rõ thời gian tôi thực tập tại Yodok – tất cả những gì tôi phải làm là hối lộ những người soát vé. Khi một người hỏi giấy tờ tùy thân, tôi nói với anh ta rằng tôi không có, nhưng bố mẹ tôi là người Nhật và tôi có một ít yên trong ví. “Tôi cần phải đi du lịch,” tôi giải thích, “và nếu bạn cho phép, tôi sẽ cung cấp cho bạn những gì bạn cần.” Chúng tôi quay lại khoang của anh ấy, trò chuyện và hút thuốc lá Nhật Bản của tôi. Tôi luôn ăn mặc hoàn hảo, toàn đồ Nhật Bản và biết chính xác cách khiến người soát vé chảy nước miếng: “Anh còn cần gì nữa?” Tôi hỏi. “Lần sau tôi sẽ lấy nó cho anh.” Đó là gần như quá dễ dàng. Tuy nhiên, các quy tắc cần phải được tuân thủ. Tôi không thể phân phát quà một cách bừa bãi; chúng phải được chia thành từng phần nhỏ, liên tục để người nhận có thể nhớ và nghĩ về chúng liên tục.
Có lần tôi đưa cho người soát vé một chiếc máy ghi âm của Nhật. Anh ấy rất vui và chúng tôi bắt đầu trò chuyện như những người bạn cũ. Khi anh ta đe dọa một người phụ nữ đang buôn bán thứ gì đó, tôi đã thay mặt cô ấy can thiệp. “Cô ấy có vẻ rất nghèo,” tôi nói. “Anh nên để cô ấy yên. . . .” Và anh ấy đã làm theo. Một người soát vé khác, người mà tôi đã kể về việc tôi bị cầm tù, đã rất tức giận khi biết nguyên nhân khiến gia đình tôi gặp khó khăn. Nhưng tôi đã cố gắng giúp anh ấy thoát khỏi dòng suy nghĩ đó. Nó có thể trở nên nguy hiểm. Tôi nói đó chỉ là “sự xui xẻo; điều quan trọng bây giờ là phải sống tốt. . . .”
Những người chỉ huy nói chung là một nhóm tham nhũng, nhưng điều đó mang lại cho họ một khía cạnh con người. Họ khao khát những món quà của chúng tôi đến nỗi chúng tôi có thể trông cậy vào họ. Họ luôn đưa ra những lời khuyên hoàn hảo về việc ai là người soát vé có trách nhiệm trên các chuyến tàu khác nhau, họ có thể tìm thấy những toa nào và chúng tôi nên đi qua những ga nào. Đồng hồ Seiko là món quà được săn lùng nhiều nhất. Người thân của tôi ở Nhật Bản đã mang về cho tôi khoảng mười chiếc, đủ để làm hài lòng khá nhiều nhân viên kiểm vé.Tôi thậm chí còn trở nên thân thiện với người đứng đầu của họ, người đã nói trước cho tôi biết tôi nên đi chuyến tàu số mấy. Sau đó ông ấy đã dặn dò cấp dưới của mình để tôi chắc chắn không gặp khó khăn gì. Người soát vé không những không kiểm tra vé của tôi mà còn thường xuyên mời tôi vào toa của y để chúng tôi cùng uống rượu. Nếu chúng tôi thèm ăn vặt, y sẽ ra ngoài mua đồ ăn. Bước sang ngăn bên cạnh, y hất hàm hỏi: “Cái gói này của ai?” Một hành khách run rẩy sẽ giơ tay.
“Mở nó ra!”
Các gói hàng thường chứa thực phẩm nhập lậu từ Trung Quốc.
“Nhắm mắt lại đi, đồng chí kiểm vé. Hãy lấy một ít cho chính mình.”
Người kiểm soát sẽ nhận phần của y và mang nó trở lại khoang của chúng tôi để chúng tôi có thể tiếp tục chuyến tham quan.
Nhờ số tiền nhận được từ người thân Nhật Bản, tôi nhận ra rằng, dù trung thành không khoan nhượng với chủ nghĩa cộng sản nhưng Triều Tiên chỉ mong một điều duy nhất: được sống như Nhật Bản. Khi đất nước đang hoạt động tốt hơn hiện nay – chẳng hạn như vào những năm 1960 và 1970 – điều quan trọng là phải ở gần quyền lực – và, vâng, đeo đồng hồ Seiko. Tuy nhiên, quyền lực ngày nay chỉ là một khái niệm rỗng tuếch ở Triều Tiên. Vì vậy, mặc dù Seiko vẫn quan trọng nhưng hầu hết mọi người đều thà có một chiếc nhẫn vàng hoặc một chiếc răng vàng còn hơn là có quyền lực. Sự tham nhũng mà tôi vừa mô tả khá nhỏ nhặt. Vấn đề là nó có ở khắp mọi nơi, càng lên cao nó càng trở nên tinh vi hơn. Có lần tôi gặp một cựu tù nhân chính trị, giống như nhiều cựu cư dân Nhật Bản giàu có, đã bị đưa đến trại cùng cả gia đình anh ta. Cha anh đã chết ở đó. Sau đó, mẹ anh, hậu duệ duy nhất của một doanh nhân cực kỳ giàu có, đã có khối tài sản khổng lồ khoảng 4 tỷ yên, tương đương 40 triệu USD! Số tiền này được gửi vào ngân hàng Chosen Soren và phần lớn được chuyển vào kho bạc của Triều Tiên, nhưng số tiền còn lại đủ để biến đổi sự tồn tại của gia đình, loại bỏ mọi trở ngại thường gặp đối với người dân Triều Tiên bình thường. Sau khi ký một văn bản ngăn cản gia đình bà ở Nhật Bản thực hiện hành động pháp lý chống lại Chosen Soren, người mẹ và gia đình bà đã được trả tự do.
Họ sẽ không bao giờ phải lo lắng về những thứ như giấy thông hành nữa, vì nhân viên an ninh sẽ đưa họ đến tận cửa nhà. Các đặc vụ chạy đến chỗ họ dưới mọi lý do có thể tưởng tượng được, tranh giành từng mảnh tài sản nhỏ bé của họ. Nhà bạn tôi ở Nampo có đủ mọi đồ dùng Nhật Bản mà bạn có thể nghĩ tới. Và mặc dù gia đình anh không được phép sống ở Bình Nhưỡng nhưng họ vẫn sở hữu hai chiếc Toyota để đi thăm thủ đô. Bạn tôi có lần đã cán qua một nhóm lính khi đang chạy với tốc độ 70 dặm một giờ. Anh ta bị bắt và bị kết án tử hình, nhưng được thả sau ba tháng ngồi tù! Với sự hỗ trợ của tủ lạnh, tivi màu và phong bì căng phồng, anh ta đã có thể hối lộ thẩm phán và khiến vụ án bị bác bỏ. Theo thời gian, anh trở nên hoài nghi và khinh thường, và không thể chịu đựng được việc bị tước đoạt bất cứ thứ gì. Tuy nhiên, anh ấy vẫn dành cho tôi vinh dự được coi tôi là bạn và là người đầu tiên giới thiệu tôi với Coca-Cola. Cái ngụm đầu tiên đó đơn giản là tuyệt vời. Tôi đang bị cảm lạnh. Tôi đã được chữa khỏi gần như ngay lập tức.